Câu hỏi Tư tưởng HCM | Trường đại học kinh tế - luật đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Những điều Hồ Chí Minh viết về “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” hàm chứa yêu cầu và mong mỏi của Người về sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, xây dựng và rèn “tứ đức” nói riêng đối với mỗi người cán bộ, đảng viên. Theo Người, uy tín của Đảng cầm quyền, của mỗi cán bộ, đảng viên và lòng tin của nhân dân gắn liền với sự tu dưỡng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Quản trị học căn bản (K22503C)
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|47025104 ĐỀ CƯƠNG TƯ TƯỞNG HCM
Quản trị học căn bản (Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) Scan to open on Studocu
Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
ĐỀ CƯƠNG TƯ TƯỞNG HCM
Câu 1: đạo đức cách mạng (tr1,2,3)
Câu 2: phân tích tư tưởng hcm về động lực của chủ nghĩa xã hội vn, (tr 4,5)
Câu 3: phân tích các tiền đề lí luận dẫn tới tư tưởng hcm (tr 5,6,7)
Câu 4: tư tưởng hcm về nhà nước pháp quyền trong sạch vững mạnh (tr 7,8,9)
Câu 5: quan hệ giữa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại (tr9,10)
Câu 6: Quan điểm của HCM về độc lập tự do(tr10,11)
Câu 7: TTHCM về CNXH. Phân tích quan điểm: Muốn xây dựng CNXH cần phải có
con người XHCN (tr11,12,13,14)
Câu 8: Phân tích quan điểm: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công." (tr 14.15)
Câu 9: Phân tích quan điểm: "Nếu nước được đọc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do thì độc lập không có nghĩa gì cả. (tr 15,16)
Câu 10: sáng tạo của HCM trong tư tưởng G.phóng dân tộc (tr 16,17,18)
Câu 11: Làm rõ căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở VN (tr18,19,20,21)
Câu 12: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền (tr 22,23,24)
Câu 13: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trên cơ sở hiến pháp và pháp luật (tr 24,25,26,27,28)
Câu 14: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết (tr 28,29,30,31)
Câu 15: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa (tr 31,32,33)
Câu 16: phương châm “Di bất biến ứng vạn biến (tr33.34.35)
Câu 17: Phân tích câu nói: “Người đã so sánh với sự thống nhất đầy đủ của trời, bốn
phương của đất và bốn đức của con người”. (tr36,37,38) Câu 18:
Chương 6: Đạo đức: nhấn mạnh các phẩm chất, chuẩn mực đạo đức của người việt nam
trong thời đại mới (đạo đức cách mạng). Bài làm:
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài
sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ta có
thể dễ dàng nhận ra những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam trong thời
đại mới hay còn gọi là đạo đức Cách mạng luôn được Hồ Chí Minh đề cập đến và xem
trọng. Đạo đức là một hệ thống những quy tắc, những chuẩn mực về cách ứng xử của con 1
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
người với nhau trong các quan hệ giữa người với người và với tổ chức trong xã hội, là giá
trị cốt lõi tạo nên phẩm chất nhân cách của con người. Trong sự nghiệp Cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn đề cao và quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức xuyên suốt sự nghiệp
của người. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Có thể thấy những phẩm chất đạo đức cơ bản của
con người Việt Nam trong thời đại mới luôn được đề cao và được bao quát trong tư tưởng
Hồ Chí Minh qua bốn phẩm chất chung cơ bản như sau:
Một là, “Trung với nước, hiếu với dân”.
Hai là, “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Ba là, “Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”.
Bốn là, “Tinh thần quốc tế trong sáng”.
Thứ nhất, đối với tổ quốc cần phải “Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức
cách mạng cơ bản nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất. Phẩm chất này được hiểu là mỗi
con người Việt Nam phải có lòng tận trung với nước, tân hiếu với dân. Nghĩa là tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng, coi yêu nước gắn với yêu Chủ nghĩa
Xã hội. Nếu trước đây, “trung” và “hiếu” có ý nghĩa hạn hẹp là trung với vua, hiếu với
cha mẹ thì đến với tư tưởng HCM, “trung” và “hiếu” không dừng lại ở đó mà trên cở sở
“nước là của dân, dân là chủ nhân của nước” thì trung và hiếu còn là vì toàn thể nhân dân
Việt Nam, đây là điểm sáng mới trong hệ tư tưởng này so với đạo đức của dân tộc ta
trước đây. Cán bộ, đảng viên tự nguyện làm công bộc, đầy tớ trung thành của nhân dân,
“lấy nhân dân làm gốc” và phát huy hết sức quyền làm chủ của nhân dân lao động. Với
bản thân, em luôn luôn trung thành với Tổ quốc Việt Nam, đặt hết niềm tin và hướng cao
ý chí của mình và Đảng và Nhà nước ta, một lòng trung thành hết mực và phấn đấu học
tập, noi theo tấm gương vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy đại cuộc làm trọng và sẽ
nguyện hết sức mình vì Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng.
Thứ hai, đối với chính mình cần phải “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Theo
quan niệm truyền thống “cần” được hiểu đơn giản là cần cù siêng năng, chăm chỉ làm
việc. Còn ở tư tưởng HCM, “cần” được hiểu sâu rộng hơn: cần cù, siêng năng, lao động
có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Có “cần” thì bản thân mới tiến, gia đình
mới hạnh phúc ấm no, đất nước quê hương mới phát triển. Với Người, “cần” thì phải
song hành cùng “kiệm”. “Kiệm”, nhân gian nôm na là tiết kiệm tiền của cho bản thân,
nhưng Người lại có suy nghĩ rộng hơn, bao quát cho toàn dân tộc: kiệm là tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ
cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương,
hình thức, …”. Người còn căn dặn kĩ rằng: “Cần với kiệm phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người. Cần mà không kiệm thì “làm chừng nào xào chừng ấy”. Liêm được
hiểu theo truyền thống là trong sạch, phải giữ cho lòng mình trong sạch. Còn ở đây,
Người dạy liêm là trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, không tâng
bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ; khi gặp việc khó không 2
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
được nản lòng, không được dễ dàng từ bỏ mà phải luôn tìm cách để vượt quá. Còn
“Chính” là ngay thẳng đúng đắn. Với Người, “chính” là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn
không chỉ với mình mà còn với với người, với việc. Đối với mình không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập và có cầu tiến, phát huy những điều hay, sửa đổi những điều chưa
hợp lý. Đối với người không nịnh hót người trên, khinh thường người dưới. Liêm là
phẩm chất của người cán bộ thi hành công vụ. Chí công vô tư nghĩa thuần là sự công
bằng, không thiên vị, giải quyết công việc theo lẽ phải, xuất phát từ lợi ích chung, đặt lợi
ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Còn đối với HCM, Chí công vô tư được hiểu sâu sắc
hơn là việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư huệ hay tư thù. Mình có
quyền dùng người thì phải dùng người có tài năng, làm được việc. Phải trung thành với
Chính phủ, với đồng bào, chớ lên mặt làm quan cách mạng. Đối với mình: không tự cao,
tự đại, luôn chịu khó học tập, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở
của bản thân mình. Đối với người: không nịnh nọt người trên, không xem khinh người
dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá lừa lọc. Đối
với việc: để công việc lên trên việc nhà. Đã phụ trách công việc gì thì quyết làm cho kì
được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn nguy hiểm, việc thiện dù nhỏ mấy cũng
làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Ở độ tuổi thanh niên, em luôn cố hết mình học tập
và giữ cho mình “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” đúng như những gì Bác dạy.
