Chiến dịch Điện Biên Phủ | Bài tập lớn môn Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bài tập: chiến dịch Điện Biên Phủ môn Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG
CHỦ ĐỀ: CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Nhóm: 4
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Chinh
Sinh viên thực hiện:
Hà Nội, 10/2023
Họ & Tên Mã SV
Hoàng Thị Hồng Bông 25A4013285
Trần Phương Dung 25A4011337
Phạm Thị Thu Hà 25A4020518
Trịnh Thị Thanh Huyền 25A4021074
Nguyễn Thị Diệu Linh 25A4012372
Nguyễn Thị Tuyết Nhi 25A4031602
Bùi Thị Hồng Nhung 25A4010402
Ngô Thị Phương Thảo 25A4022491
Văn Thị Thuỳ Trang 25A4021118
Đỗ Thảo Vân 25A4021134
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
I. Hoàn cảnh lịch sử:..................................................................................................2
1. Âm mưu của thực dân Pháp................................................................................2
2. Về phía Việt Nam ta............................................................................................2
II. Diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ................................................................2
1. Chủ trương và đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam.........................2
1.1 Chủ trương của Đảng cộng sản Việt nam............................................................2
1.2 Đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam................................................3
2. 3 Đợt quyết chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ................................................4
III. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm.........................7
1. Nguyên nhân thắng lợi........................................................................................7
2. Ý nghĩa lịch sử....................................................................................................7
3. Bài học kinh nghiệm...............................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................10
LỜI MỞ ĐẦU
Đã 69 năm trôi qua nhưng chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn mãi là một chiến dịch
điển hình trong lịch sử, tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
toàn quân, toàn dân ta. Điển hình về một đất nước nhỉ bé có thể giành thắng lợi trước
một đế quốc lớn là Pháp có tiềm lực lớn mạnh về quân sự khí trang bị hiện đại.
Chiến dịch Điện biên Phủ kết thúc với thắng lợi toàn cuộc thuộc về nhân dân Việt
Nam. Khắc ghi vào lịch sử Viết Nam rằng chiến dịch Điện Biên Phủ một mốc son
chói rọi, rực snags nhất trong thế kỷ XX. Tầm vóc của sự kiên lịch strọng đại này
chẳng thể phai mờ, trái lại những bài học lịch sử vẫn còn đó những giá trị trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử:
1. Âm mưu của thực dân Pháp
- 1947 đến 1953, quân dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan trọng
trong các chiến dịch Việt Bắc Thu Đông (năm 1947), chiến dịch Biên giới (năm
1950)… làm cho cục diện chiến tranhViệt Nam và Đông Dương ngày càng chuyển
biến có lợi cho ta, tạo ra thế bất lợi đối với thực dân Pháp.
kế hoạch Na-va không thực hiện được theo dự kiến, Pháp quyết định xây
dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cđiểm mạnh nhất Đông Dương, nhằm tiêu
hao quân chủ lực của ta, đồng thời khống chế toàn bộ vùng Tây Bắc nước ta
Thượng Lào với lực lượng lúc cao nhấtn đến 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong
đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe
tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải giới , được bố trí thành một hệ thống
phòng thủ chặt chẽ gồm 49 căn cứ điểm. Pháp Mỹ đều đưa Điện Biên Phủ
pháo đài bất khả xâm phạm”. Điện Biên Phủ trở thành địa điểm trung tâm của kế
hoạch Nava.
2. Về phía Việt Nam ta
Từ tháng 11-1953 đến tháng 2- 1954, bộ đội ta liên tục mở các cuộc tiến công ở
Tây Bắc, Trung Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào các chiến trường phối hợp
khác. Chiến thắng đó đã làm cho kế hoạch Na-va của địch đứng trước nguy cơ bị phá
sản.
Đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, vùng giải phóng
đã mở rộng, hậu phương đã lớn mạnh, quân đội ta đã trưởng thành, có đủ tinh thần
lực lượng đảm bảo cho việc giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ.
Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở chiến dịch Điện Biên
Phủ, nhằm tiêu diệt lực lượng địch đây, giải phóng Tây Bắc tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
Ta đã huy động đại bộ phận lực lượng chủ lực tham gia chiến dịch gồm 4 đại
đoàn bộ binh (308, 312, 316, 304), một đại đoàn pháo binh, nhiều tiểu đoàn công binh,
thông tin, vận tải, quân y,…thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương các
cấp để đảm bảo chi viện cho tiền tuyến, trong một thời gian ngắn có khoảng 55 nghìn
quân, hàng chục tấn khí, đạn dược, 27 nghìn tấn gạo… được đưa ra mặt trận. Như
vậy, Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược của quân dân Việt Nam.
II. Diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ
1. Chủ trương và đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam
1.1Chủ trương của Đảng cộng sản Việt nam
Kế hoạch quân sự Navarre của Pháp nhằm “chuyển bại thành thắng" khi đang
ngày càng sa vào thế bị động, phòng ngự bất lợi trên chiến trường. Bên cạnh đó,
Pháp còn tham vọng nhờ vào kế hoạch quân sự này để xây dựng Điện Biên Phủ thành
một “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “cối xay thịt khổng lồ”, một “con nhím của
4
núi rừng Tây Bắc” một “cái bẫy hiểm ác” sẵnng nghiền nát chủ lực của ta. Mỹ
Pháp rất tự tin cho rằng với vị thế đắc địa của Điện Biên Phủ.
Giữa tháng 12 năm 1953, sau khi bộ đội chủ lực của ta đánh tan địch Lai
Châu hình thành thế bao vây Điện Biên Phủ, quân Pháp tại đây chưa được tăng
cường lực lượng, hơn nữa pháo đài của chúng cũng chưa được xây dựng kiên cố.
Trước tình hình "phòng thủ tạm thời" của địch, ta nhận thấy đây là hội để tiêu diệt
chúng theo chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh". vậy, chúng ta thể tập trung
binh lựchỏa lực vượt trội nhắm vào hầu hết các hở hai bên sườn của địch.
