Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng... - Đề lịch sử đảng | Trường đại học Điện Lực

Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng... - Đề lịch sử đảng | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Đề 15 Chủ trương sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyt các vấn.
đề thuộc chính sách hội theo tinh thần Đại hội XII (2016) Liên hệ
địa phương Anh/Chị
A. MỞ ĐẦU
Văn kiện Đại hội XII thể hiện rất nhiều quyết sách quan trọng cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Các cấp ủy cần quán triệt sâu sắc
Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 22-3-2016 của Bộ Chính trị “Về học tập, quán triệt,
tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng” phương pháp cụ thể huy động mọi nguồn lực để đưa nhanh Nghị
quyết Đại hội XII vào cuộc sống một cách thực chất để xây dựng ngành, địa
phương, đơn vị vững mạnh. Quá trình đó cần khắc phục tình trạng chỉ sao chép, mô
phỏng chương trình hành động của cấp ủy cấp trên thành chương trình hành động
thực hiện nghị quyết của cấp mình.
thể khẳng định, những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ tạo ra dấu ấn nổi bật, điểm tựa cho những
năm tiếp theo còn tạo ra niềm tin, khí thế mới để toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách, tận dụng thời đưa đất nước
bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Xuất phát từ những ý nghĩa thực tiễn đó nên em đã chọn “Chủ trương sự
chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội theo tinh
thần Đại hội XII (2016) Liên hệ địa phương Anh/Chị” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LB LUÂDN
1. BEi cảnh lịch sG những yu tE ảnh hưIng đn
D
i dung Đại
D
i XII
(2016)
Đại hội XII của Đảng diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước tiến
hành được 30 năm, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,ý nghĩa lịch
sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có thành
tựu bảo đảm an sinh hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, “an sinh hội bản
được bảo đảm”, “chính sách an sinh hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên
các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế, người công
bảo trợ xã hội”. Trong tình hình mới, yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với chính sách an sinh xã hội ngày càng tăng lên. Kinh tế đất nước đang trong thời
kỳ quá độ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn tồn tại
nhiều nguy cơ gây rủi ro như thiếu việc làm, thất nghiệp. Bên cạnh đó, do điều kiện
thời tiết biến đổi khí hậu, hdng năm nước ta phải hứng chịu nhiều trận bão, lũ,
hạn hán, tác đô
f
ng bất lợi đối với cuộc sống sinh hoạt, sản xuất của con người. Ô
nhiễm môi trường, thực phẩm bẩn làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người tăng
nguy mắc các bệnh hiểm nghèo. Vì thế cần chế, chính sách phòng ngừa,
giảm thiểu, khắc phục. Các nhóm đối tượng an sinh hội sẽ ngày càng đa dạng,
đòi hỏi phải hệ thống an sinh hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt đủ khả năng
thực hiện những mục tiêu an sinh hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với
chính sách an sinh xã hội nhdm ổn định đời sống người lao động, bảo đảm an toàn,
ổn định cho nền kinh tế - hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế công
bdng xã hội là yêu cầu cấp thiết.
2. Nô
D
i dung và L nghMa của Đại hô
D
i XII
2.1. Nội dung
2.1.1. Đánh giá tổng quát kt quả thực hiện Nghị quyt Đại hội XI và nhìn
lại 30 năm đổi mới
Năm năm qua (2011 - 2015), bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế
giới, khu vực nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm;
khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng
quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên biển Đông... đã tác
động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế,
khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản
lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến ổn định kinh tế mô, tốc độ tăng trưởng đời sống nhân dân. Thiên
tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh
hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta phải dành nhiều nguồn lực
để bảo đảm quốc phòng, an ninh bảo vệ chủ quyền đất nước trước những diễn
biến mới, phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI
của Đảng và đạt được những thành quả quan trọng.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy tiềm lực được
nâng lên; kinh tế vĩ mô bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh
tế được duy trì mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm
trước. Đổi mới hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá
chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực. Giáo dục
đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã
hội được quan tâm nhiều hơn và bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp
tục được cải thiện. Chính trị - hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định. Quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội
chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm
2020 nước ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt
được. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học
công nghệ, văn hóa, hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Bốn nguy Đảng
ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, mặt diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải
biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn
dân toàn quân mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bdng, văn
minh”. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều
hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để tiếp tục đưa đất nước
phát triển nhanh bền vững hơn. Những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử qua
30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta đúng đắn, sáng tạo;
con đường đi lên chủ nghĩa hội của nước ta phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm bài học đúc
kết từ thực tiễn đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới
và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
2.1.2. Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm
trong 5 năm 2016 - 2020
Năm năm tới, tình hình thế giới khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức
tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời thách thức. Hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á đã trở thành một
cộng đồng, tiếp tục trung tâm phát triển năng động, vị trí địa - kinh tế - chính
trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng khu vực cạnh tranh
chiến lược giữa một số nước lớn, nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông còn diễn ra gay gắt.
trong nước, thế lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các
cam kết trong cộng đồng ASEAN WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn
biến hòa bình” của thế lực thù địch nhdm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại
những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...
Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách
thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm thực hiện
thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm vụ sau:
Mục tiêu tổng quát: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc dân chủ hội chủ nghĩa. Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững,
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân chế độ hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa
bình, ổn định, chủ động tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng:
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm.
Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5
năm bdng khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4%
GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 -
35%; năng suất lao động hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng
lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020
đạt 38 - 40%.
- Vềhội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động
hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đóbdng
cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%; 9 - 10
bác và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên
80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
- Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn
được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất
thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện hiệu quả ba
đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa; đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực,
nhất nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ), cấu lại tổng thể đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới hình tăng
trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú
trọng giải quyết tốt vấn đề cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cấu lại ngân sách
nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn hội. Mở
rộng đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản phát triển hội, bảo đảm an ninh hội, an ninh con
người; bảo đảm an sinh hội, nâng cao phúc lợi hội giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi nh vực của đời sống hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
2.2. B nghMa
Đại hội lần thứ XII của Đảng họp vào thời điểm ý nghĩa rất quan trọng:
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu
nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020,
2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới.
Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Đại hội đã thảo luận và thông qua những chủ
trương, quyết sách quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo sâu sắc toàn bộ quá
trình triển khai tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước
nhanh, bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng đại, định hướng, cổ vũ và động viên
toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủhội chủ nghĩa;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng (2011-2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ 5 năm 2016-2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; bầu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII.
B. VÂ
DN D[NG
1. Chủ trương sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyt các vấn đề
thuộc chính sách xã hội theo tinh thần Đại hội XII (2016)
(6)Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản phát triển hội, bảo đảm an ninh hội, an ninh con
người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợihội và giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc.
quan điểm khách quan, toàn diện, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã
chỉ rõ, thời gian tới tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục những diễn biến phức
tạp. Thế giới ngày nay đang thay đổi nhanh chóng, hội thách thức đối với sự
phát triển của đất nước ta đan xen phức tạp. Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, sự phát triển của thế giới đang đứng trước một bước ngoặt
mới; xung đột tôn giáo, sắc tộc có xu hướng phức tạp... Trong bối cảnh đó, để nâng
cao sức mạnh nội lực, đưa đất nước tiếp tục vượt qua khó khăn, phát triển bền
vững, vấn đề thu hút và phát huy sức dân càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Theo đó, để phát huy sức sáng tạo của nhân dân, trước hết, chúng ta cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các tổ chức, các lực lượng
trong hội về vai trò của nhân dân việc động viên, phát huy vai trò của nhân
dân trong điều kiện mới. Chú trọng xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức trong
hệ thống chính trị từ Trung ương tới sở, củng cố tăng cường niềm tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Thường xuyên củng cố, giữ vững và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo dựng sự đồng thuận cao trong hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chế, chính sách để phát huy cao nhất vai trò
làm chủ của nhân dân; tăng cường các hoạt động giám sát của nhân dân đối với hệ
thống chính trị đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm chăm lo, đầu tư
phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng chăm lo
đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn khu vực biên giới, hải đảo. Tăng cường bảo đảm tốt an ninh chính trị,
trật tự an toàn hội; thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; đấu tranh
có hiệu quả nhdm ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực, xử lý dứt điểm những vấn
đề “nóng” trong xã hội.
Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong
lãnh đạo đất nước. Ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng Nhà
nước ta đã coi nhiệm vụ diệt “giặc đói”, “giặc dốt”
f
t trong những nhiê
f
m v
quan trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luônmong ước nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành. Trong 30 năm đổi mới, mặc dù đất nước còn gặp nhiều khó
khăn, nhưng Đảng luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo thực hiê
f
n chính sách an sinh
hội. Nhận thức, quan điểm lãnh đạo chính sách an sinh hội đã được hoàn thiện
qua từng kỳ đại hội của Đảng. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng
định bảo đảm an sinh hội một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ
mới. Đảng cũng chỉ những định hướng bảo đảm an sinh hội tiếp tục hoàn
thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mở
rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội tới mọi người dân,
hướng tới mục tiêu thực hiện an sinh hội toàn dân; khuyến khích nâng cao khả
năng t bảo đảm an sinh hội của mỗi người dân; gắn kết chặt chẽ chính sách
kinh tế với chính sách an sinh hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng phát triển đất nước. Mọi người dân
đều có cơ hội và điều kiện bảo đảm an sinh xã hội và phát huy khả năng tự bảo đảm
an sinh xã hội của mình.
Quan điểm Đại hội XII của Đảng chỉ ra những định hướng lớn, lãnh đạo cụ
thể từng mặt của công tác an sinh hội dựa trên sở luận về chức năng, cấu
trúc, mô hình, các trụ cột, sự phân tầng của chính sách an sinh xã hội, cách tiếp cận
mới về tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều bền vững, về bảo hiểm hội, bảo hiểm
y tế toàn dân, trợ giúp hội, cung cấp dịch vụ xã hộimức độ tối thiểu nhdm trợ
giúp khó khăn, phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt nhóm yếu thế, hướng đến nền an sinh
hội toàn dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bdng, văn minh.
Một là, chủ trương lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thu nhập
cho người lao động và đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững.
Giải quyết vấn đề lao động, việc làm thu nhập cho người dân trụ cột
bản nhất của chính sách an sinh xã hội. Chủ trương của Đảng tại Đại hội XII: “Tạo
hội để mọi người việc làm cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu
nhập công bdng, đủ điều kiện sống tái sản xuất sức lao động…. Hoàn thiện
thực hiện chính sách bảo hộ lao động”.
Lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo một trong những nội dung quan trọng của
quan điểm lãnh đạo chính sách an sinh xã hội. Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã
chỉ phải đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất các vùng đặc biệt khó khăn
chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện khuyến khích các hộ nghèo, cận nghèo
phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững; đổi mới chính sách giảm nghèo theo
hướng tập trung, hiệu quả tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhdm
bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hai là, tiếp tục phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm. Chính sách
bảo hiểm là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, giúp người dân giảm bớt gánh nặng
khi tuổi già, tai nạn, ốm đau, thất nghiệp,… Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm góp
phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển và thực hiện tốt các chính
sách bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,…”, mở
rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính,
bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm hội. Đây những chủ trương lãnh
đạo quan trọng, định hướng để chính sách bảo hiểm tiếp tục phát huy hơn nữa
vai trò giảm thiểu rủi ro trong chính sách an sinh xã hội.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội. Công tác trợ
giúp hội vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, bảo đảm an toàn cho các thành
viên hội khi họ gặp phải rủi robản thân không tự khắc phục được. Văn kiện
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia
của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp hội. Đại hội XII của Đảng
khẳng định, tạo điều kiện để trợ giúp hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ bị tổn
thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống, để công tác trợ giúp hội
đạt được hiệu quả cao nhất, Đảng ta cũng chỉ phải phát triển đa dạng các hình
thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế
nhdm huy động cao nhất các nguồn lực vật chất, tinh thần để giúp đỡ, tạo điều kiện
để những người yếu thế hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, yêu cầu chuyển từ hỗ
trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh hội của công dân trong quan điểm
lãnh đạo của Đảng về an sinh xã hội, khẳng định sự quan tâm đến quyền con người
của Đảng, Nhà nước ta.