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy trẻ nhưng vẫn phải giữ mình sao cho đúng đắn với chuẩn mực
đạo đức mà Người dạy.
Thứ ba, với mọi người phải: “Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”. Người dạy
chúng ta rõ hơn về quan điểm này, phải luôn yêu thương con người, “sống với nhau có
tình có nghĩa”, và phải đối xử với nhau như anh em, bạn bè, đồng chí, thân ái giúp nhau
cùng tiến bộ. Em luôn trân trọng những lời dạy quý báu của Người và thực hiện nó cho
thật tốt, dành tình yêu thương và quan tâm những người xung quanh, sống có tình nghĩa
để mọi người cũng sẽ yêu thương lại mình, có vậy thì cuộc sống mới hạnh phúc, đất nước
luôn tràn ngập tiếng cười.
Thứ tư, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng
phải có “Tinh thần quốc tế trong sáng”. Theo Hồ Chí Minh, “giúp bạn là tự giúp mình”,
Người luôn đề cao tinh thần quốc tế, là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều
là anh em, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Em luôn tích cực hội nhập những giá
trị đẹp của tinh hóa văn hóa nhân loại, luôn hướng mình về người khác để tạo sự thân
thiện khiến mọi người đều cảm thấy thoải mái, cùng nhau giúp đỡ vì mục tiêu cao cả
chính là hòa bình, ấm no, hạnh phúc.
Trên là bốn phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thời đại mới, luôn đi
cùng và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đạo đức xã hội ta hiện nay đã thực hiện theo
tư tưởng đạo đức HCM rất tích cực và trong sáng. Luôn lấy tấm gương của Người mà noi
theo, nhiều hội nghị, diễn thuyết với tinh thần “học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh” ra đời giúp truyền bá tư tưởng tốt đẹp của Người đến với
toàn thân người dân Việt Nam. Tuy vẫn còn nhiều mặt tiêu cực trong xã hội cần được loại
trừ như lối sống sa hoa, đi ngược lại với đạo đức truyền thống của dân tộc, tình trạng tư 3
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
lợi, ỷ mạnh hiếp yếu vẫn còn diễn biến phức tạp, thế hệ học sinh sinh viên còn rụt rè, e
dè, cập nhật thông tin còn hạn chế, trong đó cũng có bản thân em. Để cho những đạo đức
đó đi vào đời sống, trở thành lối sống trong XH thì có những biện pháp nhất định. Chẳng
hạn đối với việc xây dựng Đảng và Nhà nước, Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh
thần tự ý thức, tiếp tục phấn đấu rèn luyện, không được chủ quan lơ là, ngủ yên trên
chiến thắng,... Đối với thế hệ học sinh, sinh viên và cả bản thân em, chúng ta phải phấn
đấu học tập hơn nữa, noi theo tấm gương sáng của Người, rèn luyện những đức tính tốt
đẹp của dân tộc mình, giữ gìn bản thân trong sạch, kiên quyết chống lại những điều tiêu
cực, lên án những hành vi làm trái với đạo đức, chống lại Đảng và Nhà nước ta. Đảng ta
luôn quan tâm đến việc thực hiện đúng với đạo đức cách mạng, nói đi đôi với làm, nêu
gương sáng về đạo đức, xây đi đối với chống, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, quan tâm
nhân dân bằng những chính sách cụ thể như để tăng cường đạo đức cho xã hội nhìn
chung đảng ta có những nghị quyết gần đây liên quan đến con người, đến đạo đức chẳng
hạn nghị quyết đại hội 12: xây dựng con người vn phát triển toàn diện, đó là những con
người biết yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc có hiệu quả,
đảng ta hết sức nhấn mạnh tới đạo đức từ trong gd tới xh vì hiện nay xu hướng cnguoi bị
vô cảm, coi nhẹ chuẩn mực đạo đức quý giá truyền thống, ích kỉ cá nhân. Vì vậy đảng ta
hiện nay đang tiếp tục tổ chức nhwuxng phong trào học tập làm theo tư tưởng hcm có đề
cập trong đại hội 12 hay nghị quyết 33 xây dựng phát triển con ng vn trong thời đại mới
cũng rất nhấn mạnh tới xd đạo đức nhwung ko coi thường tài năng.
chương 3: Động lực của chủ nghĩa xã hội việt nam: phân tích tư tưởng hcm về động
lực của chủ nghĩa xã hội vn, để phát huy các động lực đó trong gđ mới hiện nay
chúng ta phải tận dụng,phát huy các nguồn động lực đó ntn, kể cả đảng nhà nc chăm
lo ntn, bản thân minh phải ntn Bài làm:
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH, đây là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế -
xã hội chủ nghĩa cộng sản. CNXH là một xã hội tiến bộ, một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ. Đề cao giá trị “ấm no, tự do, hạnh phúc”, không còn áp bức bóc lột, quyền lợi
của cá nhân và tập thể thống nhất, hướng đến cuộc sống con người an yên, xã hội phát
triển toàn diện.Việc tiến lên CNXH là 1 tất yếu khách quan, HCM từng nói “sớm hoặc
muôn các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH”, và từ thực tiễn xh VN, HCM nhận thức bản chất
của CNXH phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của dân tộc ta. Với mục tiêu CNXH ở việt 4
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
nam là xây dựng đc chế độ dân chủ thật sự cũng như nền kt ptrien cao gắn mật thiết với
mục tiêu về chính trị, xây dựng đc nền vh mang tính dân tộc, đại chúng và tiếp thu tinh
hoa vh nhân loại cùng với mục tiêu quan hệ xh là bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh,
những động lực của CNXH ở VN được phát hiện về cả vật chất lẫn tinh thần, bên trong
lẫn bên ngoài (nội sinh lẫn ngoại sinh) và cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...Nội lực
là các nguồn động lực bên trong như con người, kinh tế, văn hóa xã hội,... tác động trực
tiếp để quá trình xây dựng XHCN, ngoài các động lực bên trong theo HCM, phải kết hợp
được với ngoại lực là sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu
nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt các
thành quả khoa học - kĩ thuật thế giới.
HCM khẳng định, tất cả các động lực trên đều vô cùng quan trọng và có mối quan hệ mật
thiết với nhau, tuy nhiên giữ vai trò quyết định chính là nội lực dân tộc, là con người, là
nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – tri thức. Hồ Chí Minh thường xuyên quan
tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ: đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân vì
thúc đẩy quá trình cách mạng XHCN vẫn phải đảm bảo lợi ích nhân dân, dân chủ của
dân, sức mạnh đoàn kết dân tộc.
Theo Người, dân chủ là quyền, là lợi ích mà dân nhân xứng đáng được hưởng, bởi lẽ “địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Văn kiện Đại hội XII tiếp tục khẳng định: "Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân
dân”. Có thể thấy lợi ích nhân dân và dân chủ luôn song hành cùng nhau, là cơ sở, tiền đề
của nhau quyện thành nguồn động lực mạnh mẽ nhất. Nguồn động lực này tuy mạnh
nhưng chỉ được phát huy qua hoạt động của cộng động, của những người dân Việt Nam.
