Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của chính phủ Mỹ trước và sau khủng hoảng năm 2008 | Bài tập môn Kinh tế vĩ mô

Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của chính phủ Mỹ trước và sau khủng hoảng năm 2008 | Bài tập môn Kinh tế vĩ mô với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA CỦA MỸ TRƯỚC VÀ SAU ĐẠI
KHỦNG HOẢNG 2008
MỤC LỤC
I. Những biến động kinh tế trước Đại Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ - chính sách
tài khóa của chính phủ Mỹ....................................................................................................................3
I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng 2008”.............................................................................3
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho khủng hoảng...........................6
Khoa: Tài chính
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Đức Hải
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 10
Họ và tên: Trịnh Ngọc Bảo Ngân MSV: 26A4012898
Họ và tên: Vũ Thị Thu Huyền MSV: 26A4011972
Họ và tên: Nguyễn Hương Ly MSV: 26A4012930
Họ và tên: Nguyễn Trang Quyên MSV: 26A4012930
Họ và tên: Trần Minh Trang MSV: 26A4010234
Họ và tên: Trần Khánh Linh MSV: 26A4012431
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính phủ...................7
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng.................................................................................7
II.1.1. Nguyên nhân..................................................................................................................7
II.1.2. Diễn biến:.....................................................................................................................11
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)..................................................................14
II.2.1. Hậu quả........................................................................................................................14
II.2.2. Hành động của chính phủ:...........................................................................................15
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:............................................16
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện: ...............................................16
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh tế Mỹ nói riêng
và thế giới nói chung sụp đổ..............................................................................................................16
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.............................................................................16
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':...............................................................................20
III.2. Hậu quả của khủng hoảng lên các quốc gia...................................................................21
III.2.1. Việt Nam.....................................................................................................................21
Tác động từ cuộc khủng hoảng:..........................................................................................22
III.2.2. Iceland.........................................................................................................................24
III.2.3. Nga..............................................................................................................................25
III.2.4. Hy Lạp..........................................................................................................................27
IV. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ và toàn thế giới......................................................29
IV.1. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ..............................................................................29
IV.1.1. Biện pháp phục hồi của Mỹ........................................................................................29
IV.1.2. Sự phục hồi.................................................................................................................30
IV.2. Các quốc gia khắc phục hậu quả.................................................................................... 32
IV.2.1. Các nước Châu Âu......................................................................................................32
IV.2.2. Các nước Châu Á.........................................................................................................32
IV.3.Việt Nam trong cuộc khủng hoảng kinh tế....................................................................33
IV.3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng.................................................................................33
IV.3.2. Biện pháp....................................................................................................................33
V. Những người làm giàu nhờ khủng hoảng......................................................................... 33
2
I. Những biến động kinh tế trước Đại
Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ -
chính sách tài khóa của chính phủ Mỹ
I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng
2008”
Thập niên 90 xa hoa
Trong thời điểm những cuộc khủng
hoảng, như Đại khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008, được cấu thành bởi mối liên đới
giữa nhiều công nghệ tài chính và các ngành khác nhau. Các sự kiện liên đới nổi bật
trong cuộc khủng hoảng này bao gồm sự phát triển của Nền kinh tế hão huyền (The
New Economy) trong những năm 90 với sự tăng trưởng không bền vững, sự vỡ tung
của bong bóng dotcom, sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 và hàng loạt dấu hiệu cho
thấy sự khủng hoảng.
Những sự kiện này đã tạo ra những tín hiệu và dấu hiệu cho sự khủng hoảng
kinh tế, nhưng không phải ai cũng nhận thức được hoặc muốn chấp nhận sự thật này.
Một số nhà đầu tư có thể đã bị mê hoặc bởi sự thịnh vượng tạm thời hoặc lạc quan quá
mức, dẫn đến sự thiếu nhận thức về tình hình khó khăn và rủi ro tiềm ẩn.
Tổng quan, việc nhìn thấy và thừa nhận tình hình kinh tế khó khăn trong một
quốc gia yêu cầu sự quan sát cẩn thận và khả năng phân tích một cách khách quan.
Tuy nhiên, sự thiếu nhận thức hoặc chọn lựa không nhìn thấy sự thật có thể xảy ra khi
những nhà đầu tư không muốn đối mặt với tình hình khó khăn hoặc không nhìn thấy
các dấu hiệu và tín hiệu cho sự khủng hoảng.
Những năm 1990, nước Mỹ đã trải qua một thời kỳ hưng thịnh giả với tăng
trưởng kinh tế ổn định. Từ năm 1992 đến năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
4,9% mỗi năm, cao hơn so với tốc độ trung bình 2,75% từ năm 1972 đến 1995. Tăng
trưởng này được duy trì ổn định và đi kèm với mức thất nghiệp thấp. Điều đáng kinh
ngạc là tỷ lệ lạm phát cũng duy trì ở mức thấp trong giai đoạn này.
Theo lý thuyết đường cong Philips, khi tỷ lệ thất nghiệp giảm và nền kinh tế
phát triển, thì tỷ lệ lạm phát thường tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tỷ lệ lạm
phát không tăng một cách đáng kể. Sự hiện tượng này đã khiến các nhà kinh tế Mỹ
hào hứng đặt tên cho giai đoạn này là "Nền Kinh Tế Mới - The New Economy".
3
Tuy nhiên, đã có một số nhân vật quan trọng nhận ra vấn đề nghiêm trọng này,
trong đó có Alan Greenspan, cựu chủ tịch của Tổng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ông
đã có ba phát biểu dự đoán khá chính xác về kết cục của thời kỳ kinh tế giàu có và
hưng thịnh giả tạo này. Ông đã nhấn mạnh rằng "...nhưng làm sao chúng ta biết khi
nào sự phấn khích không hợp lý đã làm cho giá trị tài sản tăng quá mức,... Chúng ta là
các nhà ngân hàng trung ương không cần lo lắng nếu một bong bóng tài chính đổ sập
không đe dọa đến nền kinh tế thực, sản xuất, việc làm và ổn định giá cả”. Đây chính là
bài phát biểu của Greenspan về thời kỳ Kinh Tế Mới đáng quan ngại, tại Hiệp hội
Kinh tế Mỹ thường niên (American Economic Association's Annual Meeting) tại
thành phố San Francisco, California, Hoa Kỳ, vào ngày 05/12/1996.
Những lời cảnh báo này đã cho thấy sự nhận thức về nguy cơ và mối đe dọa
tiềm ẩn trong sự giàu có giả tạo của thời kỳ đó.
Mặc dù tình hình kinh tế của Hoa Kỳ, nền kinh tế lớn nhất thời điểm đó, đang
đối mặt với những dấu hiệu rất đáng ngờ, tuy nhiên không có nhà đầu tư nào nhìn ra
hoặc chấp nhận thực tế này và chấp nhận tình hình kinh tế khó khăn là một yếu tố
quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư thông minh. Tuy nhiên, sự mù quáng
hoặc không muốn nhìn thấy sự thật có thể dẫn đến những quyết định đầu tư không
hợp lý và có thể gánh chịu những hậu quả nặng nề.
Như vậy, trong trường hợp này, việc nhìn ra và nhận thức về tình hình kinh tế
khó khăn của Hoa Kỳ là một yếu tố không thể bỏ qua. Điều này đặt ra một thách thức
đối với những nhà đầu tư, yêu cầu họ phải có khả năng phân tích kỹ lưỡng và quyết
định đầu tư dựa trên những thông tin và hiểu biết chính xác về tình hình kinh tế.
Bong bóng dotcom (1990-2000)
Đại khủng hoảng tài chính năm 2008, mặc dù khởi nguồn không chỉ từ năm đó,
đã có những dấu hiệu sớm cho thấy sự sụp đổ mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ và tác
động lên kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn, ta không thể không nhắc đến cơn sốt Công nghệ
trong thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, diễn ra tại Mỹ và bong bóng Dotcom đã vỡ vào
năm 2001. Song song với đó, khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997 cũng góp phần
làm giảm mạnh lãi suất ngân hàng nhằm kích thích hoạt động tín dụng và hỗ trợ nền
kinh tế.
4
Trong bối cảnh tình hình tài chính dễ dàng lưu thông và nhận thấy tiềm năng từ
các công ty công nghệ, đặc biệt là những công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến,
đã tạo nên một sự mới lạ đối với giới đầu tư. Từ năm 1997, đa số các hộ gia đình và
nhà đầu tư mạo hiểm đã đổ vốn vào thung lũng Silicon Valley, với hy vọng thu về lợi
nhuận đáng kể từ những công ty này. Những công ty này đã đưa ra những lời hứa hấp
dẫn, tuy nhiên lại không thể thực hiện được do chiến lược đầu tư không đúng đắn,
thiếu kiến thức và sự sử dụng vốn không hợp lý từ phía các nhà đầu tư.
Số tiền đáng kể này đã được các CEO chi ra cho các hoạt động ăn chơi, tiệc
tùng và marketing, nhằm thu hút sự rót vốn từ các nhà đầu tư, mà không đầu tư vào cơ
sở hạ tầng hoặc phát triển ứng dụng như đã hứa hẹn. Mất đi sự tập trung và cẩn trọng,
các nhà đầu tư đã đối diện với những hậu quả đắng cay khi những công ty này không
thể đáp ứng được kỳ vọng và cam kết ban đầu. Điều này phần nào là do hướng đầu tư
mơ hồ và thiếu hiểu biết, cùng với việc sử dụng vốn không đúng mục đích từ phía các
nhà đầu tư.
Như vậy, những sự kiện này đã làm rõ rằng việc đầu tư vào công ty công nghệ
và các công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến đòi hỏi sự cẩn trọng và hiểu biết sâu
sắc về thị trường và các nguyên tắc đầu tư. Nếu không, nguy cơ mất vốn và hậu quả
không mong muốn sẽ là kết quả của những quyết định đầu tư không đúng đắn.
Khi này, người dân, các nhà đầu tư đã mất lòng tin vào những công ty công
nghệ, sản phẩm công nghệ. Và cùng lúc này, FED cũng đã tăng lãi suất ngân hàng
Nối tiếp bong bóng, sự kiện khủng bố ngày 11/09/2001 diễn ra
Trải qua sự không ổn định của thị trường tài chính: Thị trường tài chính Mỹ đã
phải tạm ngừng hoạt động trong 6 ngày để đảm bảo an ninh sau sự kiện đáng chú ý.
Ngay sau khi thị trường mở cửa trở lại vào ngày 17/09, thị trường chứng khoán Mỹ đã
ghi nhận mức giảm lớn nhất trong một ngày trước đó. Điều này cho thấy sự bất ổn và
áp lực lớn trong hệ thống tài chính.
Ngân sách Mỹ đã phải đối mặt với thâm hụt đáng kể, và có nhiều nguyên nhân
góp phần vào tình trạng này. Trước hết, các chi tiêu liên quan đến quốc phòng và an
ninh đã tăng lên do sự thắt chặt và gia tăng quy mô của các hoạt động quốc phòng sau
giai đoạn chạy đua vũ trang với Liên Xô. Điều này đã dẫn đến một con số khá lớn
được chi cho quốc phòng, chiếm tới 20% ngân sách cả nước.
5
Ngoài ra, chính phủ đã triển khai các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó có
chính sách giá trị đồng USD thấp. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách này đã góp
phần vào tình trạng khủng hoảng. Chính sách USD rẻ đã tạo ra một loạt tác động
không cân đối đến nền kinh tế, bao gồm sự khuyến khích đầu tư rủi ro cao và sự tăng
lên của nợ vay.
Những yếu tố trên đã tạo ra một tình hình kinh tế không ổn định và gây ra
những tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và ngân sách của Mỹ. Các biện pháp
kích thích và quyết định liên quan đến quốc phòng đã đóng góp vào tình trạng thâm
hụt ngân sách và tạo ra những tác động không mong muốn trong hệ thống kinh tế.
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho
khủng hoảng$
Trong năm 2003, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã áp dụng một chính sách lãi suất
thấp nhằm khuyến khích việc vay mượn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong suốt
năm đó, lãi suất cơ bản của Fed đã giảm dần từ mức 1,25% vào đầu năm xuống còn
1,00% vào cuối năm.
Quyết định này được đưa ra nhằm đối phó với những tác động tiêu cực từ bong
bóng dotcom và sự kiện khủng bố 11/09. Trước đó, vào năm 2001, lãi suất của Fed đã
được đưa lên mức 5,6-6% để ứng phó với những biến động kinh tế và tác động của
các sự kiện đó.
Với chính sách lãi suất thấp, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hy vọng khuyến khích
việc vay mượn của người dân và doanh nghiệp, tạo động lực cho đầu tư và tiêu dùng.
Người dân đã phản ứng tích cực bằng việc đổ xô đi vay ngân hàng. Thay vì đầu tư vào
ngành công nghệ như trước đây, cùng với nỗi sợ vô hình về khủng bố. Người dân Mỹ
muốn tìm đến một hàng hóa có thể giúp họ đầu tư thấy an tâm hơn đó chính là bất
động sản.
Việc tăng cường chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách lãi
suất thấp trong năm 2003 được xem là một ứng dụng đúng với lý thuyết kinh tế vĩ mô.
Bằng cách khuyến khích việc vay mượn và đầu tư, chính sách này đã nhằm tạo động
lực cho tăng trưởng kinh tế và giúp định vị lại sự ổn định sau những biến động kinh tế
và sự kiện xấu xảy ra trước đó. Nhưng đây cũng là khởi đầu cho đại khủng hoảng tài
chính lớn nhất trong vòng một thế kỷ qua.
6
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính
phủ
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng
II.1.1. Nguyên nhân
Khủng hoảng tài chính 2008 - 2009: là “thảm họa” kinh tế lớn nhất kể từ
Đại suy thoái 1929. Nguyên nhân xuất phát từ việc bong bóng giá nhà được
hình thành từ năm 2006 vỡ tung, tạo nên những đống nợ xấu khổng lồ, đánh
sập hoạt động của các nhà băng vốn đang ôm nhiều khoản vay được thế chấp
bằng bất động sản.
II.1.1.1. Tự do hóa tài chính
Các học thuyết tài chính đã đề cao tầm quan trọng của việc tự do hóa tài chính
trong việc thúc đẩy sự phát triển và tăng cường hiệu quả của hệ thống tài chính. Trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, chính phủ Hoa Kỳ thông qua đạo luật Gramm-Leach-
Bliley năm 2000 đã chấm dứt đạo luật Glass-Steagall, mở đường cho sự hợp nhất giữa
các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm.
Tự do hóa tài chính đã tạo ra một loạt các sản phẩm và công cụ tài chính mới,
như Chứng khoán hóa (MBS, CDO) và CDS (hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng),
mang lại cơ hội và tiềm năng lợi nhuận lớn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cùng với
những lợi ích đó, cũng tồn tại những rủi ro và tác động tiêu cực.
Một ví dụ là hoạt động mua bán khống, trong đó các nhà đầu tư tạo ra lợi
nhuận bằng cách bán chứng khoán mà họ không sở hữu, hy vọng rằng giá trị của
chúng sẽ giảm. Tuy nhiên, hoạt động này có thể gây ra sự không ổn định và tăng rủi
ro trong thị trường tài chính.
Ngoài ra, rủi ro đạo đức của các công ty định mức tín nhiệm cũng được đặt ra.
Trong quá trình đánh giá tín nhiệm của các công ty và sản phẩm tài chính, có thể xảy
ra việc đánh giá không chính xác hoặc thiếu minh bạch, dẫn đến sự mất độc lập và tin
cậy của hệ thống.
Tóm lại, việc tự do hóa tài chính đã mang lại nhiều cơ hội và tiềm năng phát
triển cho hệ thống tài chính. Tuy nhiên, cần phải thận trọng và đảm bảo sự minh bạch,
7
đạo đức và quản lý rủi ro để đảm bảo sự ổn định và bền vững của hệ thống tài chính
toàn cầu.
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu về sản phẩm MBS (mortgage-backed security -
chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp ), là sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bằng
các khoản vay bất động sản có thế chấp. Nói một cách đơn giản, hợp đồng tài trợ xây
dựng của khách hàng được đóng gói và bán lại cho nhà đầu tư.
Nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, giá bất động sản giảm mạnh, người đi
vay không có khả năng trả nợ và khó khăn trong việc bán bất động sản để trả nợ. Do
đó, các tổ chức cho vay phải đối diện với nguy cơ mất vốn. Ngoài ra các hợp đồng cho
vay bất động sản dùng để đảm bảo cho chứng khoán MBS là nợ khó đòi nên chứng
khoán MBS mất giá trị trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm
giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn rơi vào tình trạng khó khăn về
tính thanh khoản. Đến một mức nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng
sức ép của thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên buộc tìm sự cứu trợ từ nhiều nguồn
và tệ nhất phải đệ đơn phá sản. Do có sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức
chứng khoán hoá đã dẫn tới sự sụp đổ có hệ thống - theo dây chuyền.
Nhân tố tiếp theo góp phần gây ra
cuộc khủng hoảng là CDS (Credit default
swap - Thanh khoản nợ xấu ) do các công
ty bảo hiểm tạo ra để phòng ngừa rủi ro
cho các khoản vay. Các công ty tài chính
và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả
tiền bảo hiểm theo các hợp đồng bảo
hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ
chức này bán ra. Ước tình nước Mỹ có
khoang 35000 tỷ USD tiền bảo hiểm và
trên toàn thế giới là khoảng 54600 tỷ
USD ( theo ước tính của “
International Swap and Derivatives association “ ). Tập đoàn tài chính hàng đầu thế
giới AIG bị đổ vỡ, một phần do đầu tư vào MBS và phần lớn là các hợp đồng CDS.
Nếu không có sự giải cứu kịp thời cho thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS
sẽ tàn phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Thêm vào đó, ở giai đoạn này, CDO (Collateralized Debt Obligation- Nghĩa vụ
nợ được thế chấp). CDS- một sản phẩm tài chính có cấu trúc phức tạp, được đảm bảo
8
Hnh 2 - Sơ đồ minh hoạ các giao dịch nhà đất ( Nguồn: Crosses )
bởi một nhóm các khoản vay và các tài sản khác và được bán cho các nhà đầu tư tổ
chức đã tăng gần gấp 10 lần, từ 30 tỷ USD năm 2003 lên 225 tỷ USD năm 2006.
Nhưng sự sụp đổ sau đó của chúng, do chính sách điều chỉnh nhà ở của Hoa Kỳ gây
ra, đã khiến CDO trở thành một trong những tổ chức hoạt động tồi tệ nhất trong cuộc
khủng hoảng thế chấp. Bắt đầu vào năm 2007 và đạt đỉnh điểm vào năm 2009. Bong
bóng CDO đã gây ra tổn thất hàng trăm tỷ đô la cho một số công ty dịch vụ tài chính
lớn nhất. Những tổn thất này dẫn đến việc các ngân hàng đầu tư phá sản hoặc phải giải
cứu nhờ sự can thiệp của chính phủ, và trong thời kỳ này đã góp phần làm leo thang
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cuộc Đại suy thoái.
Tính đến 7/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên 435 tỷ USD. Và
không một ai có thể chắc chắn về giá trị đích thực của các khoản đầu tư tài chính - bất
động sản được ước tính là hàng ngàn tỷ đô vẫn còn nằm trên sổ sách tài chính - ngân
hàng.
