chủ đề phân tích và lí giải nguyên nhân biến động trong GDP của nền kinh tế Việt Nam | Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô
Việc phân tích và lý giải nguyên nhân gây ra biến động GDP trong nền kinh tế Việt Nam là một chủ đề rất quan trọng và đang được quan tâm trong lĩnh vực kinh tế học. GDP là một trong những chỉ số quan trọng nhất để đánh giá sức khỏe của nền kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Kinh tế vĩ mô ( UEH)
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47207194
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tiểu luận
MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ NÂNG CAO
CHỦ ĐỀ: PHÂN TÍCH VÀ LÝ GIẢI NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỘNG TRONG GDP
CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
Giảng viên hướng dẫn : Ninh Thị Thu Thủy Lớp : 47K04 Nhóm thực hiện : Nhóm Thành viên : Nguyễn Lê Phương Nam Trần Cảnh Trường Trần Thị Phương Thảo Đỗ Thị Yến Nhi Hồ Uyển Nhi Mục Lục
M đầầuở........................................................................................................................................................3 I.
Giai đo n 2000 đếến 2005ạ
.....................................................................................................................4
1. Các yếếu tốế tác đ ng tch c c đếến GDPộ ự
.............................................................................................4 lOMoAR cPSD| 47207194
2. Các yếếu tốế gầy nh hả ưởng xầếu đếến nếần kinh tếế và
GDP...................................................................5
II. Giai đo n 2006 đếến 2010ạ
.....................................................................................................................5
1. Các yếếu tốế tác đ ng tch c c đếến GDPộ ự
.............................................................................................6
2. Các yếếu tốế gầy nh hả ưởng xầếu đếến nếần kinh tếế và
GDP...................................................................6
III. Giai đo n 2011 đếến 2015ạ
.....................................................................................................................7
1. Các yếếu tốế tác đ ng tch c c đếến GDPộ ự
.............................................................................................7
2. Các yếếu tốế gầy nh hả ưởng xầếu đếến nếần kinh tếế và
GDP...................................................................8
IV. Giai đo n 2016 đếến 2019ạ
.....................................................................................................................8
1. Các yếếu tốế tác đ ng tch c c đếến GDPộ ự
.............................................................................................9
2. Các yếếu tốế gầy nh hả ưởng xầếu đếến nếần kinh tếế và
GDP...................................................................9
V. Giai đo n 2020 đếến 2022ạ
...................................................................................................................10
1. Các yếếu tốế tác đ ng xầếu đếến GDPộ
..................................................................................................10
2. Các yếếu tốế nh hả
ưởng tch c c đếnế GDPự
........................................................................................11 Tài li u tham kh o.ệ ả
....................................................................................................................................11 B ng Phần cống
cống vi cả ệ .........................................................................................................................12 Mở đầu lOMoAR cPSD| 47207194
Việc phân tích và lý giải nguyên nhân gây ra biến động GDP trong nền kinh tế Việt Nam
là một chủ đề rất quan trọng và đang được quan tâm trong lĩnh vực kinh tế học. GDP là
một trong những chỉ số quan trọng nhất để đánh giá sức khỏe của nền kinh tế, và biến
động GDP có thể ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Việc
hiểu rõ nguyên nhân của sự biến động này sẽ giúp chúng ta đưa ra các giải pháp kinh tế
hiệu quả để ổn định và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Trong bài tiểu luận này, chúng ta
sẽ đi sâu vào phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam, từ các yếu tố kinh
tế nội bộ như đầu tư, sản xuất, xuất khẩu, đến các yếu tố bên ngoài như thế giới, tình hình
chính trị, kinh tế quốc tế, và các yếu tố khác. Bài tiểu luận này hy vọng sẽ giúp bạn hiểu
rõ hơn về những thách thức và cơ hội của nền kinh tế Việt Nam và đóng góp vào việc xây
dựng một nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
GDP VIỆT NAM TRONG NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2022 I.
Giai đoạn 2000 đến 2005
Từ dữ liệu cho trước, chúng ta có thể thấy rằng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2000
đến 2005 tăng đáng kể, từ 441.646,00 ( Tỷ Đồng) vào năm 2000 lên đến 914.001,00 ( Tỷ Đồng) vào năm 2005.