Bốn là, bảo đảm cung cấp các dịch vụ hội bản thiết yếu, mức tối thiểu
về thu nhập các dịch vụ hội bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch, thông tin.
Về lãnh đạo bảo đảm giáo dục tối thiểu: Một trong những nguyên nhân cơ bản
của nghèo đói do người lao động không trình độ giáo dục bản kỹ năng
nghề nghiệp để tìm việc làm tốt hơn. Văn kiện Đại hội XII của Đảng trên sở
đánh giá tình hình giáo dục đào tạo đã yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa
học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực thị trường lao động; hoàn
thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập.
Về lãnh đạo bảo đảm y tế tối thiểu: Cùng với quá trình lãnh đạo phát triển
kinh tế - hội, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức chăm lo đến công tác khám,
chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho mọi tầng lớp nhân dân. Nghị quyết Đại hội XII xác
định, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh phục hồi chức năng tất cả các
tuyến; quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hoàn thiện mạng lưới y tế sở, nhất
miền núi, biên giới, hải đảo… tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn,
miền núi, biên giới, hải đảo, cùng với nâng cao chất lượng cuộc sống, phấn đấu tuổi
thọ trung bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
Về lãnh đạo bảo đảm nhà hội: Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ, thực hiện tốt
các chính sách hỗ trnhà cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân
sống vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Phát triển nhà hội cho người thu
nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất sinh viên. Hiện nay, bảo
đảm nhà ở xã hội là một trong những chính sách được Đảng hết sức quan tâm.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đưa ra các nhiệm vụ tổng quát, trong đó
khẳng định: Hoàn thiện, phát huy dân chủ hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của
nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân. Như vậy, Đại hội nhấn mạnh
khẳng định quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
hội, đó tính sáng tạo, làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng, củng
cố quyền lực của nhân dân. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định một số kết
quả nhất định trong vấn đề thực hành dân chủ như: Dân chủhội chủ nghĩa được
phát huy ngày càng mở rộng; Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt
hơn trong các lĩnh vực của đời sống hội bdng dân chủ trực tiếp dân chủ đại
diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đề ra phương hướng để phát huy dân chủ
bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, đây cũng chính
những ớc phát triển về luận cũng như những điểm mới về vấn đề thực hành
dân chủ trong Văn kiện Đại hội XII. Thể hiện qua những nội dung cụ thể sau:
Một là, để dân chủ hội chủ nghĩa thực hiện trên thực tế thì dân chủ phải
được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hai là, Đại hội XII nhấn mạnh cần tập trung thể chế hóa, nâng cao chất lượng
các hình thức thực hiện dân chủ. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt
hơn trong các lĩnh vực của đời sống hội bdng dân chủ trực tiếp dân chủ đại
diện.
Ba là, vấn đề dân chủ trong Đảng. So với Đại hội XI, điểm mới trong văn kiện
Đại hội XII đã tìm được điểm mấu chốt trên phương diện phát huy, thực hành
dân chủ hội chủ nghĩa. Đó là: Để thực hiện dân chủ trong hội, trước hết phải
bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội.
Với cách tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi mặt của
hội, Đảngvai trò tuyệt đối quan trọng trong quá trình phát huy dân chủ. Dân
chủ trong Đảng một trong những tiền đề chủ yếu để thúc đẩy dân chủ trong
hội.
Bốn là, giám sát và phản biện xã hội. Đại hội XII nhấn mạnh nhiệm vụ cần thể
chế hóa, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Việc thiết lập chế giám sát kiểm soát quyền lực hiệu quả là rất quan trọng.
Đại hội XII đã nêu: Đẩy mạnh dân chủ hóa hội để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân
dân. Tổ chức thực hiện tốt quy chế giám sát phản biện hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - hội; quy định về việc Mặt trận Tổ quốc các tổ
chức chính trị - hội nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
các cấp.
2. Liên hê
D
địa phương
Trong Chương trình số 08-CTr/TU về “Phát triển hệ thống an sinh hội,
nâng cao phúc lợi hội, chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô giai đoạn
2021 - 2025”, Thành ủy Hà Nội đề ra mục tiêu tổng quát là giải quyết hài hòa, hiệu
quả giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển hội quản trị hội; trong đó, phát
triển hệ thống an sinh hội toàn diện, bao trùm bền vững, không ngừng nâng
cao phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống của nhân dân; phấn đấu đạt nhiều chỉ tiêu
cao hơn mức chuẩn quốc gia, góp phần xây dựng thành phố Nội phát triển
nhanh, bền vững và tiến bộ.
Tính đến cuối năm 2021, toàn thành phố Nội còn khoảng 0,2% hộ nghèo
1,56% hộ cận nghèo; 11/30 quận, huyện, thị không còn hộ nghèo (theo
chuẩn nghèo mới); đã giải quyết việc làm cho gần 180.000 người, đạt 112,2% kế
hoạch; hỗ tr an sinh hội cho hơn 5 triệu lượt người; hỗ tr những người gặp
khó khăn bdng tiền mặt; hỗ trợ tiền sử dụng nước sạch; miễn, giảm học phí,… với
tổng ngân sách dành cho việc thực hiện các chính sách đặc thù của thành phố lên
đến 10.640,4 tỷ đồng riêng kinh phí hỗ trợ các đối tượng gặp khó khăn do đại
dịch COVID-19 6.527,9 tỷ đồng. Theo số liệu thống của Sở Lao động -
Thương binh hội Nội, tính đến trung tuần tháng 9-2022, thành phố đã
hoàn thành việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động người sử dụng lao
động khó khăn do đại dịch COVID-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính
phủ “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động người sử dụng lao động gặp
khó khăn do đại dịch COVID-19”, thẩm định hồ phê duyệt hỗ trợ cho
2.610.829 lượt đối tượng, với kinh phí 2.659,769 tỷ đồng. Các hoạt động hỗ trợ,
thúc đẩy thị trường lao động luôn được quan tâm, triển khai có hiệu quả hệ thống 8
điểm, 5 sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận, huyện...; bảo hiểm hội, bảo
hiểm y tế ngày càng được mở rộng, số người tham gia tăng nhanh dần trở thành
trụ cột quan trọng của hệ thống an sinh xã hội… Ngoài ra, thành phố Nội thực
hiện hiệu quả các chính sách hội, bảo đảm khả năng tiếp cận dịch vụ hội
bản cho người dân về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin...
Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến đời sống, việc làm của người dân, để giúp người lao động việc làm thu
nhập ổn định, các cấp, ngành cần chú trọng đến công tác dạy nghề, giải quyết việc
làm gắn với nhu cầu sử dụng lao động. Song song với đó là đa dạng hóa các nguồn
lực huy động, đẩy mạnh hội hóa, ưu tiên dành các nguồn lực nhdm giảm nghèo
bền vững, bảo đảm an sinh hội cho người dân, nhất các đối tượng hoàn
cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số..., tạo điểm tựa an sinh vững chắc, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô.
Bảo hiểm thành phố Nội Nội đã chi trả cho trên 1,680 triệu người lao
động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp người lao động tạm dừng bảo hiểm
thất nghiệp với tổng số tiền trên 4.000 tỷ đồng, theo quy định tại Nghị quyết số
116/NQ-CP “Về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ quỹ bảo hiểm
thất nghiệp”.
Từ năm 2022, một số trường hợp đặc biệt còn được hỗ trợ theo chính sách đặc
thù để mức sống trên mức chuẩn nghèo. Theo đó, đối với trường hợp trẻ em
dưới 15 tuổi, người cao tuổi đơn, người khuyết tật đặc biệt nặng, người mắc
bệnh hiểm nghèo sẽ mức hỗ tr hdng tháng 2 triệu đồng/người đối với khu
vực nông thôn; 2,5 triệu đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị. Đối với
trường hợp người cao tuổi thuộc hộ nghèo không khả năng tự phục vụ bản thân
sẽ nhận mức hỗ trợ hdng tháng là 440.000 đồng/người. Hỗ trợ 100% mức đóng bảo
hiểm y tế theo diện hộ gia đình cho thành viên hộ nghèo được công nhận thoát
nghèo đồng thời thoát cận nghèo, thành viên hộ cận nghèo được công nhận thoát
cận nghèo. Thời gian hỗ trợ 36 tháng kể từ tháng được công nhận thoát nghèo,
thoát cận nghèo...
Về phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, đến nay, thành phố
Nội đã giải quyết việc làm cho 168.443/160.000 lao động, đạt 105,2% kế hoạch
năm (tăng 44% so với cùng kỳ năm 2021). Bên cạnh đó, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y
tế đạt 92,1% dân số (kế hoạch Chương trình 08-CTr/TU năm 2022 92,5%).
Trong công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thành phố Nội duy trì hệ
thống giám sát phát hiện bệnh truyền nhiễm, bản kiểm soát tốt dịch bệnh
COVID-19 với số mắc liên tục giảm từ giữa tháng 3-2022. Tiếp tục thực hiện
hiệu quả công tác phòng, chống dịch COVID-19, đẩy mạnh tiêm vắc-xin ngừa
COVID-19 cho toàn bộ người dân trong độ tuổi tiêm chủng. Các bệnh viện tiếp tục
nâng cao năng lực khám, chữa bệnh, bố trí khoa khám, chữa bệnh để nâng cao chất
lượng phục vụ người bệnh phù hợp với công tác phòng, chống dịch bệnh trong tình
hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn tồn tại một số khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện Chương trình số 08-CTr/TU, như ý thức chấp
hành pháp luật về bảo hiểm hội của một số đơn vị sử dụng lao động chưa cao;
nợ bảo hiểm hội tồn đọng, kéo dài; tình hình sản xuất, kinh doanh của một số
đơn vị sử dụng lao động vẫn còn nhiều khó khăn, chưa thực hiện việc trích nộp
hdng tháng theo quy định...; một số văn bản thực hiện Chương trình số 08-CTr/TU
còn chậm được ban hành; nguồn vốn cho vay các chương trình tín dụng chính sách
trên địa bàn thành phố Nội được quan tâm bổ sung hdng năm nhưng vẫn
chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn để hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc
làm. Do đó, thời gian tới, thành phố Nội cần triển khai thực hiện một số công
việc sau:
Một , đẩy mạnh công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát; soát, xác định
rõ các chỉ tiêu, nhiệm vụ Chương trình số 08-CTr/TU của Thành ủy và Kế hoạch số
207/KH-UBND. Gắn việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của chương
trình này với việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của từng ngành, địa phương.
Hai , ban hành các chính sách đặc thù tập trung chỉ đạo triển khai thực
hiện hiệu quả; ưu tiên bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước huy động các
nguồn xã hội hóa để bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội.
Ba , bảo đảm an sinh hội toàn diện, bền vững, không ngừng nâng cao
phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô, giảm chênh lệch mức
sống giữa khu vực đô thị và nông thôn, giảm nghèo bền vững tiến tới phát triển bền
vững.
Bốn là, tăng cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền
vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển
sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm kết nối thông tin thị trường lao
động.
Năm là, chú trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển hệ thống an sinh xã
hội, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm hội tự
nguyện quyền lợi khi tham gia bảo hiểm hội tự nguyện để khuyến khích
người dân tham gia.
Sáu , thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người
công với cách mạng, hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ hội, người
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
C.KẾT LUẬN
Trên bức tranh rộng lớn của chính sách xã hội, vai trò của Đảng trong việc chỉ
đạo và định hình chủ trương không chỉ là một yếu tố quyết định mà còn là điểm tựa
vững chắc cho sự phát triển đồng đều bền vững của đất ớc. Đại hội XII đã
đưa ra những hướng đi rõ ràng, nhưng quan trọng không chỉ là việc xác định hướng
đi còn sự thực hiện chặt chẽ tại sở, như tại Nội các địa phương
khác, để đem lại lợi ích thực sự cho người dân. Tại Nội, chủ trương chỉ đạo
của Đảng được thể hiện qua việc triển khai các chính sách hội một cách
hiệu quả và linh hoạt. Qua các dự án hỗ trợ người dân với mục tiêu giảm nghèo, cải
thiện hạ tầng, nâng cao chất lượng cuộc sống, Đảng đã thể hiện vai trò thực sự
đối với sự phát triển toàn diện.