II.1.1.2. Bùng nổ tín dụng
Trong bối cảnh chung của các nước trên thế giới thực hiện các chính sách tự
do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong
một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc khủng hoảng của các
công ty công nghệ thông tin năm 2000 và sự kiện khủng bố Trung tâm thương
mại quốc tế WTC vào ngày 11/9/2001 cùng với dòng chảy vốn mua trái phiếu
chính phủ Mỹ từ các nước phát triển ở Châu Á và OPEC, FED đã điều chỉnh
hạ liên tục lãi suất cơ bản từ 6,5% xuống mức thấp kỷ lục là 1% vào năm
2003. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng USD rẻ) đã kích thích
người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu
tư mạo hiểm.
Ta thể hiểu thêm : Ngân hàng Nhà NướcChính sách nới lỏng tiền tệ
(NHNN) s bơm tiền vào thị trường để mở rộng nguồn cung tiền, tăng cung ứng tiền
vào lưu thông. Điều này nhằm mục đích hạ lãi suất để kích cầu chi tiêu của người dân.
Từ đó dẫn đến việc kích cầu sản xuất, mở rộng quy kinh doanh giảm tỷ lệ thất
nghiệp.Bởi vì nền kinh tế hoạt động theo chu kỳ kinh doanh, trong đó suy thoái, phục
hồi mở rộng một phần của biến động kinh tế mang tính chu kỳ, nên thông
thường những thay đổi chính sách sẽ tương ứng với những thay đổi trong GDP thực tế
và lạm phát.
9
Ngược lại với việc thắt chặt chính sách tiền tệ nới lỏng tiền tệ. Hai chính
sách tiền tệ này được thực hiện luân phiên nhằm duy trì sự ổn định tài chính tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Trong hai chính sách, chính sách tiền tệ nới lỏng được
xem là cách để các nhà hoạch định chính sách kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái bằng
cách bơm vốn vào nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tín dụng mở rộng, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp giảm sau các
bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom, khủng hoảng dot.com và các chính phủ
cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay vốn bên ngoài. Sự
mất cân đối giữa cung cầu vốn dẫn đến nguồn vốn thừa, thị trường không sử
dụng hiệu quả. Các Subprime-mortgage - khoản cho vay dưới chuẩn giải pháp
nhằm giải quyết vấn đề thừa vốn từ đó tối đa hóa lợi nhuận. Nợ dưới chuẩn
được hiểu là khoản vay cho các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những người đi vay
này thường người nghèo, không công việc ổn định, địa vị hội thấp hoặc
trước đây có tín dụng mập mờ không minh bạch. Những cá nhân này tiềm ẩn nguy
không có khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn và do đó gặp khó khăn trong việc
tiếp cận các nguồn vốn tín dụng truyền thống chỉ dành cho những người trên tiêu
chuẩn .Vì vậy, nợ dưới chuẩn rủi ro tín dụng rất cao nhưng lại lãi suất hấp dẫn.
Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được áp dụng cho các sản phẩm cho vay thế chấp, thế chấp trả
góp ô tô, thẻ tín dụng , v.v. Các khoản cho vay dưới chuẩn chủ yếu là người nhập cư.
II.1.1.3. Bong bóng bất động sản Vào giữa năm 2006, khi Ngân hàng Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất đề phòng lạm phát, lãi suất của các khoản vay dưới
chuẩn bắt đầu tăng theo (do các hợp đồng vay đa số là các khoản vay theo lãi suất điều
chỉnh), người dân mất khả năng thanh toán, ngânng mất khả năng thanh khoản dẫn
đến sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống tài chính và bất động sản.
Bong bóng bất động sản cùng với sự giám sát tài chính chưa đầy đủ của Hoa
Kỳ đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính nước này từ năm 2007 trở nên trầm
trọng hơn kể từ cuối năm 2008 tại nhiều quốc gia. Cuộc khủng hoảng Mỹ đã lan
rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn đến vụ phá sản tài chính, suy thoái kinh tế và làm
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ điểm khởi đầu trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong
bóng nhà đất vỡ vào cuối năm 2005, nền kinh tế Mỹ bắt đầu chậm lại. Tuy nhiên,
bong bóng vỡ đã dẫn đến việc các nhà đầu tư bất động sản cho các tổ chức tài chính
nước này vỡ nợ. Vào giữa năm 2007, các tổ chức tài chính đầu tiên của Mỹ liên quan
đến khoản cho vay mua nhà thứ hai đã thất bại. Giá cổ phiếu Mỹ dần bắt đầu giảm. Sự
10
sụp đổ tài chính lên đến đỉnh điểm vào 10/2008, khi ngay cả những ngân hàng khổng
lồ và lâu đời đã sống sót sau các cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế trước đó như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, v.v. cũng gặp rắc rối. Sự thiếu hụt
tín dụng nổi lên cũng khiến khu vực kinh tế thực của Mỹ rơi vào tình thế khó khăn,
điển hình là cuộc khủng hoảng của ngành ô tô Mỹ từ năm 2008 đến năm 2010. Chỉ số
bình quân công nghiệp Dow Jones đóng cửa ngày 9/3/2009 ở mức 6.547,05, mức thấp
nhất kể từ tháng 4. 1997. Chỉ trong sáu tuần, chỉ số này đã giảm 20%.
Hnh 3 - Biểu đồ giá nhà Mỹ giai đoạn suy thoái kinh tế ( Nguồn: cafebiz.vn )
Các khoản cho vay dưới chuẩn bảo đảm bằng bất động sản rất phổ biến và phát
triển mạnh do lãi suất thấp, dễ tiếp cận vốn và niềm tin rằng giá bất động sản sẽ không
giảm. Nhu cầu nhà lớn cộng với kỳ vọng giá nhà đất tăng cao đã khiến giá nhà đất
tăng vọt. Theo chỉ số S&P (chỉ số chứng khoán được dựa trên vốn hóa của 500 công
ty đại chúng lớn nhất nước Mỹ) giá nhà tăng khoảng 8,3% từ quý 1 năm 1990 đến
quý 1 năm 1997. Kể từ đó, giá nhà đất tăng mạnh, đạt đỉnh điểm vào quý 2 năm 2006,
khi giá bất động sản tăng hơn 132% so với quý 1 năm 1997. Bong bóng bất động sản
ngày càng lớn.
Người cho vay tin tưởng rằng họ có thể thu hồi vốn vay thông qua việc tịch thu
tài sản nếu người đi vay không có khả năng trả nợ nên cho vay dưới chuẩn cũng được
coi là một hình thức cho vay an toàn. Kết quả là, nhiều sản phẩm thế chấp dưới chuẩn
đã được giao dịch trong giai đoạn trước khủng hoảng năm 2008 (bao gồm các khoản
thế chấp lãi suất điều chỉnh ARM, quyền chọn ARM, các khoản vay trả dần...)
tất cả đều yêu cầu người đi vay sử dụng bất động sản mình ý định giao dịch
làm tài sản ký quỹ. Khả năng giá cả nhà đất tiếp tục gia tăng khiến các khoản vay trở
11
nên phát triển. Năm 2006, gần 20% các khoản vay thế chấp cấp dưới chuẩn
80% các khoản thế chấp cấp được chứng khoán hóa. Việc chứng khoán hóa các
khoản vay dưới chuẩn không chỉ góp phần đáng kể vào sự phát triển của bong bóng
nhà đất ở Mỹ mà còn nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tài chính khi giá
bất động sản bắt đầu giảm. Lợi nhuận cao cùng với lòng tham đã dẫn đến việc lạm
dụng các khoản vay dưới chuẩn.Các quy trình thẩm định được thực hiện bởi các nhân
viên cho vay cực kỳ lỏng lẻo việc tiếp cận vốn vay để mua nhà trở nên nhanh
chóng dễ dàng hơn bao giờ hết. Cho vay thế chấp dưới chuẩn lan truyền nhanh
chóng khắp nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh. Đối mặt với nguy lạm phát,
FED bắt đầu ng lãi suất để khiến nhu cầu vay dưới chuẩn giảm mạnh. Lãi suất thay
đổi người đi vay phải chịu sẽ tăng theo mức tăng của lãi suất bản. vậy,
người đi vay buộc phải trả lãi suất cao mà không thể cơ cấu lại khoản vay thông qua
việc gia hạn nợ bắt đầu mất khả năng thanh toán, rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Bởi nhiều người mua nhà không khả năng trả nợ nên các khoản nợ
của họ bị tịch thu và tài sản của họ bị bán.
Cleveland, Ohio là thành phố đầu tiên gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế.
Khoảng 1/10 ngôi nhà ở Cleveland đã được thu hồi để bán.Những người nhập cư mơ
ước mua nhà trở về tay trắng. Giá bất động sản ở Mỹ giảm mạnh trong quý 3 năm
2007, xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930.
(Kinh Tế Mỹ 13 Năm Nhìn Lại Sau Thảm Họa 11/9, 2014)
II.1.2. Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng tài chính, bắt đầu Mỹ như một vụ tràn dầu trên khắp thế
giới, chưa dừng lại biên giới của một quốc gia duy nhất đang phủ bóng đen lên
nền kinh tế toàn cầu vốn đã trì trệ trong nhiều năm. Vấn đề bị ảnh hưởng nhiều nhất
hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
II.1.2.1. Hệ thống tài chính - ngân hàng
Năm 2008 - giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài với sự sụp đổ hàng
loạt các ngân hàng lớn lâu đời. Cùng việc người dân mất niềm tin vào nền kinh tế
đã làm cho Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng vô cùng nghiêm trọng.
Ngày 16/03/2008, Bear
Stearn - một trong năm ngân
hàng hàng đầu của Mỹ, phải
chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại. đã bị sang tay” cho ngân hàng JP
Morgan Chase với mức giá “rẻ như bèo” xấp xỉ 240 triệu USD, tương đương 2
USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường trước thời điểm
mua.
Việc ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Stearn và buộc
lòng để công ty này bị bán với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực của
Chính phủ viện trợ các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stearn đã
đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Ngày 11/7/2008, InDyMac - ngân hàng cho vay địa ốc hàng đầu đã bị Uỷ ban
giám sát tiết kiệm đóng cửa và chuyển giao cho tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang
(FDIC)
Ngày 7/9/2008, để tiếp quản Fannie Mae và Freddie, chính phủ Mỹ chi 200 tỷ
USD thông qua cổ phiếu ưu đãi để giữ cho các công ty này không bị phá sản
Fannie Mae Freddie Mac - hai hãng cho vay thế chấp lớn nhất tại Mỹ, bảo
lãnh cho số bất động sản lên đến 5000 tỷ USD trên toàn nước Mỹ chiếm 50% thị
trường. . Sự kiện này nổ ra đã tạo nên cơn địa chấn tài chính thực sự.
Ngày 14/9/2008, Bank of America đồng ý mua hãng đầu tài chính Merrill
Lynch - ngân hàng đầu 94 năm lịch sử với giá 50 tỷ USD. Với vụ bán lại này,
Merrill vừa tránh được nguy cơ phá sản, vừa tránh được nguy cơ bị “ép giá” như Bear
Stearns một khi tình hình trở nên tệ hơn.
Ngày 15/9/2008, sau những nỗ lực huy động vốn thất bại do chính phủ Mỹ từ
chối cứu giúp, Lehman brothers - ngân hàng đầu hàng đầu thế giới với 158 năm
lịch sử tuyên bố phá sản.
Tổng tiền nợ của Lehman Brothers lên đến 768 tỷ USD ( gồm 613 tỷ USD nợ
ngân hàng 155 tỷ USD nợ trái phiếu). Sự phá sản của Lehman Brothers những
sự kiện diễn ra trước đó đánh dấu sự leo thang của cuộc khủng hoảng tài chính và theo
các chuyên gia đánh giá là tồi tệ nhất sau cuộc Đại khủng suy thoái kinh tế năm 1930.
13
Hnh 5 - Nhân viên Lehman Brothers rời ngân hàng vào ngày thông báo phá sản ( Nguồn : AP, Reuters )
Ngày 26/9/2008, ngân hàng
Washington Mutual - ngân
hàng tiết kiệm lớn nhất nước
Mỹ được chính phủ tiếp quản.
Và sau đó lại qua tay JP
Morgan Chase với giá 1,9 tỷ
USD. Washington Mutual là
vụ phá sản ngân hàng lớn nhất
trong lịch sử , tổng thiệt hại
lên tới 307 tỷ USD.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối trên Wall Street khi chỉ số Dow
Jone tụt 25% giá trị sau một tháng từ 15/9/2008. Từ giai đoạn này, biến động tại Wall
Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng
chục năm đã bị phá sản.
14
Hnh 6 - Tháng 12/2010, chiếc biển Lehman Brothers được mua với giá
42.050 bảng trong một phiên đấu giá các tài sản tại Christie’s ( Nguồn: Oll
Scarff )
II.1.2.2 Thị trường chứng khoán
Chứng khoán Mỹ sụt giảm mạnh dẫn đến chứng khoán châu Á và châu Âu sụt
giảm. Các thị trường chứng khoán lớn toàn cầu như New York, London, Paris và
Tokyo đều trải qua những đợt sụt giảm lịch sử.
Tại Châu Á, lợi nhuận trên tất cả các thị trường đã giảm từ 40,7% xuống 65,9%
và hàng nghìn tỷ đô la đã bị xóa sổ khỏi thị trường. Chỉ số Sensex (Ấn Độ) giảm
3,4%, Taiwan Bankmark (Đài Loan) giảm 4,1%, Singapore giảm 3,2%, chỉ số KOSPI
của Hàn Quốc có mức giảm thấp nhất (-40,7%), trong đó VN-Index của Việt Nam và
Shanghai Composite Index của Trung Quốc có mức giảm lớn nhất so với thị trường so
sánh. So sánh, giá trị giảm hơn 65%. Nhật Bản có hệ thống tài chính tương đối ổn
định và trải qua thời kỳ tái cơ cấu sau cuộc khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ vẫn gây ra tình trạng hỗn loạn trên
thị trường chứng khoán nước này. Chỉ số trung bình chứng khoán Nikkei giảm xuống
42,1%, mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1990 (-39%).
Hnh 7 - Biểu đồ tăng/ giảm của một số chứng khoán tiêu biểu ( Nguồn: VnEconomy)
Tại thị trường châu Âu, chỉ số Dow Jones có lúc đã giảm 42% giá trị trước khi
có sự phục hồi và giảm 34,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số S&P 500 giảm 39,3%
giá trị. Chỉ số Nasdaq hạ 41,5%. Chỉ số CAC 40 của Pháp đã giảm mạnh nhất (-42%)
và chỉ số FTSE
100 của Anh giảm ít nhất (31,5%). Chỉ số DAX của Đức đã giảm 39,5%.
15
II. Quả bom nổ chậm: Những dấu hiệu trước giờ G và hành động của
chính phủ
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)
Trong khi kinh tế Mỹ năm 2006 có nhiều điểm sáng, cũng có một số vấn
đề và thách thức đối mặt. Dưới đây là một số điểm thất bại và đi xuống trong kinh tế
Mỹ năm 2006: khủng hoảng thị trường nhà ở, tăng nợ cá nhân, thâm hụt ngân sách,
tăng trưởng nợ công, thương mại thâm hụt. Những điều này góp phần vào sự không
ổn định và tiềm ẩn những thách thức trong tương lai. Những điểm yếu này đã tạo ra
những thách thức và đặt nền tảng cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra từ
năm 2007.
II.2.1. Hậu quả
Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Những vấn đề trong thị trường nhà ở và thị
trường tài chính Mỹ năm 2006 đã trở thành nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Sự suy yếu và suy thoái trong thị trường nhà ở đã
lan rộng sang các ngân hàng và tổ chức tài chính, gây ra sự sụp đổ của các công ty tài
chính, sự mất trắng dự trữ và sự không ổn định toàn cầu. Suy thoái kinh tế: Khủng
hoảng tài chính đã lan rộng thành một suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Mỹ đã chịu
ảnh hưởng nặng nề từ cuộc suy thoái, với sự giảm giá trị tài sản, tăng mức thất nghiệp,
giảm sản xuất và sụt giảm các chỉ số kinh tế quan trọng. Mất đi việc làm và tăng mức
thất nghiệp: Suy thoái kinh tế đã dẫn đến mất đi hàng triệu việc làm và tăng mức thất
nghiệp. Doanh nghiệp giảm sản xuất và cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, gây ra
sự không ổn định trong thị trường lao động và gây khó khăn cho người lao động. Mất
mát tài sản và tài chính cá nhân: Giá trị nhà ở và tài sản cá nhân đã giảm mạnh trong
suy thoái kinh tế, gây ra mất mát tài chính đáng kể cho các gia đình và cá nhân. Nhiều
người đã mất nhà, tài sản giảm giá và phải đối mặt với tình trạng nợ nần. Tác động xã
hội: Tăng mức thất nghiệp, mất đi việc làm và khó khăn tài chính đã tạo ra căng thẳng
và không ổn định trong xã hội, sự suy thoái kinh tế cũng đã gây ra sự suy giảm trong
chất lượng cuộc sống và tăng lên những khó khăn xã hội như tăng cường không an
ninh và thảm họa tài chính cá nhân.
II.2.2. Hành động của chính phủ:
Thị trường nhà ở và thị trường tài chính: Chính phủ đã đưa ra các biện pháp để
ổn định thị trường nhà ở và thị trường tài chính. Điều này bao gồm việc tăng cường
quản lý tín dụng và quy định ngân hàng, đồng thời cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng và tổ chức tài chính gặp khó khăn. Chính sách tài khóa: Chính phủ đã
đề ra các chính sách tài khóa nhằm giảm thiểu thâm hụt ngân sách và tăng cường quản
lý nợ công. Điều này có thể bao gồm kiểm soát chi tiêu công cộng, tăng thuế và cắt
16
giảm các chương trình chi tiêu không cần thiết. Chính sách thương mại: Chính phủ đã
áp dụng các biện pháp để đối phó với thâm hụt thương mại, bao gồm việc thương
lượng các thỏa thuận thương mại hai chiều, thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích đầu
tư nước ngoài Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve)
đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt để ổn định nền kinh tế. Điều này bao gồm
điều chỉnh lãi suất để kiểm soát lạm phát và khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Chính
sách kích thích kinh tế: Chính phủ có thể áp dụng các chính sách kích thích kinh tế để
tăng cường chi tiêu và đẩy mạnh hoạt động kinh tế. Điều này có thể bao gồm việc
cung cấp gói kích thích tài chính hoặc giảm thuế để tăng cường tiêu dùng và đầu tư
II.2.2.1. Sâu hơn về mặt kinh tế:
Giảm lãi suất: FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng
kinh tế và khuyến khích việc cho vay. Mục tiêu của việc giảm lãi suất là tạo động lực
cho các doanh nghiệp và cá nhân mượn tiền để đầu tư và tiêu dùng, từ đó thúc đẩy
hoạt động kinh tế. Mở rộng chính sách tiền tệ: FED đã thực hiện một loạt các biện
pháp mở rộng chính sách tiền tệ, như mua lại trái phiếu chính phủ và tài sản tài chính
khác. Mục tiêu của chính sách này là cung cấp thanh khoản cho các thị trường tài
chính và giúp duy trì sự ổn định tài chính.
Quản lý rủi ro: FED đã tăng cường quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính bằng
cách đưa ra các biện pháp quản lý tín dụng và yêu cầu các ngân hàng tuân thủ các quy
định tài chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro trong hệ thống tài chính và đảm bảo sự ổn
định. Tăng cường giám sát và quy định: FED đã tăng cường giám sát và quy định các
tổ chức tài chính để đảm bảo tuân thủ các quy tắc và quy định trong hoạt động tài
chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro và tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm của
các tổ chức tài chính.
