Chương 2: Cơ sở lý thuyết (Tổng quan tóm tắt về lý thuyết vấn đề đã nêu | Môn kinh tế vĩ mô
Tăng trưởng dịch vụ giảm từ 2,3% năm 2020 xuống còn 1,2%. Lượng khách du lịch nước ngoài giảm 96% trong năm 2021 đã được bù đắp một phần bởi sự phục hồi dịch vụ y tế và tài chính trong quý IV. Nông nghiệp tăng trưởng 2,9%, cao hơn so với mức 2,7% trong năm 2020, do nhu cầu lương thực của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) và các nơi khác tăng trở lại.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Kinh tế vĩ mô ( UEH)
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46831624
Chương 2: Cơ sở lý thuyết (Tổng quan tóm tắt về lý thuyết vấn đề đã nêu?)
Sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID-19 đã thắt chặt thị trường lao động, gây gián
đoạn chuỗi cung ứng và khiến - tăng trưởng chậm lại vào năm 2021. Nền kinh tế đang dự
báo phục hồi mạnh mẽ trong năm nay và năm tới, nhờ tỷ lệ tiêm chủng cao, cho phép
chính phủ dỡ bỏ các biện pháp kiềm chế đại dịch nghiêm ngặt, mở rộng thương mại, và
tiếp tục chính sách tài chính và tiền tệ mở rộng. Rủi ro đối với triển vọng là sự xuất hiện
của một làn sóng COVID-19 mới và quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu chậm hơn dự
kiến. Thách thức về mặt chính sách là đảm bảo thực hiện nhanh chóng và hiệu quả
chương trình phục hồi và phát triển kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng.
Quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam
Theo phân tích của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) trong Báo cáo triển vọng phát
triển châu Á 2022 - Cập nhật tổng quan kinh tế Việt Nam và triển vọng năm 2022-2023
cho thấy, đợt bùng phát COVID-19 mới vào tháng 4/2021 đã cản trở quá trình phục hồi
kinh tế của Việt Nam, thắt chặt nguồn cung lao động và làm gián đoạn chuỗi cung ứng
trong lĩnh vực chế biến chế tạo sử dụng nhiều lao động. Tăng trưởng GDP năm 2021
giảm xuống mức 2,6% từ 2,9% năm 2020.
Sự phục hồi nhanh chóng của sản lượng công nghiệp trong quý I và quý II/2021 đã không
đạt được kỳ vọng bởi những hạn chế di chuyển nghiêm ngặt trong do COVID-19, khiến
sản lượng trong quý III sụt giảm mạnh. Việc nới lỏng các biện pháp hạn chế đi lại vào
tháng 10/2021, khi tỷ lệ tiêm chủng tăng, đã giúp tăng trưởng phục hồi, với sản lượng
tăng đạt mức 4,0% vào năm 2021.
Tăng trưởng dịch vụ giảm từ 2,3% năm 2020 xuống còn 1,2%. Lượng khách du lịch nước
ngoài giảm 96% trong năm 2021 đã được bù đắp một phần bởi sự phục hồi dịch vụ y tế
và tài chính trong quý IV. Nông nghiệp tăng trưởng 2,9%, cao hơn so với mức 2,7% trong
năm 2020, do nhu cầu lương thực của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung
Hoa) và các nơi khác tăng trở lại. lOMoAR cPSD| 46831624
Thị trường lao động chịu những cú sốc nghiêm trọng từ cả phía cung và cầu khi nền kinh
tế suy yếu và người lao động rời bỏ lực lượng lao động, dẫn tới giảm 2,0 triệu lao động từ
15 tuổi trở lên trong quý III so với quý trước. Tiêu dùng cá nhân tăng 2,0% so với mức
0,6% vào năm 2020, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,4% năm 2019 - trước đại
dịch. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và thu nhập giảm đã hạn chế tăng trưởng tiêu dùng cá nhân trong năm 2021.
Tiêu dùng công giảm từ 6,2% năm 2020 xuống còn 2,9% do chính phủ cắt giảm chi
thường xuyên. Tổng vốn đầu tư tăng khoảng 4,0%, nhưng vẫn chỉ bằng một nửa mức
tăng trước đại dịch. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tăng 9,2%, nhưng cơ chế phối hợp
thiếu chặt chẽ giữa trung ương và địa phương đã khiến giải ngân vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài chậm lại, giảm 1,2% so với năm 2020. Hoạt động xuất nhập khẩu vẫn đạt kết
quả tốt, bất chấp những ảnh hưởng do COVID-19 gây ra.