Vì vậy trong các chiến lược phát triển, Đảng và Nhà nước luôn đề cao tinh thần người
dân Việt Nam hòa nhập cộng đồng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân cùng nhau cố gắng vì mục tiêu XHCN.
Bác khẳng định: “Đảng như người cầm lái, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Nguồn động lực này xuất phát từ việc cần phải tăng cường sức mạnh của các tổ chức
chính trị như Đảng Cộng Sản, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc dân tộc,... Dưới ánh sáng cầm
quyền của Đảng, Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, do đó với tư
cách là các tổ chức quần chúng cần phải nổ lực hơn nữa để sức mạnh đại diện cho nhân
dân ta càng được phát huy, hoạt động vì lợi ích nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm xây dựng và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố
đảm bảo cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Người nói: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có
Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”. Vì vậy bên cạnh, xây dựng phát huy thì
chúng ta cũng phải phòng và chống, cảnh giác trước những âm mưu tạo phản, phá hoại đi
công sức thành quả cách mạng của ta.
Bên cạnh đó, con người Việt Nam cũng là nguồn động lực to lớn góp phần thúc đẩy quá
trình Cách mạng XHCN ngày càng hoàn thiện. Phát huy sức mạnh con người việt nam
chính là phát huy sức mạnh của toàn Đảng toàn dân. để con người việt nam trở thành con
người của chủ nghĩa xã hội, trước hết là người cầm quyền phải biết dùng người, kích
thích và phát huy cái đức và cái tài trong mỗi người. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa” đó là con người có lòng nồng nàn yêu 5
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
nước, trong sáng về đạo đức, tinh thông về trí lực. Vậy để hiện thực hóa nguồn động lực
này, mỗi người cần phải có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần tập thể xã hội chủ
nghĩa và tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình,...đồng thời cùng nhau chống lại
những tư tưởng xấu xa như chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham ô, lãng phí, bảo thủ,...
Như vậy, những động lực của CNXH đã được làm sáng tỏ và để phát huy các động lực đó
trong gđ mới hiện nay chúng ta phải tận dụng,phát huy các nguồn động lực đó một cách
thông minh, có kế hoạch, đảng nhà nuoc luôn chăm lo cho bộ máy chính trị lẫn người dân
của mình rất tốt, luôn tạo cơ hội để dân được phát triển bản thân, kết nối cộng đồng bằng
nhiều chính sách, hoạt động xã hội. Là người dân Việt Nam có lòng nồng nàn yêu nước,
có trái tim luôn hướng về ánh sáng cùa Đảng, em luôn vận dụng và phát huy các nguồn
động lực ấy, cố gắng học tập, trao dồi kiến thức, giữ đạo đức luôn thanh cao trong sạch,
yêu thương con người và đoàn kết với nhân dân ta vượt qua những tình huống khó khăn
như Đại dịch hiện nay, Đảng và Nhà nước đã hết sức chuẩn bị và quan tâm đến người
dân, luôn đề ra các chỉ thị giúp cho việc chống dịch ngày càng hiệu quả, vậy nên ta phải
tuân thủ các chính sách, chỉ thị mà đảng đưa ra để cùng nhau chiến thắng đại dịch.
chương 2: Phân tích các tiền đề lí luận dẫn tới tư tưởng hcm (có tiền đề lluan và tiền
đề cá nhân) trong đó nói tới vai trò của từng tiền đề lí luận đối vs việc hình thành tư tưởng hcm Bài làm:
Với thực tiễn Việt Nam trong những năm cuối TK XIX đầu XX, vừa là thuộc địa Pháp
vừa thất bại trong các phong trào yêu nước, đã đưa ra các yêu cầu cấp bách của xã hội
việt nam. Từ đó thôi thúc Nguyễn Tất Thành, Người đã ra đi tìm đường. Bên cạnh đó
thực tiễn thế giới lúc ấy cũng có những chuyển biến nổi bật, nhất là cách mạng tháng 10
Nga thành công và việc ra đời của quốc tế III đã khiến HCM quyết định lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc = cách mạng vô sản. Những tiền đề lí luận và tiền đề cá nhân
hay nhân tố chủ quan HCM đã dẫn tới tư tưởng HCM. Trong đó 3 tiền đề cơ bản vầ quan
trọng nhất là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN, tinh hóa văn hóa nhân loại và
cuối cùng nhưng rất quan trọng đó là Chủ nghĩa Mac-lenin.
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Từ ngàn đời
xưa, chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đây là tinh thần cao
cả giúp dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thách thức suốt ngàn năm lịch sử, là cơ sở tạo
dưng nên 1 nước Việt Nam tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Người sinh ra và lớn
lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhiều câu chuyện đánh giặc giữ nước, được lan truyền
cùng việc đối diện với cảnh áp bức bóc lột của đế quốc, tay sai đối với nhân dân nên từ
rất sớm HCM có được tinh thần yêu nước, thương dân. Có thể thấy đây là nền tảng tư
tưởng, là điểm xuất phát và động lực to lớn thúc đẩy HCM ra đi tìm đường cứu nước. Vì
yêu nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người không ngại từ bỏ những điều riêng tư
cá nhân mà lo cho sự nghiệp chung của tổ quốc. Đặc biệt HCM biết khơi dậy tinh thần
yêu nước cho cả dân tộc Việt Nam đứng lên tự giải phóng mình. Giá trị truyền thống còn 6
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
ở tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình. Người Việt sống thủy chung, tình nghĩa với nhau, kính trọng và ngưỡng mộ
những người có công với dân, với nước. Lòng nhân ái ở HCM thể hiện trong qua trình
tìm đường cứu nước, chứng kiến cảnh các dân tộc thuộc địa trên khắp thế giới bị áp bức
bóc lột. Người vô cùng thường xót đồng cảm, nuôi ý chí quyết tâm tìm con đường giải
phóng các dân tộc bị áp bức toàn thế giới. Kế thừa, phát huy truyền thống này, Bác Hồ
nhấn mạnh 4 chữ “đồng”: “Dân ta xin nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh.”. Dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, hiếu học, sáng tạo, tinh thần lạc quan
trước nghịch cảnh, luôn hướng về tương lai tươi sáng để tiếp thục phấn đấu. Trên cơ sở
giữ vững bản sắc dân tộc, dân ta luôn biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái
tốt, cái đẹp của nhân loại thành những giá trị riêng của mình. Đó là cơ sở, là tiền đề lí
luận đầu tiên dẫn đến tư tưởng HCM.
Về tiền đề tinh hoa văn hóa nhân loại, với tư tưởng tiếp thu, học hỏi, hòa nhập nhưng
không hòa tan của Hồ Chủ tịch, Người tiếp thu tư tưởng và văn hóa phương Đông về
những điều hay lẽ phải, những đạo làm người của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo luôn răn
dạy chúng ta hướng đến điều tốt lành, một tươi lai tươi sáng không có chiến tranh, không
có kẻ thù. “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái những điều hiểu biết
quý báu của các đời trước để lại”. Từ nhỏ người đã sớm được tiếp cận với chữ nho và các
nhà nho yêu nước, đạo Phật cũng được du nhập vào nước ta từ rất sớm, nên Hồ Chí Minh
đã tiếp thu và chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc về tư duy, hành động, ứng xử của Phật giáo.