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:
Bảo vệ sự ổn định tài chính; Bảo vệ việc làm và tăng trưởng kinh tế; Bảo vệ lợi
ích của người dân và các doanh nghiệp;Ngăn chặn lan rộng của khủng hoảng. Và do
bài học từ quá khứ: Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 đã làm rõ những rủi
ro và điểm yếu trong hệ thống tài chính và kinh tế. Chính phủ đã học từ những bài học
đắt giá này và đưa ra những biện pháp để cải thiện quản lý rủi ro, tăng cường quản lý
tài chính và đảm bảo sự ổn định hơn cho kinh tế trong tương lai ( 2006)Tuổi trẻ,
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện:
Tạo ra các bong bóng tài chính: Việc cắt giảm lãi suất và mở rộng chính sách
tiền tệ có thể tạo ra các bong bóng tài chính, như bong bóng thị trường nhà ở và thị
trường tài chính. Thiếu quản lý rủi ro hiệu quả: Một số người cho rằng FED không
17
thực hiện đủ công việc quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính. Các quy định và giám
sát không đủ mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi rủi ro và lạm phát trong các tổ chức
tài chính
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh
tế Mỹ nói riêng và thế giới nói chung sụp đổ.
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
Cuộc khủng hoảng mở đầu bằng hàng loạt những sự kiện như là: Sự bùng nổ
của bong bóng nhà đất tại Mỹ hay,sự sụp đổ của loạt ngân hàng đầu thương mại
lớn, cùng những tổ chức, nhân cho vay cầm cố. Khủng hoảng trên đã khiến nhiều
cơ sở kinh doanh đình trệ, hàng triệu người thất nghiệp, trở thành gia cơ. Kéo theo
đó là hàng loạt ngân hàng lâu năm của Mỹ rơi vào bế tắc rồi phá sản.
Từ quyết định của chính phủ dẫn đến cả nền kinh tế bị sụp đổ.
Bắt đầu từ thị trường bất động sản tại Mỹ, khi họ bắt đầu đưa ra các
khoản vay thế chấp mạo hiểm để giải cứu người mua nhà đất. Đặc
biệt hơn cả các khoản vay dành cho nhóm khách hàng thu
nhập thấp, rủi ro cho vay rất cao. Ngay khi nhận ra thấy những dấu
hiệu bất thường, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh chóng triển khai các
gói cứu trợ kèm theo các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ
nhằm ngăn chặn suy thoái, tuy nhiên, tất cả đã quá muộn. Ngay khi
có dấu hiệu khủng hoảng tín dụng nhà ở, Fed đã bắt đầu hạ lãi suất
và tăng mua MBS. Vào ngày 8/2007, Fed tiếp tục tiến hành các biện
pháp nới lỏng tiền tệ: lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã
được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa
đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Chưa dừng lại đó, 13/2/2008,
chính phủ Mỹ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị g
168 tỷ dollar. Sau đấy ít lâu, vào ngày 3/10/2008, tổng thống Bush
sắc lệnh qua đó cho phép sử dụng gói kích thích 700 tỷ dollar.
Đến 17/2/2009, Barack Obama đạo luật cho phép chính phủ s
dụng gói kích thích thứ 2 kể từ đợt khủng hoảng, gói kích thích này
trị giá lên đến 787 tỷ dollar. Mặc đã ra sức ngăn chặn nhưng
những nỗ lực của Chính phủ Mỹ dường như không đủ, khủng
hoảng vẫn nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới.
18
Hnh 8 – Bảng cân đối của FED trong khoảng thời gian 2007-2023 (Nguồn: vnexpress)
Hệ quả hệ quả kéo theo từ cuộc đại suy thoái của Mỹ cùng lớn. Hàng
triệu gia đình mất nơi ăn chốn ở, các skinh doanh thì bị đình trệ, không việc.
Thêm đó, con số lên đến 30 triệu công nhân mất việc, thất nghiệp kéo dài, vô số người
đột nhiên trở nên nghèo đói. Cùng với đó 10,000 tỷ đô la Mỹ bị cuốn trôi mất….
Tháng 10 năm 2008: hàng loạt những ngân hàng khổng lồ lâu đời từng sống sót
qua những cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế trước đây, như Lehman Brothers,
Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn.
Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ
cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô
Hoa Kỳ 2008-2010. 15/9/2008, Lehman Brothers ngân hàng 160 năm tuổi, một
trong năm định chế tài chính cho vay lớn nhất nước Mỹ khi đó đã phải tuyên bố phá
sản.
Điều này đã dấy lên những nhận định, giả thuyết thể nói đây chính
một trong những tín hiệu đầu tiên báo trước cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh giá
là "tồi tệ nhất nhất trong lịch sử", là cột mốc cho sự sụp đổ của ngành công nghiệp tài
chính của Mỹ - nguyên nhân chính đẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn đen tối.
Tuy nhiên, Lehman
Brothers cũng chỉ một trong
những quân cờ Domino bị sụp đổ
trong một phản ứng dây chuyền
Hnh 9 - Tờ báo The Philadelphia Unquirer đăng tin về chỉ số Dow Jones
iả kỷ l t lị h (N I t t)
đầu năm 2008. Vào ngày 16/3/2008, Bear Stearns - một trong năm ngân hàng đầu
lớn nhất phố Wall - cũng phải cầu cứu và được JPMorgan Chase mua lại với khoản hỗ
trợ 30 tỷ USD từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Chính phủ Mỹ thông qua khoản cứu trợ 200 tỷ USD nhằm mục đích cứu
Freddie Mac Fannie Mae - hai nhà cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, không bị
phá sản cứu AIG - một trong ba công ty bảo hiểm lớn nhất bằng việc tung ra 85 tỷ
USD để mua 80% cổ phần. Những gói cứu trợ hàng trăm tỷ USD được đưa ra sau đó
như một nỗ lực để giảm bớt ảnh hưởng của đợt khủng hoảng nhưng cũng chỉ cứu vãn
phần nào.
Sự sụp đổ của ngân hàng đầu lâu đời của Mỹ mở đầu cho đợt bán tháo lớn
nhất trong lịch sử; sàn giao dịch chứng khoán London, bắt đầu phiên giao dịch ngày
15/9, chỉ số FTSE giảm 56,5 điểm cơ bản. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên mức 10%, cao
nhất kể từ Đại suy thoái: Khoảng 30 triệu người đã mất việc do ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng, 50 triệu người quay lại ngưỡng dưới nghèo với ước tính thiệt hại
khoảng 10.000 tỷ USD.
Hnh 10 - Giao dịch chứng khoán phiên sáng 15/06/2008
Nouriel Roubini-Chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế đã
nhận định rằng: "Nếu bạn nhìn vào cái giá phải trả thì đây thực sự cuộc khủng
hoảng cực kỳ, cực kỳ đắt tiền".
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':
Trước đây, khi một người cần khoản tiền để mua nhà, quan hệ tài chính sẽ
được hình thành giữa người đi vay người cho vay - chỉ duy nhất hai chủ thể này.
Tuy nhiên với sự xuất hiện của CDO, sẽ có thêm những cái tên khác xuất hiện.
20
Những khoản nợ vay thế chấp sẽ được bên cho vay bán lại cho các ngân hàng
đầu tư. Các ngân hàng y gộp những khoản nợ lại thành các CDO bán ra thị
trường. Người mua CDO sẽngười cuối cùng hưởng khoản thanh toán từ người vay
thế chấp ban đầu. Các công ty bảo hiểm tham gia với vai trò bảo đảm rủi ro, sau khi
các CDO này được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng.
Tất cả thành phần trong ngành công nghiệp tài chính đều thể tham gia vào
"chuỗi thức ăn chứng khoán" được định giá hàng nghìn tỷ USD này. Tuy nhiên, đó
cũng là lúc những lỗ hổng xuất hiện.
Khi các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản không còn quan tâm tới khả
năng chi trả của khách hàng, những khoản vay trở nên rủi ro với tiêu chuẩn dễ i
hơn. Các ngân hàng đầu tư, thay vì dành lợi nhuận để dự phòng rủi ro, lại chi ra hàng
tỷ USD để thưởng cho ban lãnh đạo, những thành viên tham gia khoản lợi nhuận
ngắn hạn đột biến. Các công ty xếp hạng tín nhiệm cho những CDO đánh đồng các
khoản vay thế chấp khác nhau, đa phần xếp mức AAA - ngang mức độ tín nhiệm
của trái phiếu chính phủ Mỹ. Còn các công ty bảo hiểm tin tưởng những công c tài
chính mới "không thể bị vỡ nợ".
Khi không còn ai quan tâm đến chất lượng khoản vay, nợ cho vay thế chấp
bất động sản của Mỹ đã tăng với tốc độ chóng mặt. Từ 160 tỷ USD của năm 2001, dư
nợ thế chấp tăng lên 540 tỷ vào năm 2004 bùng nổ lên 1.300 tỷ USD vào m
2007. Ước tính đến cuối quý III/2008, n một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ
tiền đi vay, với 1/3 các khoản này là nợ khó đòi.
III.2. Hậu quả của khủng hoảng lên các quốc gia
III.2.1. Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2007 với nhiều thu hoạch khả quan và tích cực.
Mức thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt kỷ lục 17,8 tỉ USD. Bên cạnh
đó, tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%. Thị trường chứng khoán tăng mạnh với chỉ số Vn-
Index thường xuyên trên ngưỡng 1.000 điểm kể từ nửa cuối tháng 1-2007 cho đến
giữa tháng 11-200. Cuối 2007, Vn-Index đạt trên 900 điểm.
21
Hnh 11 – Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007 – 2021
Tác động từ cuộc khủng hoảng:
Tín dụng vấn đề thanh toán của ngân hàng một trong những vấn đề nhức
nhối thười điểm đó. Đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã theo đuổi chính
sách tiền tệ thắt chặt. Những động thái đầu tiên được thực thi trong quý I-2008: Quy
định tỷ lệ nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ giá để đầu kinh doanh chứng
khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Tăng lãi suất cơ bản lên
mức 8,75%/năm phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc. Những điều đó đã
gây ra “cú sốc” với nền kinh tế nước nhà.
Từ tháng 4 đến tháng 7-2008 diễn ra sự biến động mạnh mẽ trong tương quan
giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ (USD). Điển hình như tỷ giá trên thị trường tự do
tỷ giá bình quân ngân hàng mức chênh lệch rất lớn. Khoảng cuối tháng 3, đầu
tháng 4-2008, nhu cầu sử dụng USD rất thấp. Tỷ giá tự do thấp hơn tỷ giá niêm yết
chính thức. Từ đầu tháng 5 cho đến nửa cuối tháng 6-2008, giá USD trên thị trường tự
do có những lúc tăng cao đột biến. Khoảng cách giữa hai hình thức tỷ giá dao động từ
3.000 đồng đến 3.500 đồng/USD.
22
Hnh 12 - Tăng trưởng tín dụng, làm phát và giá dầu vào năm 2008 (Nguồn: mof.gov.vn)
Đầu cơ và biến động giá cả
Diễn biến phức tạp của giá dầu
mỏ cũng một hệ luỵ đến từ khủng
hoảng kinh tế. Mâu thuẫn địa - chính trị
ở một số khu vực dầu mỏ nhạy cảm trên
thế giới hoạt động tích cực của các
nhà đầu đã đẩy giá dầu thô tăng
mạnh trong suốt 6 tháng đầu năm 2008.
Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế thế
giới, dầu thô được giao dịch với giá 147
USD/thùng vào ngày 11-7-2008. Việc
giá nhiên liệu tăng cao đã khiến cho các nền kinh tế toàn cầu trong tình trạng báo động
đỏ về khủng hoảng năng lượng. Giá vàng lên xuống thất thường làm cho dân tình
không khỏi hoang mang. 2008, mức độ tăng giảm của giá vàng tương đối lớn. Khoảng
tháng 3/2008, chỉ số giá vàng liên tiếp tăng 11 13 điểm phần trăm. Đến tháng
5/2008, chỉ số giá vàng giảm tổng cộng 13 điểm phần trăm. Vào 7/2008, chỉ số giá
vàng tăng cao nhất trong 10 tháng đầu năm, ở mức 220,46 điểm phần trăm. Nhưng chỉ
hai tháng sau, 9/2008, chỉ số giá vàng lại tụt xuống 200 điểm. Việc giá vàng lên xuống
thất thường kéo theo giá xăng dầu liên tục biến động.
III.2.2. Iceland
Trước 2008, lãi suất bản của ngân hàng Trung ương Iceland đã n đến
15,5%, thế là tiền gửi tiết kiệm từ khắp châu Âu bắt đầu đổ vào các ngân hàng tư nhân
Iceland.Nhờ đó các ngân hàng căng mình ra nhận thêm tiền đầu từ các thị trường
23
Hnh 13 - Minh họa cho thị trường vàng nước Mỹ năm 2008
tài chính và từ đó bung ra mua sắm tài sản khắp thế giới - như mua lại các công ty, tài
sản nhà đất và cả các câu lạc bộ bóng đá. Tổng tài sản các ngân hàng Iceland nắm giữ
thời điểm đó lớn gấp 10 lần quy mô nền kinh tế quốc nội.
Đại khủng hoảng 2008 (Đại khủng hoảng 2008 tác động lên Iceland). Vào cuộc
đại khủng hoảng tài chính 2008, các ngân hàng trên khắp thế giới ngừng cho vay liên
ngân hàng lo ngại khó thu hồi vốn. Điều này khiến cho ba ông lớn ngân hàng
Iceland - gồm Kaupthing, Glitnir
Landsbanki - đã số nợ trị giá
gấp 6 lần tổng sản lượng hằng năm
của nền kinh tế đất nước. Không
nằm ngoài khả năng đã được dự
đoán trước, các ngân hàng đã nhanh
chóng sụp đổ. Nhưng thay can
thiệp, dùng tiền ngân sách để giải
cứu các ngân hàng như Mỹ Anh
đã làm, Chính phủ Ireland đã để cho
các ngân hàng phá sản. Chính phủ
của Thủ tướng Geir Haarde đã cho
rằng: "Nền kinh tế Ireland quá nhỏ bé, quy mô không lớn và phức tạp bằng nền kinh tế
Anh, vì thế Iceland thể chịu đựng sự phá sản này.". Việc phá sản 3 ông lớn ngành
ngân hàng Iceland đã để lại những hệ lụy nhất định điển hình như o tháng 1/2009,
hàng ngàn người n xuống đường biểu tình, ném tuyết trứng thối để phản đối,
cũng là lúc Thủ tướng Haarde bị buộc tội trong một phiên tòa đặc biệt. Ông Haarde bị
buộc tội đã không làm hết trách nhiệm người đứng đầu chính phủ. Rốt cuộc Thủ
tướng Haarde buộc phải từ chức chính phủ của ông cũng sụp đổ theo. Đây cũng
chính là chính phủ đầu tiên trên thế giới phải ra đi do hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới.
III.2.3. Nga
Năm 2008, LB Nga đã tạo dựng được vị thế mới trên thế giới với những cột
mốc như lọt vào danh sách bảy nước phát triển nhất thế giới, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đạt mức tăng khoảng 6% (hơn 1.300 tỷ USD). Tổng thống Medvedev tuyên
bố LB Nga đã vững vàng vượt qua năm 2008 đầy khó khăn "một cách xứng đáng".
Thủ tướng Nga Putin cũng đánh giá cao kết quả phát triển kinh tế Nga. Cũng trong
năm 2008, ngành nông nghiệp Nga một vụ bội thu với 108 triệu tấn ngũ cốc (năm
2007 đạt 85 triệu tấn). Bên cạnh đó, sản lượng nông nghiệp tăng 10% vốn đầu
vào kinh tế cũng tăng 10%. Tiền lương trung bình của người lao động Nga tăng từ 10
đến 12% trong khi lạm phát dự tính tăng 13,5%.
24
Hnh 14 - Người dân Iceland biểu tình, chống đối những chính sách
của Thủ tướng Haarde vào tháng 1, năm 2009
Hnh 15 - GDP Liên bang Nga từ năm 1992 đến 2013
Sau đó, chính phủ Nga phải tập trung mọi nguồn lực để khắc phục hậu quả của
cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu(Nhân dân chính phủ Nga đối phó với
tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, 2009). Tỷ lệ lạm phát Nga tăng
đến hơn 13%, làm cho mức sống của người dân giảm sút. Thêm vào đó, đồng rúp mất
giá trầm trọng (từ 25 rúp/1 USD hồi đầu năm lên 29 rúp/1 USD vào cuối năm). Khủng
hoảng buộc Nhà nước phải bán ngoại tệ dự trữ quốc gia để duy trì tỷ giá đồng rúp,
khiến cho lượng dự trữ vàng-ngoại tệ của Nga giảm. Vào ngày 19 tháng 1, Chính phủ
Nga đã thông qua những biện pháp khẩn cấp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu đối với hệ thống tài chính và các xí nghiệp của
Nga.
III.2.4. Hy Lạp
Khủng hoảng nợ công Hy Lạp bắt đầu từ cuối năm 2009 đến khoảng tháng
4/2010, được xem như một phần của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu thời điểm đó.
(Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp trong bối cảnh đại suy thoái, 2019). Khủng hoảng
nợ tập trung trong ba năm (2009 - 2011) với những hệ lụy rất nghiêm trọng
Năm nguyên nhân chính gây ra sự bùng phát khủng hoảng nợ Chính phủ và sự
gia tăng đáng kể của chỉ tiêu nợ công/GDP trong năm 2009: Đầu tiên tăng trưởng
kinh tế sụt giảm và mức tiết kiệm trong nước thấp. Sau 2008, tốc độ tăng trưởng GDP
bắt đầu thấp hơn so với mức quan Thống Hy Lạp dự o. Mức tiết kiệm
trong nước thấp -> Chính phủ phải vay nợ nước ngoài, đầu tư nội địa phụ thuộc mạnh
mẽ vào các dòng vốn nước ngoài. Thứ hai phải kể đến sự thâm hụt ngân sách nặng nề,
mất cân đối tài khóa khổng lồ diễn ra trong suốt các năm từ 2004-2009 hay sản lượng
danh nghĩa tăng 40%, chi tiêu công tăng 87%. Tiếp đó là mức tăng của doanh thu thuế
25
chỉ mức 31%, mức chi tiêu chỉ được phép tăng 3,8% trong giai đoạn 2009-2013,
thấp hơn mức lạm phát dự kiến 6,9%). Chính phủ Hy Lạp đã phải đưa ra yêu cầu,
mục tiêu bắt buộc với nền kinh tế như tổng thu ngân sách theo kế hoạch sẽ tăng
31,5% từ năm 2009 - 2013, vậy, Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp thường xuyên
vượt quá mức 3% GDP cho phép của Liên minh châu Âu. Thứ ba, kỷ luật tài khóa
lỏng lẻo. -> Tuân thủ ngân sách được xem phải cải thiện mạnh mẽ trong tương lai.