Các mũi đột pháthể xâm nhập chủ yếu từ phía tây, đồng thời tổ chức các cuộc tấn
công phối hợp từ phía đông, tiến công, tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch đáng kể, tạo
đoàn, lập toàn bộ công sự, chuyển thế trận, tiến công thẳng vào trung tâm Mường
Thanh, đêm 20-1-1954 bắt đầu nổ súng vào. Cách tiếp cận này nhằm rút ngắn thời
gian chiến dịch làm cho công việc bảo mật thuận tiệnn. Tuy nhiên, không u
sau đó, tình thế xảy ra lúc ấy phương án “đánh nhanh thắng nhanh” đã được
chuyển sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”.
Đại tướng, Tổng lệnh Nguyên Giáp bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy
điểm yếu nếu đánh theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” thì khó bảo
đảm “chắc thắng”. Trên sở phân tích so sánh tương quan lực lượng, đánh giá khả
năng của ta địch tại Điện Biên Phủ, đặc biệt thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”, Đại tướng
Nguyên Giáp cùng với tập thể đảng ủy bộ chỉ huy chiến dịch bàn bạc, thống nhất
quyết định thay đổi phương châm tác chiến, chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh”
sang “đánh chắc, tiến chắc” để tận dụng thời gian chuyển hóa lực lượng, phá tan âm
mưu phòng ngự vững chắc của địch. Khi được Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo về
với nội dung chuyển từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh
chắc, tiến chắc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh Bộ Chính trị thống nhất cho rằng: Quyết
định thay đổi phương châm như vậy hoàn toàn có cơ sở, rất đúng đắn, kịp thời, đáp
ứng tình hình giữa ta địch đã sự thay đổi tại mặt trận. Nhìn chung, Đại tướng
cho rằng phương án “đánh nhanh thắng nhanh” mang nhiều tính chủ quan, không
đánh giá đúng thực lực hai bên, không thể đảm bảo chắc thắng. Ông kiên quyết tổ
chức lại trận đánh theo phương án “đánh chắc, tiến chắc”, đánh dài ngày theo kiểu
“bóc vỏ” dần tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiều 26/01, Đại tướng Nguyên
Giáp quyết định hoãn tấn công. Ông kết luận: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất
“đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt Địch từ “đánh nhanh thắng
nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tấn công. Ra lệnh cho
bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra.
1.2 Đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam
Trước âm mưu cuồng vọng của kẻ thù, trí tuệ, bản lĩnh sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng ta càng ngời sáng; phương hướng tiến công chiến lược của Đảng trong
Đông Xuân 1953 - 1954, được hoạch định ngay sau chiến dịch Tây Bắc (cuối năm
1952) và trong suốt quá trình xây dựng triển khai kế hoạch mới.
Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp từ ngày 25-
01 đến ngày 30-01-1953, đã vạch ra phương hướng chiến lược, phương hướng tác
chiến và tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Tại Hội
5
nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản báo cáo quan trọng, phát triển cụ thể
hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đường lối kháng chiến của
Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm vụ chủ yếu để đưa kháng chiến đến thắng lợi: Một
là, chỉ đạo kháng chiến chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược.
Hai là, phát động quần chúng phải thực hiện cải cách ruộng đất. Về chính sách ruộng
đất, Hội nghị nêu rõ: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là
tối đại đa số trong dân tộc… Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân
thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế chính trị của nông
dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”.
Về chỉ đạo kháng chiến chính sách quân s trong giai đoạn tiến công chiến
lược Nghị quyết xác định:
Một , phương hướng chiến lược của ta là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để
phân tán lực lượng địch tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do, tạo điều kiện
giải phóng hoàn toàn Bắc Bộ.
Hai là, từ phương hướng chiến lược đó, Trung ương quyết định phương hướng
tác chiến với tinh thần chủ động đáp ứng yêu cầu phát triển của kháng chiến: Quân đội
ta phải đánh địch những nơi địch hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng
địch; tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về
chiến lược địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải
phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó với ta.
Ba là, cũng tại Hội nghị này, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội ta một lần
nữa được khẳng định: Không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm,
đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng, không chắc
thắng thì kiên quyết không đánh.
Bốn là, về việc xây dựng củng cố lực lượng vũ trang, Hội nghị xác định: Ngoài
việc tăng cường bộ đội chủ lực xây dựng bộ đội địa phương, các vùng tự do
vùng căn cứ du kích cần phải xây dựng những tổ chức dân quân du kích không thoát
ly sản xuất, để đàn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trị an, bảo vệ lợi ích quần chúng
đấu tranh với địch, phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực; phải phối hợp mặt trận trước
mặt địch với mặt trận sau lưng địch một cách linh hoạt.
Trong giai đoạn tiến công chiến lược cần phải nhận tính chất trường kỳ của
kháng chiến; phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị
giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội, phải
có kế hoạch về việc xây dựng và bổ sung bộ đội; cần tăng cường cải thiện dần việc
trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh.
2. 3 Đợt quyết chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ
Đợt 1: Đúng 8 giờ sáng ngày 13/3/1954, những viên đạn sơn pháo của bộ đội ta
bắn vào sân bay Mường Thanh làm hai chiếc máy bay Đa-cô-ta của quân Pháp vừa hạ
cánh xuống đây bị bốc cháy. Đó chính những viên đạn đầu tiên mở màn của Chiến
dịch Điện Biên Phủ kéo dài suốt 55 ngày đêm.
Đến 17 giờ 05 phút chiều ngày 13/3/1954, sau hiệu lệnh của Đại tướng
Nguyên Giáp, 40 khẩu pháo cỡ nòng 75 đến 120 ly đồng loạt nhả đạn vào các vị trí
của quân Pháp trong cứ điểm Him Lam, bộ đội ta xuất kích bắt đầu trận đánh mở màn
6
của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trận đánh cứ điểm Him Lam kéo dài đến 23 giờ 30
phút đêm ngày 13/3/1954 thì kết thúc. Kết quả: Đại đoàn 312 đã hoàn thành nhiệm vụ
tiêu diệt trung tâm đề kháng cứ điểm Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt 200 tên, thu
toàn bộkhí, trang bị… 7 giờ 30 phút ngày 14/3/1954, quân địch tổ chức lực lượng
phản kích hòng chiếm lại Him Lam nhưng bị thất bại và tiếp tục bị thiệt hại nặng, phải
từ bỏ hoàn toàn ý định chiếm lại cứ điểm Him Lam. Như vậy trận đánh mở màn đã
thành công ngoài mong đợi.