Người luôn trân trọng và phát triển những điều hay lẽ phải mà mình học được khi tiếp
cận với Lão giáo, sống gắn bó với cây cỏ thiên nhiên, bảo vệ môi trường,... Bên cạnh đó
người còn tiếp thu ca tư tưởng và văn hóa phương Tây, “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên
tôi nghe 3 chữ Pháp: Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Bác không hề có ác cảm với những
người dân phương Tây, trái lại luôn tiếp thu học hỏi họ từ văn hóa khai sáng đến văn hóa
phục hưng. Trên con đường phiêu diêu bốn bể năm châu tìm con đường cứu nước, HCM
đã sống, hoạt động, nghiên cứu lí luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa,... tại nhiều
nước cường quốc trên tg như Mỹ, Anh, Pháp, Nga,...
Bước tiến vượt bậc của HCM trong tiền đề lí luận dẫn đến tư tưởng HCM chính là Chủ
nghĩa Mác Lênin. “Chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là cẩm nang thần kỳ, là kim chỉ
nam mà còn là mặt trời soi sáng cho chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và
CNCS”.Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân – giai
cấp tiên tiến nhất. Đây chính là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến TTHCM, là cơ sở hình
thành thế giới quan và phương pháp luận của HCM. Chủ nghĩa Maclenin đã tạo ra sự
chuyển biến trong tư tưởng của người từ yêu nước truyền thống đến yêu nước theo lập
trường vô sản, giúp hcm xác định đúng đắn con đường cách mạng việt nam: giải phóng
dân tộc bằng cách mạng vô sản. Tiếp thu chủ nghĩa Mac leenin, Bác đã trở thành người
cộng sản với tầm tóc trí tuệ lớn, hiểu biết sâu sắc về kho tàng tri thức nhân loại. Trong
thời đại mới, người không những vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phat triển chủ nghĩa
Mac lenin làm trở nên phong phú, áp dụng vào các vấn đề lớn nhỏ từ xây dựng con người
con đến xây dựng tổ quốc.
Từ những tiền đề lí luận này đã nâng HCM lên một vị thế mới: từ một người đi tìm
đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Là một nét son 7
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
vàng chói lọi trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, giúp cho đất nước Việt Nam có thể gìn giữ
được độc lập dân tộc, giúp cho nhân dân Việt Nam thoát khỏi xiềng xích nô lệ, bước lên
xây dựng và phát triển CNXH.
chương 4: Nhà nước pháp quyền trong sạch vững mạnh, tư tưởng hcm về nhà nước
pháp quyền trong sạch vững mạnh (2 ý: 1 là nhà nước pháp quyền sau đó hcm rất
quan tâm làm cho nhà nc ta phải trong sạch vững mạnh -> liên hệ vs nhà nước ta
hiện nay có đc vậy chưa? để đc đúng là nhà nc pháp quyền trong sạch bững mạnh cần
phải cải cách bổ sung những gì ) Bài làm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định Nhà nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Vì
vậy để xây dựng một đất nước cường thịnh, để đời sống nhân dân được ấm no hạnh phúc,
thì Nhà nước Việt Nam cần phải xây dựng nền tảng pháp lý bền vững, là một nhà nước
pháp quyền, hợp hiến, hợp pháp. Việc giành chính quyền và tuyên bố độc lập nhằm tạo
địa vị hợp pháp cho Chính phủ Cách mạng lâm thời. Ngay sau khi đọc bản “Tuyên ngôn
độc lập” và trong phiên họp đầu tiên của CPLT, HCM đã đề nghĩa phải tổ chức cuộc tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu nhằm bầu cư quốc hội, lập chính phủ chính
thức, từ đó là tiền đề để xây dựng Hiến pháp theo đúng như một Nhà nước pháp quyền
hiện đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được
Đảng ta đúc kết thành cơ chế điều hành đất nước với chủ trương: Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế này đã phát huy được tính chủ động của các tổ
chức chính trị - xã hội, tạo dựng nguồn lực mạnh mẽ xây dựng tổ quốc hiện đại đến ngày
nay. Dù đặt nhân dân làm hàng đầu nhưng vẫn phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực
của luật pháp: “Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”
Bên cạnh đó, một nhà nước thượng tôn pháp luật cũng được tư tưởng HCM đề cập bằng
việc bộ máy nhà nước đặc biệt chú trọng việc quản lý bằng Hiến pháp và pháp luật. dân
chủ phải đi đôi với pháp luật thì chính quyền mới mạnh mẽ, quyền dân chủ của nhân dân
được bảo đảm bằng pháp luật. Muốn vậy thì nước ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật, chăm lo đưae PL vfo cuộc sống và thực thi pháp luật 1 cách nghiêm minh. Trong
quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, Người luôn nhắc nhở, Nhà nước ta là
Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Tư tưởng
HCM về nhà nước pháp quyền luôn nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật, khuyết
khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của nhà nước, giám sát quá trình nhà nước
thực thi pháp luật,... Ngoài ra nhà nước còn phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các
quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người, đó là nhà nước “pháp quyền nhân
nghĩa”, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Do đó pháp luật đã xóa bỏ những luật
pháp tàn bạo, hà khắc của chính quyền cũ. 8
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
Bên cạnh xây dựng nhà nước Pháp quyền, HCM rất quan tâm làm cho nhà nc ta phải
trong sạch vững mạnh vững mạnh. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước là điều tất yếu.
Đảng cầm quyền cần có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước. Nghị viện nhân dân
cò quyền “kiểm soát và phê bình Chính phủ”. Ngoài ra Đảng cần chú ý phát huy vai trò
kiểm soát quyền lực cùa nhân dân. Do dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước nên
nếu không có nhân dân giúp sức, thì đảng ko làm đc gì hết. Trong quá trình điều hành nhà
nước cũng phải vướng những điều tiêu cực, do đó cần phải có biên pháp phòng chống
tiêu cực trong nhà nước. Cần phải nâng cao tinh thần đề phòng và khắc phục các tiêu cực
như bệnh đặc quyền đặc lợi, bệnh quan liêu, lãng phí, tư túng kiêu ngạo chia rẽ nội bộ.
Những biện pháp phòng chống tiêu cực như nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, một
nhà nước dân chủ lấy dân là trọng thì sẽ không để diễn ra những điều tiêu cực làm tổn hại
đến lợi ích nhân dân. Pháp luật của nhà nước, kỷ luật của đảng phải nghiêm minh, khắc
khe thì nhân dân mới không dám làm sai trái, ảnh hưởng đến người khác. Kết hợp pháp
luật và giáo dục đạo đức là điều cần thiết và quan trọng, cho người dân tiếp cận với pháp
luật ngay từ nhỏ để dễ dàng thực thi và kiểm soát. Cán bộ phải làm gương thi hành pháp
luật thì người dân mới có ý thức thực hiện trách nghiệm, nghĩa vụ của mình. Huy động
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trong đấu tranh chống tiêu cực xã hội, chỉ cần có lòng
yêu nước, tinh thần vì nước quên thân, không ngại gian khó thì mọi người đều sẽ tránh
được những tiêu cực rình rập, một lòng vì nhân dân đất nước.
