Chủ đề Tết Nguyên đán của người Việt - Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam | Đại Học Hà Nội
Chủ đề Tết Nguyên đán của người Việt - Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam | Đại Học Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
GIỚI THIỆU VÀ NÊU Ý NGHĨA CỦA TẾT NGUYÊN ĐÁN CỦA NGƯỜI VIỆT I. Giới thiệu
Tt Nguyên đn - Ngun gc t Viê t Nam
1) Nghĩa gc của Tt Nguyên Đn a) Việt Nam
Nguyên nghĩa của “Tết” chính là “Tiết”. Văn hóa Việt thuộc văn minh nông
nghiệp lúa nước, do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian
trong một năm thành 24 tiết khác nhau (ứng với mỗi tiết này có một thời
khắc gọi là “giao thời”).
Trong đó, tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo
trồng - tức Tiết Nguyên đán, sau này được biết đến là Tết Nguyên đán.
Hai chữ "Nguyên Đán" có gốc chữ Hán; "Nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu
hay sơ khai và "Đán" là buổi sáng sớm. “ Nguyên Đán” có nghĩa là “những
buổi rạng đông của sự khởi đầu” b) Trung Quc
Tết Nguyên đán được người Trung Hoa hiện nay gọi là "Xuân Tiết" hoặc
"Nông lịch tân niên" và vẫn là tết cổ truyền của họ, mặc dù từ năm 1949 (bắt
đầu thời kỳ Đại cách mạng văn hóa), Trung Quốc đã chính thức chuyển qua
dùng dương lịch và chuyển qua gọi Tết dương lịch là Tết Nguyên đán Do cách
tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc
Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng với
Xuân tiết của người Trung Quốc và các quốc gia chịu ảnh hưởng bởi văn hóa
Trung Hoa và vòng Văn hóa chữ Hán khác, mà có thể chênh lệch 1 ngày
2) Ngun gc Tt ra đời
Truyền thuyết và lịch sử cho thấy, họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang từ năm
Nhâm Tuất 2879 trước công nguyên. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long
Quân, sau khi nối ngôi, vị vua hiền đức này kết hôn cùng bà Âu Cơ sinh ra Hùng
Vương. Từ thời đó, người Việt ta đã ăn Tết, đã có bánh chưng, bánh giày nhờ
sáng kiến của Lang Liêu - con trai thứ 18 của vua Hùng Vương 6.
3) Quan niệm về Tt của người Việt Nam
Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, từ ngoại vật cho đến
lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại.
Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi
người gắn kết hơn với gia đình, láng giềng, bạn bè.
Mọi người đi thăm nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi
chúc Tết người lớn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm.
Tết là ngày hướng về cội nguồn, về điều mới mẻ lạc quan...
4) Một s hoạt động Tt truyền thng và ý nghĩa
a) Giai đoạn trước Tết
Đây là giai đoạn thường kéo dài từ ngày 22 tới ngày 30 âm lịch. Ở giai đoạn này,
mọi người thường sẽ chuẩn bị tất cả mọi thứ để đón tết, cụ thể như: Sắm Tết
Mỗi lần Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại nô nức sắm Tết để
có một cái Tết trọn vẹn và đầy đủ nhất. Chợ Tết buôn bán nhiều mặt hàng phục vụ
cho Tết Nguyên đán. Ở đây, mọi người có thể mua sắm thực phẩm, đồ trang trí Tết, đồ lễ Tết,
Không chỉ vậy, những ngày này, mọi người thường sắm những
bộ trang phục mới. Việc mặc quần áo mới đón Tết cũng có nghĩa là
tiễn đưa cái cũ và chào đón cái mới.
Bên cạnh đó, một trong những phong tục vui Xuân của người Việt
Nam là đi chợ Tết để cầu duyên, cầu tài lộc, mua may bán đắt. Dọn dẹp, trang trí Dọn dẹp
Dọn dẹp nhà cửa trước Tết là để dọn dẹp lại những bộn bề, bụi bặm
của năm cũ, sắp xếp và tạo mới một không gian sống ngăn nắp và
sạch đẹp cho năm mới. Đây như một bước đệm để chào đón sự an khang, thịnh vượng.
Bên cạnh đó, mọi người quan niệm: Thần tài sẽ gõ cửa những ngôi
nhà sạch sẽ; đầu năm gọn gàng ngăn nắp, cuối năm sẽ sung túc, đủ
đầy. Việc dọn dẹp nhà cửa là một phần quan trọng để đón phúc lộc,
tài khí cho cả gia đình trong suốt một năm.