16 giờ 45 phút ngày 14/3/1954, bộ đội nổ súng đánh đồi Độc Lập. Trận đánh
kéo dài đến 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/5/1954 thì kết thúc, cờ Quyết chiến Quyết
thắng bị đạn bắn thủng lỗ chỗ đã được cắm trên đỉnh đồi Độc Lập. Kết quả: Tiểu đoàn
Bắc Phi của Pháp bị xoá sổ, 483 trên địch bị tiêu diệt, 200 tên bị bắt… Sau đó, quân
Pháp tổ chức phản công tái chiến đồi Độc Lập nhưng đều bị đánh lui tiếp tục chịu
thiệt hại nặng nề
Cả ngày 16/3/1954, hai bên ra sức củng cố trận địa. Tuy nhiên, tinh thần chiến
đấu của bộ đội ta rất cao và bước vào chuẩn bị tiến đánh Bản Kéo. Về phía quân Pháp,
tinh thần chiến đấu của đã bắt đầu hoang mang, rất nhiều nguỵ quân người n tộc
Thái đã ra hàng… Sáng ngày 17/3/1954, thấy quân ta chuẩn bị tấn công, quân Pháp
Bản Kéo sợ hãi bỏ chạy. Trung đoàn 36 của ta không cần phải nổ súng đã chiếm được
Bản Kéo thừa thắng tiến vào chiếm các ngọn đồi phía Bắc sân bay Mường
Thanh.
Như vậy từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn
cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía
Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt bắt sống trên 2.000 tên địch, phá
hủy 25 máy bay, xóa sổ 01 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; đại tá Pirốt, Tư
lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn
tự sát.
Đợt 2: Đúng 18h ngày 30/3/1954 đợt tấn công thứ 2 bắt đầu và kéo dài 30 ngày
đêm ác liệt (30/3 30/4/1954). Lần này, quân ta không tiến đánh một vị trí đơn lẻ
nổ súng tiến công trên toàn mặt trận. Nhiệm vụ đợt tấn công này đánh chiếm các
ngọn đồi phía đông, đánh chiếm sân bay Mường Thanh triệt đường tiếp tế tiếp
viện, thu hẹp phạm vi chiếm đóng vùng trời của phân khu Trung tâm. Địch hết sức
ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Na-va hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây.
Đây đợt tiến công gay go, quyết liệt, hai bên giành nhau từng tấc đất, giao thông
hào.
Đúng 18 giờ, ngày 30/3/1954, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các cao
điểm phía Đông phân khu Trung tâm. Mở đầu trận đánh, pháo binh ta dồn dập nhả đạn
vào Sở Chỉ huy của Đại Đờ Cát-xtơ-ri cùng các điểm cao C1, D1, E1, các trận địa
pháo khu vực quân động của Pháp Mường Thanh Hồng Cúm. Quân Pháp
hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ.
Tại cao điểm C1, quân ta lần đầu mở rào bằng đạn bộc lôi. Chớp thời hỏa
lực địch còn đang tê liệt, phía ta hạ lệnh xung phong chiếm được chiếc lô cốt nằm trên
mỏm đất cao nhất, nhô lên trên đỉnh đồi, được gọi mỏm Cột Cờ. Trận đánh diễn ra
đúng 45 phút cờ đã được cắm lên nóc sở chỉ huy. Đồi C2Quyết chiến quyết thắng
kế tiếp C1, quân ta nhanh chóng phát triển chiếm được 11 lô cốt và súng. Tuy nhiên
7
do lực lượng nhiều lần tiến công bị hỏa lực mạnh của Pháp cản lại nên quân ta quyết
định lui về C1 chuẩn bị điều kiện tiến công C2 vào ban ngày.
Tại cao điểm E, lúc diễn ra cuộc thay quân của Pháp giữa một Đại đội của Tiểu
đoàn 3 Angiêri với Đại đội của Tiểu đoàn dù 5 một tiếng pháo nổ ra bắt đầu trận đánh.
Sau một giờ xung phong áp đảo, bộ đội ta chiếm toàn bộ cứ điểm. 19 giờ 45 phút,
hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đồi E. Tiểu đoàn 130 được Đại đoàn điều tiến công
sang D2, các đơn vị vừa chiếm được đồi E phát triển vào các ngọn đồi phía trong.
Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến khi trời sáng.
Đồi A1 điểm cao quan trọng nhất trong 5 ngọn đồi phía Đông, cũng
điểm cao cuối cùng che chở cho phân khu trung tâm. Từ 30/3 3/4 bộ đội ta 3 lần tổ
chức tấn công, địch dựa vào hệ thống hầm ngầm ngoan cố chống cự, tổ chức nhiều
cuộc phản công xe tăng pháo binh yểm hộ. Trận chiến trên đồi A1 diễn ra
cùng căng thẳng, khốc liệt, gây thiệt hại cho cả 2 phía, cuối cùng chiều ngày 3/4/1954
mỗi bên chiếm một nửa đồi A1…
Ngay từ hạ tuần tháng 3/1954, bộ đội cao xạ bộ đội pháo binh hoạt động
mạnh, máy bay địch không hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh được, phải bay cao
thả dù, nhiều dù hàng bay sang trận địa phòng ngự của ta. Từ trung tuần tháng 4/1954
phong trào thi đua “Săn tây bắn tỉa” của bộ đội ta càng làm cho địch hoang mang,
tuyệt vọng. Đối với địch, Điện Biên Phủ đã trở thành địa ngục trần gian, cái chết đến
với chúng bất cứ lúc nào. Được sự chi viện của hậu phương về cả tinh thần vật
chất, các chiến Điện Biên Phủ lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của chiến
dịch.
Trận đánh cuối cùng của đợt tiến công thứ 2 trận quân ta tiêu diệt cứ điểm
Huyghét vào đêm 22/4/1954, đây trung tâm đề kháng khá mạnh nhằm bảo vệ sân
bay Mường Thanh. Trong vòng không đầy một giờ, bộ đội ta đãm chủ hoàn toàn
Huyghét 1. Cái chết không kịp cất tiếng kêu của Huyghét 1 đã làm cho quân Pháp
Điện Biên Phủ bàng hoàng.