Nhà nước ta hiện nay đã và đang hoàn thiện dần để đạt được mục tiêu nhà nước pháp
quyền trong sạch vững mạnh. để đc đúng như vậy thì mỗi người dân cần phải nắm vững
mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân
tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. kết xây dựng nhà nước đi liền với khắc phục
được những mặt tiêu cực của các nhà nước kiểu cũ, đồnh thời tăng cường pháp luật đi đôi
với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Luôn đề phòng và chủ động, kiên quyết chống tình trạng
tham ô, lãng phí, quan liêu. Nâng cao chất lượng đội ngũ trong các cơ quan quyền lực của
Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để có
thể làm tấm gương cho người dân noi theo.
chương 6: quan hệ giữa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại: trong sách cũ nằm
trong tính chất của nền vh mới vn, nhấn mạnh quan điểm hcm về xây dựng nền vh vn
làm sao để bảo đảm tính dân tộc đồng thời tiên tiến ko lạc hậu, quan điểm hcm về xây
dựng nền vh phải giữ đc đặc tính dân tộc, bản sắc dân tộc Bài làm:
Do trong bối cảnh UNESCO chưa được thành lập, cả nước ta đang dành tâm trí và tập
trung cho nhiệm vụ giai phải dân tộc, khái niệm văn hóa chưa được công nhận chính
thức, nhưng HCM đã có nhiều (cụ thể là bốn) cách tiếp nhận chủ yếu về văn hóa. Người
từng nhấn mạnh về ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, 9
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”. Có thể thấy theo TTHCM, Khái niệm văn hóa đề cập đến cấu trúc, nguồn gốc, động
cơ và mục đích của văn hóa. VH thể hiện trình độ con người trong các mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, xã hội, và với bản thân. Do đó quan hệ giữa văn hóa dân tộc và
văn hóa nhân loại cũng được xác định rõ ràng.
Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải
lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại. Văn hóa
thể hiện “đặc tính dân tộc”, “cốt cách dân tộc”, là những giá trị văn hóa bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc bằng việc khôi phúc vốn cũ quý báu của dân tộc đồng thời phát triển văn hóa dân tộc
bằng cách học tập văn hóa tiên tiến của các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới. Đây
chính là nền văn hóa mới, kế thừa tinh hoa dân tộc ta đồng thời học hỏi những điều tốt
đẹp của các dân tộc khác. Tiếp biến văn hóa là một qua luật của văn hóa. HCM luôn thận
trọng chắt lọc ra tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu, làm quý hơn cho văn hóa Việt
Nam, xây dựng văn hóa ta với tinh thần dân chủ, chọn lọc tiếp thu ở phạm vi bao hàm từ
Đông sang Tây, từ ngàn xưa đến hiện tại, ở mọi khía cạnh cuộc sống. Theo quan điểm
hcm về xây dựng nền văn hóa việt nam làm sao để bảo đảm tính dân tộc đồng thời tiên
tiến ko lạc hậu. Muốn vậy ta phải khôi phục vốn cũ quý báo của dân tộc theo tinh thần cũ
mà tốt thì kế thừa duy trì phát triển, cái gì cũ mà ko tốt thì bỏ đi, cũ mà ko xấu nhưng lạc
hậu thì phải sửa chữa cho hợp lí.Đấy là quan điểm hcm về xây dựng nền vh phải giữ đc
đặc tính dân tộc, bản sắc dân tộc.
Đồng thời với việc giữ gìn bản sắc vh dân tộc thì phải tiếp thu những giá trị tinh goa vh
nhân loại học cái hay cái tốt của thế giới cũng phải chọn lọc cái gì hay cái gì tốt có lợi thì
ta học và tiếp thu để góp phần phát triển đất nước chúng ta, làm cho vh nước ta theo kịp
vs vh nhân loại đem lại những lợi ích thiết thực cho đời sống và cái gì hay có lợi nhưng
ko hợp vs dân tộc ta thì ta phải sửa đổi cho hợp lí. Ví dụ, chúng ta đã tham gia nhiều công
ước quốc tế, nhiều vấn đề thuộc về văn hóa thế giới như hcm rất ca ngợi tinh thần dân
chủ nhưng tuy nhiên dân chủ áp dụng vào thực tiễn nc ta yêu cầu các ng dân phải dám
tranh luận phát biểu, đóng góp ý kiến cho cấp trên, cho lãnh đạo và ng lớn hơn mình,...
nhưng phải giữ cái sự lễ phép, lịch sự trong lời ăn tiếng nói trong cách hành xử sao cho
phù hợp với chuẩn mực đạo đức của dân tộc ta, góp ý cũng phải cho dễ nghe, lịch sử chứ
ko đc nói chuyện chen ngang mất lịch sử. nói chuyện hỗn láo. cái gì ko phù hợp ko cần
thiết vs thời đại thì ko cần phải tiếp thu.
Để giữ gìn những truyền thống tốt đẹp ấy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách,
tổ chức nhiều hoạt động, giảng dạy về những điều hay lẽ phải mà dân tộc ta đã gìn giữ và
lưu truyền từ ngàn đời, đồng thời có những biện pháp xử lí các thành phần cố tình chà
đạp văn hóa, phá hoại đi thành quả của dân tộc. Là thế hệ sinh viên Việt Nam năng động
sáng tạo, em luôn cố gắng phát huy tinh thần học hỏi, luôn dành trong tim tấm lòng yêu 10
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
nước chân chính, không ngừng tiếp thu kiến thức, văn hóa đẹp đẻ từ bạn bè 5 châu để làm
giàu đẹp hơn nền văn hóa đất Việt.
Câu 2: Quan điểm của HCM về độc lập tự do. Phân tích quan điểm: "Xưa ta chỉ có
đêm và rừng, nay ta có ngày, có trời, có biển, bờ biển ta tươi đẹp, ta phải ra sức giữ gìn"
Có thể nói, khi sinh thời, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến chủ quyền biển
đảo. Với Người, bảo vệ chủ quyền ấy cần sức mạnh đoàn kết của cả đồng bào chứ không
chỉ riêng của bộ đội hải quân.