Không chỉ dọn dẹp nhà cửa mà cây cối cũng được trang hoàng lại
bằng việc quét vôi. Một số dân tộc còn có tục dán giấy đỏ, giấy hồng điều lên
trước cửa nhà. Tất cả đều là sự chuyển đổi về không gian, là dấu hiệu nhận biết
của sự chào đón một năm mới với những điều mới và tốt đẹp. Trang trí Câu đối Tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, nhiều người trọng
tục treo "câu đối đỏ" ngày Tết:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Không những vậy, người Việt còn có tục “xin chữ” để lấy may đầu năm. Cây và hoa Tết
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu
như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Màu
sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát
đạt, gia đình an khang và sung túc.
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây
đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người xưa, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa,
màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Khác với miền Bắc, miền Nam lại chọn hoa mai thay vì hoa đào.
Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí
trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền
Nam, nếu hoa mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết
thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.
Bên cạnh những cây hoa Tết, không thể không nhắc đến
cây quất - loại cây thường được bày bố và trang trí tại phòng khách trong
những ngày Tết. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng
vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù
phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. - Cây nêu
Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập
Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre,
trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là
"lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ ".
Đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi,
những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai. Người ta tin
rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu
cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu...
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên
biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây
nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu
thường được dựng vào ngày 23 tháng Chạp, là ngày Táo quân về trời, vì từ ngày này cho tới đêm
Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng
cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn
thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi". Tranh tết
Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ
quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Hán (Tâm - 心, Phúc - 福,
Đức - 德...)Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một
thú chơi của người dân Việt Nam. Đó là một phần không thể
thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những
màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn
rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt. Mâm ngũ quả
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây
khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây
bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với
mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng,
quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê-ki-ma, táo, mãng cầu. Nói
chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại
quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Cũng như người miền Bắc, mâm ngũ quả của người miền Nam
không quy định khắt khe phải có những loại trái cây gì, thường thì gồm mãng cầu Xiêm, sung,
dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam thường kiêng kỵ những loại
trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như cam - cam ,
chịu lê - lê lết, sầu riêng - ưu
buồn, lựu - lựu đạn... và không chọn trái có vị đắng, cay. Ẩm thực
Thành ngữ Việt Nam có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Tết đến, dù nghèo
khó đến đâu thì người ta cũng cố để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già
được bát canh, trẻ có manh áo mới". Ngoài cơm, ngày Tết còn có:
Bánh truyền thống: bánh chưng, bánh giày, bánh tét Mứt Tết
Kẹo bánh và các loại hạt, trái cây
Thức uống: trà, rượu, nước ngọt, bia
Cỗ tết: Trong mâm cỗ của gia đình ở ba miền có thể có những đặc
trưng riêng nhưng đều vô cùng phong phú (miền Bắc có thể có gà luộc,
canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu lòng gà, nem rán, xôi gấc, xôi
đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, nộm, dưa hành muối...; Bữa ăn tất niên
của người Huế thường có xôi, thịt heo quay, cá rô chiên, canh rau (hoặc canh
khổ qua). và mâm cỗ cúng tổ tiên, thường có khoai, ,
sắn lạc và chè. Ở làng Vũ
Đại, Hà Nam phải có món cá kho, ở làng Sơn Vi, Phú Thọ thường có thêm chè
lam, người dân Quảng Nam phải có Hội bánh tổ An.) Tục cúng ông Táo
Cúng ông Công, ông Táo là một phong tục có từ rất lâu đời ở Việt Nam.
Theo truyền thuyết kể lại, ông Công là vị thần cai quản đất đai trong nhà, còn ông Táo là ba
vị đầu rau trông coi việc bếp núc. Ông Công, ông Táo được ông Trời phái xuống trần gian
theo dõi và ghi chép những việc làm Thiện-Ác của con người. Và hàng năm, cứ vào ngày 23
tháng Chạp, các vị thần này lại cưỡi cá chép lên Thiên đình báo cáo tất cả việc làm tốt và
chưa tốt của con người trong suốt một năm qua để Thiên đình định đoạt công, tội.
Trong quan niệm của người Việt, ông Công và ba vị Thần Táo (hay vua Bếp) là
những vị thần định đoạt cát hung, phước đức cho gia đình.
Với mong muốn cho gia đình mình được nhiều may mắn, nên hằng năm, cứ đến
ngày 23 tháng Chạp, người ta lại làm lễ tiễn ông Công, ông Táo lên chầu trời.