Thứ tư, vào 2009, quá trình kiểm soát kinh tế được tiến hành tồi tệ, lỏng lẻo hơn mức
bình thường, nhất trong các đợt bầu cử chính trị. Để tăng cường kỷ luật tài khóa,
Chính phủ thực hiện một đợt cải cách mới tăng cường khả năng giám sát theo dõi
tốt hơn sự gia tăng trong các khoản thu và chi ngân sách ở cả chính quyền Trung ương
địa phương. Thứ năm, mức độ nợ công ngày càng gia tăng. Mức độ này xấu đi
trong năm 2009, do thâm hụt ngân sách cao hơn dự kiến, tỷ lệ nợ công/GDP đã không
giảm trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng ổn định (2000 - 2007). Chính phủ Hy Lạp
không còn nhiều hội để tiếp tục duy trì mức thâm hụt ngân sách ít ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế như những năm trước đó. Độ tin cậy trong thống kinh tế
không được đảm bảo: 2004 - 2009, Eurostat ghi nhận các số liệu thống kê tài khóa của
Hy Lạp được báo cáo là các con số này đã được điều chỉnh. Những điều đó đã dẫn
đến những khó khăn của nền kinh tế Hy Lạp như đà suy giảm của tăng trưởng kinh tế,
thâm hụt ngân sách kéo dài triền miên, nợ công ngày càng gia tăng, do Chính phủ chi
tiêu mạnh tay không tạo ra giá trị thật cho nền kinh tế hoàn thành nghĩa vụ nợ
và kỷ luật tài khóa lỏng lẻo, thông tin không minh bạch, nền kinh tế đã thiếu hụt trầm
trọng các động lực tăng trưởng. Mức thâm hụt ngân sách m 2009 được dự báo
12,7% GDP, cao hơn nhiều so với con số ước tính hiện tại của thị trường lúc đó
6,7% GDP, kéo theo nguy cơ vỡ nợ hàng loạt của các quốc gia trong khu vực châu Âu
trước sức ép của khủng hoảng i chính toàn cầu từ m 2008 nợ nước ngoài của
Hy Lạp quá cao. Đứng trước bất lợi chính phủ Hy Lạp đã những động thái vay nợ
như 10,6 tỷ USD vào tháng 01/2010, 6,7 tỷ USD vào tháng 3/2010, 2,07 tỷ USD vào
tháng 4/2010 với mức lãi suất cao con số còn n đến 71,8 tỷ USD bằng các thỏa
thuận trực tiếp với các nước tổ chức tài chính quốc tế để thanh toán các khoản lãi
và nợ gốc thời gian đáo hạn đến gần. Không nằm ngoài dự đoán, 23/04/2010, Hy
Lạp tuyên bố mất khả năng trả nợ và chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính từ Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) và các nước Eurozone.
26
Hnh 16 – Tnh hinh nợ công tại Hy Lạp từ năm 2011 đến 2014 (Nguồn: Trading Economics)
Thâm hụt ngân sách triền miên liên tục vay thêm nợ mới của Hy Lạp trong
giai đoạn 2009-2011 dẫn đến việc S&P, Moody’s Fitch liên tục hạ xếp hạng tín
dụng của trái phiếu chính phủ nước ngoài, có giai đoạn hạ xuống mức CCC. Theo đó,
lãi suất trái phiếu chính phủ tăng: 1998 - 2011, lãi suất trung bình của trái phiếu chính
phủ Hy Lạp 5,21% (mức cao nhất 11,39% vào thời điểm tháng 12/2010 mức
thấp nhất là 3,23% vào thời điểm tháng 9/2005).
IV. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ và toàn thế giới
IV.1. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ
IV.1.1. Biện pháp phục hồi của Mỹ
Để có được nền kinh tế đứng đầu thế giới như hiện tại Mỹ đã làm điều gì để
phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng? Cục Dự trữ Liên bang M đã tiến hành các
biện pháp nhằm tăng mức độ thanh khoản( mức độ linh hoạt của mộti sản bất kỳ
trong đó việc mua bán trên thị trường không làm thay đổi giá trị thị trường của tài sản
đó) của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào
các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ trái phiếu quan chính
phủ Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà ở. Tháng 9/ 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến
hành giảm lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống
4,75%. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã bơm 205 tỷ Dollar Mỹ vào
thị trường tín dụng để ng cao mức thanh khoản.Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng
hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn, những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều
chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính quy mô của khủng hoảng
cũng rộng hơn dự tính, tình trạng đói tín dụng trở nên ràng. Hệ thống dự trữ liên
bang cố giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 tháng 2/2008 nhưng
hiệu quả không như mong đợi.
27
trước tình căng thẳng của nền kinh tế, tất nhiên Fed phải sự vào
cuộc để giải cứu nền kinh tế Mỹ. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiến hành
các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể
lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn
2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn
tiếp tục giảm đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ
các tổ chức tài chính nước này có) hạ lãi suất tái chiết khấu. Fed được chính
phủ cho chủ trì chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có
kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất các tổ chức tài chính trả qua đấu
giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo
chương trình này.
Chính phủ cũng phải có những hành động để khắc phục tình trạng suy thoái
này. Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã Economic
Stimulus Act of 2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng
hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập nhân. Chính
phủ đã trình quốc hội thông qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ
do Đảng Dân chủ Hoa Kỳ chiếm đa số bác bỏ cho rằng không thể phí tiền để cứu
không được quá nhiều tổ chức tài chính gặp khó khăn. Song sau khi kế hoạch sử dụng
700 tỷ dollar được điều chỉnh sang hướng chi cho cả các chương trình phục vụ đông
đảo người dân nhằm kích thích tiêu dùng (như trợ giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ
dinh dưỡng cho người nghèo và người thu nhập thấp, phát triển cơ sở hạ tầng), qua đó
vực dậy nền kinh tế, nó đã được Thượng viện thông qua.
Cuối cùng là Barack Obama, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, sau khi trúng
cử đã nêu ra một chương trình kích thích kinh tế trong đó Hoa Kỳ sẽ tiến hành kích
cầu. Ông đã đưa ra những dự án phát triển cơ sở hạ tầng chưa từng có kể từ thập niên
1950. Nâng cấp hệ thống s dụng năng lượng của các văn phòng quan chính phủ
Hoa Kỳ theo hướng tiết kiệm năng lượng; đầu tư lớn cho phát triển công nghệ nhất
thông tin y tế điện tử, hệ thống máy tính cho các trường phổ thông và phát triển mạng
Internet băng thông rộng. Cấp thêm ngân sách cho Chương trình bảo hiểm y tế
(Medicare). Cấp thêm 50 tỷ dollar ngoài khoản 20 tỷ dollar đã được đồng ý cho ngành
công nghiệp ô tô với điều kiện là ngành này phải cải tổ đáng kể.
IV.1.2. Sự phục hồi
Sau khủng hoảng nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi vào tháng 6 năm 2009
28
Hnh 17 - Tăng trưởng GDP thực của Hoa Kỳ (Nguồn: Cục Phân tích Kinh tế Mỹ)
Từ cuối năm 2009 đến năm 2010 GDP thực tế tăng lên với tốc độ hàng năm
2,4%. Năm 2010 tuy ít chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng nhưng nền
kinh tế phục hồi khá chậm trong khi tỷ lệ thất nghiệp là 10% trong suốt năm. Ngoài ra
do phải đối mặt với nợ công cao thâm hụt ngân sách trầm trọng, bị trói tay do
không kiểm soát được Hạ viện nên chính quyền Obama không thể đưa ra gói kích cầu
mới có ý nghĩa hơn, Cục dự trữ Liên bang Mỹ phải tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ
nới lỏng để vực dậy nền kinh tế và đối phó với tình trạng thất nghiệp cao. Năm 2011,
tăng trưởng củamức thấp và đã chậm lại so với 2010. Tăng trưởng chủ yếu do
tiêu dùng cá nhân vào những tháng cuối năm nhưng chỉ đủ làm giảm mức thất nghiệp
xuống thành 8,6%. Năm 2012, tăng trưởng kinh tế Mỹ ở “ tốc độ khiêm tốn” mặc
đạt 2,25%. Nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp vừa là tin tốt vừatin xấu. Rủi ro về
nên suy thoái khác đang giảm đi nhưng triển vọng về một thời kỳ tăng trưởng nhanh
để có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp và giúp nền kinh tế lấy lại những đã mất thời gian
qua cũng không khả quan hơn. Cuối năm 2011, khi sản lượng kinh tế, sau khi điều
chỉnh lạm phát đã trở lại mức trước suy thoái nhưng thu nhập bình quân đầu người
vẫn chưa trở lại mức cao của năm 2007 hầu hết các chỉ tiêu khác của nền kinh tế
vẫn đang “dậm chân tại chỗ”. Năm 2012 là năm mà thị trường bất động sản, lĩnh vực
vốn kéo lùi tăng trưởng của trong suốt những năm qua, đang trở thành điểm sáng
của nền kinh tế với doanh số giao dịch tăng vọt lên đến mức trước khủng hoảng. Thị
trường chứng khoán tiếp lập các kỷ lục mới trong những tháng đầu năm 2013. Năm
2013, chương trình vạch đá tài chính” cắt giảm chi tiêu tăng thuê đã được Quốc
hội thông qua ngay từ đầu năm có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Tính đến năm 2013,
sau 5 m từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tuy nền kinh tế chưa hoàn toàn phục hồi
nhưng đã có những điểm sáng nhất định.
29
IV.2. Các quốc gia khắc phục hậu quả
IV.2.1. Các nước Châu Âu
IV.2.1.1. Tác động của khủng hoảng
Không chỉ riêng Mỹ, các nước khác trên thế giới cũng chịu hậu quả từ
cuộc khủng hoảng kinh tế nền. Trước hết các nước Châu Âu, ba ngân hàng lớn
Châu Âu bị đẩy đến bờ vực của sự phá sản, hai ngân hàng của Pháp cũng có nguy
bị rơi vào rối loạn, gồm liên doanh Bỉ-Hà Lan Fortis, ngân hàng Anh Bradford
Bingley, ngân hàng Đức Hypo Real Estate. Đức( nền kinh tế lớn nhất châu Âu và thứ
ba thế giới) đã ng trưởng âm trong quý 3 năm 2008, làm cho nước này chính thức
rơi vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong vòng 12 năm qua. Theo số liệu Liên minh châu
Âu (EU), nền kinh tế của 15 nước sử dụng đồng Euro lần đầu tiên kể từ khi được
thành lập năm 1999 đã rơi vào giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP đều giảm
0,2%) trong hai quý liên tiếp. Khủng hoảng còn lan rộng ra nhiều lĩnh vực như công
nghiệp, nông nghiệp, tiêu dùng, xuất khẩu….
IV.2.1.2. Biện pháp
Các quốc gia này cũng đã đưa ra những biện pháp để vực dậy nền kinh tế.
Iceland đã từ chối giải cứu các ngân hàng đang bên bờ vực phá sản vào năm 2008 để
tập trung các nguồn lực phục vụ chính sách phúc lợi, hỗ trợ người tiêu dùng và doanh
nghiệp. Chính phủ Iceland đã mua lại 75% cổ phần trong ngân hàng Glitnir lớn thứ ba
Iceland. Iceland tự bảo vệ trước nguy cơ dòng chảy vốn thoát ra bằng cách hạn chế sự
luân chuyển tiền tệ, cho phép chính phủ ngăn chặn sự tấn công đầu cơ. ECB(Ngân
hàng Trung ương Châu Âu) đã đổ rất nhiều tiền từ nguồn dự trữ của mình để duy trì
khả năng thanh toán tín dụng, giữ cho thị trường thanh khoản không rơi xuống đáy.
Chính phủ Bỉ và Hà Lan quyết định chi 16 tỷ USD để quốc hữu hóa( đưa từ sở hữu
nhân sang sở hữu nhà nước) một phần ngân hàng chung Fortis NV. Chính phủ Ðức
cam kết chi 35 tỷ euro để bảo lãnh cho tập đoàn tín dụng bất động sản Hypo Real
Estate Holdings AG cổ phiếu đã sụt giảm tới hơn 60%. Ngân hàng Dexia của Bỉ
Pháp sẽ nhận được khoản tiền cứu trợ khẩn cấp 6,4 tỷ euro, tương đương 9,2 tỷ
USD, từ chính phủ hai nước nói trên các cổ đông lớn. Chính phủ Luxembourg sẽ
mua lượng cổ phần trị giá 376 triệu euro của bộ phận Dexia đang hoạt động nước
này.
IV.2.2. Các nước Châu Á
IV.2.2.1. Tác động của cuộc khủng hoảng
Tiếp theo các nước Châu Á. Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế
đang phát triển châu Á sẽ giảm từ 6,9% năm 2008 xuống 5,8% vào năm 2009. Tốc
độ tăng trưởng công nghiệp của Trung Quốc đã giảm sút liên tục từ 16% hồi tháng 6
30
xuống còn 11,4% trong tháng 9 xuống tiếp 8,2% trong tháng 10 năm 2009. Theo
dự đoán của ADB ( Ngân hàng phát triển Châu Á), mức tăng trưởng của Ấn Độ giảm
xuống còn 7% năm 2008 6,5% vào năm 2009. Kinh tế Nhật Bản đang tiếp tục
xuống dốc với việc sản lượng công nghiệp tháng 11 năm 2009 sụt giảm tới 8,1%, lợi
nhuận của các công ty giảm mạnh trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 3,9%.
IV.2.2.2. Biện pháp
Để phục hồi nền kinh tế, các nước Châu Á đã đề ra một số giải pháp.
ADB kêu gọi các nhà hoạch định chính sách châu Á hành động nhanh để ngăn chặn
việc siết chặt hơn nữa các thị trường tín dụng, đảm bảo tính thanh khoản trong
ngoài nước, đồng thời củng cố sự hợp tác giữa các nước để đối phó với một đợt suy
giảm kéo dài. Trung Quốc Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận trao đổi tiền tệ song
phương trị giá 180 tỷ Nhân dân tệ (26,2 tỷ USD), nhằm cung cấp đủ lượng tiền mặt
cho hệ thống tài chính của hai nước. ASEAN đẩy mạnh hợp tác thúc đẩy thương mại
chống khủng hoảng tài chính. Nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, Ngân hàng Trung
ương Nhật Bản (BoJ) vừa hạ lãi suất bản đồng Yên của nước này từ mức 0,3% về
mức 0,1%.
IV.3.Việt Nam trong cuộc khủng hoảng kinh tế
IV.3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng
Việt Nam cũng nước ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế. Lạm phát tại Việt Nam tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008, cuối tháng
6-2008, chỉ số giá so với kỳ gốc 2005 144,30%. Trong quý III-2008, tốc độ tăng
CPI giảm dần, tính cả quý, CPI chỉ tăng 4,18 điểm phần trăm. Diễn biến phức tạp của
giá dầu mỏ: Giá nhiên liệu tăng cao (do mâu thuẫn địa-chính trị của một số khu vực
dầu mỏ nhạy cảm các nhà đầu cơ hoạt động tích cực) đặt các nền kinh tế toàn cầu
trong tình trạng báo động đỏ về khủng hoảng năng lượng.Giá vàng lên xuống thất
thường,“sốt”giá lương thực:trong ba tháng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lần lượt
tăng 23,6%, 40,4% 26,7%. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số chứng khoán
giảm tới 70% so với đầu năm.
IV.3.2. Biện pháp
Việt Nam cũng những động thái để khắc phục những hậu quả này.
Khẩn trương xây dựng phát triển một học thuyết kinh tế của Việt Nam, cho Việt
Nam, vì Việt Nam, giúp định hướng điềunh rõ nét, và chủ động hơn. Ngay từ quý
I-2008 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa
những hậu quả khôn lường của “cơn bão tài chính”. Chính sách thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu cũng được điều chỉnh kịp thời, linh hoạt nhằm hỗ trợ cho sản xuất trong
nước. Ngân hàng nhà nước đã những động thái nới lỏng tiền tệ đi liền với tăng
cường kiểm soát rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Thành lập cơ quan giám sát hỗn hợp
31
liên ngành đểng cường giám sát các gói kích cầu, trong đó gói kích cầu bằng hỗ
trợ lãi suất đảm bảo hiệu quả, công khai, minh bạch.
V. Những người làm giàu nhờ khủng hoảng
Trong tình hình khó khăn về tài chính, vẫn những nhà đầu thể
thành công dựa vào thời này. Warren Buffett câu nói Bạn sẽ có những khoản
mua về tốt nhất khi mọi người đang đầy hoang mang”. Tận dụng thời thế giới
đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế, cổ phiếu của những công ty ông yêu thích như
Wells Fargo & Co và American Express Co đang giảm mạnh, ông đã quyết định mua
vào những cổ phiếu đó của nhiều doanh nghiệp khác nữa, qua đó hỗ trợ tài chính
các doanh nghiệp. Đó sự đối nghịch của Warren Buffet với các nhà đầu khác,
trong khoảng thời gian này họ đã bán đi các cổ phiếu nhiều nhất có thể. sau 5 năm
các khoản đầu của Ông đã giá trị lên tới 10 tỷ USD chưa dấu hiệu dừng
lại. Ngoài ra còn Adam Khoo (triệu phú người Singapore).Năm 2008-2009 thế
giới chứng kiến thị trường chứng khoán rớt giá mạnh. Tại Singapore chỉ số S&P 500
( chỉ số chứng khoán được vốn hóa dựa trên 500 công ty đại chúng lớn nhất) giảm
hơn 55%. Các nhà đầu tư hoang mang và nghĩ rằng thị trường sẽ mất thời gian dài để
phục hồi nên đã bán tống bán tháo các cổ phiếu. Sau khi nghiên cứu kỹ nhận ra
tiềm năng từ các cổ phiếu rớt giá, Adam Khoo đã mua lại các cổ phiếu này và bán lại
khi giá cổ phiếu tăng.kết kết quả là sau khủng hoảng ông đã thu về hàng triệu đô
la Mỹ.
32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.baonhandan. 2009. “Nga nỗ lực đối phó ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính -
kinh tế toàn cầu.” Báo Nhân Dân.
2.“Châu Âu đối phó cuộc khủng hoảng tài chính.” 2008. Báo Nhân Dân. .
3.“Chi tiết tin.” n.d. Chi tiết tin.
4.“Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008.” 2018. VnExpress.
5.“Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008.” 2018. VnExpress.
6.“Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ những tác động của nó.” 2008. Tạp chí
Cộng sản. .
7.Đại khủng hoảng 2008 tác động lên Iceland. 2018. “Iceland: Kinh tế phục hồi thần
kỳ nhờ du lịch và công nghệ.” Công an Nhân dân.
8.“Khủng hoảng kinh tế - cơ hội cho các nhà đầu tư.” 2014. Tin nhanh chứng khoán.
9.Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp trong bối cảnh đại suy thoái. 2019. “Nhìn lại
khủng hoảng nợ công của Hy Lạp kinh nghiệm đối với Việt Nam.” Tạp chí Tài
chính.
10.“Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế và sự phục hồi.” n.d. Academia.edu.
11.“Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007–2009 Wikipedia tiếng Việt.” n.d.
Wikipedia.
12.“Kinh tế Mỹ 13 năm nhìn lại sau thảm họa 11/9.” 2014. Tạp chí Tài chính.
13.Kinh te - Van hoa - The thao. 2018. “Iceland: Kinh tế phục hồi thần kỳ nhờ du lịch
và công nghệ.” Công an Nhân dân.
14.mof.gov.vn. n.d. “Chi tiết tin.” Chi tiết tin.
15.“Nét tương đồng không thú vị của khủng hoảng tài chính 2008 với ngày hôm nay.”
2020. Tin nhanh chứng khoán.
16.Nhân dân chính phủ Nga đối phó với tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. 2009. “Nga nỗ lực đối phó ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế
toàn cầu.” Báo Nhân Dân.
17.“Nhìn lại lịch sử cuộc khủng hoảng tài chính 2008.” 2023. Binance.
18.“Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam 2008 phải trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế
giới.” 2009. Tạp chí Tuyên giáo.
33
19.“Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam 2008 phải trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế
giới.” 2009. Tạp chí Tuyên giáo.20.tapchitaichinh. 2018. “Cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu và những cảnh báo.” Tạp chí Tài chính.
21.tapchituyengiao. n.d. “Chi tiết tin.” Chi tiết tin.