Vào ngày 15 tháng 3 năm 1961, tại Vinh Hạ Long. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn
dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta
dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Khẳng định của Người không chỉ thôi thúc cả
dân tộc quyết tâm đánh bại đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc mà còn đặt trách nhiệm
cho các thế hệ người Việt Nam phải biết chăm lo phát huy lợi thế và bảo vệ vững chắc
vùng trời, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Đảng ta xác định: Đảng ta và nhân dân ta
phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi không một phút lơi
lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ, cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng
liêng của quốc gia. Biển không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn, cửa ngõ để mở
rộng quan hệ giao thương với quốc tế mà còn đóng vai trò quan trọng đảm bảo an ninh,
quốc phòng, đồng thời là địa bàn chiến lược trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc
không chỉ thể hiện tư duy của Đảng ta trong các nghị quyết Đại hội mà còn trở thành một
trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xưa kia dân ta bị bọn thực dân đàn áp khiến cho dân chúng không biết về biển,
đảo, có thể nói họ chỉ sống về ban đêm và ở trong rừng. nhưng ngày nay lại khác, chúng
ta đã dành được độc lập, nền kinh tế dần dần phát triển ra toàn thế giới, biển đảo là nơi
giao lưu trên tất cả mọi mặt trận, không những thế biển đảo còn là nơi để mọi người tham
quan du lịch bởi vì nó rất đẹp. vì thế khi hòa bình chúng ta cũng nên giữ gìn và bảo vệ
biển đảo mọi lúc mọi nơi, công việc này không chỉ riêng của bộ đội hải quân mà nó là
trách nhiệm của toàn dân tộc Việt Nam.
Từ câu nói ấy của Người, ta càng thấm nhuần về sự quan trọng của biển, đảo Việt
Nam. Người khuyên mỗi người dân Việt Nam phải biết giữ gìn và bảo vệ biển, đảo của
Tổ quốc. Câu nói đã khẳng định rằng độc lập dân tộc gắn liền với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Như vậy là với một tầm nhìn sâu rộng, Bác Hồ đã sớm có tư duy hướng ra biển
và đặc biệt quan tâm đến biển, đảo. Cùng với tinh thần luôn luôn học hỏi, Người đã tiếp
thu được nhiều tư tưởng mới của nhân loại giúp cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi khủng
hoảng về đường lối cách mạng. Suy ngẫm về tư tưởng Hồ Chí Minh với biển, đảo để
chúng ta có kinh nghiệm xây dựng kinh tế biển và thế trận chiến tranh nhân dân trên biển.
Ngày nay, vấn đề chủ quyền biển Đông đang thu hút sự quân tâm của toàn xã hội, bảo vệ 11
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang trở thành vấn đề cấp bách đối với
nước ta. Vì vậy, những kinh nghiệm của Người về biển, đảo càng có ý nghĩa quan trọng
trong sự nghiệp giữ vững an ninh, chủ quyền biên giới. Bảo vệ biển, đảo là công việc của
toàn dân, toàn quân, đặc biệt là các chiến sỹ hải quân. Hơn lúc nào hết chúng ta cần thấm
nhuần lời dạy lịch sử của Bác Hồ: "Bờ biển nước ta dài tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó".
Thông qua đó, em rút ra được bài học cho riêng mình, khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, các bạn hãy thể hiện lòng yêu nước bằng việc học tập tốt, tham gia nghiên cứu
khoa học, góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày càng phát triển. Là con dân nước
Việt, mỗi người trong chúng ta cần thể hiện tình yêu biển đảo, quê hương bằng những
hành động thiết thực: đoàn kết, thống nhất, tuyệt đối tin tưởng và chấp hành các chủ
trương của Đảng, không để các phần tử xấu lôi kéo, kích động vào các hoạt động quá
khích, gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Câu 3: TTHCM về CNXH. Phân tích quan điểm: Muốn xây dựng CNXH cần phải có con người XHCN TTHCM về CNXH:
♦ CNXH là làm cho con người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do.♦ CNXH là làm
cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc, học hànhtiến bộ.♦ CNXH là tất cả mọi người
ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngàycàng sung sướng♦ Nói một cách tóm tắt mộc
mạc CNXH trước hết làm cho nhân dân laođộng thoát khỏi bần cùng, có việc làm, no ấm,
sống cuộc đời hạnhphúc. CNXH là làm cho dân giàu, nước mạnh. CNXH có nền tảng
làhọc thuyết Mác - Lênin được dựa vào quy luật khách quan để vạch ramục tiêu, điều
kiện, phương pháp giải phóng triệt để xã hội, giảiphóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người khỏi áp bức,bất công, bóc lột, tha hoá, đói nghèo dưới mọi hình thức.Có
thể nói, bản chất của CNXH là một xã hội đầy tính nhân văn, tấtcả vì con người, vì hạnh
phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đề cập đếnCNXH tuy có những khác nhau về chi tiết
tuỳ thuộc vào đối tượng, vàothời điểm Người nói hay viết nhưng nổi lên những điểm chủ
yếu sau:• Một xã hội có dân chủ.• Một xã hội dân giàu, nước mạnh từng bước xoá bỏ bất
công, xoá bỏ bóclột.. trên cơ sở phát triển sản xuất, dần dần biến nước ta từ một
nướcnông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nông nghiệp hiện đại,khoa học tiên
tiến.• Gắn phát triển kinh tế với chính sách xã hội, với công bằng xã hội;không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cácdân tộc,"bảo đảm mọi người đều
có ăn, có mặc, có chỗ ở, được họchành","các dân tộc miền núi tiến kịp các dân tộc miền
xuôi".• Phát triển văn hóa khoa học giáo dục,"biến nước ta từ một nước dốt nát,cực khổ
thành một nước văn hoá cao, có đời sống tươi vui, hạnh phúc“.• Bình đẳng, hữu nghị với
các dân tộc, các quốc gia trên thế giới, trên tinh thần hợp tác, tôn trọng độc lập chủ quyền
của nhau, hai bên cùng cólợi.• Tiến lên CNXH là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảngtiên phong.
Phân tích quan điểm: Muốn xây dựng CNXH cần phải có con người XHCN
1. Con người XHCN là gì?Nhân tố con người là một nhân tố quan trọng nhất của mọi
hoạt động. Có thể nói, con người XHCN là con người phát triển toàn diện, hoàn toàn đi 12
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
đến không có chủ nghĩa cá nhân. Con người XHCN phải mang những đặc điểm chính sau:
1) Đậm đà bản sắc dân tộc: Kiên định giữ vững nền độc lập dân tộc, tự hào dân tộc, yêu
quê hương, thương đồng bào, phát triển đất nước theo lí tưởng XHCN
2) Có trình độ khoa học, công nghệ: Có sức khỏe, được đào tạo có tay nghề, có tư duy
tốt, linh hoạt, sáng tạo, thích nghi, có nếp sống và làm việc văn minh, hợp lí, làm việc có
hiệu quả, làm giàu cho mình, chonhà, cho nước.
3) Có tinh thần công dân: Sống và làm việc theo pháp luật, có hiểu biết và ý thức tuân
theo pháp luật, có thế giới quan Mác - Lênin - Hồ Chí Minh.
4) Đầy đủ tình nghĩa, nhân nghĩa, đạo đức, đạo lí: Có các quan hệ đẹp trong giao tiếp đầy
tính người, tình người, nghĩa cử vì một lí tưởng cao đẹp, hiếu thảo, chân tình, có tinh thần
làm chủ, coi trọng tín ngưỡng gia tiên, có cuộc sống văn hoá, phong phú, thanh lịch, đẹp.