Lạm phát giảm còn 1,8% năm 2021 từ mức 3,2% năm 2020, do cầu nội địa suy yếu; tỷ lệ
lạm phát năm ngoái ở mức thấp nhất kể từ năm 2016. Với lạm phát thấp, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam duy trì chính sách tiền tệ mở rộng, giữ nguyên các lãi suất chính sách ở
mức thấp kỷ lục kể từ tháng 10/2020, chỉ đạo thực hiện các giải pháp hỗ trợ tín dụng, và
điều chỉnh hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với một số ngân hàng thương mại. Tổng
mức miễn, giảm lãi suất ước tính lên đến 1,5 tỷ đô la. Hoạt động kinh tế phục hồi kể từ
tháng 10/2021 đã khôi phục tín dụng tăng cao trong những tháng cuối năm, đưa mức tăng
trưởng tín dụng cả năm ước đạt 13,6% so với mức 12,2% năm 2020. Tổng phương tiện
thanh toán ước tăng 10,7% so với 14,5% trong năm 2020.
Rủi ro đối với ổn định tài chính trong năm 2021 vẫn trong tầm kiểm soát, bất chấp tác
động của đại dịch về kinh tế. Chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng góp phần làm tăng
Chỉ số VN-Index lên mức cao kỷ lục vào tháng 11 năm 2021. Tổng giá trị trái phiếu
chính phủ phát hành trong năm 2021 đạt mức tương đương 13,7 tỷ đô la, tăng 32% so với
năm 2019. Các nguy cơ ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính dần xuất hiện. Sự tăng lOMoAR cPSD| 46831624
trưởng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu thông qua các đợt phát hành riêng
lẻ, phần lớn không có tài sản bảo đảm và không được xếp hạng tín nhiệm, gây lo ngại về
rủi ro tiềm ẩn. Nợ xấu (NPL) có thể tiếp tục tăng khi việc cơ cấu lại khoản vay và giữ
nguyên nhóm nợ dừng lại.
Xuất khẩu thương mại hàng hóa tăng lên 19% vào năm 2021, từ mức 7% vào năm 2020.
Các lô hàng điện thoại di động, máy tính và điện tử chiếm 32% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng 13,2%. Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 28,4%
thị phần trong tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là Trung Quốc. Chính sách “không
COVID-19” của Trung Quốc đã cản trở xuất khẩu sang nước này vào năm 2021 và trong 2 tháng đầu năm 2022.
Thặng dư thương mại hàng hóa giảm xuống còn 4,9% GDP từ mức cao kỷ lục 8,9% năm
2020. Nhập khẩu tăng do phục hồi sản xuất và tiêu dùng trong nước. Thặng dư thương
mại thu hẹp, cùng với giảm thu ròng từ dịch vụ khiến cán cân vãng lai bị thâm hụt, ước
vào khoảng 1,1% GDP so với mức thặng dư 4,4% vào năm 2020. Vốn vào ròng làm
thặng dư tài khoản vốn tăng lên, ước tính 8,5% GDP, giúp cán cân thanh toán tổng thể
thặng dư khoảng 3,9% GDP. Cuối tháng 12, dự trữ ngoại hối ước tính tương đương với
3,9 tháng nhập khẩu, giảm nhẹ so với mức 4,2 tháng vào cuối năm 2020. Bội chi ngân
sách ước tính tăng lên mức 3,8% GDP so với 3,5% vào năm 2020. Thu ngân sách tăng
nhẹ 1% do thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 22%, và thu từ dầu mỏ tăng 32%. Bù
trừ với những khoản tăng này là sự sụt giảm 3% trong thu thuế nội địa do hoạt động kinh
tế yếu hơn. Chi tiêu chính phủ chỉ tăng 3% so với cùng kỳ năm trước. Chính phủ gia tăng
chi tiêu cho COVID-19 nhưng lại chậm giải ngân vốn đầu tư công.
Đại dịch làm cho quá trình thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước chậm lại. Năm
2021, thu từ thoái vốn và cổ phần hóa các doanh nghiệp này chỉ đạt 14,5% kế hoạch.