22.“Tin bộ tài chính.” 2008. Tin bộ tài chính.
23.vnexpress. 2018. “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008.”
VnExpress.
34
| 1/34

Preview text:

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA CỦA MỸ TRƯỚC VÀ SAU ĐẠI KHỦNG HOẢNG 2008 Khoa: Tài chính
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Đức Hải
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 10
Họ và tên: Trịnh Ngọc Bảo Ngân MSV: 26A4012898
Họ và tên: Vũ Thị Thu Huyền MSV: 26A4011972
Họ và tên: Nguyễn Hương Ly MSV: 26A4012930
Họ và tên: Nguyễn Trang Quyên MSV: 26A4012930
Họ và tên: Trần Minh Trang MSV: 26A4010234
Họ và tên: Trần Khánh Linh MSV: 26A4012431 MỤC LỤC
I. Những biến động kinh tế trước Đại Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ - chính sách
tài khóa của chính phủ Mỹ....................................................................................................................3
I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng 2008”.............................................................................3
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho khủng hoảng...........................6
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính phủ...................7
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng.................................................................................7
II.1.1. Nguyên nhân..................................................................................................................7
II.1.2. Diễn biến:.....................................................................................................................11
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)..................................................................14
II.2.1. Hậu quả........................................................................................................................14
II.2.2. Hành động của chính phủ:...........................................................................................15
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:............................................16
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện:...............................................16
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh tế Mỹ nói riêng
và thế giới nói chung sụp đổ..............................................................................................................16
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.............................................................................16
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':...............................................................................20
III.2. Hậu quả của khủng hoảng lên các quốc gia...................................................................21
III.2.1. Việt Nam.....................................................................................................................21
Tác động từ cuộc khủng hoảng:..........................................................................................22
III.2.2. Iceland.........................................................................................................................24
III.2.3. Nga..............................................................................................................................25
III.2.4. Hy Lạp..........................................................................................................................27
IV. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ và toàn thế giới......................................................29
IV.1. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ..............................................................................29
IV.1.1. Biện pháp phục hồi của Mỹ........................................................................................29
IV.1.2. Sự phục hồi.................................................................................................................30
IV.2. Các quốc gia khắc phục hậu quả....................................................................................32
IV.2.1. Các nước Châu Âu......................................................................................................32
IV.2.2. Các nước Châu Á.........................................................................................................32
IV.3.Việt Nam trong cuộc khủng hoảng kinh tế....................................................................33
IV.3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng.................................................................................33
IV.3.2. Biện pháp....................................................................................................................33
V. Những người làm giàu nhờ khủng hoảng.........................................................................33 2
I. Những biến động kinh tế trước Đại
Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ -
chính sách tài khóa của chính phủ Mỹ

I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng 2008”  Thập niên 90 xa hoa
Trong thời điểm những cuộc khủng
hoảng, như Đại khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008, được cấu thành bởi mối liên đới
giữa nhiều công nghệ tài chính và các ngành khác nhau. Các sự kiện liên đới nổi bật
trong cuộc khủng hoảng này bao gồm sự phát triển của Nền kinh tế hão huyền (The
New Economy) trong những năm 90 với sự tăng trưởng không bền vững, sự vỡ tung
của bong bóng dotcom, sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 và hàng loạt dấu hiệu cho thấy sự khủng hoảng.
Những sự kiện này đã tạo ra những tín hiệu và dấu hiệu cho sự khủng hoảng
kinh tế, nhưng không phải ai cũng nhận thức được hoặc muốn chấp nhận sự thật này.
Một số nhà đầu tư có thể đã bị mê hoặc bởi sự thịnh vượng tạm thời hoặc lạc quan quá
mức, dẫn đến sự thiếu nhận thức về tình hình khó khăn và rủi ro tiềm ẩn.
Tổng quan, việc nhìn thấy và thừa nhận tình hình kinh tế khó khăn trong một
quốc gia yêu cầu sự quan sát cẩn thận và khả năng phân tích một cách khách quan.
Tuy nhiên, sự thiếu nhận thức hoặc chọn lựa không nhìn thấy sự thật có thể xảy ra khi
những nhà đầu tư không muốn đối mặt với tình hình khó khăn hoặc không nhìn thấy
các dấu hiệu và tín hiệu cho sự khủng hoảng.
Những năm 1990, nước Mỹ đã trải qua một thời kỳ hưng thịnh giả với tăng
trưởng kinh tế ổn định. Từ năm 1992 đến năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
4,9% mỗi năm, cao hơn so với tốc độ trung bình 2,75% từ năm 1972 đến 1995. Tăng
trưởng này được duy trì ổn định và đi kèm với mức thất nghiệp thấp. Điều đáng kinh
ngạc là tỷ lệ lạm phát cũng duy trì ở mức thấp trong giai đoạn này.
Theo lý thuyết đường cong Philips, khi tỷ lệ thất nghiệp giảm và nền kinh tế
phát triển, thì tỷ lệ lạm phát thường tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tỷ lệ lạm
phát không tăng một cách đáng kể. Sự hiện tượng này đã khiến các nhà kinh tế Mỹ
hào hứng đặt tên cho giai đoạn này là "Nền Kinh Tế Mới - The New Economy". 3
Tuy nhiên, đã có một số nhân vật quan trọng nhận ra vấn đề nghiêm trọng này,
trong đó có Alan Greenspan, cựu chủ tịch của Tổng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ông
đã có ba phát biểu dự đoán khá chính xác về kết cục của thời kỳ kinh tế giàu có và
hưng thịnh giả tạo này. Ông đã nhấn mạnh rằng "...nhưng làm sao chúng ta biết khi
nào sự phấn khích không hợp lý đã làm cho giá trị tài sản tăng quá mức,... Chúng ta là
các nhà ngân hàng trung ương không cần lo lắng nếu một bong bóng tài chính đổ sập
không đe dọa đến nền kinh tế thực, sản xuất, việc làm và ổn định giá cả”. Đây chính là
bài phát biểu của Greenspan về thời kỳ Kinh Tế Mới đáng quan ngại, tại Hiệp hội
Kinh tế Mỹ thường niên (American Economic Association's Annual Meeting) tại
thành phố San Francisco, California, Hoa Kỳ, vào ngày 05/12/1996.
Những lời cảnh báo này đã cho thấy sự nhận thức về nguy cơ và mối đe dọa
tiềm ẩn trong sự giàu có giả tạo của thời kỳ đó.
Mặc dù tình hình kinh tế của Hoa Kỳ, nền kinh tế lớn nhất thời điểm đó, đang
đối mặt với những dấu hiệu rất đáng ngờ, tuy nhiên không có nhà đầu tư nào nhìn ra
hoặc chấp nhận thực tế này và chấp nhận tình hình kinh tế khó khăn là một yếu tố
quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư thông minh. Tuy nhiên, sự mù quáng
hoặc không muốn nhìn thấy sự thật có thể dẫn đến những quyết định đầu tư không
hợp lý và có thể gánh chịu những hậu quả nặng nề.
Như vậy, trong trường hợp này, việc nhìn ra và nhận thức về tình hình kinh tế
khó khăn của Hoa Kỳ là một yếu tố không thể bỏ qua. Điều này đặt ra một thách thức
đối với những nhà đầu tư, yêu cầu họ phải có khả năng phân tích kỹ lưỡng và quyết
định đầu tư dựa trên những thông tin và hiểu biết chính xác về tình hình kinh tế.  Bong bóng dotcom (1990-2000)
Đại khủng hoảng tài chính năm 2008, mặc dù khởi nguồn không chỉ từ năm đó,
đã có những dấu hiệu sớm cho thấy sự sụp đổ mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ và tác
động lên kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn, ta không thể không nhắc đến cơn sốt Công nghệ
trong thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, diễn ra tại Mỹ và bong bóng Dotcom đã vỡ vào
năm 2001. Song song với đó, khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997 cũng góp phần
làm giảm mạnh lãi suất ngân hàng nhằm kích thích hoạt động tín dụng và hỗ trợ nền kinh tế. 4
Trong bối cảnh tình hình tài chính dễ dàng lưu thông và nhận thấy tiềm năng từ
các công ty công nghệ, đặc biệt là những công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến,
đã tạo nên một sự mới lạ đối với giới đầu tư. Từ năm 1997, đa số các hộ gia đình và
nhà đầu tư mạo hiểm đã đổ vốn vào thung lũng Silicon Valley, với hy vọng thu về lợi
nhuận đáng kể từ những công ty này. Những công ty này đã đưa ra những lời hứa hấp
dẫn, tuy nhiên lại không thể thực hiện được do chiến lược đầu tư không đúng đắn,
thiếu kiến thức và sự sử dụng vốn không hợp lý từ phía các nhà đầu tư.
Số tiền đáng kể này đã được các CEO chi ra cho các hoạt động ăn chơi, tiệc
tùng và marketing, nhằm thu hút sự rót vốn từ các nhà đầu tư, mà không đầu tư vào cơ
sở hạ tầng hoặc phát triển ứng dụng như đã hứa hẹn. Mất đi sự tập trung và cẩn trọng,
các nhà đầu tư đã đối diện với những hậu quả đắng cay khi những công ty này không
thể đáp ứng được kỳ vọng và cam kết ban đầu. Điều này phần nào là do hướng đầu tư
mơ hồ và thiếu hiểu biết, cùng với việc sử dụng vốn không đúng mục đích từ phía các nhà đầu tư.
Như vậy, những sự kiện này đã làm rõ rằng việc đầu tư vào công ty công nghệ
và các công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến đòi hỏi sự cẩn trọng và hiểu biết sâu
sắc về thị trường và các nguyên tắc đầu tư. Nếu không, nguy cơ mất vốn và hậu quả
không mong muốn sẽ là kết quả của những quyết định đầu tư không đúng đắn.
Khi này, người dân, các nhà đầu tư đã mất lòng tin vào những công ty công
nghệ, sản phẩm công nghệ. Và cùng lúc này, FED cũng đã tăng lãi suất ngân hàng 
Nối tiếp bong bóng, sự kiện khủng bố ngày 11/09/2001 diễn ra
Trải qua sự không ổn định của thị trường tài chính: Thị trường tài chính Mỹ đã
phải tạm ngừng hoạt động trong 6 ngày để đảm bảo an ninh sau sự kiện đáng chú ý.
Ngay sau khi thị trường mở cửa trở lại vào ngày 17/09, thị trường chứng khoán Mỹ đã
ghi nhận mức giảm lớn nhất trong một ngày trước đó. Điều này cho thấy sự bất ổn và
áp lực lớn trong hệ thống tài chính.
Ngân sách Mỹ đã phải đối mặt với thâm hụt đáng kể, và có nhiều nguyên nhân
góp phần vào tình trạng này. Trước hết, các chi tiêu liên quan đến quốc phòng và an
ninh đã tăng lên do sự thắt chặt và gia tăng quy mô của các hoạt động quốc phòng sau
giai đoạn chạy đua vũ trang với Liên Xô. Điều này đã dẫn đến một con số khá lớn
được chi cho quốc phòng, chiếm tới 20% ngân sách cả nước. 5
Ngoài ra, chính phủ đã triển khai các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó có
chính sách giá trị đồng USD thấp. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách này đã góp
phần vào tình trạng khủng hoảng. Chính sách USD rẻ đã tạo ra một loạt tác động
không cân đối đến nền kinh tế, bao gồm sự khuyến khích đầu tư rủi ro cao và sự tăng lên của nợ vay.
Những yếu tố trên đã tạo ra một tình hình kinh tế không ổn định và gây ra
những tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và ngân sách của Mỹ. Các biện pháp
kích thích và quyết định liên quan đến quốc phòng đã đóng góp vào tình trạng thâm
hụt ngân sách và tạo ra những tác động không mong muốn trong hệ thống kinh tế.
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho khủng hoảng$
Trong năm 2003, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã áp dụng một chính sách lãi suất
thấp nhằm khuyến khích việc vay mượn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong suốt
năm đó, lãi suất cơ bản của Fed đã giảm dần từ mức 1,25% vào đầu năm xuống còn 1,00% vào cuối năm.
Quyết định này được đưa ra nhằm đối phó với những tác động tiêu cực từ bong
bóng dotcom và sự kiện khủng bố 11/09. Trước đó, vào năm 2001, lãi suất của Fed đã
được đưa lên mức 5,6-6% để ứng phó với những biến động kinh tế và tác động của các sự kiện đó.
Với chính sách lãi suất thấp, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hy vọng khuyến khích
việc vay mượn của người dân và doanh nghiệp, tạo động lực cho đầu tư và tiêu dùng.
Người dân đã phản ứng tích cực bằng việc đổ xô đi vay ngân hàng. Thay vì đầu tư vào
ngành công nghệ như trước đây, cùng với nỗi sợ vô hình về khủng bố. Người dân Mỹ
muốn tìm đến một hàng hóa có thể giúp họ đầu tư thấy an tâm hơn đó chính là bất động sản.
Việc tăng cường chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách lãi
suất thấp trong năm 2003 được xem là một ứng dụng đúng với lý thuyết kinh tế vĩ mô.
Bằng cách khuyến khích việc vay mượn và đầu tư, chính sách này đã nhằm tạo động
lực cho tăng trưởng kinh tế và giúp định vị lại sự ổn định sau những biến động kinh tế
và sự kiện xấu xảy ra trước đó. Nhưng đây cũng là khởi đầu cho đại khủng hoảng tài
chính lớn nhất trong vòng một thế kỷ qua. 6
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính phủ
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng II.1.1. Nguyên nhân
Khủng hoảng tài chính 2008 - 2009: là “thảm họa” kinh tế lớn nhất kể từ
Đại suy thoái 1929. Nguyên nhân xuất phát từ việc bong bóng giá nhà được
hình thành từ năm 2006 vỡ tung, tạo nên những đống nợ xấu khổng lồ, đánh
sập hoạt động của các nhà băng vốn đang ôm nhiều khoản vay được thế chấp bằng bất động sản.
II.1.1.1. Tự do hóa tài chính
Các học thuyết tài chính đã đề cao tầm quan trọng của việc tự do hóa tài chính
trong việc thúc đẩy sự phát triển và tăng cường hiệu quả của hệ thống tài chính. Trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, chính phủ Hoa Kỳ thông qua đạo luật Gramm-Leach-
Bliley năm 2000 đã chấm dứt đạo luật Glass-Steagall, mở đường cho sự hợp nhất giữa
các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm.
Tự do hóa tài chính đã tạo ra một loạt các sản phẩm và công cụ tài chính mới,
như Chứng khoán hóa (MBS, CDO) và CDS (hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng),
mang lại cơ hội và tiềm năng lợi nhuận lớn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cùng với
những lợi ích đó, cũng tồn tại những rủi ro và tác động tiêu cực.
Một ví dụ là hoạt động mua bán khống, trong đó các nhà đầu tư tạo ra lợi
nhuận bằng cách bán chứng khoán mà họ không sở hữu, hy vọng rằng giá trị của
chúng sẽ giảm. Tuy nhiên, hoạt động này có thể gây ra sự không ổn định và tăng rủi
ro trong thị trường tài chính.
Ngoài ra, rủi ro đạo đức của các công ty định mức tín nhiệm cũng được đặt ra.
Trong quá trình đánh giá tín nhiệm của các công ty và sản phẩm tài chính, có thể xảy
ra việc đánh giá không chính xác hoặc thiếu minh bạch, dẫn đến sự mất độc lập và tin cậy của hệ thống.
Tóm lại, việc tự do hóa tài chính đã mang lại nhiều cơ hội và tiềm năng phát
triển cho hệ thống tài chính. Tuy nhiên, cần phải thận trọng và đảm bảo sự minh bạch, 7
đạo đức và quản lý rủi ro để đảm bảo sự ổn định và bền vững của hệ thống tài chính toàn cầu.
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu về sản phẩm MBS (mortgage-backed security -
chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp ), là sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bằng
các khoản vay bất động sản có thế chấp. Nói một cách đơn giản, hợp đồng tài trợ xây
dựng của khách hàng được đóng gói và bán lại cho nhà đầu tư.
Nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, giá bất động sản giảm mạnh, người đi
vay không có khả năng trả nợ và khó khăn trong việc bán bất động sản để trả nợ. Do
đó, các tổ chức cho vay phải đối diện với nguy cơ mất vốn. Ngoài ra các hợp đồng cho
vay bất động sản dùng để đảm bảo cho chứng khoán MBS là nợ khó đòi nên chứng
khoán MBS mất giá trị trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm
giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn rơi vào tình trạng khó khăn về
tính thanh khoản. Đến một mức nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng
sức ép của thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên buộc tìm sự cứu trợ từ nhiều nguồn
và tệ nhất phải đệ đơn phá sản. Do có sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức
chứng khoán hoá đã dẫn tới sự sụp đổ có hệ thống - theo dây chuyền.
Nhân tố tiếp theo góp phần gây ra
cuộc khủng hoảng là CDS (Credit default
swap - Thanh khoản nợ xấu ) do các công
ty bảo hiểm tạo ra để phòng ngừa rủi ro
cho các khoản vay. Các công ty tài chính
và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả
tiền bảo hiểm theo các hợp đồng bảo
hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ
chức này bán ra. Ước tình nước Mỹ có
khoang 35000 tỷ USD tiền bảo hiểm và
trên toàn thế giới là khoảng 54600 tỷ
Hnh 2 - Sơ đồ minh hoạ các giao dịch nhà đất ( Nguồn: Crosses )
USD ( theo ước tính của “
International Swap and Derivatives association “ ). Tập đoàn tài chính hàng đầu thế
giới AIG bị đổ vỡ, một phần do đầu tư vào MBS và phần lớn là các hợp đồng CDS.
Nếu không có sự giải cứu kịp thời cho thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS
sẽ tàn phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Thêm vào đó, ở giai đoạn này, CDO (Collateralized Debt Obligation- Nghĩa vụ
nợ được thế chấp). CDS- một sản phẩm tài chính có cấu trúc phức tạp, được đảm bảo 8
bởi một nhóm các khoản vay và các tài sản khác và được bán cho các nhà đầu tư tổ
chức đã tăng gần gấp 10 lần, từ 30 tỷ USD năm 2003 lên 225 tỷ USD năm 2006.
Nhưng sự sụp đổ sau đó của chúng, do chính sách điều chỉnh nhà ở của Hoa Kỳ gây
ra, đã khiến CDO trở thành một trong những tổ chức hoạt động tồi tệ nhất trong cuộc
khủng hoảng thế chấp. Bắt đầu vào năm 2007 và đạt đỉnh điểm vào năm 2009. Bong
bóng CDO đã gây ra tổn thất hàng trăm tỷ đô la cho một số công ty dịch vụ tài chính
lớn nhất. Những tổn thất này dẫn đến việc các ngân hàng đầu tư phá sản hoặc phải giải
cứu nhờ sự can thiệp của chính phủ, và trong thời kỳ này đã góp phần làm leo thang
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cuộc Đại suy thoái.
Tính đến 7/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên 435 tỷ USD. Và
không một ai có thể chắc chắn về giá trị đích thực của các khoản đầu tư tài chính - bất
động sản được ước tính là hàng ngàn tỷ đô vẫn còn nằm trên sổ sách tài chính - ngân hàng.
II.1.1.2. Bùng nổ tín dụng
Trong bối cảnh chung của các nước trên thế giới thực hiện các chính sách tự
do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong
một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc khủng hoảng của các
công ty công nghệ thông tin năm 2000 và sự kiện khủng bố Trung tâm thương
mại quốc tế WTC vào ngày 11/9/2001 cùng với dòng chảy vốn mua trái phiếu
chính phủ Mỹ từ các nước phát triển ở Châu Á và OPEC, FED đã điều chỉnh
hạ liên tục lãi suất cơ bản từ 6,5% xuống mức thấp kỷ lục là 1% vào năm
2003. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng USD rẻ) đã kích thích
người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm.
