



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60696302 Chương 4 
Ứng dụng tâm lý và đời sống 
I. Tư vấn tâm lý và giao tiếp hiệu quả   
1.1. Khái niệm về tư vấn tâm lý  1.1.1 Định nghĩa 
Ở Việt Nam, việc cung cấp thông tin, cho lời khuyên, trợ giúp khi gặp khó khăn.... 
đều được gọi chung là tư vấn tâm lý, hay có cách gọi tắt là tư vấn. Ngay cả từ điển 
tiếng Việt cũng dịch đồng thời các thuật ngữ “Tham vấn” và “Tư vấn” hay “Tư vấn 
tâm lý” đồng thời là: “Đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến, nhưng không 
có quyền quyết định” (Hoàng Phê, 2000). 
Tuy nhiên, có sự khác biệt nhất định giữa tư vấn và tham vấn tâm lý. Hiệp hội Tâm 
lý học Hoa Kì định nghĩa về tư vấn như sau: “Tư vấn là mối quan hệ giữa một người 
trợ giúp và người, nhóm người hoặc một chỉnh thể xã hội cần được giúp đỡ, trong 
đó nhà tư vấn cung cấp sự giúp đỡ cho thân chủ trong việc xác định và giải quyết 
một vấn đề liên quan đến công việc hoặc một người khác” (Nguyễn Trọng Thể, 
1995). Như vậy, tư vấn liên quan đến một bên là chuyên gia, chủ yếu tìm hiểu vấn 
đề của thân chủ và đưa ra những lời khuyên, định hướng cần thiết cho các vấn đề 
thân chủ gặp phải. Còn tham vấn là việc nhà tham vấn bằng mối quan hệ tương tác 
tích cực để thân chủ hiểu được vấn đề của mình, từ đó tự xác định được giải pháp 
cho bản thân, trong trường hợp thân chủ không tự đưa ra giải pháp nhà tham vấn 
cũng chỉ được phép gợi ý các giải pháp cùng điểm mạnh, yếu của từng giải pháp để 
thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình. Nói một cách khác, tư vấn chủ yếu hướng 
tới nhà tư vấn, người cung cấp sự hỗ trợ cho thân chủ ở một lĩnh vực nào đó thân 
chủ cảm thấy thiếu hụt, cần trợ giúp để giải quyết vấn đề, còn tham vấn không chỉ 
giúp thân chủ giải quyết mà còn nâng cao khả năng giải quyết vấn đề. Ở một khía      lOMoAR cPSD| 60696302
cạnh nào đó, các tác động của việc tham vấn tâm lý đến với cá nhân mang tính lâu  dài hơn. 
Hiện nay, có nhiều tư liệu sử dụng thuật ngữ “Tư vấn” hoặc “Tư vấn tâm lý”, nhưng 
phần nhiều các tác giả sử dụng thuật ngữ này với nội hàm là tham vấn tâm lý trong 
các tài liệu của mình, với chủ yếu nhấn mạnh đến quá trình can thiệp của nhà tham  vấn tâm lý. 
1.1.2 Những nguyên tắc của tư vấn 
(1). Giữ bí mật 
Mỗi cả nhân cỏ quyền sở hữu những vẩn đề thuộc vệ bàn thân mình, vì vậy thông 
tin của thân chủ nói ra cho nhà tham vãn phải được đảm bảo giữ bí mật và thân chủ 
có quyền trông đợi một mối quan hệ tin tưởng giữa thân chủ và nhà tham vấn dựa 
trên các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. 
Việc giữ bi mật cho thân chủ thê hiện sự tôn trọng tính riêng tư, sự bảo vệ và ủng hộ 
thân chủ. Sự bảo mật khuyến khích thân chủ tin tưởng vào mối quan hệ tham vân, 
do đó sẽ chia sẻ nhiều hơn nan đề của mình. 
- Để giữ được bí mật vấn đề của thân chủ, nhà tham vấn phải thực hiện các bước  sau: 
• Cuộc tham vẫn được bố trí ở nơi kín đáo, người khác không nghe thấy và  khôngquấy rây. 
• Lưu giữ hồ sơ thân chủ an toàn, tránh để mất dữ liệu hoặc lộ dữ liệu trên 
máytính. Những thông tin về thân chủ không liên quan đến mục đích tham vấn thì  không lưu. 