Đợt 3: Đến cuối tháng 4/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra gần 50
ngày, ta đã giành được những thắng lợi quan trọng để thể kết thúc trận đấu. Nếu
như đợt tiến công đầu tiên ta mở cửa ở những vị trí vòng ngoài phía Bắc và Đông Bắc,
cũng thăm sức mạnh của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ đó những
phương án chiến đấu phù hợp. Đợt tấn công thứ hai, ta tiêu diệt được nhiều vị trí quan
trọng tại phân khu trung tâm ngoại trừ cứ điểm A1 (do vấp phải hỏa lực mạnh của
Pháp); xóa sổ Sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất của chúng và
làm tiêu hao nhiều sinh lực địch. Đợt tấn công thứ ba, cũng là đợt tấn công cuối cùng,
có tính chất quyết định, ta tiến hành tổng công kích trên toàn mặt trận, giành thắng lợi
cuối cùng.
Công tác chuẩn bị cho đợt tấn công cuối cùng đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, chu
đáo. 17 giờ chiều ngày 01/5/1954, bằng việc chỉ huy pháo đồng loạt nh đạn vào
nhiều vị trí của p đoàn c điểm, ta chính thức bắt đầu đợt tấn công cuối cùng của
chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh
chiếm các cứ điểm phía Đông mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta địch
diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt dùng thuốc nổ phá các
8
hầm ngầm, trước khi địch có những hành động tiếp theo lúc trời sáng, ta đã hoàn toàn
làm chủ cứ điểm A1. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải
xin đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ
Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra
hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của
địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo
chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh. từ đó tin tức
chiến thắng tại Điện Biên Phủ nhanh chóng lan truyền đến khắp mọi nơi cả trên thế
giới.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập
tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn
rơi 62 máy bay, thu 64 ô toàn bộ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của
địch.
III. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
1. Nguyên nhân thắng lợi
Trước hết do Đảng Cộng Sản, đứng đầu Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối
kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm
vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng
chế độ mới. Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình chính;
xây dựng lực lượng trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích) m nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ
chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy
của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại
giao. Trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, lòng yêu nước tinh thần
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã tạo nên ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự
do cho dân tộc.
Nhân dân ta từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến
già nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua
giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho
chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng trang
ngoài mặt trận.
Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ
huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân
sự quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên
khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến trường Điện
Biên Phủ.
Bên cạnh đó, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ còn sự chi viện, cổ
ủng hộ của các nướchội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh hoà bình của nhân dân
tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên
9
bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, điều đó đã tạo nên sức mạnh thời đại của
chiến thắng lịch sử này. [1]
2. Ý nghĩa lịch sử
a- Đối với nhân dân ta
Trong lịch sử dựng nước giữ nước của dân tộc, chiến thắng Điện Biên Phủ
là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng Điện Biên Phủ
đòn đánh quyết định tạo nên bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh
giữa ta địch, trực tiếp đưa đến việc kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt hoàn
toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông
Dương; bảo vệ phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám; mở ra giai đoạn cách
mạng mới, tiến hành cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm ng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập rèn luyện; cổ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến
đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân.
b- Đối với thế giới
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong
trào đấu tranh hoà bình, tiến bộ của nhân loại, giáng một đòn chí mạng vào nền
móng của thực dân Pháp can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân
cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi
toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa
thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chiến thắng chung của các nước trên bán đảo
Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản công nhân quốc tế, của phong
trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một châncủa thời
đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu ý chí kiên cường đường lối đúng
đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng
lợi. Điều này đã thôi thúc cổ vũ các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh
đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc. [1]
3. Bài học kinh nghiệm
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã để lại cho chúng ta nhiều bài học và những kinh
nghiệm quý giá, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn cả
trong công cuộc đổi mới của đất nước hôm nay
Một : Bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đồng
lòng chung sức khắc phục mọi khó khăn gian khổ đánh bại kẻ thù: Cuộc kháng chiến
10
chống thực dân Pháp chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy để xây dựng phát huy
hiệu quả khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta phải đưa ra được mục tiêu chung cho cách
mạng Việt Nam và hướng tất cả mọi người vào mục tiêu chung đó. Ngày nay mục tiêu
chung của cách mạng Việt Nam tất cả "Dân giàu, nước mạnh, n chủ, công
bằng, văn minh", để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, trước hết mọi người Việt
Nam phải xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên
tạo ra sự ổn định chính trị và sự đồng thuận trong xã hội. Đảng cần chú trọng bảo đảm
quyền lợi chính đáng của cộng đồng, giải quyết hài hòa giữa lợi ích của các giai tầng
trong xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là: Bài học vphát huy nội lực, đề cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ để giành chiến thắng: Trong s
nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay, hơn bao giờ hết, theo tinh thần Điện Biên
Phủ, phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm,
phải hết sức coi trọng xây dựng sức mạnh nội lực, đó chính sức mạnh tổng hợp từ
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự điều hành quản của Nhà nước, vai trò của
MTTQ các đoàn thể chính trị - hội, tinh thần sức mạnh của nhân dân Việt
Nam yêu nước ở trong và ngoài nước.
Ba là: Kế thừa và phát triển bài học về tôn trọng thực tế, nắm vững quan điểm
thực tiễn, kịp thời sáng tạo trong hành động để đạt được mục đích cao nhất: Hiện
nay, tình hình thế giớitrong nước vừathuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn thách
thức, Đảng ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới cần phải xử lý, nhiều việc hết sức
phức tạp. Trong tình hình ấy, đòi hỏi Đảng phải vững vàng về chính trị, tưởng,
năng động sáng tạo, nhạy bén, phân tích kịp thời để hoạch định chính sách, điều chỉnh
mục tiêu cách thức phát triển đất nước sao cho phù hợp với xu thế chung của thời
đại.
Bốn là: Bài học về sự tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh
thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè quốc tế: Sự nghiệp đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam rất cần thiết phải "Giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế , uy tín của đất nước
góp phần vào sự nghiệp hòa bình độc lập dân tộc và dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới" mà trước tiên phải xây dựng được mối quan hệ hòa bình, hữu nghịhợp tác
với các nước láng giềng có chung biên giới. [2]
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyên nhân thắng lợi ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ,
23/04/2014, https://thanhnienduongsat.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=ky-
niem-60-nam-chien-thang-dien-bien-phu/nguyen-nhan-thang-loi-va-y-nghia-lich-su-
cua-chien-dich-dien-bien-phu-1002.html .