Ta có thể hiểu thêm “ Chính sách nới lỏng tiền tệ “ : Ngân hàng Nhà Nước
(NHNN) sẽ bơm tiền vào thị trường để mở rộng nguồn cung tiền, tăng cung ứng tiền
vào lưu thông. Điều này nhằm mục đích hạ lãi suất để kích cầu chi tiêu của người dân.
Từ đó dẫn đến việc kích cầu sản xuất, mở rộng quy mô kinh doanh và giảm tỷ lệ thất
nghiệp.Bởi vì nền kinh tế hoạt động theo chu kỳ kinh doanh, trong đó suy thoái, phục
hồi và mở rộng là một phần của biến động kinh tế mang tính chu kỳ, nên thông
thường những thay đổi chính sách sẽ tương ứng với những thay đổi trong GDP thực tế và lạm phát. 9
Ngược lại với việc thắt chặt chính sách tiền tệ là nới lỏng tiền tệ. Hai chính
sách tiền tệ này được thực hiện luân phiên nhằm duy trì sự ổn định tài chính và tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Trong hai chính sách, chính sách tiền tệ nới lỏng được
xem là cách để các nhà hoạch định chính sách kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái bằng
cách bơm vốn vào nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tín dụng mở rộng, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp giảm sau các
bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom, khủng hoảng dot.com và các chính phủ
cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay vốn bên ngoài. Sự
mất cân đối giữa cung và cầu vốn dẫn đến nguồn vốn dư thừa, thị trường không sử
dụng hiệu quả. Các Subprime-mortgage - khoản cho vay dưới chuẩn là giải pháp
nhằm giải quyết vấn đề dư thừa vốn và từ đó tối đa hóa lợi nhuận. Nợ dưới chuẩn
được hiểu là khoản vay cho các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những người đi vay
này thường là người nghèo, không có công việc ổn định, có địa vị xã hội thấp hoặc
trước đây có tín dụng mập mờ không minh bạch. Những cá nhân này tiềm ẩn nguy cơ
không có khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn và do đó gặp khó khăn trong việc
tiếp cận các nguồn vốn tín dụng truyền thống chỉ dành cho những người trên tiêu
chuẩn .Vì vậy, nợ dưới chuẩn có rủi ro tín dụng rất cao nhưng lại có lãi suất hấp dẫn.
Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được áp dụng cho các sản phẩm cho vay thế chấp, thế chấp trả
góp ô tô, thẻ tín dụng , v.v. Các khoản cho vay dưới chuẩn chủ yếu là người nhập cư.
II.1.1.3. Bong bóng bất động sản Vào giữa năm 2006, khi Ngân hàng Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất đề phòng lạm phát, lãi suất của các khoản vay dưới
chuẩn bắt đầu tăng theo (do các hợp đồng vay đa số là các khoản vay theo lãi suất điều
chỉnh), người dân mất khả năng thanh toán, ngân hàng mất khả năng thanh khoản dẫn
đến sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống tài chính và bất động sản.
Bong bóng bất động sản cùng với sự giám sát tài chính chưa đầy đủ của Hoa
Kỳ đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007 và trở nên trầm
trọng hơn kể từ cuối năm 2008 tại nhiều quốc gia. Cuộc khủng hoảng ở Mỹ đã lan
rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn đến vụ phá sản tài chính, suy thoái kinh tế và làm
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ là điểm khởi đầu và trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong
bóng nhà đất vỡ vào cuối năm 2005, nền kinh tế Mỹ bắt đầu chậm lại. Tuy nhiên,
bong bóng vỡ đã dẫn đến việc các nhà đầu tư bất động sản cho các tổ chức tài chính ở
nước này vỡ nợ. Vào giữa năm 2007, các tổ chức tài chính đầu tiên của Mỹ liên quan
đến khoản cho vay mua nhà thứ hai đã thất bại. Giá cổ phiếu Mỹ dần bắt đầu giảm. Sự 10
sụp đổ tài chính lên đến đỉnh điểm vào 10/2008, khi ngay cả những ngân hàng khổng
lồ và lâu đời đã sống sót sau các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đó như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, v.v. cũng gặp rắc rối. Sự thiếu hụt
tín dụng nổi lên cũng khiến khu vực kinh tế thực của Mỹ rơi vào tình thế khó khăn,
điển hình là cuộc khủng hoảng của ngành ô tô Mỹ từ năm 2008 đến năm 2010. Chỉ số
bình quân công nghiệp Dow Jones đóng cửa ngày 9/3/2009 ở mức 6.547,05, mức thấp
nhất kể từ tháng 4. 1997. Chỉ trong sáu tuần, chỉ số này đã giảm 20%.
Hnh 3 - Biểu đồ giá nhà Mỹ giai đoạn suy thoái kinh tế ( Nguồn: cafebiz.vn )
Các khoản cho vay dưới chuẩn bảo đảm bằng bất động sản rất phổ biến và phát
triển mạnh do lãi suất thấp, dễ tiếp cận vốn và niềm tin rằng giá bất động sản sẽ không
giảm. Nhu cầu nhà ở lớn cộng với kỳ vọng giá nhà đất tăng cao đã khiến giá nhà đất
tăng vọt. Theo chỉ số S&P (chỉ số chứng khoán được dựa trên vốn hóa của 500 công
ty đại chúng lớn nhất nước Mỹ) giá nhà tăng khoảng 8,3% từ quý 1 năm 1990 đến
quý 1 năm 1997. Kể từ đó, giá nhà đất tăng mạnh, đạt đỉnh điểm vào quý 2 năm 2006,
khi giá bất động sản tăng hơn 132% so với quý 1 năm 1997. Bong bóng bất động sản ngày càng lớn.
Người cho vay tin tưởng rằng họ có thể thu hồi vốn vay thông qua việc tịch thu
tài sản nếu người đi vay không có khả năng trả nợ nên cho vay dưới chuẩn cũng được
coi là một hình thức cho vay an toàn. Kết quả là, nhiều sản phẩm thế chấp dưới chuẩn
đã được giao dịch trong giai đoạn trước khủng hoảng năm 2008 (bao gồm các khoản
thế chấp có lãi suất điều chỉnh ARM, quyền chọn ARM, các khoản vay trả dần...) mà
tất cả đều yêu cầu người đi vay sử dụng bất động sản mà mình có ý định giao dịch
làm tài sản ký quỹ. Khả năng giá cả nhà đất tiếp tục gia tăng khiến các khoản vay trở 11
nên phát triển. Năm 2006, gần 20% các khoản vay thế chấp sơ cấp là dưới chuẩn và
80% các khoản thế chấp sơ cấp được chứng khoán hóa. Việc chứng khoán hóa các
khoản vay dưới chuẩn không chỉ góp phần đáng kể vào sự phát triển của bong bóng
nhà đất ở Mỹ mà còn là nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tài chính khi giá
bất động sản bắt đầu giảm. Lợi nhuận cao cùng với lòng tham đã dẫn đến việc lạm
dụng các khoản vay dưới chuẩn.Các quy trình thẩm định được thực hiện bởi các nhân
viên cho vay cực kỳ lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn vay để mua nhà trở nên nhanh
chóng và dễ dàng hơn bao giờ hết. Cho vay thế chấp dưới chuẩn lan truyền nhanh
chóng khắp nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh. Đối mặt với nguy cơ lạm phát,
FED bắt đầu tăng lãi suất để khiến nhu cầu vay dưới chuẩn giảm mạnh. Lãi suất thay
đổi mà người đi vay phải chịu sẽ tăng theo mức tăng của lãi suất cơ bản. Vì vậy,
người đi vay buộc phải trả lãi suất cao mà không thể cơ cấu lại khoản vay thông qua
việc gia hạn nợ và bắt đầu mất khả năng thanh toán, rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Bởi vì nhiều người mua nhà không có khả năng trả nợ nên các khoản nợ
của họ bị tịch thu và tài sản của họ bị bán.
Cleveland, Ohio là thành phố đầu tiên gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế.
Khoảng 1/10 ngôi nhà ở Cleveland đã được thu hồi để bán.Những người nhập cư mơ
ước mua nhà trở về tay trắng. Giá bất động sản ở Mỹ giảm mạnh trong quý 3 năm
2007, xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930.
(Kinh Tế Mỹ 13 Năm Nhìn Lại Sau Thảm Họa 11/9, 2014) II.1.2. Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng tài chính, bắt đầu ở Mỹ như một vụ tràn dầu trên khắp thế
giới, chưa dừng lại ở biên giới của một quốc gia duy nhất và đang phủ bóng đen lên
nền kinh tế toàn cầu vốn đã trì trệ trong nhiều năm. Vấn đề bị ảnh hưởng nhiều nhất là
hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
II.1.2.1. Hệ thống tài chính - ngân hàng
Năm 2008 - giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài với sự sụp đổ hàng
loạt các ngân hàng lớn và lâu đời. Cùng việc người dân mất niềm tin vào nền kinh tế
đã làm cho Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng vô cùng nghiêm trọng. Ngày 16/03/2008, Bear
Stearn - một trong năm ngân
hàng hàng đầu của Mỹ, phải
chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại. Và đã bị “ sang tay” cho ngân hàng JP
Morgan Chase với mức giá “rẻ như bèo” là xấp xỉ 240 triệu USD, tương đương 2
USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường trước thời điểm mua.
Việc ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Stearn và buộc
lòng để công ty này bị bán với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực của
Chính phủ viện trợ các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stearn đã
đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Ngày 11/7/2008, InDyMac - ngân hàng cho vay địa ốc hàng đầu đã bị Uỷ ban
giám sát tiết kiệm đóng cửa và chuyển giao cho tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC)
Ngày 7/9/2008, để tiếp quản Fannie Mae và Freddie, chính phủ Mỹ chi 200 tỷ
USD thông qua cổ phiếu ưu đãi để giữ cho các công ty này không bị phá sản
Fannie Mae và Freddie Mac - hai hãng cho vay thế chấp lớn nhất tại Mỹ, bảo
lãnh cho số bất động sản lên đến 5000 tỷ USD trên toàn nước Mỹ và chiếm 50% thị
trường. . Sự kiện này nổ ra đã tạo nên cơn địa chấn tài chính thực sự.
Ngày 14/9/2008, Bank of America đồng ý mua hãng đầu tư tài chính Merrill
Lynch - ngân hàng đầu tư có 94 năm lịch sử với giá 50 tỷ USD. Với vụ bán lại này,
Merrill vừa tránh được nguy cơ phá sản, vừa tránh được nguy cơ bị “ép giá” như Bear
Stearns một khi tình hình trở nên tệ hơn.
Ngày 15/9/2008, sau những nỗ lực huy động vốn thất bại do chính phủ Mỹ từ
chối cứu giúp, Lehman brothers - ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới với 158 năm
lịch sử tuyên bố phá sản.
Tổng tiền nợ của Lehman Brothers lên đến 768 tỷ USD ( gồm 613 tỷ USD nợ
ngân hàng và 155 tỷ USD nợ trái phiếu). Sự phá sản của Lehman Brothers và những
sự kiện diễn ra trước đó đánh dấu sự leo thang của cuộc khủng hoảng tài chính và theo
các chuyên gia đánh giá là tồi tệ nhất sau cuộc Đại khủng suy thoái kinh tế năm 1930. 13
Hnh 5 - Nhân viên Lehman Brothers rời ngân hàng vào ngày thông báo phá sản ( Nguồn : AP, Reuters ) Ngày 26/9/2008, ngân hàng Washington Mutual - ngân
hàng tiết kiệm lớn nhất nước
Mỹ được chính phủ tiếp quản. Và sau đó lại qua tay JP
Morgan Chase với giá 1,9 tỷ USD. Washington Mutual là
vụ phá sản ngân hàng lớn nhất
trong lịch sử , tổng thiệt hại
Hnh 6 - Tháng 12/2010, chiếc biển Lehman Brothers được mua với giá
42.050 bảng trong một phiên đấu giá các tài sản tại Christie’s ( Nguồn: Oll
lên tới 307 tỷ USD. Scarff )
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối trên Wall Street khi chỉ số Dow
Jone tụt 25% giá trị sau một tháng từ 15/9/2008. Từ giai đoạn này, biến động tại Wall
Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng
chục năm đã bị phá sản. 14
II.1.2.2 Thị trường chứng khoán
Chứng khoán Mỹ sụt giảm mạnh dẫn đến chứng khoán châu Á và châu Âu sụt
giảm. Các thị trường chứng khoán lớn toàn cầu như New York, London, Paris và
Tokyo đều trải qua những đợt sụt giảm lịch sử.
Tại Châu Á, lợi nhuận trên tất cả các thị trường đã giảm từ 40,7% xuống 65,9%
và hàng nghìn tỷ đô la đã bị xóa sổ khỏi thị trường. Chỉ số Sensex (Ấn Độ) giảm
3,4%, Taiwan Bankmark (Đài Loan) giảm 4,1%, Singapore giảm 3,2%, chỉ số KOSPI
của Hàn Quốc có mức giảm thấp nhất (-40,7%), trong đó VN-Index của Việt Nam và
Shanghai Composite Index của Trung Quốc có mức giảm lớn nhất so với thị trường so
sánh. So sánh, giá trị giảm hơn 65%. Nhật Bản có hệ thống tài chính tương đối ổn
định và trải qua thời kỳ tái cơ cấu sau cuộc khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ vẫn gây ra tình trạng hỗn loạn trên
thị trường chứng khoán nước này. Chỉ số trung bình chứng khoán Nikkei giảm xuống
42,1%, mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1990 (-39%).
Hnh 7 - Biểu đồ tăng/ giảm của một số chứng khoán tiêu biểu ( Nguồn: VnEconomy)
Tại thị trường châu Âu, chỉ số Dow Jones có lúc đã giảm 42% giá trị trước khi
có sự phục hồi và giảm 34,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số S&P 500 giảm 39,3%
giá trị. Chỉ số Nasdaq hạ 41,5%. Chỉ số CAC 40 của Pháp đã giảm mạnh nhất (-42%) và chỉ số FTSE
100 của Anh giảm ít nhất (31,5%). Chỉ số DAX của Đức đã giảm 39,5%. 15
II. Quả bom nổ chậm: Những dấu hiệu trước giờ G và hành động của chính phủ
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)
Trong khi kinh tế Mỹ năm 2006 có nhiều điểm sáng, cũng có một số vấn
đề và thách thức đối mặt. Dưới đây là một số điểm thất bại và đi xuống trong kinh tế
Mỹ năm 2006: khủng hoảng thị trường nhà ở, tăng nợ cá nhân, thâm hụt ngân sách,
tăng trưởng nợ công, thương mại thâm hụt. Những điều này góp phần vào sự không
ổn định và tiềm ẩn những thách thức trong tương lai. Những điểm yếu này đã tạo ra
những thách thức và đặt nền tảng cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra từ năm 2007. II.2.1. Hậu quả
Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Những vấn đề trong thị trường nhà ở và thị
trường tài chính Mỹ năm 2006 đã trở thành nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Sự suy yếu và suy thoái trong thị trường nhà ở đã
lan rộng sang các ngân hàng và tổ chức tài chính, gây ra sự sụp đổ của các công ty tài
chính, sự mất trắng dự trữ và sự không ổn định toàn cầu. Suy thoái kinh tế: Khủng
hoảng tài chính đã lan rộng thành một suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Mỹ đã chịu
ảnh hưởng nặng nề từ cuộc suy thoái, với sự giảm giá trị tài sản, tăng mức thất nghiệp,
giảm sản xuất và sụt giảm các chỉ số kinh tế quan trọng. Mất đi việc làm và tăng mức
thất nghiệp: Suy thoái kinh tế đã dẫn đến mất đi hàng triệu việc làm và tăng mức thất
nghiệp. Doanh nghiệp giảm sản xuất và cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, gây ra
sự không ổn định trong thị trường lao động và gây khó khăn cho người lao động. Mất
mát tài sản và tài chính cá nhân: Giá trị nhà ở và tài sản cá nhân đã giảm mạnh trong
suy thoái kinh tế, gây ra mất mát tài chính đáng kể cho các gia đình và cá nhân. Nhiều
người đã mất nhà, tài sản giảm giá và phải đối mặt với tình trạng nợ nần. Tác động xã
hội: Tăng mức thất nghiệp, mất đi việc làm và khó khăn tài chính đã tạo ra căng thẳng
và không ổn định trong xã hội, sự suy thoái kinh tế cũng đã gây ra sự suy giảm trong
chất lượng cuộc sống và tăng lên những khó khăn xã hội như tăng cường không an
ninh và thảm họa tài chính cá nhân.
II.2.2. Hành động của chính phủ:
Thị trường nhà ở và thị trường tài chính: Chính phủ đã đưa ra các biện pháp để
ổn định thị trường nhà ở và thị trường tài chính. Điều này bao gồm việc tăng cường
quản lý tín dụng và quy định ngân hàng, đồng thời cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng và tổ chức tài chính gặp khó khăn. Chính sách tài khóa: Chính phủ đã
đề ra các chính sách tài khóa nhằm giảm thiểu thâm hụt ngân sách và tăng cường quản
lý nợ công. Điều này có thể bao gồm kiểm soát chi tiêu công cộng, tăng thuế và cắt 16
giảm các chương trình chi tiêu không cần thiết. Chính sách thương mại: Chính phủ đã
áp dụng các biện pháp để đối phó với thâm hụt thương mại, bao gồm việc thương
lượng các thỏa thuận thương mại hai chiều, thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích đầu
tư nước ngoài Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve)
đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt để ổn định nền kinh tế. Điều này bao gồm
điều chỉnh lãi suất để kiểm soát lạm phát và khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Chính
sách kích thích kinh tế: Chính phủ có thể áp dụng các chính sách kích thích kinh tế để
tăng cường chi tiêu và đẩy mạnh hoạt động kinh tế. Điều này có thể bao gồm việc
cung cấp gói kích thích tài chính hoặc giảm thuế để tăng cường tiêu dùng và đầu tư
II.2.2.1. Sâu hơn về mặt kinh tế:
Giảm lãi suất: FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng
kinh tế và khuyến khích việc cho vay. Mục tiêu của việc giảm lãi suất là tạo động lực
cho các doanh nghiệp và cá nhân mượn tiền để đầu tư và tiêu dùng, từ đó thúc đẩy
hoạt động kinh tế. Mở rộng chính sách tiền tệ: FED đã thực hiện một loạt các biện
pháp mở rộng chính sách tiền tệ, như mua lại trái phiếu chính phủ và tài sản tài chính
khác. Mục tiêu của chính sách này là cung cấp thanh khoản cho các thị trường tài
chính và giúp duy trì sự ổn định tài chính.
Quản lý rủi ro: FED đã tăng cường quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính bằng
cách đưa ra các biện pháp quản lý tín dụng và yêu cầu các ngân hàng tuân thủ các quy
định tài chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro trong hệ thống tài chính và đảm bảo sự ổn
định. Tăng cường giám sát và quy định: FED đã tăng cường giám sát và quy định các
tổ chức tài chính để đảm bảo tuân thủ các quy tắc và quy định trong hoạt động tài
chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro và tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm của các tổ chức tài chính.