• Giải thích cho thân chủ ngay từ đầu cuộc tham vấn những thủ tục và quy 
trìnhtham vấn, vấn đê giữ bí mật và những ngoại lệ liên quan đến tính bảo mật.      lOMoAR cPSD| 60696302
Giữ bi mật là một trách nhiệm dạo đức của người làm công tác tham vân. Nhà 
tham vấn chỉ được tiết lộ bí mật khi: 
+ Thân chủ cho phép nói ra vàn đề của mình, 
+ Khi vân đề của thân chủ đe doạ đến tinh mạng của bản thân và những người  khác, 
+ Khi nhà tham vấn bi gọi ra tòa chất vấn về chính vấn đê nảy. 
Việc nhà tham vấn cảnh báo cho thân chủ biết về sẽ hạn chê của tính bảo mật là 
thực hiện nguyên tắc pháp lí trong môi quan hệ tham vấn. 
(2). Thân chủ trọng tâm 
Đây là nguyên tắc được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ tham vấn, thân chủ trọng 
tâm thê hiện nhà tham vấn không thê công thức hóa vân đề của bất kì thân chủ nào 
(có thể công thức hóa sự kiện, chứ không công thức hóa nhân cách của thân chủ). 
- Không thể có một cách thức chung, kĩ thuật chung cho thân chủ khi đến làm tham 
vân, vì mỗi một thân chủ lả một trường hợp đặc biệt. Tiến trình tham vấn phụ thuộc 
vào mức độ thân chủ ý thức vê vàn đề của minh và khả năng thản chủ làm chủ cảm 
xúc. Nguyên tắc thân chủ trọng tâm không cho phép nhà tham vân đê các cảm xúc 
của minh bi cuốn theo sự kiện của thân chủ. Nhả tham vân phải đủ mạnh để biệt lập 
được với con người và vấn đề của thân chủ, cũng như đủ làm cho thân chủ an tâm 
đê tránh lệ thuộc vào nhả tham vấn 
(3). Chấp nhận thân chủ 
Nhà tham vấn chấp nhận thân chủ với nhũng giá trị tự tại, khác biệt hay đôi ngược 
với nhà tham vấn, với những điểm tốt, diêm mạnh hay điểm xấu, điểm yểu. 
- Chấp nhận không cỏ nghĩa là đồng tình ủng hộ, mà là nhìn nhận thân chủ dưới góc 
độ tổng thê, chấp nhận sự tồn tại vốn có những gì thuộc về thân chủ. Khi thân chủ      lOMoAR cPSD| 60696302
cảm thây mình được nhà tham vân chấp nhận, thân chủ sẽ cảm nhận sâu hơn về bàn 
thân, cảm thây mình có giá tri, đáng được quan tâm. Khi được là chính mình, thân 
chủ sẽ không còn phải "đeo mặt nạ" hay giả dối với bản thân và người khác. Cảm 
giác an toàn giúp thân chủ dám bộc lộ được những tâm sự thầm kín và đương đầu 
với nỏ. Chấp nhận không chỉ biểu hiện ra thái độ bên ngoài không phê phản mà phải 
ngay ở cả trong chinh cảm xúc, suy nghĩ của nhà tham vấn. 
(4). Tôn trọng thân chủ 
Mỗi người đều cỏ quyền được tôn trọng nhân cách như một con người độc lập. 
-Tôn trọng lả nhiệt tình tin tưởng người kia như một con người có giá tri bất kể địa 
vị, đạo đức. hành vi, tinh cảm tích cực hay tiêu cực nơi người ấy, kinh trọng người 
ấy vì nhân phẩm, vì cốt cách riêng biệt của họ. Tôn trọng là cho mọi người quyền là 
chính bản thân họ và có các quan điểm, ý nghĩ và những cảm giác riêng và tiếp cận 
các dịch vụ tham vấn không bị định kiến về con người, tính cách, tôn giáo hoặc lề  thói. 
(5). Tin tưởng vào khả năng tự giải quyết của thân chủ 
Mỗi người đều có quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về các quyết đinh của mình. 