[2] Chiến thắng Điện Biên Phủ - Ý nghĩa lịch sử bài học kinh nghiệm cho cách
mạng Việt Nam, Mai Phương, 06/05/2019,
https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/0/80234/chien-thang-dien-bien-phu-y-nghia-lich-
su-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-cach-mang-viet-nam.
[3] Đợt 1 của Chiến dịch Điện Biên Phủ, 13 17 3 1954,
https://dangcongsan.vn/quoc-phong-an-ninh/dot-1-cua-chien-dich-dien-bien-phu-13--
1731954-236937.html.
[4] Đợt tấn công thứ hai, là trận công kiên có quy mô lớn nhất.
(n.d.).,https://dangcongsan.vn/quoc-phong-an-ninh/dot-tan-cong-thu-hai-la-tran-cong-
kien-co-quy-mo-lon-nhat-238953.html
12
| 1/12

Preview text:

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG
CHỦ ĐỀ: CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ Nhóm: 4
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Chinh
Sinh viên thực hiện: Họ & Tên Mã SV Hoàng Thị Hồng Bông 25A4013285 Trần Phương Dung 25A4011337 Phạm Thị Thu Hà 25A4020518
Trịnh Thị Thanh Huyền 25A4021074 Nguyễn Thị Diệu Linh 25A4012372 Nguyễn Thị Tuyết Nhi 25A4031602 Bùi Thị Hồng Nhung 25A4010402 Ngô Thị Phương Thảo 25A4022491 Văn Thị Thuỳ Trang 25A4021118 Đỗ Thảo Vân 25A4021134 Hà Nội, 10/2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
I. Hoàn cảnh lịch sử:..................................................................................................2
1. Âm mưu của thực dân Pháp................................................................................2
2. Về phía Việt Nam ta............................................................................................2
II. Diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ................................................................2
1. Chủ trương và đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam.........................2 1.1
Chủ trương của Đảng cộng sản Việt nam............................................................2 1.2
Đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam................................................3
2. 3 Đợt quyết chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ................................................4 III.
Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm.........................7
1. Nguyên nhân thắng lợi........................................................................................7
2. Ý nghĩa lịch sử....................................................................................................7
3. Bài học kinh nghiệm...............................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................10 LỜI MỞ ĐẦU
Đã 69 năm trôi qua nhưng chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn mãi là một chiến dịch
điển hình trong lịch sử, tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
toàn quân, toàn dân ta. Điển hình về một đất nước nhỉ bé có thể giành thắng lợi trước
một đế quốc lớn là Pháp có tiềm lực lớn mạnh về quân sự và vũ khí trang bị hiện đại.
Chiến dịch Điện biên Phủ kết thúc với thắng lợi toàn cuộc thuộc về nhân dân Việt
Nam. Khắc ghi vào lịch sử Viết Nam rằng chiến dịch Điện Biên Phủ là một mốc son
chói rọi, rực snags nhất trong thế kỷ XX. Tầm vóc của sự kiên lịch sử trọng đại này
chẳng thể phai mờ, trái lại những bài học lịch sử vẫn còn đó những giá trị trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. NỘI DUNG I.
Hoàn cảnh lịch sử:
1. Âm mưu của thực dân Pháp
- 1947 đến 1953, quân và dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan trọng
trong các chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông (năm 1947), chiến dịch Biên giới (năm
1950)… làm cho cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương ngày càng chuyển
biến có lợi cho ta, tạo ra thế bất lợi đối với thực dân Pháp.
Vì kế hoạch Na-va không thực hiện được theo dự kiến, Pháp quyết định xây
dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, nhằm tiêu
hao quân chủ lực của ta, đồng thời khống chế toàn bộ vùng Tây Bắc nước ta và
Thượng Lào với lực lượng lúc cao nhất lên đến 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong
đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe
tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới , được bố trí thành một hệ thống
phòng thủ chặt chẽ gồm 49 căn cứ điểm. Pháp và Mỹ đều đưa Điện Biên Phủ là “
pháo đài bất khả xâm phạm”. Điện Biên Phủ trở thành địa điểm trung tâm của kế hoạch Nava.
2. Về phía Việt Nam ta
Từ tháng 11-1953 đến tháng 2- 1954, bộ đội ta liên tục mở các cuộc tiến công ở
Tây Bắc, Trung Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào và các chiến trường phối hợp
khác. Chiến thắng đó đã làm cho kế hoạch Na-va của địch đứng trước nguy cơ bị phá sản.
Đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, vùng giải phóng
đã mở rộng, hậu phương đã lớn mạnh, quân đội ta đã trưởng thành, có đủ tinh thần và
lực lượng đảm bảo cho việc giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ.
Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở chiến dịch Điện Biên
Phủ, nhằm tiêu diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng Tây Bắc tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
Ta đã huy động đại bộ phận lực lượng chủ lực tham gia chiến dịch gồm 4 đại
đoàn bộ binh (308, 312, 316, 304), một đại đoàn pháo binh, nhiều tiểu đoàn công binh,
thông tin, vận tải, quân y,…thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương và các
cấp để đảm bảo chi viện cho tiền tuyến, trong một thời gian ngắn có khoảng 55 nghìn
quân, hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, 27 nghìn tấn gạo… được đưa ra mặt trận. Như
vậy, Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược của quân dân Việt Nam. II.
Diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ
1. Chủ trương và đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam
1.1 Chủ trương của Đảng cộng sản Việt nam

Kế hoạch quân sự Navarre của Pháp nhằm “chuyển bại thành thắng" khi đang
ngày càng sa vào thế bị động, phòng ngự và bất lợi trên chiến trường. Bên cạnh đó,
Pháp còn tham vọng nhờ vào kế hoạch quân sự này để xây dựng Điện Biên Phủ thành
một “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “cối xay thịt khổng lồ”, một “con nhím của 4
núi rừng Tây Bắc” một “cái bẫy hiểm ác” sẵn sàng nghiền nát chủ lực của ta. Mỹ và
Pháp rất tự tin cho rằng với vị thế đắc địa của Điện Biên Phủ.
Giữa tháng 12 năm 1953, sau khi bộ đội chủ lực của ta đánh tan địch ở Lai
Châu và hình thành thế bao vây Điện Biên Phủ, quân Pháp tại đây chưa được tăng
cường lực lượng, hơn nữa pháo đài của chúng cũng chưa được xây dựng kiên cố.