Sở dĩ tổng sản phẩm trong nước đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các
ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có mức tăng trưởng khá cao. Ước tính lOMoAR cPSD| 47207194
năm 2005 so với năm 2000, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 30% với
tốc độ tăng bình quân mỗi năm 5,42%, trong đó nông nghiệp tăng 4,11%/năm, lâm
nghiệp tăng 1,37%/năm, thuỷ sản tăng 12,12%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp gấp 2,1
lần, bình quân mỗi năm tăng 16,02%, trong đó công nghiệp Nhà nước gấp 1,73 lần, bình
quân mỗi năm tăng 11,53%; công nghiệp ngoài Nhà nước gấp 2,69 lần, bình quân mỗi
năm tăng 21,91%; công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài gấp 2,17 lần, bình
quân mỗi năm tăng 16,8%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo giá thực tế gấp 1,96 lần; tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương gấp 2,3 lần,
bình quân mỗi năm tăng 18,18%, trong đó xuất khẩu gấp 2,24 lần, bình quân mỗi năm
tăng 17,5% nhập khẩu gấp gần 2,36 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,58%.
Sự tăng trưởng này chủ yếu được đạt được nhờ vào những nỗ lực của chính phủ trong
việc thu hút đầu tư và phát triển các ngành kinh tế mới, đồng thời cũng nhờ vào sự thay
đổi chính sách kinh tế để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
1. Các yếu tố tác động tích cực đến GDP Ngành công nghiệp:
Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ với tốc độ
tăng trưởng hàng năm trên 10%. Nguyên nhân chính là do chính sách mở cửa kinh tế và
đẩy mạnh đầu tư vào các khu công nghiệp. Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là từ các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. Điều
này đã giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng hơn, tạo điều kiện cho việc
nâng cao năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. . Các ngành sản xuất
đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP trong giai đoạn này bao gồm: điện tử, điện lạnh, sản
xuất ô tô và xe máy. Ngành dịch vụ:
Ngành dịch vụ cũng đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai
đoạn này. Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ đạt khoảng 7% hàng năm. Nguyên nhân
chính là do sự phát triển của ngành du lịch, bán lẻ, giáo dục và y tế. Ngành nông nghiệp:
Ngành nông nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn này không đóng góp quá nhiều cho
tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh
tế Việt Nam, đóng góp cho việc giảm nghèo và cải thiện đời sống người dân. Sự phát
triển của ngành này bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, bao gồm khả năng cạnh tranh với các
nước trong khu vực, sự thiếu hụt vốn đầu tư và các vấn đề liên quan đến môi trường và thảm họa thiên tai. lOMoAR cPSD| 47207194
2. Các yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và GDP
Tuy nhiên, đáng lưu ý là sự tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này không
đồng đều và còn gặp phải nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 2000 đến 2005, GDP của Việt
Nam đã trải qua nhiều biến động do ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong.
Đại dịch cúm gia cầm: Năm 2003, Việt Nam đã phải đối mặt với đại dịch cúm gia cầm,
khiến cho ngành chăn nuôi và thủy sản bị ảnh hưởng nặng nề. Do đó, sản lượng và giá cả
của các sản phẩm này giảm sút, gây ảnh hưởng đến GDP của nước ta.
Đại dịch SARS: Năm 2003, đại dịch SARS đã gây ảnh hưởng lớn đến ngành du lịch, một
trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất của Việt Nam. Số lượng khách du lịch
đến Việt Nam giảm đáng kể, gây thiệt hại đáng kể cho ngành du lịch và ảnh hưởng đến GDP. II.
Giai đoạn 2006 đến 2010
Từ dữ liệu cho trước, chúng ta có thể thấy rằng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2006
đến 2010 tăng đáng kể, từ 1.061.565,00 tỷ đồng vào năm 2006 lên đến 2.739.843,17 tỷ đồng vào năm 2010.
Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam đã tiến thêm được một bước trên chặng
đường phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Sang những năm cuối của
thời kỳ kế hoạch, nhất là từ Quý II năm 2007 măc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng ̣
cao, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động
không thuận đến nền kinh tế nước ta, nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững
được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá với mức tăng trưởng bình
quân trong cả thời kì 2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên
đáng kể. Điều này được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh vực lớn như sau:
Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP (tính theo giá trị so sánh) năm
2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính theo giá trị thực tế tính bằng đồng đô la Mỹ) ước
đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân
đầu người) ước khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD,
vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu
nhâp trung bình. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá ̣ .
1. Các yếu tố tác động tích cực đến GDP
Đầu tư và xuất khẩu: Các chính sách hỗ trợ đầu tư và mở rộng các thị trường xuất khẩu
đã thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao giá trị xuất khẩu của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 47207194
Nhờ đó, các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là các ngành
sản xuất điện tử, dệt may, giày dép và đồ gỗ.
Chính sách tài khóa và tiền tệ: Chính sách tài khóa và tiền tệ ổn định của Chính phủ đã
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và giảm bớt rủi ro tài chính, đồng thời
hỗ trợ tăng trưởng của các ngành kinh tế.
Đổi mới kinh tế: Quá trình đổi mới kinh tế và cải cách hành chính đã cải thiện môi trường
kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Đặc biệt, việc thực
hiện các chính sách đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã giúp nâng cao
năng suất lao động, tăng trưởng sản xuất và thu nhập cho người dân.
2. Các yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và GDP
Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh
tế toàn cầu trong thập kỷ 2000, và cũng ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam. Từ cuối năm
2008, nền kinh tế thế giới gặp khó khăn, ảnh hưởng đến xuất khẩu, đầu tư và nhu cầu tiêu dùng của Việt Nam.
Đại dịch H1N1: Đại dịch H1N1 đã gây ra ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam bởi vì nó
làm giảm lượng du khách và ảnh hưởng đến các ngành kinh doanh liên quan đến du lịch và dịch vụ
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản
trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt
ra là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Tương tự, tỷ trọng công nghiệp và xây
dựng trong GDP chỉ tăng khoảng 0,08 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt ra
là khoảng 2 – 3 điểm phần trăm); tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP 5 năm qua cũng
chỉ tăng khoảng 0,59 điểm phần trăm. Mặt khác, trình độ công nghệ ở nhiều doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng, nguyên nhiên liệu
cho một đơn vị sản phẩm trong quy trình sản xuất khá lớn, nhưng sản phẩm làm ra lại
đơn điệu, chất lượng thấp, giá thành cao... Trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế cũng
còn khoảng cách quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa tạo được sức lan tỏa thúc đẩy
những vùng khác cùng phát triển. Các thành phần kinh tế chưa được khuyến khích phát
triển trên cùng một mặt bằng về cơ chế chính sách...
Tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng nhu cầu
chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các khoản vay
trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy động vốn để
xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Gánh nặng kinh phí để chi trả
khi các trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán sẽ dễ tạo khả năng bấp bênh trong cân
đối ngân sách, trong khi những cân đối này và các cân đối tiền tệ, tín dụng, xuất nhập lOMoAR cPSD| 47207194
khẩu, cán cân thanh toán quốc tế chưa thật ổn định và còn nhiều yếu tố có thể gây ra tái lạm phát.
Kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước ngoài .Cụ thể,
chất lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Các cảng biển chưa có khả năng tiếp nhận
tàu có tải trọng lớn. Nhiều cảng hàng không thể tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi
thời tiết xấu. Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân
dân. Sản lượng điện thương phẩm bình quân đầu người đến năm 2010 chỉ ước đạt
980KWh, thấp hơn so với nhiều nước trên thế giới. Nhiều công trình thủy lợi quá cũ, hạ
tầng thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu cầu khai thác sử dụng tổng hợp đa mục tiêu. Việc đầu tư
xây dựng mạng lưới hạ tầng thông tin, truyền thông tới khu vực nông thôn, đặc biệt là
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn chậm. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là giao thông, cấp
thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn vừa thiếu, vừa kém chất lượng đang
gây ách tắc cho sự phát triển. III.