Qua việc kết nối tinh thần Đại hội với thực tiễn địa phương, Đảng đã đang
chứng minh sự quyết đoán tầm nhìn sâu rộng trong việc xây dựng cộng đồng,
góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước vững mạnh. Những nỗ lực
này không chỉ thể hiện sự quyết đoán của Đảng còn tạo ra động lực mạnh mẽ
cho việc xây dựng một cộng đồng hòa nhập phát triển, đồng thời bước tiến
quan trọng trong hành trình đưa đất nước về phía mục tiêu phát triển bền vững
thịnh vượng. Điều này chứng tỏ rdng sự kết nối chặt chẽ giữa tinh thần Đại hội
thực tiễn địa phương đang là một yếu tố quan trọng không chỉ trong việc hình thành
chủ trương mà còn trong việc thực hiện chúng một cách hiệu quả và có ý nghĩa.
DANH M[C TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách an sinh hội bảo đảm tiến bộ
công bdng xã hội ở Việt Nam hiện nay, TS. Trương Thị Thanh Quý
2. Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình
Đại hội lần thứ XII của Đảng.
3. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ giáo dục và đào tạo
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2012, t.12
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.8
6. Một số điểm mới nổi bậ,t trong Văn kiện Ðại hội XII của Ðảng, ThS.
Nguyễn Văn Ðổng Tòa án Quân sự Quân khu 4, thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An
7. tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sự thấm nhuần, vận
dụng sáng tạo tại Đại hội XII của Đảng, Nguyễn Thị Quỳnh
| 1/17

Preview text:

Đề 15. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyt các vấn
đề thuộc chính sách xã hội theo tinh thần Đại hội XII (2016) – Liên hệ địa phương Anh/Chị A. MỞ ĐẦU
Văn kiện Đại hội XII thể hiện rất nhiều quyết sách quan trọng cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Các cấp ủy cần quán triệt sâu sắc
Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 22-3-2016 của Bộ Chính trị “Về học tập, quán triệt,
tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng” và có phương pháp cụ thể huy động mọi nguồn lực để đưa nhanh Nghị
quyết Đại hội XII vào cuộc sống một cách thực chất để xây dựng ngành, địa
phương, đơn vị vững mạnh. Quá trình đó cần khắc phục tình trạng chỉ sao chép, mô
phỏng chương trình hành động của cấp ủy cấp trên thành chương trình hành động
thực hiện nghị quyết của cấp mình.
Có thể khẳng định, những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ tạo ra dấu ấn nổi bật, là điểm tựa cho những
năm tiếp theo mà còn tạo ra niềm tin, khí thế mới để toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thử thách, tận dụng thời cơ đưa đất nước
bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Xuất phát từ những ý nghĩa thực tiễn đó nên em đã chọn “Chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội theo tinh
thần Đại hội XII (2016) – Liên hệ địa phương Anh/Chị” làm đề tài nghiên cứu của mình. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LB LUÂDN
1. BEi cảnh lịch sG và những yu tE ảnh hưIng đn nô D
i dung Đại hô D i XII (2016)
Đại hội XII của Đảng diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước tiến
hành được 30 năm, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có thành
tựu bảo đảm an sinh xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, “an sinh xã hội cơ bản
được bảo đảm”, “chính sách an sinh xã hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên
các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, người có công và
bảo trợ xã hội”. Trong tình hình mới, yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với chính sách an sinh xã hội ngày càng tăng lên. Kinh tế đất nước đang trong thời
kỳ quá độ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn tồn tại
nhiều nguy cơ gây rủi ro như thiếu việc làm, thất nghiệp. Bên cạnh đó, do điều kiện
thời tiết và biến đổi khí hậu, hdng năm nước ta phải hứng chịu nhiều trận bão, lũ,
hạn hán, tác đô fng bất lợi đối với cuộc sống sinh hoạt, sản xuất của con người. Ô
nhiễm môi trường, thực phẩm bẩn làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và tăng
nguy cơ mắc các bệnh hiểm nghèo. Vì thế cần có cơ chế, chính sách phòng ngừa,
giảm thiểu, khắc phục. Các nhóm đối tượng an sinh xã hội sẽ ngày càng đa dạng,
đòi hỏi phải có hệ thống an sinh xã hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt và đủ khả năng
thực hiện những mục tiêu an sinh xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với
chính sách an sinh xã hội nhdm ổn định đời sống người lao động, bảo đảm an toàn,
ổn định cho nền kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công
bdng xã hội là yêu cầu cấp thiết. 2. Nô D
i dung và L nghMa của Đại hô D i XII 2.1. Nội dung
2.1.1. Đánh giá tổng quát kt quả thực hiện Nghị quyt Đại hội XI và nhìn

lại 30 năm đổi mới
Năm năm qua (2011 - 2015), bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế
giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm;
khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng
quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên biển Đông... đã tác
động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế,
khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản
lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên
tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta phải dành nhiều nguồn lực
để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước trước những diễn
biến mới, phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI
của Đảng và đạt được những thành quả quan trọng.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được
nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh
tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm
trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá
chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực. Giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã
hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp
tục được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định. Quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội
chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt
được. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận
nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Bốn nguy cơ mà Đảng
ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải
biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bdng, văn
minh”. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều
hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để tiếp tục đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững hơn. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua
30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo;
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm bài học đúc
kết từ thực tiễn đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới
và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
2.1.2. Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm
trong 5 năm 2016 - 2020
Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức
tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một
cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính
trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh
chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo trong khu vực và trên biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các
cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn
biến hòa bình” của thế lực thù địch nhdm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và
những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...
Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách
thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng, quyết tâm thực hiện
thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm vụ sau:
Mục tiêu tổng quát: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững,
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa
bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các chỉ tiêu quan trọng:
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm.
Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5
năm bdng khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4%
GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 -
35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng
lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
- Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã
hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bdng
cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10
bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên
80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
- Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn
được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất
thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Các nhiệm vụ trọng tâm:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú
trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách
nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở
rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh 2.2. B nghMa
Đại hội lần thứ XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng:
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu
và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020,
2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới.
Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Đại hội đã thảo luận và thông qua những chủ
trương, quyết sách quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo sâu sắc toàn bộ quá
trình triển khai tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước
nhanh, bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng đại, định hướng, cổ vũ và động viên
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng (2011-2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ 5 năm 2016-2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; bầu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII. B. VÂDN D[NG
1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyt các vấn đề

thuộc chính sách xã hội theo tinh thần Đại hội XII (2016)
(6)Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

quan điểm khách quan, toàn diện, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã
chỉ rõ, thời gian tới tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến phức
tạp. Thế giới ngày nay đang thay đổi nhanh chóng, cơ hội và thách thức đối với sự
phát triển của đất nước ta đan xen phức tạp. Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, sự phát triển của thế giới đang đứng trước một bước ngoặt
mới; xung đột tôn giáo, sắc tộc có xu hướng phức tạp... Trong bối cảnh đó, để nâng
cao sức mạnh nội lực, đưa đất nước tiếp tục vượt qua khó khăn, phát triển bền
vững, vấn đề thu hút và phát huy sức dân càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Theo đó, để phát huy sức sáng tạo của nhân dân, trước hết, chúng ta cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các tổ chức, các lực lượng
trong xã hội về vai trò của nhân dân và việc động viên, phát huy vai trò của nhân
dân trong điều kiện mới. Chú trọng xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức trong
hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở, củng cố và tăng cường niềm tin của
nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Thường xuyên củng cố, giữ vững và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo dựng sự đồng thuận cao trong xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để phát huy cao nhất vai trò
làm chủ của nhân dân; tăng cường các hoạt động giám sát của nhân dân đối với hệ
thống chính trị và đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm chăm lo, đầu tư
phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; chú trọng chăm lo
đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn và khu vực biên giới, hải đảo. Tăng cường bảo đảm tốt an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; đấu tranh
có hiệu quả nhdm ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực, xử lý dứt điểm những vấn
đề “nóng” trong xã hội.
Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong
lãnh đạo đất nước. Ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà
nước ta đã coi nhiệm vụ diệt “giặc đói”, “giặc dốt” là mô ft trong những nhiê fm vụ
quan trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có mong ước nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành. Trong 30 năm đổi mới, mặc dù đất nước còn gặp nhiều khó
khăn, nhưng Đảng luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo thực hiê fn chính sách an sinh xã
hội. Nhận thức, quan điểm lãnh đạo chính sách an sinh xã hội đã được hoàn thiện
qua từng kỳ đại hội của Đảng. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng
định bảo đảm an sinh xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ
mới. Đảng cũng chỉ rõ những định hướng bảo đảm an sinh xã hội là tiếp tục hoàn
thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mở
rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội tới mọi người dân,
hướng tới mục tiêu thực hiện an sinh xã hội toàn dân; khuyến khích nâng cao khả
năng tự bảo đảm an sinh xã hội của mỗi người dân; gắn kết chặt chẽ chính sách
kinh tế với chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân
đều có cơ hội và điều kiện bảo đảm an sinh xã hội và phát huy khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của mình.
Quan điểm Đại hội XII của Đảng chỉ ra những định hướng lớn, lãnh đạo cụ
thể từng mặt của công tác an sinh xã hội dựa trên cơ sở lý luận về chức năng, cấu
trúc, mô hình, các trụ cột, sự phân tầng của chính sách an sinh xã hội, cách tiếp cận
mới về tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều bền vững, về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế toàn dân, trợ giúp xã hội, cung cấp dịch vụ xã hội ở mức độ tối thiểu nhdm trợ
giúp khó khăn, phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là nhóm yếu thế, hướng đến nền an sinh xã
hội toàn dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bdng, văn minh.
Một là, chủ trương lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thu nhập
cho người lao động và đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững.
Giải quyết vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người dân là trụ cột cơ
bản nhất của chính sách an sinh xã hội. Chủ trương của Đảng tại Đại hội XII: “Tạo
cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu
nhập công bdng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động…. Hoàn thiện và
thực hiện chính sách bảo hộ lao động”.
Lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo là một trong những nội dung quan trọng của
quan điểm lãnh đạo chính sách an sinh xã hội. Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã
chỉ rõ phải đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và
có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích các hộ nghèo, cận nghèo
phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững; đổi mới chính sách giảm nghèo theo
hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhdm
bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hai là, tiếp tục phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm. Chính sách
bảo hiểm là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, giúp người dân giảm bớt gánh nặng
khi tuổi già, tai nạn, ốm đau, thất nghiệp,… Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm góp
phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển và thực hiện tốt các chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,…”, mở
rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính,
bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội. Đây là những chủ trương lãnh
đạo quan trọng, là định hướng để chính sách bảo hiểm tiếp tục phát huy hơn nữa
vai trò giảm thiểu rủi ro trong chính sách an sinh xã hội.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội. Công tác trợ
giúp xã hội có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, bảo đảm an toàn cho các thành
viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được. Văn kiện
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia
của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Đại hội XII của Đảng
khẳng định, tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ bị tổn
thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống, để công tác trợ giúp xã hội
đạt được hiệu quả cao nhất, Đảng ta cũng chỉ rõ phải phát triển đa dạng các hình
thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế
nhdm huy động cao nhất các nguồn lực vật chất, tinh thần để giúp đỡ, tạo điều kiện
để những người yếu thế hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, yêu cầu chuyển từ hỗ
trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân trong quan điểm
lãnh đạo của Đảng về an sinh xã hội, khẳng định sự quan tâm đến quyền con người
của Đảng, Nhà nước ta.
Bốn là, bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu, mức tối thiểu
về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin.
Về lãnh đạo bảo đảm giáo dục tối thiểu: Một trong những nguyên nhân cơ bản
của nghèo đói là do người lao động không có trình độ giáo dục cơ bản và kỹ năng
nghề nghiệp để tìm việc làm tốt hơn. Văn kiện Đại hội XII của Đảng trên cơ sở
đánh giá tình hình giáo dục đào tạo đã yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa
học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động; hoàn
thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập.