Trước tình hình "phòng thủ tạm thời" của địch, ta nhận thấy đây là cơ hội để tiêu diệt
chúng theo chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh". Vì vậy, chúng ta có thể tập trung
binh lực và hỏa lực vượt trội và nhắm vào hầu hết các sơ hở ở hai bên sườn của địch.
Các mũi đột phá có thể xâm nhập chủ yếu từ phía tây, đồng thời tổ chức các cuộc tấn
công phối hợp từ phía đông, tiến công, tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch đáng kể, tạo sư
đoàn, cô lập toàn bộ công sự, chuyển thế trận, tiến công thẳng vào trung tâm Mường
Thanh, đêm 20-1-1954 và bắt đầu nổ súng vào. Cách tiếp cận này nhằm rút ngắn thời
gian chiến dịch và làm cho công việc bảo mật thuận tiện hơn. Tuy nhiên, không lâu
sau đó, vì tình thế xảy ra lúc ấy mà phương án “đánh nhanh thắng nhanh” đã được
chuyển sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”.
Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy
điểm yếu nếu đánh theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” thì khó bảo
đảm “chắc thắng”. Trên cơ sở phân tích so sánh tương quan lực lượng, đánh giá khả
năng của ta và địch tại Điện Biên Phủ, đặc biệt là thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp cùng với tập thể đảng ủy và bộ chỉ huy chiến dịch bàn bạc, thống nhất
quyết định thay đổi phương châm tác chiến, chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh”
sang “đánh chắc, tiến chắc” để tận dụng thời gian chuyển hóa lực lượng, phá tan âm
mưu phòng ngự vững chắc của địch. Khi được Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo về
với nội dung chuyển từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh
chắc, tiến chắc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị thống nhất cho rằng: Quyết
định thay đổi phương châm như vậy là hoàn toàn có cơ sở, rất đúng đắn, kịp thời, đáp
ứng tình hình giữa ta và địch đã có sự thay đổi tại mặt trận. Nhìn chung, Đại tướng
cho rằng phương án “đánh nhanh thắng nhanh” mang nhiều tính chủ quan, không
đánh giá đúng thực lực hai bên, không thể đảm bảo chắc thắng. Ông kiên quyết tổ
chức lại trận đánh theo phương án “đánh chắc, tiến chắc”, đánh dài ngày theo kiểu
“bóc vỏ” dần tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiều 26/01, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp quyết định hoãn tấn công. Ông kết luận: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là
“đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt Địch từ “đánh nhanh thắng
nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tấn công. Ra lệnh cho
bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra.
1.2 Đường lối quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam
Trước âm mưu và cuồng vọng của kẻ thù, trí tuệ, bản lĩnh và sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng ta càng ngời sáng; phương hướng tiến công chiến lược của Đảng trong
Đông Xuân 1953 - 1954, được hoạch định ngay sau chiến dịch Tây Bắc (cuối năm
1952) và trong suốt quá trình xây dựng triển khai kế hoạch mới.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp từ ngày 25-
01 đến ngày 30-01-1953, đã vạch ra phương hướng chiến lược, phương hướng tác
chiến và tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Tại Hội 5
nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản báo cáo quan trọng, phát triển và cụ thể
hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đường lối kháng chiến của
Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm vụ chủ yếu để đưa kháng chiến đến thắng lợi: Một
là, chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược.
Hai là, phát động quần chúng phải thực hiện cải cách ruộng đất. Về chính sách ruộng
đất, Hội nghị nêu rõ: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là
tối đại đa số trong dân tộc… Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân
thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế chính trị của nông
dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”.
Về chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến
lược Nghị quyết xác định:
Một là, phương hướng chiến lược của ta là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để
phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do, tạo điều kiện
giải phóng hoàn toàn Bắc Bộ.
Hai là, từ phương hướng chiến lược đó, Trung ương quyết định phương hướng
tác chiến với tinh thần chủ động đáp ứng yêu cầu phát triển của kháng chiến: Quân đội
ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng
địch; tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về
chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải
phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó với ta.
Ba là, cũng tại Hội nghị này, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội ta một lần
nữa được khẳng định: Không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm,
đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng, không chắc
thắng thì kiên quyết không đánh.
Bốn là, về việc xây dựng củng cố lực lượng vũ trang, Hội nghị xác định: Ngoài
việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa phương, các vùng tự do và
vùng căn cứ du kích cần phải xây dựng những tổ chức dân quân du kích không thoát
ly sản xuất, để đàn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trị an, bảo vệ lợi ích quần chúng
đấu tranh với địch, phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực; phải phối hợp mặt trận trước
mặt địch với mặt trận sau lưng địch một cách linh hoạt.
Trong giai đoạn tiến công chiến lược cần phải nhận rõ tính chất trường kỳ của
kháng chiến; phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị
và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội, phải
có kế hoạch về việc xây dựng và bổ sung bộ đội; cần tăng cường và cải thiện dần việc
trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh.
2. 3 Đợt quyết chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ
Đợt 1: Đúng 8 giờ sáng ngày 13/3/1954, những viên đạn sơn pháo của bộ đội ta
bắn vào sân bay Mường Thanh làm hai chiếc máy bay Đa-cô-ta của quân Pháp vừa hạ
cánh xuống đây bị bốc cháy. Đó chính là những viên đạn đầu tiên mở màn của Chiến
dịch Điện Biên Phủ kéo dài suốt 55 ngày đêm.
Đến 17 giờ 05 phút chiều ngày 13/3/1954, sau hiệu lệnh của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, 40 khẩu pháo cỡ nòng 75 đến 120 ly đồng loạt nhả đạn vào các vị trí
của quân Pháp trong cứ điểm Him Lam, bộ đội ta xuất kích bắt đầu trận đánh mở màn 6
của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trận đánh cứ điểm Him Lam kéo dài đến 23 giờ 30
phút đêm ngày 13/3/1954 thì kết thúc. Kết quả: Đại đoàn 312 đã hoàn thành nhiệm vụ
tiêu diệt trung tâm đề kháng cứ điểm Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt 200 tên, thu
toàn bộ vũ khí, trang bị… 7 giờ 30 phút ngày 14/3/1954, quân địch tổ chức lực lượng
phản kích hòng chiếm lại Him Lam nhưng bị thất bại và tiếp tục bị thiệt hại nặng, phải
từ bỏ hoàn toàn ý định chiếm lại cứ điểm Him Lam. Như vậy trận đánh mở màn đã
thành công ngoài mong đợi.