- Nhà tham vấn luôn ý thức rằng mỗi thân chủ có hoàn cành riêng biệt, không lập lại 
ở người khác. Quá trinh khám phá những nguyên nhân tạo nên vãn đề của thân chủ 
phụ thuộc rất nhiều ở kinh nghiệm và sự hiểu biết vấn đề của thán chủ và duy nhất 
chi có thân chú mới làm được việc này. Nhà tham vấn có thể có uy tín và giàu kinh 
nghiệm cũng không đủ khả năng giải quyết được vấn đề của thân chủ. Mặt khác thân 
chủ cần được trao quyền tự quyết để đảm bảo sự trưởng thành vả độc lập Quan điểm 
của C. Rogers cho rằng. thân chú là chuyên gia giỏi nhất về lĩnh vực của họ. Vì vậy, 
thân chủ có khả năng cao nhất trong việc đưa ra các quyết định của mình. Phẩm chất 
tin tưởng vào khả năng giải quyết vấn đề của thân chủ thể hiện ở việc nhà tham vấn      lOMoAR cPSD| 60696302
đặt ra những câu hỏi về cảm nghĩ của thân chủ trong việc giải quyết vấn đề. Cách 
hỏi này đã đặt thân chủ vào một hoàn cảnh cụ thể và thân chủ phải tự lập trong cách 
hành động giải quyết vân đề. Thái độ tin tưởng của.nhà tham vấn sẽ giúp thân chủ 
nhận ra giá trị riêng của bản thân, để rồi thân chủ bắt đầu gánh lây toàn bộ trách 
nhiệm lựa chọn việc tồn tại và phát triển của mình. Những sự lựa chọn đó sẽ trở nên 
tương hợp với tiêm năng thực sự của chinh thân chủ. Về nguyên tắc, nhà tham vấn 
không đưa ra lời khuyên mang tinh áp cật đối với thân chủ, tuy nhiên nếu thân chủ 
bị rối loạn tâm thân, suy nhược thần kinh, không làm chủ được hành vi của mình 
hoặc có xu hướng huỷ hoại bản thân hay người khác . . . thì nhà tham vân vẫn có thể 
chủ động đưa ra một vài hướng đê giải quyết cùng với thân chủ. Cũng cần lưu ý một 
số thân chủ khi đến tham vấn họ có xu hướng lệ thuộc vào nhà tham vân, mong đợi 
nhà tham vấn khuyên bảo điều cằn làm. Họ thực sự tin tưởng vào khả năng giải quyết 
van đã của nhà tham vấn. Nêu họ không nhận được những điều mong đợi cỏ thề họ 
sẽ không trở lại lần sau. Vì vậy kĩ năng cho lời khuyên và kĩ năng trò chuyện làm 
giảm sự lệ thuộc của thân chủ vào nhả tham vấn là hết sức cần thiết đối với những  trường hợp này. 
(6). Nhà tham vân không gắn mình vào mối quan hệ cá nhân với thân chủ 
Quan hệ tham vấn là quan hệ nghề nghiệp, vì vậy nhà tham vấn cần tránh mọi quan 
hệ ngoài hợp đồng làm việc với thân chủ, tránh đưa các quan hệ xã hội (quan hệ anh 
em, đồng nghiệp, bạn bẻ) vào quan hệ tham vấn. 
- Trong Tiêu chuẩn đạo đức, phần Quan hệ tham vấn B.12. có ghi: Khi nhà tham vấn 
có môi quan hệ khác với thân chủ - dù là quan hệ hành chính, trên dưới thì nhà tham 
vẩn vẫn phải đảm bảo tinh khách quan đối với sự lựa chọn tham vấn của thân chủ... 
Quan hệ hai chiều (bạn bè, họ hàng...) với thân chủ cỏ thể làm ảnh hưởng đền tinh 
khách quan của nhà tham vấn khi thực hiện hành vi tham vấn. Vì vậy, nhà tham vấn      lOMoAR cPSD| 60696302
phải tránh hoặc kết thúc quan hệ tham vấn này bằng cách giới thiệu dân chủ đến nhà 
tham vấn có khả năng phù hợp. 