Chất lượng tài sản ngân hàng bị ảnh hưởng bởi hoạt động kinh tế yếu đi. Tỷ lệ nợ xấu nội
bảng trên tổng dư nợ là khoảng 2,0% vào cuối năm 2021, so với mức 1,7% vào cuối năm
2020. Tổng nợ xấu, bao gồm cả các khoản nợ bán cho Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam lOMoAR cPSD| 46831624
(VAMC) nhưng chưa được xử lý và các khoản cho vay khác có rủi ro trở thanh nợ xấu
ước tính khoảng 3,8% tổng dư nợ.
Triển vọng kinh tế Tăng trưởng GDP của Việt Nam
ADB dự báo đạt 6,5% năm 2022 và 6,7% năm 2023 - sự phục hồi có thể đạt được nhờ tỷ
lệ tiêm chủng COVID-19 cao của Việt Nam, chuyển hướng tiếp cận linh hoạt hơn trong
kiểm soát đại dịch, thương mại tiếp tục mở rộng và chương trình phục hồi và phát triển
kinh tế của chính phủ (ERDP). Tính đến ngày 22/3, 79,4% dân số trên 18 tuổi đã được
tiêm chủng đầy đủ và 47,5% đã được tiêm mũi thứ ba. Tỷ lệ tiêm chủng cao cho phép
chính phủ bỏ các biện pháp kiềm chế đại dịch nghiêm ngặt, gây gián đoạn. Sự chuyển
hướng kịp thời trong chiến lược kiểm soát dịch bệnh giúp khôi phục hoạt động kinh tế và
giảm sự bất ổn trong môi trường kinh doanh. Khảo sát của Tổng cục Thống kê về xu
hướng kinh doanh trong lĩnh vực chế biến chế tạo cho thấy 81,7% số doanh nghiệp được
hỏi tin rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn vào năm 2022. Trong quý I năm
2022, tăng trưởng GDP đạt mức 5,0%, cao hơn mức 4,7% của năm trước.
Ngày 11/1, Quốc hội đã phê chuẩn gói giải pháp tài khóa và tiền tệ, ước tính lên đến 15 tỷ
đô la để triển khai Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế (ERDP) trong năm 2022
và 2023. 11,5 tỷ đô la của chương trình bao gồm các giải pháp tài khóa như chính sách
miễn, giảm thuế, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, phát triển cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội; và
hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các giải pháp tiền tệ của ERDP sẽ
cung cấp thêm thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc các tổ chức tín dụng dự kiến
giảm lãi suất cho vay 0,5% –1,0% trong năm nay và năm sau và tiếp tục thực hiện các
biện pháp hỗ trợ tín dụng đến hết năm 2023. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu
tăng trưởng tín dụng năm 2022 là 14%. Việc cắt giảm lãi suất và nhu cầu tín dụng phục
hồi của các doanh nghiệp giúp đạt được chỉ tiêu này.
Thị trường lao động phục hồi và các biện pháp kích cầu khác sẽ thúc đẩy tăng trưởng
công nghiệp ở mức 9,5% vào năm 2022 theo dự báo, đóng góp 3,6 điểm phần trăm vào lOMoAR cPSD| 46831624
tăng trưởng GDP. Công nghiệp đã khởi đầu mạnh mẽ trong năm nay. Chỉ số nhà quản trị
mua hàng đã lên 53,7 trong tháng 1/2022 (trên 50 cho thấy sự mở rộng) và lên 54,3 vào
tháng Hai so với mức 52,5 trong tháng 12/2021, tháng tăng trưởng thứ tư liên tiếp. Sản
lượng nông nghiệp được dự báo sẽ tăng 3,5% trong năm nay, đóng góp 0,4 điểm phần
trăm vào tăng trưởng GDP nhờ sự phục hồi của cầu nội địa và giá hàng hóa toàn cầu
tăng. Các chính sách tái mở cửa du lịch của Chính phủ thực hiện vào tháng Ba và dự kiến
dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát đại dịch sẽ thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ, với dự báo tăng
5,5%, đóng góp 2,3 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP trong năm nay. Giải ngân tăng
sẽ thúc đẩy hoạt động xây dựng và các hoạt động kinh tế liên quan.
Chương trình ERDP sẽ gia tăng đầu tư công, kích cầu nội địa. Tăng cường phối hợp giữa
chính quyền trung ương và địa phương cũng như dịch chuyển lao động phục hồi sẽ giúp
tăng niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước về khả năng phục hồi kinh tế của Việt
Nam. Chỉ số môi trường kinh doanh của Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam quý
IV năm 2021 cho thấy các doanh nghiệp Châu Âu đánh giá tích cực và lạc quan về môi
trường kinh doanh của Việt Nam sau khi Chính phủ nới lỏng các biện pháp nghiêm ngặt
trongkiểm soát COVID-19. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 2 tháng đầu
năm 2022 tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.