Giai đoạn 2011 đến 2015
Trong giai đoạn này GDP Việt Nam có tăng nhưng con số tăng tương đối ít, cụ thể là
3.539.881,31 tỷ đồng vào năm 2011 và 5.191.323,73 vào năm 2015
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2010 theo giá so sánh 2010 đạt 6,42% (1)
giảm xuống chỉ còn tăng 6,24% trong năm 2011 và 5,25% trong năm 2012, nhưng năm
2013 đã tăng lên đạt 5,42%; năm 2014 đạt 5,98% và sơ bộ năm 2015 đạt 6,68%. Tính ra,
trong 5 năm 2011-2015, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,91%, đưa
quy mô nền kinh tế nước ta năm 2015 gấp 1,33 lần năm 2010.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế nước ta trong 5 năm 2011-2015 tuy thấp
hơn tốc độ tăng bình quân mỗi năm của các giai đoạn 5 năm trước và không đạt mục tiêu
đề ra là tăng bình quân mỗi năm, 6,5-7%, nhưng vẫn đứng vào hàng các nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới.
1. Các yếu tố tác động tích cực đến GDP
Chính sách kinh tế của chính phủ: Chính phủ Việt Nam đã áp dụng nhiều chính sách kinh
tế tích cực, như cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh, cải cách thuế
và hỗ trợ doanh nghiệp. Những chính sách này đã giúp tăng cường sự phát triển kinh tế
và ổn định của Việt Nam.
Tăng trưởng của các ngành kinh tế: Trong giai đoạn này, nhiều ngành kinh tế của Việt
Nam đã phát triển mạnh, đặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ. Sự tăng trưởng này đã
đóng góp tích cực vào GDP của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 47207194
Hợp tác kinh tế quốc tế: Việt Nam đã ký kết nhiều thỏa thuận thương mại tự do với các
nước và vùng lãnh thổ khác trên thế giới. Điều này đã mở rộng thị trường tiêu thụ cho các
sản phẩm của Việt Nam, góp phần tăng trưởng GDP.
Kết quả đạt được trong chương trình cải cách hành chính: Chính phủ đã triển khai
chương trình cải cách hành chính, giúp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp và giảm chi phí đầu tư. Điều này đã thúc đẩy sự phát
triển kinh tế và tăng GDP của Việt Nam.
2. Các yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và GDP
Khó khăn về kinh tế toàn cầu: Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới đang phục hồi sau
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, tuy nhiên, nhiều nước vẫn đang gặp khó khăn
trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. Điều này đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của
Việt Nam, góp phần làm giảm GDP của nước ta.
Tình trạng khủng hoảng nợ công ở Châu Âu: Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã ảnh
hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, và cũng làm giảm tốc độ tăng trưởng của các quốc gia
trong khu vực. Việt Nam không tránh khỏi ảnh hưởng này, khi xuất khẩu sang Châu Âu giảm sút.
Khó khăn trong sản xuất và kinh doanh: Trong giai đoạn này, doanh nghiệp ở Việt Nam
đang gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất và kinh doanh, do tình trạng lạm phát, chi
phí lao động tăng cao, cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia khác và các vấn đề khác. Điều
này cũng ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam.
Tình trạng thiếu năng lượng: Trong giai đoạn này, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng
thiếu năng lượng, đặc biệt là thiếu điện. Tình trạng này đã ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến GDP của nước ta.
Điều kiện thời tiết không thuận lợi: Trong một số năm, Việt Nam đã phải đối mặt với
thiên tai như lũ lụt, đặc biệt là tại các khu vực sản xuất chính như miền Trung. Thiên tai
đã gây thiệt hại cho sản xuất và gây mất mát về tài sản, từ đó ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 47207194 IV.
Giai đoạn 2016 đến 2019
Dữ liệu GDP Việt Nam từ năm 2016 đến 2019 được cung cấp theo đơn vị tỷ đồng và có
xu hướng tăng dần như sau:
Năm 2016: 5.639.401,00 tỷ đồng.
Năm 2017: 6.293.904,55 tỷ đồng, tăng 11,6% so với năm trước.
Năm 2018: 7.009.042,13 tỷ đồng, tăng 11,4% so với năm trước.