16 giờ 45 phút ngày 14/3/1954, bộ đội nổ súng đánh đồi Độc Lập. Trận đánh
kéo dài đến 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/5/1954 thì kết thúc, cờ Quyết chiến Quyết
thắng
bị đạn bắn thủng lỗ chỗ đã được cắm trên đỉnh đồi Độc Lập. Kết quả: Tiểu đoàn
Bắc Phi của Pháp bị xoá sổ, 483 trên địch bị tiêu diệt, 200 tên bị bắt… Sau đó, quân
Pháp tổ chức phản công tái chiến đồi Độc Lập nhưng đều bị đánh lui và tiếp tục chịu thiệt hại nặng nề
Cả ngày 16/3/1954, hai bên ra sức củng cố trận địa. Tuy nhiên, tinh thần chiến
đấu của bộ đội ta rất cao và bước vào chuẩn bị tiến đánh Bản Kéo. Về phía quân Pháp,
tinh thần chiến đấu của đã bắt đầu hoang mang, rất nhiều nguỵ quân người dân tộc
Thái đã ra hàng… Sáng ngày 17/3/1954, thấy quân ta chuẩn bị tấn công, quân Pháp ở
Bản Kéo sợ hãi bỏ chạy. Trung đoàn 36 của ta không cần phải nổ súng đã chiếm được
Bản Kéo và thừa thắng tiến vào chiếm các ngọn đồi ở phía Bắc sân bay Mường Thanh.
Như vậy từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn
cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía
Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá
hủy 25 máy bay, xóa sổ 01 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; đại tá Pirốt, Tư
lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Đợt 2: Đúng 18h ngày 30/3/1954 đợt tấn công thứ 2 bắt đầu và kéo dài 30 ngày
đêm ác liệt (30/3 – 30/4/1954). Lần này, quân ta không tiến đánh một vị trí đơn lẻ mà
nổ súng tiến công trên toàn mặt trận. Nhiệm vụ đợt tấn công này là đánh chiếm các
ngọn đồi phía đông, đánh chiếm sân bay Mường Thanh triệt đường tiếp tế và tiếp
viện, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của phân khu Trung tâm. Địch hết sức
ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Na-va hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây.
Đây là đợt tiến công gay go, quyết liệt, hai bên giành nhau từng tấc đất, giao thông hào.
Đúng 18 giờ, ngày 30/3/1954, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các cao
điểm phía Đông phân khu Trung tâm. Mở đầu trận đánh, pháo binh ta dồn dập nhả đạn
vào Sở Chỉ huy của Đại tá Đờ Cát-xtơ-ri cùng các điểm cao C1, D1, E1, các trận địa
pháo và khu vực quân cơ động của Pháp ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Quân Pháp
hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ.
Tại cao điểm C1, quân ta lần đầu mở rào bằng đạn bộc lôi. Chớp thời cơ hỏa
lực địch còn đang tê liệt, phía ta hạ lệnh xung phong chiếm được chiếc lô cốt nằm trên
mỏm đất cao nhất, nhô lên trên đỉnh đồi, được gọi là mỏm Cột Cờ. Trận đánh diễn ra
đúng 45 phút lá cờ Quyết chiến quyết thắng đã được cắm lên nóc sở chỉ huy. Đồi C2
kế tiếp C1, quân ta nhanh chóng phát triển chiếm được 11 lô cốt và ụ súng. Tuy nhiên 7
do lực lượng nhiều lần tiến công bị hỏa lực mạnh của Pháp cản lại nên quân ta quyết
định lui về C1 chuẩn bị điều kiện tiến công C2 vào ban ngày.
Tại cao điểm E, lúc diễn ra cuộc thay quân của Pháp giữa một Đại đội của Tiểu
đoàn 3 Angiêri với Đại đội của Tiểu đoàn dù 5 một tiếng pháo nổ ra bắt đầu trận đánh.
Sau một giờ xung phong áp đảo, bộ đội ta chiếm toàn bộ cứ điểm. 19 giờ 45 phút,
hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt đồi E. Tiểu đoàn 130 được Đại đoàn điều tiến công
sang D2, các đơn vị vừa chiếm được đồi E phát triển vào các ngọn đồi ở phía trong.
Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến khi trời sáng.
Đồi A1 là điểm cao quan trọng nhất trong 5 ngọn đồi phía Đông, nó cũng là
điểm cao cuối cùng che chở cho phân khu trung tâm. Từ 30/3 – 3/4 bộ đội ta 3 lần tổ
chức tấn công, địch dựa vào hệ thống hầm ngầm ngoan cố chống cự, tổ chức nhiều
cuộc phản công có xe tăng và pháo binh yểm hộ. Trận chiến trên đồi A1 diễn ra vô
cùng căng thẳng, khốc liệt, gây thiệt hại cho cả 2 phía, cuối cùng chiều ngày 3/4/1954
mỗi bên chiếm một nửa đồi A1…
Ngay từ hạ tuần tháng 3/1954, bộ đội cao xạ và bộ đội pháo binh hoạt động
mạnh, máy bay địch không hạ cánh xuống sân bay Mường Thanh được, phải bay cao
thả dù, nhiều dù hàng bay sang trận địa phòng ngự của ta. Từ trung tuần tháng 4/1954
phong trào thi đua “Săn tây bắn tỉa” của bộ đội ta càng làm cho địch hoang mang,
tuyệt vọng. Đối với địch, Điện Biên Phủ đã trở thành địa ngục trần gian, cái chết đến
với chúng bất cứ lúc nào. Được sự chi viện của hậu phương về cả tinh thần và vật
chất, các chiến sĩ Điện Biên Phủ lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của chiến dịch.
Trận đánh cuối cùng của đợt tiến công thứ 2 là trận quân ta tiêu diệt cứ điểm
Huyghét vào đêm 22/4/1954, đây là trung tâm đề kháng khá mạnh nhằm bảo vệ sân
bay Mường Thanh. Trong vòng không đầy một giờ, bộ đội ta đã làm chủ hoàn toàn
Huyghét 1. Cái chết không kịp cất tiếng kêu của Huyghét 1 đã làm cho quân Pháp ở
Điện Biên Phủ bàng hoàng.