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:
Bảo vệ sự ổn định tài chính; Bảo vệ việc làm và tăng trưởng kinh tế; Bảo vệ lợi
ích của người dân và các doanh nghiệp;Ngăn chặn lan rộng của khủng hoảng. Và do
bài học từ quá khứ: Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 đã làm rõ những rủi
ro và điểm yếu trong hệ thống tài chính và kinh tế. Chính phủ đã học từ những bài học
đắt giá này và đưa ra những biện pháp để cải thiện quản lý rủi ro, tăng cường quản lý
tài chính và đảm bảo sự ổn định hơn cho kinh tế trong tương lai (Tuổi trẻ, 2006)
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện:
Tạo ra các bong bóng tài chính: Việc cắt giảm lãi suất và mở rộng chính sách
tiền tệ có thể tạo ra các bong bóng tài chính, như bong bóng thị trường nhà ở và thị
trường tài chính. Thiếu quản lý rủi ro hiệu quả: Một số người cho rằng FED không 17
thực hiện đủ công việc quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính. Các quy định và giám
sát không đủ mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi rủi ro và lạm phát trong các tổ chức tài chính
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh
tế Mỹ nói riêng và thế giới nói chung sụp đổ.
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
Cuộc khủng hoảng mở đầu bằng hàng loạt những sự kiện như là: Sự bùng nổ
của bong bóng nhà đất tại Mỹ hay,sự sụp đổ của loạt ngân hàng đầu tư và thương mại
lớn, cùng những tổ chức, cá nhân cho vay cầm cố. Khủng hoảng trên đã khiến nhiều
cơ sở kinh doanh đình trệ, hàng triệu người thất nghiệp, trở thành vô gia cơ. Kéo theo
đó là hàng loạt ngân hàng lâu năm của Mỹ rơi vào bế tắc rồi phá sản.
Từ quyết định của chính phủ dẫn đến cả nền kinh tế bị sụp đổ.
Bắt đầu từ thị trường bất động sản tại Mỹ, khi họ bắt đầu đưa ra các
khoản vay thế chấp mạo hiểm để giải cứu người mua nhà đất. Đặc
biệt hơn cả là có các khoản vay dành cho nhóm khách hàng có thu
nhập thấp, rủi ro cho vay rất cao. Ngay khi nhận ra thấy những dấu
hiệu bất thường, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh chóng triển khai các
gói cứu trợ kèm theo các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ
nhằm ngăn chặn suy thoái, tuy nhiên, tất cả đã quá muộn. Ngay khi
có dấu hiệu khủng hoảng tín dụng nhà ở, Fed đã bắt đầu hạ lãi suất
và tăng mua MBS. Vào ngày 8/2007, Fed tiếp tục tiến hành các biện
pháp nới lỏng tiền tệ: lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã
được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa
đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Chưa dừng lại ở đó, 13/2/2008,
chính phủ Mỹ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá
168 tỷ dollar. Sau đấy ít lâu, vào ngày 3/10/2008, tổng thống Bush
ký sắc lệnh qua đó cho phép sử dụng gói kích thích 700 tỷ dollar.
Đến 17/2/2009, Barack Obama ký đạo luật cho phép chính phủ sử
dụng gói kích thích thứ 2 kể từ đợt khủng hoảng, gói kích thích này
trị giá lên đến 787 tỷ dollar. Mặc dù đã ra sức ngăn chặn nhưng
những nỗ lực của Chính phủ Mỹ dường như là không đủ, khủng
hoảng vẫn nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. 18
Hnh 8 – Bảng cân đối của FED trong khoảng thời gian 2007-2023 (Nguồn: vnexpress)
Hệ quả hệ quả kéo theo từ cuộc đại suy thoái của Mỹ là vô cùng lớn. Hàng
triệu gia đình mất nơi ăn chốn ở, các cơ sở kinh doanh thì bị đình trệ, không có việc.
Thêm đó, con số lên đến 30 triệu công nhân mất việc, thất nghiệp kéo dài, vô số người
đột nhiên trở nên nghèo đói. Cùng với đó là 10,000 tỷ đô la Mỹ bị cuốn trôi mất….
Tháng 10 năm 2008: hàng loạt những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót
qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers,
Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn.
Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ
cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô
Hoa Kỳ 2008-2010. 15/9/2008, Lehman Brothers – ngân hàng 160 năm tuổi, một
trong năm định chế tài chính cho vay lớn nhất nước Mỹ khi đó đã phải tuyên bố phá sản.
Điều này đã dấy lên những nhận định, giả thuyết và có thể nói đây chính là
một trong những tín hiệu đầu tiên báo trước cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh giá
là "tồi tệ nhất nhất trong lịch sử", là cột mốc cho sự sụp đổ của ngành công nghiệp tài
chính của Mỹ - nguyên nhân chính đẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn đen tối. Tuy nhiên, Lehman
Brothers cũng chỉ là một trong
những quân cờ Domino bị sụp đổ
trong một phản ứng dây chuyền
Hnh 9 - Tờ báo The Philadelphia Unquirer đăng tin về chỉ số Dow Jones iả kỷ l t lị h ử (N I t t)
đầu năm 2008. Vào ngày 16/3/2008, Bear Stearns - một trong năm ngân hàng đầu tư
lớn nhất phố Wall - cũng phải cầu cứu và được JPMorgan Chase mua lại với khoản hỗ
trợ 30 tỷ USD từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Chính phủ Mỹ thông qua khoản cứu trợ 200 tỷ USD nhằm mục đích cứu
Freddie Mac và Fannie Mae - hai nhà cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, không bị
phá sản và cứu AIG - một trong ba công ty bảo hiểm lớn nhất bằng việc tung ra 85 tỷ
USD để mua 80% cổ phần. Những gói cứu trợ hàng trăm tỷ USD được đưa ra sau đó
như một nỗ lực để giảm bớt ảnh hưởng của đợt khủng hoảng nhưng cũng chỉ cứu vãn phần nào.
Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư lâu đời của Mỹ mở đầu cho đợt bán tháo lớn
nhất trong lịch sử; sàn giao dịch chứng khoán London, bắt đầu phiên giao dịch ngày
15/9, chỉ số FTSE giảm 56,5 điểm cơ bản. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên mức 10%, cao
nhất kể từ Đại suy thoái: Khoảng 30 triệu người đã mất việc do ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng, 50 triệu người quay lại ngưỡng dưới nghèo với ước tính thiệt hại khoảng 10.000 tỷ USD.
Hnh 10 - Giao dịch chứng khoán phiên sáng 15/06/2008
Nouriel Roubini-Chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế đã
nhận định rằng: "Nếu bạn nhìn vào cái giá phải trả thì đây thực sự là cuộc khủng
hoảng cực kỳ, cực kỳ đắt tiền".
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':
Trước đây, khi một người cần khoản tiền để mua nhà, quan hệ tài chính sẽ
được hình thành giữa người đi vay và người cho vay - chỉ duy nhất hai chủ thể này.
Tuy nhiên với sự xuất hiện của CDO, sẽ có thêm những cái tên khác xuất hiện. 20
Những khoản nợ vay thế chấp sẽ được bên cho vay bán lại cho các ngân hàng
đầu tư. Các ngân hàng này gộp những khoản nợ lại thành các CDO và bán ra thị
trường. Người mua CDO sẽ là người cuối cùng hưởng khoản thanh toán từ người vay
thế chấp ban đầu. Các công ty bảo hiểm tham gia với vai trò bảo đảm rủi ro, sau khi
các CDO này được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng.
Tất cả thành phần trong ngành công nghiệp tài chính đều có thể tham gia vào
"chuỗi thức ăn chứng khoán" được định giá hàng nghìn tỷ USD này. Tuy nhiên, đó
cũng là lúc những lỗ hổng xuất hiện.
Khi các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản không còn quan tâm tới khả
năng chi trả của khách hàng, những khoản vay trở nên rủi ro với tiêu chuẩn dễ dãi
hơn. Các ngân hàng đầu tư, thay vì dành lợi nhuận để dự phòng rủi ro, lại chi ra hàng
tỷ USD để thưởng cho ban lãnh đạo, những thành viên tham gia vì khoản lợi nhuận
ngắn hạn đột biến. Các công ty xếp hạng tín nhiệm cho những CDO đánh đồng các
khoản vay thế chấp khác nhau, đa phần xếp ở mức AAA - ngang mức độ tín nhiệm
của trái phiếu chính phủ Mỹ. Còn các công ty bảo hiểm tin tưởng những công cụ tài
chính mới "không thể bị vỡ nợ".
Khi không còn ai quan tâm đến chất lượng khoản vay, dư nợ cho vay thế chấp
bất động sản của Mỹ đã tăng với tốc độ chóng mặt. Từ 160 tỷ USD của năm 2001, dư
nợ thế chấp tăng lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ lên 1.300 tỷ USD vào năm
2007. Ước tính đến cuối quý III/2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là
tiền đi vay, với 1/3 các khoản này là nợ khó đòi.
III.2. Hậu quả của khủng hoảng lên các quốc gia III.2.1. Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2007 với nhiều thu hoạch khả quan và tích cực.
Mức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt kỷ lục 17,8 tỉ USD. Bên cạnh
đó, tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%. Thị trường chứng khoán tăng mạnh với chỉ số Vn-
Index thường xuyên ở trên ngưỡng 1.000 điểm kể từ nửa cuối tháng 1-2007 cho đến
giữa tháng 11-200. Cuối 2007, Vn-Index đạt trên 900 điểm. 21
Hnh 11 – Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007 – 2021
Tác động từ cuộc khủng hoảng:
Tín dụng và vấn đề thanh toán của ngân hàng là một trong những vấn đề nhức
nhối thười điểm đó. Đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã theo đuổi chính
sách tiền tệ thắt chặt. Những động thái đầu tiên được thực thi trong quý I-2008: Quy
định tỷ lệ dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng
khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Tăng lãi suất cơ bản lên
mức 8,75%/năm và phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc. Những điều đó đã
gây ra “cú sốc” với nền kinh tế nước nhà.
Từ tháng 4 đến tháng 7-2008 diễn ra sự biến động mạnh mẽ trong tương quan
giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ (USD). Điển hình như tỷ giá trên thị trường tự do và
tỷ giá bình quân ngân hàng có mức chênh lệch rất lớn. Khoảng cuối tháng 3, đầu
tháng 4-2008, nhu cầu sử dụng USD rất thấp. Tỷ giá tự do thấp hơn tỷ giá niêm yết
chính thức. Từ đầu tháng 5 cho đến nửa cuối tháng 6-2008, giá USD trên thị trường tự
do có những lúc tăng cao đột biến. Khoảng cách giữa hai hình thức tỷ giá dao động từ
3.000 đồng đến 3.500 đồng/USD. 22
Hnh 12 - Tăng trưởng tín dụng, làm phát và giá dầu vào năm 2008 (Nguồn: mof.gov.vn)
Đầu cơ và biến động giá cả
Diễn biến phức tạp của giá dầu
mỏ cũng là một hệ luỵ đến từ khủng
hoảng kinh tế. Mâu thuẫn địa - chính trị
ở một số khu vực dầu mỏ nhạy cảm trên
thế giới và hoạt động tích cực của các
nhà đầu cơ đã đẩy giá dầu thô tăng
mạnh trong suốt 6 tháng đầu năm 2008.
Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế thế
giới, dầu thô được giao dịch với giá 147 Hnh 13 - Minh họa cho thị trường vàng nước Mỹ năm 2008
USD/thùng vào ngày 11-7-2008. Việc
giá nhiên liệu tăng cao đã khiến cho các nền kinh tế toàn cầu trong tình trạng báo động
đỏ về khủng hoảng năng lượng. Giá vàng lên xuống thất thường làm cho dân tình
không khỏi hoang mang. 2008, mức độ tăng giảm của giá vàng tương đối lớn. Khoảng
tháng 3/2008, chỉ số giá vàng liên tiếp tăng 11 và 13 điểm phần trăm. Đến tháng
5/2008, chỉ số giá vàng giảm tổng cộng 13 điểm phần trăm. Vào 7/2008, chỉ số giá
vàng tăng cao nhất trong 10 tháng đầu năm, ở mức 220,46 điểm phần trăm. Nhưng chỉ
hai tháng sau, 9/2008, chỉ số giá vàng lại tụt xuống 200 điểm. Việc giá vàng lên xuống
thất thường kéo theo giá xăng dầu liên tục biến động. III.2.2. Iceland
Trước 2008, lãi suất cơ bản của ngân hàng Trung ương Iceland đã lên đến
15,5%, thế là tiền gửi tiết kiệm từ khắp châu Âu bắt đầu đổ vào các ngân hàng tư nhân
Iceland.Nhờ đó các ngân hàng căng mình ra nhận thêm tiền đầu tư từ các thị trường 23
tài chính và từ đó bung ra mua sắm tài sản khắp thế giới - như mua lại các công ty, tài
sản nhà đất và cả các câu lạc bộ bóng đá. Tổng tài sản các ngân hàng Iceland nắm giữ
thời điểm đó lớn gấp 10 lần quy mô nền kinh tế quốc nội.
Đại khủng hoảng 2008 (Đại khủng hoảng 2008 tác động lên Iceland). Vào cuộc
đại khủng hoảng tài chính 2008, các ngân hàng trên khắp thế giới ngừng cho vay liên
ngân hàng vì lo ngại khó thu hồi vốn. Điều này khiến cho ba ông lớn ngân hàng
Iceland - gồm Kaupthing, Glitnir và
Landsbanki - đã có số dư nợ trị giá
gấp 6 lần tổng sản lượng hằng năm
của nền kinh tế đất nước. Không
nằm ngoài khả năng đã được dự
đoán trước, các ngân hàng đã nhanh
chóng sụp đổ. Nhưng thay vì can
thiệp, dùng tiền ngân sách để giải
cứu các ngân hàng như Mỹ và Anh
đã làm, Chính phủ Ireland đã để cho
các ngân hàng phá sản. Chính phủ Hnh 14 - Người dân Iceland biểu tình, chống đối những chính sách
của Thủ tướng Geir Haarde đã cho của Thủ tướng Haarde vào tháng 1, năm 2009
rằng: "Nền kinh tế Ireland quá nhỏ bé, quy mô không lớn và phức tạp bằng nền kinh tế
Anh, vì thế Iceland có thể chịu đựng sự phá sản này.". Việc phá sản 3 ông lớn ngành
ngân hàng Iceland đã để lại những hệ lụy nhất định điển hình như vào tháng 1/2009,
hàng ngàn người dân xuống đường biểu tình, ném tuyết và trứng thối để phản đối,
cũng là lúc Thủ tướng Haarde bị buộc tội trong một phiên tòa đặc biệt. Ông Haarde bị
buộc tội vì đã không làm hết trách nhiệm người đứng đầu chính phủ. Rốt cuộc Thủ
tướng Haarde buộc phải từ chức và chính phủ của ông cũng sụp đổ theo. Đây cũng
chính là chính phủ đầu tiên trên thế giới phải ra đi do hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. III.2.3. Nga
Năm 2008, LB Nga đã tạo dựng được vị thế mới trên thế giới với những cột
mốc như lọt vào danh sách bảy nước phát triển nhất thế giới, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đạt mức tăng khoảng 6% (hơn 1.300 tỷ USD). Tổng thống Medvedev tuyên
bố LB Nga đã vững vàng vượt qua năm 2008 đầy khó khăn "một cách xứng đáng".
Thủ tướng Nga Putin cũng đánh giá cao kết quả phát triển kinh tế Nga. Cũng trong
năm 2008, ngành nông nghiệp Nga có một vụ bội thu với 108 triệu tấn ngũ cốc (năm
2007 đạt 85 triệu tấn). Bên cạnh đó, sản lượng nông nghiệp tăng 10% và vốn đầu tư
vào kinh tế cũng tăng 10%. Tiền lương trung bình của người lao động Nga tăng từ 10
đến 12% trong khi lạm phát dự tính tăng 13,5%. 24
Hnh 15 - GDP Liên bang Nga từ năm 1992 đến 2013
Sau đó, chính phủ Nga phải tập trung mọi nguồn lực để khắc phục hậu quả của
cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu(Nhân dân và chính phủ Nga đối phó với
tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, 2009). Tỷ lệ lạm phát ở Nga tăng
đến hơn 13%, làm cho mức sống của người dân giảm sút. Thêm vào đó, đồng rúp mất
giá trầm trọng (từ 25 rúp/1 USD hồi đầu năm lên 29 rúp/1 USD vào cuối năm). Khủng
hoảng buộc Nhà nước phải bán ngoại tệ dự trữ quốc gia để duy trì tỷ giá đồng rúp,
khiến cho lượng dự trữ vàng-ngoại tệ của Nga giảm. Vào ngày 19 tháng 1, Chính phủ
Nga đã thông qua những biện pháp khẩn cấp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu đối với hệ thống tài chính và các xí nghiệp của Nga. III.2.4. Hy Lạp
Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp bắt đầu từ cuối năm 2009 đến khoảng tháng
4/2010, được xem như một phần của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu thời điểm đó.
(Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp trong bối cảnh đại suy thoái, 2019). Khủng hoảng
nợ tập trung trong ba năm (2009 - 2011) với những hệ lụy rất nghiêm trọng
Năm nguyên nhân chính gây ra sự bùng phát khủng hoảng nợ Chính phủ và sự
gia tăng đáng kể của chỉ tiêu nợ công/GDP trong năm 2009: Đầu tiên là tăng trưởng
kinh tế sụt giảm và mức tiết kiệm trong nước thấp. Sau 2008, tốc độ tăng trưởng GDP
bắt đầu thấp hơn so với mức mà Cơ quan Thống kê Hy Lạp dự báo. Mức tiết kiệm
trong nước thấp -> Chính phủ phải vay nợ nước ngoài, đầu tư nội địa phụ thuộc mạnh
mẽ vào các dòng vốn nước ngoài. Thứ hai phải kể đến sự thâm hụt ngân sách nặng nề,
mất cân đối tài khóa khổng lồ diễn ra trong suốt các năm từ 2004-2009 hay sản lượng
danh nghĩa tăng 40%, chi tiêu công tăng 87%. Tiếp đó là mức tăng của doanh thu thuế 25
chỉ ở mức 31%, mức chi tiêu chỉ được phép tăng 3,8% trong giai đoạn 2009-2013,
thấp hơn mức lạm phát dự kiến là 6,9%). Chính phủ Hy Lạp đã phải đưa ra yêu cầu,
mục tiêu bắt buộc với nền kinh tế như là tổng thu ngân sách theo kế hoạch sẽ tăng
31,5% từ năm 2009 - 2013, Dù vậy, Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp thường xuyên
vượt quá mức 3% GDP cho phép của Liên minh châu Âu. Thứ ba, kỷ luật tài khóa
lỏng lẻo. -> Tuân thủ ngân sách được xem là phải cải thiện mạnh mẽ trong tương lai.