Về lãnh đạo bảo đảm y tế tối thiểu: Cùng với quá trình lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức chăm lo đến công tác khám,
chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho mọi tầng lớp nhân dân. Nghị quyết Đại hội XII xác
định, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các
tuyến; quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, nhất
là miền núi, biên giới, hải đảo… tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn,
miền núi, biên giới, hải đảo, cùng với nâng cao chất lượng cuộc sống, phấn đấu tuổi
thọ trung bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
Về lãnh đạo bảo đảm nhà ở xã hội: Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ, thực hiện tốt
các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân
sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Phát triển nhà ở xã hội cho người thu
nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên. Hiện nay, bảo
đảm nhà ở xã hội là một trong những chính sách được Đảng hết sức quan tâm.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đưa ra các nhiệm vụ tổng quát, trong đó
khẳng định: Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của
nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Như vậy, Đại hội nhấn mạnh và
khẳng định quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đó là tính sáng tạo, làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng, củng
cố quyền lực của nhân dân. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định một số kết
quả nhất định trong vấn đề thực hành dân chủ như: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được
phát huy và ngày càng mở rộng; Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt
hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bdng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đề ra phương hướng để phát huy dân chủ
và bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, đây cũng chính là
những bước phát triển về lý luận cũng như những điểm mới về vấn đề thực hành
dân chủ trong Văn kiện Đại hội XII. Thể hiện qua những nội dung cụ thể sau:
Một là, để dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện trên thực tế thì dân chủ phải
được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hai là, Đại hội XII nhấn mạnh cần tập trung thể chế hóa, nâng cao chất lượng
các hình thức thực hiện dân chủ. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt
hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bdng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Ba là, vấn đề dân chủ trong Đảng. So với Đại hội XI, điểm mới trong văn kiện
Đại hội XII là đã tìm được điểm mấu chốt trên phương diện phát huy, thực hành
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là: Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải
bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội.
Với tư cách là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi mặt của
xã hội, Đảng có vai trò tuyệt đối quan trọng trong quá trình phát huy dân chủ. Dân
chủ trong Đảng là một trong những tiền đề chủ yếu để thúc đẩy dân chủ trong xã hội.
Bốn là, giám sát và phản biện xã hội. Đại hội XII nhấn mạnh nhiệm vụ cần thể
chế hóa, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Việc thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả là rất quan trọng.
Đại hội XII đã nêu: Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân. Tổ chức thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; quy định về việc Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp. 2. Liên hê D địa phương
Trong Chương trình số 08-CTr/TU về “Phát triển hệ thống an sinh xã hội,
nâng cao phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô giai đoạn
2021 - 2025”, Thành ủy Hà Nội đề ra mục tiêu tổng quát là giải quyết hài hòa, hiệu
quả giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và quản trị xã hội; trong đó, phát
triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững, không ngừng nâng
cao phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống của nhân dân; phấn đấu đạt nhiều chỉ tiêu
cao hơn mức chuẩn quốc gia, góp phần xây dựng thành phố Hà Nội phát triển
nhanh, bền vững và tiến bộ.
Tính đến cuối năm 2021, toàn thành phố Hà Nội còn khoảng 0,2% hộ nghèo
và 1,56% hộ cận nghèo; có 11/30 quận, huyện, thị xã không còn hộ nghèo (theo
chuẩn nghèo mới); đã giải quyết việc làm cho gần 180.000 người, đạt 112,2% kế
hoạch; hỗ trợ an sinh xã hội cho hơn 5 triệu lượt người; hỗ trợ những người gặp
khó khăn bdng tiền mặt; hỗ trợ tiền sử dụng nước sạch; miễn, giảm học phí,… với
tổng ngân sách dành cho việc thực hiện các chính sách đặc thù của thành phố lên
đến 10.640,4 tỷ đồng và riêng kinh phí hỗ trợ các đối tượng gặp khó khăn do đại
dịch COVID-19 là 6.527,9 tỷ đồng. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội Hà Nội, tính đến trung tuần tháng 9-2022, thành phố đã
hoàn thành việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao
động khó khăn do đại dịch COVID-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính
phủ “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp
khó khăn do đại dịch COVID-19”, thẩm định hồ sơ và phê duyệt hỗ trợ cho
2.610.829 lượt đối tượng, với kinh phí 2.659,769 tỷ đồng. Các hoạt động hỗ trợ,
thúc đẩy thị trường lao động luôn được quan tâm, triển khai có hiệu quả hệ thống 8
điểm, 5 sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận, huyện...; bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế ngày càng được mở rộng, số người tham gia tăng nhanh và dần trở thành
trụ cột quan trọng của hệ thống an sinh xã hội… Ngoài ra, thành phố Hà Nội thực
hiện hiệu quả các chính sách xã hội, bảo đảm khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
bản cho người dân về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin...
Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến đời sống, việc làm của người dân, để giúp người lao động có việc làm và thu
nhập ổn định, các cấp, ngành cần chú trọng đến công tác dạy nghề, giải quyết việc
làm gắn với nhu cầu sử dụng lao động. Song song với đó là đa dạng hóa các nguồn
lực huy động, đẩy mạnh xã hội hóa, ưu tiên dành các nguồn lực nhdm giảm nghèo
bền vững, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là các đối tượng có hoàn
cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số..., tạo điểm tựa an sinh vững chắc, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô.
Bảo hiểm thành phố Hà Nội Hà Nội đã chi trả cho trên 1,680 triệu người lao
động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và người lao động tạm dừng bảo hiểm
thất nghiệp với tổng số tiền trên 4.000 tỷ đồng, theo quy định tại Nghị quyết số
116/NQ-CP “Về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp”.