Năm 2019: 7.707.200,29 tỷ đồng, tăng 10,0% so với năm trước.
Từ dữ liệu trên, ta có thể thấy rằng GDP của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể
trong giai đoạn từ 2016 đến 2019, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình khoảng
11%. Đặc biệt, trong năm 2017 và 2018, tỷ lệ tăng trưởng GDP lần lượt là 11,6% và
11,4%, cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế sau nhiều năm chịu ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên năm 2019 lại giảm xuống còn 10%
1. Các yếu tố tác động tích cực đến GDP
Cải cách đối ngoại: Chính sách đẩy mạnh cải cách đối ngoại đã giúp tăng cường quan hệ
thương mại với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Từ đó, nền kinh tế Việt Nam
đã có sự phát triển đáng kể và đóng góp lớn vào GDP.
Thương chiến Mỹ - Trung: Thương chiến Mỹ - Trung đã ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn
cầu và ảnh hưởng đến GDP của nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam. Khi Mỹ áp đặt thuế
quan đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, các doanh nghiệp Trung Quốc đã dời
sản xuất sang các quốc gia khác, bao gồm Việt Nam. Điều này đã giúp Việt Nam tăng
trưởng GDP nhưng cũng gây ra một số vấn đề, bao gồm tăng giá thành và áp lực tăng
trưởng cho các doanh nghiệp sản xuất.
Xuất khẩu tăng trưởng: Trong thời gian này, xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh
mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, chế biến nông sản, thuỷ sản, gỗ và dệt may. Việc
tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần giúp gia tăng sản lượng và giá trị của nền kinh tế, góp
phần tăng GDP của Việt Nam.
2. Các yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và GDP
Thiên tai và khí hậu: Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
của thiên tai và khí hậu. Trong giai đoạn này, nước ta đã chịu ảnh hưởng của nhiều cơn
bão, lũ lụt và hạn hán, gây thiệt hại nặng nề đến nông nghiệp, sản xuất và đời sống của
người dân. Những thiên tai và khí hậu có thể gây ảnh hưởng đến sản xuất, vận chuyển và
các hoạt động kinh doanh khác, gây gián đoạn và ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế. lOMoAR cPSD| 47207194
Đầu tư công giảm: Trong giai đoạn này, đầu tư công của Việt Nam cũng giảm, ảnh hưởng
đến các dự án phát triển cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp khác. Điều này có thể
dẫn đến sự gián đoạn trong sản xuất và làm tăng chi phí đầu tư, ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam.
Chính sách thương mại bất ổn: Thương mại toàn cầu trong giai đoạn này đã trở nên bất
ổn, với các cuộc tranh cãi thương mại giữa các nước và sự tăng đột biến của thuế quan.
Các biện pháp thương mại đơn phương và các cuộc chiến thương mại có thể gây ra gián
đoạn trong sản xuất và xuất khẩu, ảnh hưởng đến GDP của Việt Nam. V.
Giai đoạn 2020 đến 2022
Dựa vào các số liệu GDP của Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2022 như sau:
Năm 2020: 8.044.385,73 tỷ đồng
Năm 2021: 8.479.666,50 tỷ đồng
Năm 2022: 9.513.000,00 tỷ đồng
Có thể thấy rằng GDP của Việt Nam đã tăng trưởng trong giai đoạn từ 2020 đến 2022,
nhưng tốc độ tăng trưởng không được ổn định và đã có sự biến động.
Từ năm 2020 đến năm 2021, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là khoảng 5,4%, đây
là một mức tăng trưởng khá thấp so với những năm trước đó. Tuy nhiên, trong năm 2022,
GDP của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, với mức tăng trưởng lên đến khoảng 12,1%, đạt
mức cao nhất trong 3 năm gần đây.
Một số yếu tố có thể giải thích sự biến động này là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và
các chính sách kinh tế được triển khai trong giai đoạn này. Tuy nhiên, năm 2022 GDP đã
đạt mức tăng trưởng cao, cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam.