Đợt 3: Đến cuối tháng 4/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra gần 50
ngày, ta đã giành được những thắng lợi quan trọng để có thể kết thúc trận đấu. Nếu
như đợt tiến công đầu tiên ta mở cửa ở những vị trí vòng ngoài phía Bắc và Đông Bắc,
cũng là thăm dò sức mạnh của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ đó có những
phương án chiến đấu phù hợp. Đợt tấn công thứ hai, ta tiêu diệt được nhiều vị trí quan
trọng tại phân khu trung tâm ngoại trừ cứ điểm A1 (do vấp phải hỏa lực mạnh của
Pháp); xóa sổ Sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất của chúng và
làm tiêu hao nhiều sinh lực địch. Đợt tấn công thứ ba, cũng là đợt tấn công cuối cùng,
có tính chất quyết định, ta tiến hành tổng công kích trên toàn mặt trận, giành thắng lợi cuối cùng.
Công tác chuẩn bị cho đợt tấn công cuối cùng đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, chu
đáo. 17 giờ chiều ngày 01/5/1954, bằng việc chỉ huy pháo đồng loạt nhả đạn vào
nhiều vị trí của Tâ ’p đoàn cứ điểm, ta chính thức bắt đầu đợt tấn công cuối cùng của
chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh
chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch
diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các 8
hầm ngầm, trước khi địch có những hành động tiếp theo lúc trời sáng, ta đã hoàn toàn
làm chủ cứ điểm A1. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải
xin đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ
Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra
hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của
địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo
chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh. từ đó tin tức
chiến thắng tại Điện Biên Phủ nhanh chóng lan truyền đến khắp mọi nơi cả trên thế giới.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập
tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn
rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. III.
Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
1. Nguyên nhân thắng lợi
Trước hết là do Đảng Cộng Sản, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối
kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm
vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng
chế độ mới. Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính;
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ
chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy
của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại
giao. Trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, lòng yêu nước và tinh thần
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã tạo nên ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Nhân dân ta từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến
già nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua
giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho
chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ
huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân
sự quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên
khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Bên cạnh đó, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ còn có sự chi viện, cổ vũ và
ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì hoà bình của nhân dân
tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên 9
bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, điều đó đã tạo nên sức mạnh thời đại của
chiến thắng lịch sử này. [1]
2. Ý nghĩa lịch sử
a- Đối với nhân dân ta
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chiến thắng Điện Biên Phủ
là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng Điện Biên Phủ là
đòn đánh quyết định tạo nên bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh
giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt hoàn
toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông
Dương; bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám; mở ra giai đoạn cách
mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến
đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
b- Đối với thế giới
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong
trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại, giáng một đòn chí mạng vào nền
móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân
cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi
toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa
thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo
Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong
trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời
đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng
đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng
lợi. Điều này đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh
đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. [1]
3. Bài học kinh nghiệm
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã để lại cho chúng ta nhiều bài học và những kinh
nghiệm quý giá, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà còn cả
trong công cuộc đổi mới của đất nước hôm nay
Một là: Bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đồng
lòng chung sức khắc phục mọi khó khăn gian khổ đánh bại kẻ thù: Cuộc kháng chiến 10
chống thực dân Pháp và chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy để xây dựng và phát huy
hiệu quả khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta phải đưa ra được mục tiêu chung cho cách
mạng Việt Nam và hướng tất cả mọi người vào mục tiêu chung đó. Ngày nay mục tiêu
chung của cách mạng Việt Nam là tất cả vì "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh", và để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, trước hết mọi người Việt
Nam phải xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên
tạo ra sự ổn định chính trị và sự đồng thuận trong xã hội. Đảng cần chú trọng bảo đảm
quyền lợi chính đáng của cộng đồng, giải quyết hài hòa giữa lợi ích của các giai tầng
trong xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là: Bài học về phát huy nội lực, đề cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ để giành chiến thắng: Trong sự
nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay, hơn bao giờ hết, theo tinh thần Điện Biên
Phủ, phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm,
phải hết sức coi trọng xây dựng sức mạnh nội lực, đó chính là sức mạnh tổng hợp từ
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước, vai trò của
MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, tinh thần và sức mạnh của nhân dân Việt
Nam yêu nước ở trong và ngoài nước.
Ba là: Kế thừa và phát triển bài học về tôn trọng thực tế, nắm vững quan điểm
thực tiễn, kịp thời sáng tạo trong hành động để đạt được mục đích cao nhất: Hiện
nay, tình hình thế giới và trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn thách
thức, Đảng ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới cần phải xử lý, nhiều việc hết sức
phức tạp. Trong tình hình ấy, đòi hỏi Đảng phải vững vàng về chính trị, tư tưởng,
năng động sáng tạo, nhạy bén, phân tích kịp thời để hoạch định chính sách, điều chỉnh
mục tiêu và cách thức phát triển đất nước sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Bốn là: Bài học về sự tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh
thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè quốc tế: Sự nghiệp đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam rất cần thiết phải "Giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế , uy tín của đất nước và
góp phần vào sự nghiệp hòa bình độc lập dân tộc và dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới" mà trước tiên là phải xây dựng được mối quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác
với các nước láng giềng có chung biên giới. [2] 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ,
23/04/2014, https://thanhnienduongsat.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=ky-
niem-60-nam-chien-thang-dien-bien-phu/nguyen-nhan-thang-loi-va-y-nghia-lich-su-
cua-chien-dich-dien-bien-phu-1002.html .
[2] Chiến thắng Điện Biên Phủ - Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam, Lê Mai Phương, 06/05/2019,
https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/0/80234/chien-thang-dien-bien-phu-y-nghia-lich-
su-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-cach-mang-viet-nam.
[3] Đợt 1 của Chiến dịch Điện Biên Phủ, 13 – 17 3 1954,
https://dangcongsan.vn/quoc-phong-an-ninh/dot-1-cua-chien-dich-dien-bien-phu-13-- 1731954-236937.html.
[4] Đợt tấn công thứ hai, là trận công kiên có quy mô lớn nhất.
(n.d.).,https://dangcongsan.vn/quoc-phong-an-ninh/dot-tan-cong-thu-hai-la-tran-cong-
kien-co-quy-mo-lon-nhat-238953.html 12