Thứ tư, vào 2009, quá trình kiểm soát kinh tế được tiến hành tồi tệ, lỏng lẻo hơn mức
bình thường, nhất là trong các đợt bầu cử chính trị. Để tăng cường kỷ luật tài khóa,
Chính phủ thực hiện một đợt cải cách mới tăng cường khả năng giám sát và theo dõi
tốt hơn sự gia tăng trong các khoản thu và chi ngân sách ở cả chính quyền Trung ương
và địa phương. Thứ năm, mức độ nợ công ngày càng gia tăng. Mức độ này xấu đi
trong năm 2009, do thâm hụt ngân sách cao hơn dự kiến, tỷ lệ nợ công/GDP đã không
giảm trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng ổn định (2000 - 2007). Chính phủ Hy Lạp
không còn nhiều cơ hội để tiếp tục duy trì mức thâm hụt ngân sách mà ít ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế như những năm trước đó. Độ tin cậy trong thống kê kinh tế
không được đảm bảo: 2004 - 2009, Eurostat ghi nhận các số liệu thống kê tài khóa của
Hy Lạp và được báo cáo là các con số này đã được điều chỉnh. Những điều đó đã dẫn
đến những khó khăn của nền kinh tế Hy Lạp như đà suy giảm của tăng trưởng kinh tế,
thâm hụt ngân sách kéo dài triền miên, nợ công ngày càng gia tăng, do Chính phủ chi
tiêu mạnh tay mà không tạo ra giá trị thật cho nền kinh tế và hoàn thành nghĩa vụ nợ
và kỷ luật tài khóa lỏng lẻo, thông tin không minh bạch, nền kinh tế đã thiếu hụt trầm
trọng các động lực tăng trưởng. Mức thâm hụt ngân sách năm 2009 được dự báo là
12,7% GDP, cao hơn nhiều so với con số ước tính hiện tại của thị trường lúc đó là
6,7% GDP, kéo theo nguy cơ vỡ nợ hàng loạt của các quốc gia trong khu vực châu Âu
trước sức ép của khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008 và nợ nước ngoài của
Hy Lạp quá cao. Đứng trước bất lợi chính phủ Hy Lạp đã có những động thái vay nợ
như 10,6 tỷ USD vào tháng 01/2010, 6,7 tỷ USD vào tháng 3/2010, 2,07 tỷ USD vào
tháng 4/2010 với mức lãi suất cao và con số còn lên đến 71,8 tỷ USD bằng các thỏa
thuận trực tiếp với các nước và tổ chức tài chính quốc tế để thanh toán các khoản lãi
và nợ gốc mà thời gian đáo hạn đến gần. Không nằm ngoài dự đoán, 23/04/2010, Hy
Lạp tuyên bố mất khả năng trả nợ và chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính từ Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) và các nước Eurozone. 26
Hnh 16 – Tnh hinh nợ công tại Hy Lạp từ năm 2011 đến 2014 (Nguồn: Trading Economics)
Thâm hụt ngân sách triền miên và liên tục vay thêm nợ mới của Hy Lạp trong
giai đoạn 2009-2011 dẫn đến việc S&P, Moody’s và Fitch liên tục hạ xếp hạng tín
dụng của trái phiếu chính phủ nước ngoài, có giai đoạn hạ xuống mức CCC. Theo đó,
lãi suất trái phiếu chính phủ tăng: 1998 - 2011, lãi suất trung bình của trái phiếu chính
phủ Hy Lạp là 5,21% (mức cao nhất là 11,39% vào thời điểm tháng 12/2010 và mức
thấp nhất là 3,23% vào thời điểm tháng 9/2005).
IV. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ và toàn thế giới
IV.1. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ
IV.1.1. Biện pháp phục hồi của Mỹ
Để có được nền kinh tế đứng đầu thế giới như hiện tại Mỹ đã làm điều gì để
phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng? Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các
biện pháp nhằm tăng mức độ thanh khoản( mức độ linh hoạt của một tài sản bất kỳ
trong đó việc mua bán trên thị trường không làm thay đổi giá trị thị trường của tài sản
đó) của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào
các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính
phủ Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà ở. Tháng 9/ 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến
hành giảm lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống
4,75%. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã bơm 205 tỷ Dollar Mỹ vào
thị trường tín dụng để nâng cao mức thanh khoản.Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng
hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn, những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều
chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mô của khủng hoảng
cũng rộng hơn dự tính, tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên
bang cố giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2/2008 nhưng
hiệu quả không như mong đợi. 27
Và trước tình căng thẳng của nền kinh tế, tất nhiên Fed phải có sự vào
cuộc để giải cứu nền kinh tế Mỹ. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiến hành
các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là
lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn
2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn
tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ
mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Fed được chính
phủ cho chủ trì chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có
kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu
giá. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo chương trình này.
Chính phủ cũng phải có những hành động để khắc phục tình trạng suy thoái
này. Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký Economic
Stimulus Act of 2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng
hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân. Chính
phủ đã trình quốc hội thông qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ
do Đảng Dân chủ Hoa Kỳ chiếm đa số bác bỏ vì cho rằng không thể phí tiền để cứu
không được quá nhiều tổ chức tài chính gặp khó khăn. Song sau khi kế hoạch sử dụng
700 tỷ dollar được điều chỉnh sang hướng chi cho cả các chương trình phục vụ đông
đảo người dân nhằm kích thích tiêu dùng (như trợ giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ
dinh dưỡng cho người nghèo và người thu nhập thấp, phát triển cơ sở hạ tầng), qua đó
vực dậy nền kinh tế, nó đã được Thượng viện thông qua.
Cuối cùng là Barack Obama, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, sau khi trúng
cử đã nêu ra một chương trình kích thích kinh tế trong đó Hoa Kỳ sẽ tiến hành kích
cầu. Ông đã đưa ra những dự án phát triển cơ sở hạ tầng chưa từng có kể từ thập niên
1950. Nâng cấp hệ thống sử dụng năng lượng của các văn phòng cơ quan chính phủ
Hoa Kỳ theo hướng tiết kiệm năng lượng; đầu tư lớn cho phát triển công nghệ nhất là
thông tin y tế điện tử, hệ thống máy tính cho các trường phổ thông và phát triển mạng
Internet băng thông rộng. Cấp thêm ngân sách cho Chương trình bảo hiểm y tế
(Medicare). Cấp thêm 50 tỷ dollar ngoài khoản 20 tỷ dollar đã được đồng ý cho ngành
công nghiệp ô tô với điều kiện là ngành này phải cải tổ đáng kể. IV.1.2. Sự phục hồi
Sau khủng hoảng nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi vào tháng 6 năm 2009 28
Hnh 17 - Tăng trưởng GDP thực của Hoa Kỳ (Nguồn: Cục Phân tích Kinh tế Mỹ)
Từ cuối năm 2009 đến năm 2010 GDP thực tế tăng lên với tốc độ hàng năm là
2,4%. Năm 2010 tuy ít chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng nhưng nền
kinh tế phục hồi khá chậm trong khi tỷ lệ thất nghiệp là 10% trong suốt năm. Ngoài ra
do phải đối mặt với nợ công cao và thâm hụt ngân sách trầm trọng, bị trói tay do
không kiểm soát được Hạ viện nên chính quyền Obama không thể đưa ra gói kích cầu
mới có ý nghĩa hơn, Cục dự trữ Liên bang Mỹ phải tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ
nới lỏng để vực dậy nền kinh tế và đối phó với tình trạng thất nghiệp cao. Năm 2011,
tăng trưởng của Mĩ ở mức thấp và đã chậm lại so với 2010. Tăng trưởng chủ yếu do
tiêu dùng cá nhân vào những tháng cuối năm nhưng chỉ đủ làm giảm mức thất nghiệp
xuống thành 8,6%. Năm 2012, tăng trưởng kinh tế Mỹ ở “ tốc độ khiêm tốn” mặc dù
đạt 2,25%. Nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp vừa là tin tốt vừa là tin xấu. Rủi ro về
nên suy thoái khác đang giảm đi nhưng triển vọng về một thời kỳ tăng trưởng nhanh
để có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp và giúp nền kinh tế lấy lại những gì đã mất thời gian
qua cũng không khả quan hơn. Cuối năm 2011, khi sản lượng kinh tế, sau khi điều
chỉnh lạm phát đã trở lại mức trước suy thoái nhưng thu nhập bình quân đầu người
vẫn chưa trở lại mức cao của năm 2007 và hầu hết các chỉ tiêu khác của nền kinh tế
vẫn đang “dậm chân tại chỗ”. Năm 2012 là năm mà thị trường bất động sản, lĩnh vực
vốn kéo lùi tăng trưởng của Mĩ trong suốt những năm qua, đang trở thành điểm sáng
của nền kinh tế với doanh số giao dịch tăng vọt lên đến mức trước khủng hoảng. Thị
trường chứng khoán tiếp lập các kỷ lục mới trong những tháng đầu năm 2013. Năm
2013, chương trình “ vạch đá tài chính” cắt giảm chi tiêu và tăng thuê đã được Quốc
hội thông qua ngay từ đầu năm và có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Tính đến năm 2013,
sau 5 năm từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tuy nền kinh tế chưa hoàn toàn phục hồi
nhưng đã có những điểm sáng nhất định. 29
IV.2. Các quốc gia khắc phục hậu quả IV.2.1. Các nước Châu Âu
IV.2.1.1. Tác động của khủng hoảng
Không chỉ riêng Mỹ, các nước khác trên thế giới cũng chịu hậu quả từ
cuộc khủng hoảng kinh tế nền. Trước hết là các nước Châu Âu, ba ngân hàng lớn ở
Châu Âu bị đẩy đến bờ vực của sự phá sản, hai ngân hàng của Pháp cũng có nguy cơ
bị rơi vào rối loạn, gồm có liên doanh Bỉ-Hà Lan Fortis, ngân hàng Anh Bradford và
Bingley, ngân hàng Đức Hypo Real Estate. Đức( nền kinh tế lớn nhất châu Âu và thứ
ba thế giới) đã tăng trưởng âm trong quý 3 năm 2008, làm cho nước này chính thức
rơi vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong vòng 12 năm qua. Theo số liệu Liên minh châu
Âu (EU), nền kinh tế của 15 nước sử dụng đồng Euro lần đầu tiên kể từ khi được
thành lập năm 1999 đã rơi vào giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP đều giảm
0,2%) trong hai quý liên tiếp. Khủng hoảng còn lan rộng ra nhiều lĩnh vực như công
nghiệp, nông nghiệp, tiêu dùng, xuất khẩu…. IV.2.1.2. Biện pháp
Các quốc gia này cũng đã đưa ra những biện pháp để vực dậy nền kinh tế.
Iceland đã từ chối giải cứu các ngân hàng đang bên bờ vực phá sản vào năm 2008 để
tập trung các nguồn lực phục vụ chính sách phúc lợi, hỗ trợ người tiêu dùng và doanh
nghiệp. Chính phủ Iceland đã mua lại 75% cổ phần trong ngân hàng Glitnir lớn thứ ba
Iceland. Iceland tự bảo vệ trước nguy cơ dòng chảy vốn thoát ra bằng cách hạn chế sự
luân chuyển tiền tệ, cho phép chính phủ ngăn chặn sự tấn công đầu cơ. ECB(Ngân
hàng Trung ương Châu Âu) đã đổ rất nhiều tiền từ nguồn dự trữ của mình để duy trì
khả năng thanh toán tín dụng, giữ cho thị trường thanh khoản không rơi xuống đáy.
Chính phủ Bỉ và Hà Lan quyết định chi 16 tỷ USD để quốc hữu hóa( đưa từ sở hữu tư
nhân sang sở hữu nhà nước) một phần ngân hàng chung Fortis NV. Chính phủ Ðức
cam kết chi 35 tỷ euro để bảo lãnh cho tập đoàn tín dụng bất động sản Hypo Real
Estate Holdings AG mà cổ phiếu đã sụt giảm tới hơn 60%. Ngân hàng Dexia của Bỉ
và Pháp sẽ nhận được khoản tiền cứu trợ khẩn cấp 6,4 tỷ euro, tương đương 9,2 tỷ
USD, từ chính phủ hai nước nói trên và các cổ đông lớn. Chính phủ Luxembourg sẽ
mua lượng cổ phần trị giá 376 triệu euro của bộ phận Dexia đang hoạt động ở nước này.
IV.2.2. Các nước Châu Á
IV.2.2.1. Tác động của cuộc khủng hoảng
Tiếp theo là các nước Châu Á. Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế
đang phát triển ở châu Á sẽ giảm từ 6,9% năm 2008 xuống 5,8% vào năm 2009. Tốc
độ tăng trưởng công nghiệp của Trung Quốc đã giảm sút liên tục từ 16% hồi tháng 6 30
xuống còn 11,4% trong tháng 9 và xuống tiếp 8,2% trong tháng 10 năm 2009. Theo
dự đoán của ADB ( Ngân hàng phát triển Châu Á), mức tăng trưởng của Ấn Độ giảm
xuống còn 7% năm 2008 và 6,5% vào năm 2009. Kinh tế Nhật Bản đang tiếp tục
xuống dốc với việc sản lượng công nghiệp tháng 11 năm 2009 sụt giảm tới 8,1%, lợi
nhuận của các công ty giảm mạnh trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 3,9%. IV.2.2.2. Biện pháp
Để phục hồi nền kinh tế, các nước Châu Á đã đề ra một số giải pháp.
ADB kêu gọi các nhà hoạch định chính sách châu Á hành động nhanh để ngăn chặn
việc siết chặt hơn nữa các thị trường tín dụng, đảm bảo tính thanh khoản trong và
ngoài nước, đồng thời củng cố sự hợp tác giữa các nước để đối phó với một đợt suy
giảm kéo dài. Trung Quốc và Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận trao đổi tiền tệ song
phương trị giá 180 tỷ Nhân dân tệ (26,2 tỷ USD), nhằm cung cấp đủ lượng tiền mặt
cho hệ thống tài chính của hai nước. ASEAN đẩy mạnh hợp tác thúc đẩy thương mại
và chống khủng hoảng tài chính. Nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, Ngân hàng Trung
ương Nhật Bản (BoJ) vừa hạ lãi suất cơ bản đồng Yên của nước này từ mức 0,3% về mức 0,1%.
IV.3.Việt Nam trong cuộc khủng hoảng kinh tế
IV.3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng
Việt Nam cũng là nước ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế. Lạm phát tại Việt Nam tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008, cuối tháng
6-2008, chỉ số giá so với kỳ gốc 2005 là 144,30%. Trong quý III-2008, tốc độ tăng
CPI giảm dần, tính cả quý, CPI chỉ tăng 4,18 điểm phần trăm. Diễn biến phức tạp của
giá dầu mỏ: Giá nhiên liệu tăng cao (do mâu thuẫn địa-chính trị của một số khu vực
dầu mỏ nhạy cảm và các nhà đầu cơ hoạt động tích cực) đặt các nền kinh tế toàn cầu
trong tình trạng báo động đỏ về khủng hoảng năng lượng.Giá vàng lên xuống thất
thường,“sốt”giá lương thực:trong ba tháng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lần lượt
tăng 23,6%, 40,4% và 26,7%. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số chứng khoán
giảm tới 70% so với đầu năm. IV.3.2. Biện pháp
Việt Nam cũng có những động thái để khắc phục những hậu quả này.
Khẩn trương xây dựng và phát triển một học thuyết kinh tế của Việt Nam, cho Việt
Nam, vì Việt Nam, giúp định hướng điều hành rõ nét, và chủ động hơn. Ngay từ quý
I-2008 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa
những hậu quả khôn lường của “cơn bão tài chính”. Chính sách thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu cũng được điều chỉnh kịp thời, linh hoạt nhằm hỗ trợ cho sản xuất trong
nước. Ngân hàng nhà nước đã có những động thái nới lỏng tiền tệ đi liền với tăng
cường kiểm soát rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Thành lập cơ quan giám sát hỗn hợp 31
liên ngành để tăng cường giám sát các gói kích cầu, trong đó có gói kích cầu bằng hỗ
trợ lãi suất đảm bảo hiệu quả, công khai, minh bạch.
V. Những người làm giàu nhờ khủng hoảng
Trong tình hình khó khăn về tài chính, vẫn có những nhà đầu tư có thể
thành công dựa vào thời kì này. Warren Buffett có câu nói “ Bạn sẽ có những khoản
mua về tốt nhất khi mọi người đang đầy hoang mang”. Tận dụng thời cơ thế giới
đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế, cổ phiếu của những công ty ông yêu thích như
Wells Fargo & Co và American Express Co đang giảm mạnh, ông đã quyết định mua
vào những cổ phiếu đó và của nhiều doanh nghiệp khác nữa, qua đó hỗ trợ tài chính
các doanh nghiệp. Đó là sự đối nghịch của Warren Buffet với các nhà đầu tư khác,
trong khoảng thời gian này họ đã bán đi các cổ phiếu nhiều nhất có thể. Và sau 5 năm
các khoản đầu tư của Ông đã có giá trị lên tới 10 tỷ USD và chưa có dấu hiệu dừng
lại. Ngoài ra còn có Adam Khoo (triệu phú người Singapore).Năm 2008-2009 thế
giới chứng kiến thị trường chứng khoán rớt giá mạnh. Tại Singapore chỉ số S&P 500
( chỉ số chứng khoán được vốn hóa dựa trên 500 công ty đại chúng lớn nhất) giảm
hơn 55%. Các nhà đầu tư hoang mang và nghĩ rằng thị trường sẽ mất thời gian dài để
phục hồi nên đã bán tống bán tháo các cổ phiếu. Sau khi nghiên cứu kỹ và nhận ra
tiềm năng từ các cổ phiếu rớt giá, Adam Khoo đã mua lại các cổ phiếu này và bán lại
khi giá cổ phiếu tăng. Và kết kết quả là sau khủng hoảng ông đã thu về hàng triệu đô la Mỹ. 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.baonhandan. 2009. “Nga nỗ lực đối phó ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính -
kinh tế toàn cầu.” Báo Nhân Dân.
2.“Châu Âu đối phó cuộc khủng hoảng tài chính.” 2008. Báo Nhân Dân. .
3.“Chi tiết tin.” n.d. Chi tiết tin.
4.“Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008.” 2018. VnExpress.
5.“Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008.” 2018. VnExpress.
6.“Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và những tác động của nó.” 2008. Tạp chí Cộng sản. .
7.Đại khủng hoảng 2008 tác động lên Iceland. 2018. “Iceland: Kinh tế phục hồi thần
kỳ nhờ du lịch và công nghệ.” Công an Nhân dân.
8.“Khủng hoảng kinh tế - cơ hội cho các nhà đầu tư.” 2014. Tin nhanh chứng khoán.
9.Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp trong bối cảnh đại suy thoái. 2019. “Nhìn lại
khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và kinh nghiệm đối với Việt Nam.” Tạp chí Tài chính.
10.“Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế và sự phục hồi.” n.d. Academia.edu.
11.“Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007–2009 – Wikipedia tiếng Việt.” n.d. Wikipedia.
12.“Kinh tế Mỹ 13 năm nhìn lại sau thảm họa 11/9.” 2014. Tạp chí Tài chính.
13.Kinh te - Van hoa - The thao. 2018. “Iceland: Kinh tế phục hồi thần kỳ nhờ du lịch
và công nghệ.” Công an Nhân dân.
14.mof.gov.vn. n.d. “Chi tiết tin.” Chi tiết tin.
15.“Nét tương đồng không thú vị của khủng hoảng tài chính 2008 với ngày hôm nay.”
2020. Tin nhanh chứng khoán.
16.Nhân dân và chính phủ Nga đối phó với tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. 2009. “Nga nỗ lực đối phó ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế
toàn cầu.” Báo Nhân Dân.
17.“Nhìn lại lịch sử cuộc khủng hoảng tài chính 2008.” 2023. Binance.
18.“Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam 2008 phải trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế
giới.” 2009. Tạp chí Tuyên giáo. 33
19.“Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam 2008 phải trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế
giới.” 2009. Tạp chí Tuyên giáo.20.tapchitaichinh. 2018. “Cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu và những cảnh báo.” Tạp chí Tài chính.
21.tapchituyengiao. n.d. “Chi tiết tin.” Chi tiết tin.
22.“Tin bộ tài chính.” 2008. Tin bộ tài chính.
23.vnexpress. 2018. “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 'đắt đỏ' năm 2008.” VnExpress. 34