1. Các yếu tố tác động xấu đến GDP
Đại dịch COVID-19: Đại dịch COVID-19 đã có ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam. Trong năm 2020, nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ như du lịch, hàng
không, vận tải và đầu tư bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. GDP Việt Nam chỉ tăng
trưởng 5,4% một con số khá thấp so với những năm trước
Biến động giá cả: Trong năm 2020 và đầu năm 2021, giá các sản phẩm xuất khẩu của
Việt Nam như dầu thô, cà phê và gạo đã giảm. Trong khi đó, giá các sản phẩm nhập khẩu
như nguyên liệu sản xuất đã tăng. Điều này gây ra áp lực giảm giá cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam lOMoAR cPSD| 47207194
Thiên tai: Trong năm 2020 và 2021, nhiều thiên tai như lũ lụt và bão lớn đã xảy ra ở Việt
Nam, gây thiệt hại nặng nề cho nhiều khu vực. Điều này ảnh hưởng đến các hoạt động
sản xuất và gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp.
Xung đột Nga và Ukraine: Ngay khi Nga tấn công Ukraine thì khu vực nhạy cảm và chịu
ảnh hưởng nhiều nhất là thị trường tài chính đã phản ứng khi giảm điểm từ 2-3%. Giá dầu
Brent tăng vượt mức 100 USD/thùng.
Khi giá tăng quá cao thì kinh tế toàn cầu sẽ đối mặt với bài toán chi phí tăng, cước vận
chuyển tăng, khiến giá hàng hóa cơ bản đều tăng. Trong ngắn hạn thì giá dầu có thể tiếp
tục tăng nhưng khó có thể lên mốc cao tới 200 USD/thùng như nhiều dự báo.
Việc tăng giá hàng hóa cơ bản cũng như dòng tiền rút ra khỏi thị trường tài chính để tìm
nơi trú ẩn an toàn hơn sẽ khiến cho các ngành sản xuất bị ảnh hưởng và phần nào đó cản
trở đà phục hồi kinh tế thế giới cũng như Việt Nam, tác động đến dòng đầu tư...
2. Các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến GDP
Thúc đẩy sản xuất trong nước: Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng nặng nề
đến chuỗi cung ứng toàn cầu, chính phủ Việt Nam đã tăng cường đầu tư vào sản xuất
trong nước và hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương để phát triển. Điều này đã giúp các
doanh nghiệp trong nước tăng trưởng và đóng góp vào GDP của Việt Nam.
Tăng trưởng xuất khẩu: Mặc dù dịch bệnh COVID-19 đã ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ
của nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đạt được tăng trưởng xuất khẩu
nhờ vào sự tăng cường sản xuất trong nước, nhu cầu đối với sản phẩm chất lượng cao và
các thỏa thuận thương mại tự do.
Hỗ trợ ngân sách và chính sách kích thích kinh tế: Chính phủ Việt Nam đã triển khai
nhiều biện pháp hỗ trợ ngân sách và chính sách kích thích kinh tế, như hỗ trợ tiền mặt
cho người dân, giảm thuế và các khoản chi tiêu công cộng nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và giảm thiểu tác động của đại dịch COVID-19. Những chính sách này đã giúp
duy trì hoạt động sản xuất và đóng góp vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Tài liệu tham khảo.
https://tuoitre.vn/cuoc-chien-nga-ukraine-ngan-tac-dong-tieu-cuc-toi-kinh-te-viet-nam-
20220228081015907.htm https://www.gso.gov.vn/px-web-
2/?pxid=V0301&theme=T%C3%A0i%20kho%E1%BA lOMoAR cPSD| 47207194 %A3n%20qu%E1%BB%91c%20gia
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/10/dong-thai-va-thuc-
trangkinh-te-xa-hoi-2001-2005/
Bảng Phân công công việc Họ Và Tên Công việc Trần Cảnh Trường
Thu Thập số liệu, phân tích giai đoạn 2000- 2005 Đỗ Thị Yến Nhi
Làm word , Phân tích giai đoạn 2006-2010 Trần Thị Phương Thảo
Làm word, Phân tích giai đoạn 2010-2015 Hồ Uyển Nhi
Làm slide, Phân tích giai đoạn 2016-2019 Nguyễn Lê Phương Nam
Làm slide, Phân tích giai đoạn 2020-2022