5) Biết tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại: Nhân văn, nhân ái, nhân đạo;quốc tế vô sản
chân chính, lập trường giai cấp vững vàng, tiến lên CNXH ; hoà bình, hữu nghị, hợp tác,
hội nhập vào xu thế của thời đại và cộng đồng. Đặc biệt về đạo đức chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Theo Hồ Chí
Minh thì đạo đức gắn liền với năng lực, chính nhờ có đạo đức cách mạng mà mỗi người
tự phấn đấu để hoàn thiện mình, hình thành năng lực để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang. Vì vậy, đạo đức cách mạng là nền tảng vững chắc để mỗi người hoàn thành
được nhiệmvụ của mình . Tóm lại, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến con người, đến
lợi íchvà khả năng phát triển của con người, hướng mọi hoạt động của con ngườivào
phục vụ xã hội phục vụ chính bản thân con người.
2. Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN : Để có được CNXH
chúng ta phải có nền sản xuất XHCN với công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có khoa học
- kĩ thuật tiên tiến. Con người trong xã hội đó không chỉ được hiểu với tư cách là người
lao động sản xuất,mà còn với tư cách là một công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập
thể,một thành viên trong cộng đồng dân tộc và nhân loại, một con người có trí tuệ, có
trách nhiệm trước vận mệnh của cả quốc gia, dân tộc. Đó không chỉ là đội ngũ những
người lao động có năng xuất cao, những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kĩ thuật, các
nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản lí, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu
những công dân yêu nước,ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng
nhau gắn bó vì sự nghiệp chung. Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, cộng nghiệp hoá, hiện
đại hoá đang được coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát triển.
Đối với nước ta, một nước vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu thì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH , là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt
hậu xa hơn so với các nước trong khu vực. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện
nay, trước hết nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho CNXH , đảm bảo tăng trưởng
kinh tế nhanh, đồng bộ và bền vững. Khi chúng ta còn chưa thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu 13
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
thì trước tiên phải chăm lo phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải
quyết tốt những vấn đề xã hội, không tạo ra sự cân đối, hài hoà giữa kinh tế và xã hội.
Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm lịch sử của các nước đang phát triển cho thấy, ngay từ
bước đầu tiên của việc hoạch định chiến lược và chương trình phát triển nhất thiết phải
bảo đảm tính đồng bộ giữa kinh tế và xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế, phải xây
dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động.
Con người, tự do và hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất của CNXH ,
với tư cách là lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu - lực lượng lao động và sáng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tinh thần . Con người là động lực chính của sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã nói:CNXH là do nhân dân xây dựng lấy. Ngày nay, hơn lúc nào hết, sẽ
không có bất cứ một sự tiến bộ và phát triển nào trong xã hội nếu không có quan điểm và
chính sách đúng đắn để phát huy nhân tố con người. Các quan điểm của Mác, Lênin, Hồ
Chí Minh đều khẳng định vai trò quyết định của yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất, trong cách mạng. Con ngườibằng sức lực và trí tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao
động và dùng côngcụ đó tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm
thoảmãn nhu cầu của bản thân mình và xã hội.Vị trí quan trọng của con người trong việc
xây dựng xã hội là khôngthể phủ nhận. Nói tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn
xây dựng thành công CNXH ở nước ta thì vấn đề là "tất cả vì dân, tất cả do dân", dựa vào
sứcmạnh vĩ đại của nhân dân.
Câu 4: Phân tích quan điểm: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công."
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến
lược đối với cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng dân tộc, nhằm
hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ
hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có
đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa
thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn
lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Muốn đoàn kết được
lực lượng toàn dân, theo Hồ Chí Minh cần phải tuyên truyền, huấn luyện làm sao cho
nhân dân hiểu được mục đích, đường lối, chính sách của Đảng và làm theo mục đích,
đường lối, chính sách ấy. Người nói: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công."
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm “Dân” và “Nhân dân”, có nội hàm rất rộng,
vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt
Nam cụ thể và dùng để chỉ “mọi con dân nước Việt”, mỗi một người “con Rồng cháu
Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người 14
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ; gái, trai; giàu, nghèo; quý, tiện”. Cho
nên “Dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết là cơ sở để thực hiện khối đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là thực hiện
đoàn kết tất cả những người Việt Nam đang sống ở trong nước và đang định cư ở nước
ngoài và cho dù định cư ở nước nào thì người Việt cũng không bỏ được cái gốc dân tộc.
Cần phải huy động và tập hợp được mọi người dân Việt Nam vào khối đại đoàn kết nhằm
thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.
Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng
của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân
là liên minh công, nông và lao động trí óc.
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân
nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá
trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam.
Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đâu và chiến thắng
mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá
nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu…
Cho nên, vì lợi íc của cách mạng cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng cái
phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực
lượng. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa
họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang.
Để thực hiện đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu
dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối
cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở
thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên tắc
Mácxít “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Theo Người, Dân là chỗ dựa vững
chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định
thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận
Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan
niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách
mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến
thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là mặt
trận dân tộc thống nhất.
Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc. 15
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
Câu 5: Phân tích quan điểm: "Nếu nước được đọc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do thì độc lập không có nghĩa gì cả.
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng”, ký tên Hồ Chí Minh, đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17/10/1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Công
hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bọ phân nhỏ cán bộ có tư tưởng công thần,
hách dịch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát, quan tâm đến đời sống của quàn chúng
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện và Người viết bài đấu tranh, lên án gay
gắt, đồng thời nghiêm khắc chấn chỉnh.
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người, quyền có
cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được nuôi dưỡng,
chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các quyền con người về
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội được chú trọng và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và
quyền con người là thống nhất trong cả nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường
lối, chính sách và pháp luật mà Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân
chính, bền vững thì không thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng
tốt hơn các quyền cơ bản, thiết thực của con người.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ra đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống xã hội. Những nhiệm vụ
trọng tâm đó là sự thống nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ
của con người, của công dân , như tâm nguyện của Bác kính yêu.
Độc lập tự do là mong muốn tột bậc của Bác Hồ cũng như là mong muốn của các thế hệ
người Việt Nam, vì thế câu nói “Không có gì quý giá hơn độc lập tự do” là tư tưởng cách
mạnh cốt lõi, là lẽ sống của Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam. Quan điểm trên càng
ngày ý nghĩa quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân, nhất là
khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” cũng như các
thủ đoạn vu cáo, xuyên tạc dân chủ, chóng phá nước ta. Chúng ta cần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên công chức, viên chức tròn các cơ quan quyền lực của tổ
chức nhà nhước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực chuyện môn, để
họ thực sự là “người đầy tớ trung thành của nhân dân” toàn tâm toàn ý phục vụ lợi ích
của nhân dân, do dân và vì dân, cũng như đáp ứng việc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN thời kỳ mới, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước từng
bước vượt qua khó khắn thách thức và vững vàng đi theo con đường cách mạng XHCN.
Sau khi giàng độc lập, đất nước phát triển mạnh về kinh tế
Liên hệ bản thân: tốt nghiệp vào làm công ty lớn, phát triển đất nước,...
Câu 2 : Làm rõ những sáng tạo của HCM trong tư tưởng G.phóng dân tộc. TRẢ LỜI: 16
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là hạt nhân cốt lõi, là tư tưởng trung tâm, xuyên
suốt toàn bộ học thuyết tư tưởng HCM.