(7). Bảo vệ phúc lợi của thân chủ 
Nhà tham thân chú có liên quan đến mức thu phí. Mức thu phí phải được xem xét 
theo lợi ích tốt nhất của thân chủ và nhà tham vấn có trách nhiệm tìm ra được những 
dịch vụ tham vấn phù hợp cho thân chủ. Khỉ nhận thấy quá trình tham vấn không 
đem lại hiệu quả cho thân chủ, nhà tham vấn bắt buộc phải có sự giới thiệu đến 
những nơi có giúp đỡ hiệu quả hơn. 
- Những quyền lợi cơ bản của thân chủ cần phải được tính đến đối với một dịch vụ 
tham vấn là: có quyền biết về danh tính, bằng cấp chuyên môn, kinh nghiệm làm 
việc của nhà tham vấn và được lựa chọn người trợ giúp cho minh; được quyền biết 
vê tiên trình và cách thức tiếp cận đôi với vấn đề của thân chủ; được nhà tham vấn 
thông báo vê những hạn chê và nguy cơ có thể xảy ra trong quá trình tham vân; có 
quyền được biết vê việc lưu trữ thông tin, ghi âm hay sự đảm bảo về bi mật về thông 
tin khi chia sẻ với nhà tham vấn và họ có quyền được thông báo trước trong trường 
hợp thông tin về họ buộc phải chia sẻ với những đối tượng khác và thân chủ có quyên 
tập lực hay từ chối dịch và tham vấn. 
1.1.3 Các hình thức tư vấn 
1.3.1.1. Tư vấn trực tiếp 
Cách thức trị liệu và tư vấn phổ biến nhất là khi thân chủ và nhà tư vấn ngồi trong 
cùng một phòng, do đó cả hai bên có thể nghe và nhìn nhau (với điều kiện là họ 
không bị khuyết tật về nhìn hoặc nghe). Cách thức truyền thống này có nhiều ưu 
điểm và tạo cơ hội cho những phản hồi tức thì, với cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cử  chỉ.      lOMoAR cPSD| 60696302
Đây là hình thức có tính truyền thống và luôn được các nhà tư vấn khuyến khích, vì 
qua việc trao đổi trực tiếp, nhà tư vấn không chỉ nhận được các thông tin bằng lời 
nói, mà còn đánh giá và nhận biết được các thông tin phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét 
mặt…) mà đây lại là những thông tin có tính trung thực cao. Vì thế trong điều kiện 
có thể, các thân chủ luôn được khuyến khích để được tư vấn theo hình thức này. 
1.3.1.2. Tư vấn gián tiếp 
Phương pháp Viết thư 
Trong một số trường hợp, nhất là trong các vấn đề liên quan đến tình cảm vợ chồng 
– quan hệ lứa đôi, thì đây là phương pháp được nhiều người sử dụng. Hiện nay thay 
vì viết trên giấy, thì các thân chủ thường xử dụng Email (thư điện tử) 
Theo Wallbank, viết thư có những ưu điểm sau đây: 
a) Cơ hội để bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc và giải tỏa những vấn đề tâm lý 
khichúng đang lên cao trào. 
b) Viết thư có thể được thực hiện vào bất cứ lúc nào như khi buổi đêm khi bọn trẻđã 
đi ngủ và vợ/chồng không ở bên cạnh. 
c) Những lá thư có thể tiếp tục sau khi đã ngừng nhiều ngày, tuần hay tháng. 
d) Thân chủ xác chủ động được thời gian. 
e) Giảm những cảm xúc bị kìm nén bằng cách viết ra trên giấy những suy nghĩ, 
ýtưởng, cảm xúc và những mối quan tâm. 
f) Biết rằng nhà tham vấn sẽ trả lời có thể giúp cho quá trình tiến triển của thân  chủvà được bí mật.      lOMoAR cPSD| 60696302
Tư vấn qua điện thoại 
Từ những năm 1980, tư vấn điện thoại đã được sử dụng như là một trong những 
phương tiện chính giữa thân chủ và nhà tư vấn (hay người trợ giúp). Trong thực tế, 
McLeod (1993) đã cho rằng đó là hình thức tư vấn hiệu quả nhất. Thân chủ có thể 
được nhận tư vấn qua điện thoại, được giúp đỡ, cung cấp thông tin, được trợ giúp và 
những dịch vụ khác (xem Wallbank, 1997). Những chương trình đào tạo chuyên môn 
đã được tổ chức để thực hiện loại công việc này (Palmer & Milner, 1997). Ở những 
nước như Trung Quốc, khi mà những hình thức tư vấn phương Tây chưa phổ biến, 
những năm 1990 chứng kiến sự bùng nổ của tư vấn điện thoại “đường dây nóng” 
ban đầu cung cấp thông tin và sau đó là tư vấn (Palmer và cộng sự, 1998). 