Từ năm 2022, một số trường hợp đặc biệt còn được hỗ trợ theo chính sách đặc
thù để có mức sống trên mức chuẩn nghèo. Theo đó, đối với trường hợp trẻ em
dưới 15 tuổi, người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật đặc biệt nặng, người mắc
bệnh hiểm nghèo sẽ có mức hỗ trợ hdng tháng là 2 triệu đồng/người đối với khu
vực nông thôn; 2,5 triệu đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị. Đối với
trường hợp người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có khả năng tự phục vụ bản thân
sẽ nhận mức hỗ trợ hdng tháng là 440.000 đồng/người. Hỗ trợ 100% mức đóng bảo
hiểm y tế theo diện hộ gia đình cho thành viên hộ nghèo được công nhận thoát
nghèo đồng thời thoát cận nghèo, thành viên hộ cận nghèo được công nhận thoát
cận nghèo. Thời gian hỗ trợ 36 tháng kể từ tháng được công nhận thoát nghèo, thoát cận nghèo...
Về phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, đến nay, thành phố Hà
Nội đã giải quyết việc làm cho 168.443/160.000 lao động, đạt 105,2% kế hoạch
năm (tăng 44% so với cùng kỳ năm 2021). Bên cạnh đó, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y
tế đạt 92,1% dân số (kế hoạch Chương trình 08-CTr/TU năm 2022 là 92,5%).
Trong công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thành phố Hà Nội duy trì hệ
thống giám sát phát hiện bệnh truyền nhiễm, cơ bản kiểm soát tốt dịch bệnh
COVID-19 với số mắc liên tục giảm từ giữa tháng 3-2022. Tiếp tục thực hiện có
hiệu quả công tác phòng, chống dịch COVID-19, đẩy mạnh tiêm vắc-xin ngừa
COVID-19 cho toàn bộ người dân trong độ tuổi tiêm chủng. Các bệnh viện tiếp tục
nâng cao năng lực khám, chữa bệnh, bố trí khoa khám, chữa bệnh để nâng cao chất
lượng phục vụ người bệnh phù hợp với công tác phòng, chống dịch bệnh trong tình hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn tồn tại một số khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện Chương trình số 08-CTr/TU, như ý thức chấp
hành pháp luật về bảo hiểm xã hội của một số đơn vị sử dụng lao động chưa cao;
nợ bảo hiểm xã hội tồn đọng, kéo dài; tình hình sản xuất, kinh doanh của một số
đơn vị sử dụng lao động vẫn còn nhiều khó khăn, chưa thực hiện việc trích nộp
hdng tháng theo quy định...; một số văn bản thực hiện Chương trình số 08-CTr/TU
còn chậm được ban hành; nguồn vốn cho vay các chương trình tín dụng chính sách
trên địa bàn thành phố Hà Nội dù được quan tâm bổ sung hdng năm nhưng vẫn
chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vay vốn để hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc
làm. Do đó, thời gian tới, thành phố Hà Nội cần triển khai thực hiện một số công việc sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát; rà soát, xác định
rõ các chỉ tiêu, nhiệm vụ Chương trình số 08-CTr/TU của Thành ủy và Kế hoạch số
207/KH-UBND. Gắn việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của chương
trình này với việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của từng ngành, địa phương.
Hai là, ban hành các chính sách đặc thù và tập trung chỉ đạo triển khai thực
hiện có hiệu quả; ưu tiên bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động các
nguồn xã hội hóa để bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội.
Ba là, bảo đảm an sinh xã hội toàn diện, bền vững, không ngừng nâng cao
phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô, giảm chênh lệch mức
sống giữa khu vực đô thị và nông thôn, giảm nghèo bền vững tiến tới phát triển bền vững.
Bốn là, tăng cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền
vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển
sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động.
Năm là, chú trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển hệ thống an sinh xã
hội, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để khuyến khích người dân tham gia.
Sáu là, thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có
công với cách mạng, hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. C.KẾT LUẬN
Trên bức tranh rộng lớn của chính sách xã hội, vai trò của Đảng trong việc chỉ
đạo và định hình chủ trương không chỉ là một yếu tố quyết định mà còn là điểm tựa
vững chắc cho sự phát triển đồng đều và bền vững của đất nước. Đại hội XII đã
đưa ra những hướng đi rõ ràng, nhưng quan trọng không chỉ là việc xác định hướng
đi mà còn là sự thực hiện chặt chẽ tại cơ sở, như tại Hà Nội và các địa phương
khác, để đem lại lợi ích thực sự cho người dân. Tại Hà Nội, chủ trương và chỉ đạo
của Đảng được thể hiện rõ qua việc triển khai các chính sách xã hội một cách có
hiệu quả và linh hoạt. Qua các dự án hỗ trợ người dân với mục tiêu giảm nghèo, cải
thiện hạ tầng, và nâng cao chất lượng cuộc sống, Đảng đã thể hiện vai trò thực sự
đối với sự phát triển toàn diện.
Qua việc kết nối tinh thần Đại hội với thực tiễn địa phương, Đảng đã và đang
chứng minh sự quyết đoán và tầm nhìn sâu rộng trong việc xây dựng cộng đồng,
góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước vững mạnh. Những nỗ lực
này không chỉ thể hiện sự quyết đoán của Đảng mà còn tạo ra động lực mạnh mẽ
cho việc xây dựng một cộng đồng hòa nhập và phát triển, đồng thời là bước tiến
quan trọng trong hành trình đưa đất nước về phía mục tiêu phát triển bền vững và
thịnh vượng. Điều này chứng tỏ rdng sự kết nối chặt chẽ giữa tinh thần Đại hội và
thực tiễn địa phương đang là một yếu tố quan trọng không chỉ trong việc hình thành
chủ trương mà còn trong việc thực hiện chúng một cách hiệu quả và có ý nghĩa.
DANH M[C TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách an sinh xã hội bảo đảm tiến bộ và
công bdng xã hội ở Việt Nam hiện nay, TS. Trương Thị Thanh Quý
2. Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình
Đại hội lần thứ XII của Đảng.
3. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ giáo dục và đào tạo
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2012, t.12
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.8
6. Một số điểm mới nổi bậ,t trong Văn kiện Ðại hội XII của Ðảng, ThS.
Nguyễn Văn Ðổng Tòa án Quân sự Quân khu 4, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự thấm nhuần, vận
dụng sáng tạo tại Đại hội XII của Đảng, Nguyễn Thị Quỳnh