Theo truyền thuyết, cá chép là phương tiện duy nhất có thể đưa Táo Quân về trời, bởi thế
người ta thường thắp hương cá chép sau đó đem đi thả. Trong tâm thức người Việt, “cá vượt
Vũ môn” hay “cá chép hóa rồng” còn mang ý nghĩa của sự thăng hoa, biểu tượng của tinh
thần vượt khó, sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới thành công, biểu trưng cho
nhân cách thanh cao tiềm ẩn hoặc hướng đến một kết quả tốt đẹp. Tảo mộ
Để tưởng nhớ những người đã khuất, hàng năm cứ vào ngày 24, 25
tháng chạp là con cháu trong gia đình sẽ tiến hành thăm viếng mộ của
cha ông. Người ta đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại,
chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ mộ phần những người quá cố
trong gia đình và cả những thế hệ trước, với mong muốn ông bà tổ
tiên có thể về nhà ăn Tết cùng con cháu. Các gia đình thường sắm lễ
vật để tiến cúng chư vị tôn thần cai quản nghĩa trang hay những khu
mộ, khu gò mả, những ngôi mộ quanh nhà... nhằm sửa sang lại mộ
phần người đã khuất bởi tục ngữ Việt Nam có câu "cao nấm, ấm mồ". Gói bánh chưng
“Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”
Tục gói chưng ngày Tết là nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam thể
hiện nét đẹp của nền văn minh lúa nước. Mỗi khi Tết đến Xuân về, người
người, nhà nhà lại gói bánh chưng ăn Tết, dâng bánh lên bàn thờ tổ tiên.
Truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giày”:
Xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan
Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng
lên tổ tiên hợp ý với nhà vua nhất sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng,
xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Riêng Lang
Liêu là người con nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không tìm những sản vật
quý hiếm về dâng vua cha, mà đã dùng ngay những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ
xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh là bánh chưng và bánh giầy để làm lễ vật
dâng vua cha. Từ đó bánh Chưng, bánh giầy đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các
nghi thức thờ cúng, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với tiên tổ, cha, ông.
Bánh Chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng cho Đất - Âm. Bánh giầy hình tròn,
màu trắng tượng trưng cho Trời- Dương, thể hiện triết lý Âm - Dương. Bánh Chưng dành
cho mẹ còn bánh giầy dành cho Cha. Bánh Chưng bánh giầy là thức ăn trang trọng, cao quý
nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành
dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Phong tục truyền thống thờ cúng và thưởng thức bánh chưng, bánh giày ngày
Tết của người Việt Nam vô cùng thú vị. Nó vừa mang nét văn hóa tín ngưỡng
tâm linh, vừa mang nét văn hóa ẩm thực. Cả hai cùng quyện lẫn vào nhau trong
một chỉnh thể cân xứng giữa một bên là vẻ hình thức bề ngoài, một bên là
những nguyên liệu bên trong của bánh chưng, đó được thể hiện bằng “quy
trình”: gói, thờ cúng và thưởng thức bánh chưng như sự mặc định sở hữu về
một trong những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam. b) Trong Tết Đón giao thừa
Trong đêm giao thừa, mỗi nhà sẽ làm một lễ cúng giao thừa. Lễ cúng giao thừa
hay còn gọi là Trừ tịch - tức lễ để trừ khử ma quỷ, điềm xấu hay xui xẻo, nó
được thực hiện vào khoảnh khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới.
Giao thừa là thời điểm chuyển tiếp giữa ngày cuối cùng của năm cũ sang ngày
đầu tiên của năm mới, mộtƒ thời điểm quan trọng, trời đất giao hòa, âm dương
hòa quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Đây là một trong những buổi lễ
quan trọng trong tập quán, văn hóa nhiều dân tộc. Xông đất
Tục xông đất vào đầu năm mới là phong tục cổ truyền được dân tộc ta giữ gìn
qua bao thế hệ. Xông đất ngày Tết bắt nguồn từ mong muốn của ông bà ta về
một năm thuận buồm xuôi gió, bình an và tránh được những tai ương, xui xẻo.
Việc lựa chọn được người hợp tuổi xông nhà đầu năm sẽ đem đến tiền tài, thịnh
vượng cho gia chủ suốt một năm.