Tư tưởng yêu nước “không có gì quí hơn độc lập tự do” luôn luôn đứng ở hàng đầu
trong bản giá trị tinh thần VN, nhưng trước Nguyễn Ái Quốc, HCM nó vẫn dừng lại ở
chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Điểm khác biệt giữa HCM và các lãnh tụ yêu nước tiền
bối là ở chỗ người đã gặp được thời đại ta đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
trong quĩ đạo cuộc CM vô sản. Vì vậy ngay từ khi bắt gặp luận cương của Lê nin hình
thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, ở HCM đã có sự gắn bó thống nhất giữa
độc lập dân tộc và CNXH.
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc:
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ 20, tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc
ở HCM khẳng định trong một luận đề nổi tiếng: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của CNCS và
cuộc cách mạng thế giới”
Tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc là thực hiện sự kết hợp hài hòa
giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và
CNXH. Nội dung của thực thể này được HCM xây dựng thành một hệ thống luận điểm dưới đây.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản: thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là do chưa có
đường lối đúng, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, Nguyễn Ái Quốc ví
chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa 2 vòi”, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào
thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc cùng một lúc cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là
phải thực hiện cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cứu cánh cách mạng vô
sản, cùng tiến bước với cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành
công trước hết phải có Đảng Cách mệnh … Đảng có vững thì cách mạng mới thành
công … Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt … bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ .nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên
minh công nông do Đảng cộng sản lãnh đạo. cách mạng giải phóng dân tộc1theo
Nguyễn Ái Quốc là việc chung ca dân chúng chứ không phải việc của một hai người, vì
vậy phải đoàn kết toàn dân, sỉ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó không được quên cái cốt của nó là công nông và do
Đảng lãnh đạo. Phải nhớ: “công nông là chủ cách mệnh … công nông là gốc cách mệnh,
nhưng phải có Đảng cộng sản lãnh đạo thì mới đoàn kết được và CM mới thành công.
Cách mạng giải phóng dân tộc được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế một thời gian dài đã tồn tại một quan điểm xem
thắng lợi của CM thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của CM vô sản ở chính 17
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
quốc. Quan điểm này vô hình chung đã làm giảm tính năng động sáng tạo của các phong trào CM ở thuộc địa.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc do
đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa y.nước và tinh thần D.tộc, ngay từ năm 1924,
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rằng CM thuộc địa không những không phụ thuộc và
CM vô sản ở chính quốc mà có thể và cần phải tiến hành trước và bằng thắng lợi của
mình, nó có thể giup đở những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến
rất quan trọng vào khủng hoảng tàng lý luận Mác - Lê nin.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được th.hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực
lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân. Hội nghị Ban chấp
hành TW Đảng lần thứ 8 tháng 5-1941dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra
quyết định: cuộc CM Đông Dương kết liễu bằng mọi cuộc khở nghĩa vũ trang mở đầu có
thể là khở nghĩa từng phần trong từng địa phương … mà mở đường cho cuộc tổng khở
nghĩa to lớn. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang người đã về nước chỉ đạo xây dựng
căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng,
lập ra các đội du kích vũ trang chủ động đón thời cơ, chóp thời cơ, phát động tổng khởi
nghĩa tháng 8 giành thắng lợi trong cả nước.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa đế quốc Pháp
và từ những kết luận rút ra qua khảo sát, nghiên cứu phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc ở một số nước thuộc địa như: Aán Độ, HCM chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc
phải thực hiện con đường CM bạo lực. Năm 1947, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập
G.phóng quân VN. Người khẳng định: D.tộc VN nhất định phải được giải phóng. Muốn
G.phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng
quân sự. Muốn có LL lượng thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm”
Trong quá trình lãnh đạo CM nhờ biết kế thừa truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc
giữ nước của dân tộc, vận dụng sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tiếp thu tinh hoa lý luận và kinh nghiệm quân sự của thế giới. HCM đã đẻ ra và hoàn
chỉnh dần lý luận về bạo lực CM ở VN.
Theo HCM, bạo lực CM ở VN là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân
sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.
CM bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để chống lại bạo lực phản CM, giành lấy
chính quyền và bảo vệ chính quyền dưới hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Khẳng định G.phóng D.tộc phải bằng con đường CM bạo lực. Song, HCM luôn luôn
chủ động, tích cực đưa ra giải Pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển CM.
Thực tiễn CM VN đã chứng minh tư tưởng này của HCM.
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư
tưởng HCM. Với tư tưởng này HCM chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự do,
thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc thuộc địa
và phụ thuộc trên thế giới. 18
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com) lOMoARcPSD|47025104
Với những đóng góp đó HCM đã được nhân dân tôn vinh là nhà G.phóng D.tộc và nhà văn hóa lớn.
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc – HCM đã vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác -
Lê nin về CM thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới, sáng tạo, bao gồm cả đường
lối chiến lược, sách lược, phương pháp tiến hành CM G.phóng D.tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng minh hùng
hồn tính khoa học đ.đắn, tính CM s.tạo của tư tưởng HCM
Tư tưởng về D.tộc và CM G.phóng D.tộc là một nội dung lớn nổi bật trong hệ thống tư
tưởng HCM. Với tư tưởng này HCM chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự do,
thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp G.phóng các D.tộc thuộc địa
và phụ thuộc trên thế giới. Với những đóng góp đó HCM đã được nhân loại tôn vinh là
anh hùng G.phóng D.tộc và nhà văn hóa lớn
Câu 3 : Làm rõ căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở VN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung cơ bản
trong toàn bộ tư tưởng của Người. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc
đang bị đoạ đày đau khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, với tấm lòng
yêu nước thiết tha Người đã ra đi tìm đường cưú nước, giải phóng cho dân tộc khỏi áp
bức bóc lột và Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản.
Người nhận thấy “ Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức,
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Việc lực chọn con đường XHCN là
một phát hiện thiên tài và là cống hiến to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam.
Vậy cơ sở nào để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở Việt Nam ? Đó là
vấn đề mà chúng ta sẽ cùng làm rõ dưới đây..
Cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vũ khí tư tưởng và lý luận cách mạng khoa học của thời đại
đã giúp cho Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Ra đời
vào giữa thế kỷ 19, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết giữa lúc
phong trào chủ nghĩa quốc tế đang khủng hoảng đường lối, đã trở thành lý luận soi đường
và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sự ra
đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới sau cách mạng tháng 10 Nga 1917, là
thực tiễn sinh động chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin , chứng minh sự đúng đắn của con người chủ nghĩa vô sản, cách mạng tháng 10
Nga đã cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh và ý nghĩa của nó đã được Hồ
Chí Minh đánh giá : “ Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng 10 chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người
chưa có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn sâu xa như thế”. Hồ chí Minh cũng đã lựa
chọn đi theo con đường cách mạng thế giới để giải phóng dân tộc và đi lên CNXH. Đó là
sự lựa chọn đúng qui luật, phù hợp xu thế lịch sử. Lý luận về HTKT – XH của chủ nhiã
Mác - Lênin đã chỉ rõ xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên trải qua 5 hình
thức kính tế xã hội mà hình thức kinh tế xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thức kinh tế 19
Downloaded by linh tuan (tyeulinh7@gmail.com)