Báo cáo cũng nhận định, hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh trong năm nay.
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1, dự kiến sẽ
thúc đẩy thương mại và phục hồi kinh tế sau khi đại dịch COVID-19 lắng xuống, bằng
cách tao ra các thị trường xuất khẩu ổn định và lâu dài cho Việt Nam và tạo nền tảng
mang tính ràng buộc pháp lý để mở rộng thương mại. Dự báo xuất khẩu hàng hóa sẽ tăng
8% –10% trong năm nay. Nhập khẩu sẽ tăng do nhu cầu về tư liệu sản xuất và đầu vào
cho công nghiệp chế biến chế tạo tăng lên, và tiêu dùng trong nước phục hồi trở lại. Sự
phục hồi của du lịch và lượng kiều hối bền vững sẽ giúp tăng thặng dư tài khoản vãng lai,
dự báo ở mức 1,5% GDP trong năm nay và 2,0% vào năm 2023.
Triển vọng phục hồi của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những rủi ro ngắn hạn. Số ca nhiễm lOMoAR cPSD| 46831624
COVID-19 tăng cao kể từ giữa tháng 3 có thể cản trở quá trình trở lại bình thường của
nền kinh tế trong năm 2022. Tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại và giá dầu thế giới
tăng cao do chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và giá dầu trong nước, ảnh hưởng đến lạm phát.
Cùng với đó, những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu và việc các nền kinh tế tiên
tiến ngừng thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng sẽ làm suy yếu đồng nội tệ
của Việt Nam, làm cho nhập khẩu đắt hơn và gia tăng áp lực lạm phát. Đến cuối quý I
năm 2022, lạm phát bình quân tăng lên 1,9%, so với mức 0,3% của một năm trước đó.
Lạm phát được dự báo sẽ tăng lên 3,8% vào năm 2022 và 4,0% vào năm 2023. Tăng
trưởng chậm lại ở Trung Quốc có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và quá trình
phục hồi kinh tế của Việt Nam. Nợ xấu gia tăng là một rủi ro khác trong trung hạn. Nếu
tính thêm các khoản cho vay được cơ cấu lại vẫn giữ nguyên nhóm nợ, tỷ lệ nợ xấu tiềm
năng của Việt Nam ước tính là 8,2% tổng dư nợ. Bên cạnh việc chi phí vật liệu xây dựng
tăng nhanh, thủ tục giải ngân vốn đầu tư công phức tạp có thể làm chậm việc triển khai
chương trình ERDP của Việt Nam, giảm tác động mong muốn đối với tăng trưởng.
Thách thức về mặt chính sách – Đảm bảo triển khai nhanh chóng và hiệu quả
chương trình phục hồi và phát triển kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng
Từ tháng 4/ 2020 đến tháng 7/2021, Chính phủ đã khởi động hai chương trình hỗ trợ tài
chính và tiền tệ, để giải quyết tác động kinh tế của đại dịch COVID-19. Sau đó, để ứng
phó với sự bùng phát trở lại COVID-19 vào năm 2021, Quốc hội đã thông qua nghị quyết
mới về các giải pháp tài chính và tiền tệ vào tháng 1 năm 2022 để đẩy nhanh việc thực
hiện chương trình ERDP trong năm nay và năm tới. Việc triển khai hiệu quả chương trình
có vai trò quan trọng để Việt Nam khôi phục động lực tăng trưởng. Tuy nhiên, việc triển
khai ERDP gặp một số thách thức về mặt chính sách.
Phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những cấu phần quan trọng nhất của ERDP và hoạt
động này đã được phân bổ ngân sách 113 nghìn tỷ đồng (khoảng 5 tỷ USD) cho các năm lOMoAR cPSD| 46831624
2022 và 2023. Việc đảm bảo triển khai cấu phần hạ tầng một cách kịp thời có thể rủi ro,
do vấn đề mang tính hệ thống trong quá trình chuẩn bị, phê duyệt và giải ngân dự án ở
Việt Nam gây nên bởi các thủ tục đầu tư công, đặc biệt là trong công tác thu hồi đất đai,
tái định cư và mua sắm đấu thầu. Để thực hiện kịp thời cần phải đơn giản hóa triệt để và
thay đổi các quy định về đầu tư công cũng như công tác phối hợp chính sách.