Ở một khía cạnh khác, nó còn mang ý nghĩa thắt chặt tình cảm giữa con người
với nhau, gắn bó tình làng nghĩa xóm. Hái lộc
Hái lộc đầu xuân là nét đẹp truyền thống trong năm mới của người Việt, có ý nghĩa
là mang lộc chồi, mang sự sinh sôi nảy nở về nhà.
Văn hoá lì xì, chúc tết
Trong ngày Tết, người lớn sẽ phát lì xì mừng tuổi cho trẻ em. Con cháu cũng
biếu ông bà, cha mẹ những phong lì xì đỏ để chúc sức khỏe và trường thọ.
“Mùng 1 Tết cha, mùng 2 Tết mẹ, mùng 3 Tết thầy”
Thăm viếng họ hàng, hàng xóm, bạn bè là để gắn kết tình cảm. Lời chúc Tết
thường là lời chúc sức khỏe, phát tài phát lộc, may mắn, vạn sự như ý,... là
lời gửi gắm điều tốt đẹp đến đối phương c) Sau Tết
(Đây là giai đoạn ngắn nhất của Tết Cổ truyền, tùy từng gia đình và từng địa
phương mà giai đoạn này có sự khác nhau).
Giai đoạn này bắt đầu từ ngày cuối cùng của giai đoạn 2, tức là sau khi ăn Tết,
người Việt sẽ làm lễ cúng đốt Tết (kết thúc Tết), dọn dẹp lại nhà cửa. Sau đó, mọi
người sẽ quay lại với công việc và cuộc sống thường ngày. Nhiều tập tục kiêng kị
không cần phải giữ nữa. Các lễ hội cũng kết thúc, những người đi làm ăn xa sẽ lại
rời quê hương đến nơi mình làm việc. II.
Ý nghĩa – Kết luận
1. Tết là biểu hiện của sự gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc a. Đưa ông Táo về trời
b. Gói bánh Chưng, bánh Tét
c. Chúc Tết và mừng tuổi d. Đi lễ đầu năm
2. Biểu hiện mong muốn đoàn tụ, sum vầy:
Mỗi năm Tết đến, mọi người nô nức về quê ăn Tết, ước mong được đoàn tụ bên gia đình
3. Thể hiện rõ nét đức tính hiếu thảo, biết ơn và nhớ về cội nguồn của người Việt: 1. Thăm mộ, tảo mộ 2. Trở về quê nhà
3. Cúng gia tiên và chưng bày mâm ngũ quả
4. Những lễ hội tưởng nhớ công lao của cha ông: Lễ Khai ấn đền Trần tại Khu di tích
đền Trần, Nam Định (tri ân công đức các vị vua Trần); Lễ hội Đền vua Mai ở Nghệ
An ( tưởng nhớ vua Mai Hắc Đế); Lễ hội đền Đức Thánh Trần ở TP.HCM (tri ân công
đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) 4.
Thể hiện rõ nét đời sống tâm linh :
Tết xưa là dịp để người nông dân bày tỏ lòng thành kính đến các vị thần
linh, cầu cho một năm làm ăn sung túc
VD: lễ hội Cầu Ngư (các tỉnh ven biển Nam Bộ); lễ hội Căm Mường (dân tộc Lự, Lai Châu)
Xua đuổi tà ma, cầu cho năm mới vui vẻ, hạnh phúc
5. Tết được coi là giai đpạn “làm mới”:
Người ta tin rằng Tết là sự khởi đầu của một năm mới - ngày của hy vọng về
một năm an lành, thuận lợi, sung túc và gác lại hết những muộn phiền,
không may mắn của năm cũ)=> nhà nhà tất bật dọn dẹp, sửa sang nhà cửa III. Mở rộng
Xu hướng tết cổ truyền trong những năm gần đây: Ngày xưa, người Việt thường
chỉ ăn Tết tại quê hương, ít khi đi đâu xa. Nhưng hiện nay, các phong tục truyền
thống không còn được chú trọng nhiều như xưa, người Việt đối với Tết cổ truyền
cũng thoáng hơn nhiều. Do đó, nhiều người chọn du lịch ở nơi xa để tận dụng hết
thời gian nghỉ lễ cho việc nghỉ ngơi một cách riêng tư nhất. Đó có thể là các địa
điểm du lịch nổi tiếng ở trong nước hoặc nước ngoài. Vì lịch nghỉ Tết Cổ truyền
thường kéo dài ít nhất 7 ngày nên với nhiều gia đình, đây là dịp hiếm hoi trong
năm họ có thể đi du lịch dài ngày cùng nhau.