Tổng mức hỗ trợ lãi suất lên đến 40 nghìn tỷ đồng (khoảng 1,7 tỷ USD). Đây là cấu phần
tài khóa chính của ERDP, dự kiến sẽ thúc đẩy tổng cầu. Tuy nhiên, do mức độ tín nhiệm
và khả năng hồi phục là những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp có thể tiếp cận các
khoản vay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể không đáp ứng được các tiêu chí này do
tình hình tài chính và năng lực của họ đã bị suy yếu vì đại dịch COVID-19. Một mối
quan ngại khác là chương trình hỗ trợ lãi suất có thể gặp rủi ro do các khoản vay được trợ
cấp bị sử dụng sai mục đích, bao gồm đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro, như cổ phiếu hoặc
bất động sản. Điều này đã xảy ra với một chương trình tương tự vào năm 2009. Để tránh
xảy ra tình huống này một lần nữa, cần phải có hướng dẫn rõ ràng và sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường giám sát việc thực hiện ERDP.
Một cấu phần tài khóa quan trọng khác của ERDP là giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT)
trong năm 2022 cho các sản phẩm và dịch vụ hiện đang chịu mức thuế VAT 10%. Tổng
giá trị cắt giảm thuế khoảng 49 nghìn tỷ đồng (khoảng 2,1 tỷ USD). Việc giảm thuế VAT
có thể tạo ra các tác động chuyển tiếp đáng kể và trên diện rộng nếu được thực hiện thành
công. Tuy nhiên, các tiêu chí đáp ứng điều kiện và thủ tục rất phức tạp có thể hạn chế khả
năng tiếp cận của các doanh nghiệp đối với chính sách giảm thuế VAT. Cần có các tiêu
chí về đáp ứng điều kiện và thủ tục rõ ràng hơn để hỗ trợ thực hiện chính sách giảm thuế
VAT một cách nhanh chóng./
(Nguồn: https://dangcongsan.vn/thoi-su/kinh-te-viet-nam-san-sang-hoi-phuc-manh-
metrong-nam-2022-va-2023-607531.html) lOMoAR cPSD| 46831624
Tại Việt Nam, dự báo của các tổ chức quốc tế uy tín đều đánh giá Việt Nam có khả năng
phục hồi trở lại cao ở mức 6% đến 6,5% vào năm 2022 trong bối cảnh mà dịch bệnh
được kiểm soát, tỷ lệ tiêm chủng được phủ rộng và biến chủng mới Omicron không gây
ra nhiều thiệt hại đối với nền kinh tế. Dự báo trên căn cứ vào các điểm sau:
Một là, dư địa chính sách tài khóa của Việt Nam là vẫn còn, tạo điều kiện cho những sự
tác động của Chính phủ nhằm khôi phục nền kinh tế. Thu ngân sách dự kiến cả năm vẫn
tăng so với dự toán; bội chi ngân sách và trần nợ công vẫn duy trì trong mức cho phép.
Nợ công vẫn thấp so với ngưỡng an toàn và với mức trần đã được Quốc hội phê chuẩn;
khả năng huy động nguồn vốn tài chính trong nước vẫn khá dồi dào khi lãi suất trái phiếu
chính phủ quanh mức 2,09%/năm đối với kỳ hạn 10 năm. Trong khi lãi suất trái phiếu
kho bạc Mỹ cùng kỳ hạn đã lên trên 1,6%/năm; Ngân hàng Trung ương dùng tiền cung
ứng hoặc tiền gửi của các tổ chức tín dụng, bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc hay tiền gửi
thanh toán để mua trái phiếu chính phủ.
Hai là, nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tăng trưởng khi Chính phủ trình Quốc hội thông
qua Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai Chương trình phục hồi và
phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2022 và năm 2023 với từng nhóm nhiệm vụ, giải
pháp: Mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh COVID-19, đầu tư nâng cao
năng lực y tế (60 nghìn tỷ đồng); bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm (53,15 nghìn
tỷ đồng); hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh (110 nghìn tỷ đồng);
phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển (113,85
nghìn tỷ đồng); cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh, ngoài ra, huy động từ các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước khoảng 10
nghìn tỷ đồng. Tổng quy mô chính sách tài khóa khoảng là 291 nghìn tỷ đồng, gồm quy
mô tăng bội chi để hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước là 240 nghìn tỷ đồng.
(Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/825002/kinh-teviet-
nam-nam-2021-va-trien-vong-nam-2022.aspx)