Một trong những điểm mạnh của dịch vụ tham vấn điện thoại là khả năng cung cấp 
sự hỗ trợ và lời khuyên miễn phí và đáng tin cậy. Đội ngũ nhân viên hỗ trợ thường 
được đào tạo và/hoặc có những hiểu biết cá nhân về những khó khăn điển hình của 
người gọi điện đang nói chuyện với họ (xem Wallbank, 1997). 
Gần đây, với việc giảm giá của tin nhắn điện thoại di động, khách hàng thường sử 
dụng tin nhắn để nói chuyện với nhà trị liệu của mình. Nói chung các nhà trị liệu 
miễn cưỡng mới đồng ý tham vấn hay trị liệu qua điện thoại cho khách hàng của 
mình. Thường thì hình thức tham vấn này không được các nhà trị liệu đồng tình. 
Tư vấn và trị liệu trực tuyến 
Từ những năm 1990, với sự xuất hiện phổ biến của internet, trị liệu đã chuyển từ 
ranh giới mặt đối mặt hay qua điện thoại tới một lãnh địa mới đầu được đặt tên là 
“trị liệu máy tính” bởi Lago (1996) hay sau đó được biết đến nhiều hơn là tư vấn 
email (*), tư vấn trực tuyến, tư vấn trên web hay tư vấn internet. Cách thức giao tiếp 
này có cũng có những ưu điểm của viết thư, ngoài ra nó còn điểm mạnh điển hình là 
tốc độ truyền tin, phản hồi nhanh (Goss và cộng sự, 2001a). Những ưu điểm khác là      lOMoAR cPSD| 60696302
khả năng gửi những tư liệu một cách nhanh chóng hay những văn bản tự viết hay 
điền theo mẫu, đường dẫn tới những trang web hữu ích, khả năng tiếp cận với những 
chuyên gia sống ở xa, duy trì liên lạc với nhà trị liệu khi đi xa khỏi nhà hay cơ quan, 
thời gian tùy thuộc vào nhà tư vấn và thân chủ, và có thể sử dụng biểu tượng các 
khuôn mặt cảm xúc để thể hiện cảm xúc của mình (**). 
Tuy vậy, tư vấn trực tuyến có thể có những nhược điểm như không nhìn thấy nhau, 
mà một số nhà trị liệu coi là điều cốt yếu của trị liệu, thiếu an toàn. Dù sao thì việc 
nhìn thấy nhau hay những cử chỉ phi ngôn ngữ (xem Argyle, 1975) có thể không cần 
thiết cho thành công của trị liệu. Những sự hỗ trợ và thấu cảm có thể xuất hiện bằng 
cách sử dụng email thông qua yêu cầu của nhà trị liệu để chắc chắn họ đang làm việc 
với những vấn đề thích hợp và được thể hiện bằng cách sử dụng những kỹ năng đọc 
viết cơ bản, cho phép diễn giải và tóm tắt chính xác những băn khoăn lo lắng của 
thân chủ. Tính bảo mật của internet có thể được cải thiện bằng cách sử dụng mật mã, 
không thể mở tài liệu nếu không được cung cấp mật mã. 
Trị liệu trực tuyến có thể mang tính chất bệnh y sinh bởi những hành vi kém chức 
năng hay những ý nghĩ không hợp lý có thể bị tăng lên. Ví dụ, Goss và những người 
cộng tác (2001a) đã đề xuất rằng những khách hàng mắc rối loạn ám sợ xã hội có 
thể sử dụng cách trị liệu này để tránh đương đầu với những khó khăn khi ra đường. 
Những băn khoăn khác cũng được đưa ra đối với tư vấn trực tuyến, do các nhà thực 
hành và chuyên gia trong Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (Adams, 1998; APA, 1998; 
BAC, 1999; Zarr, 1984). Để đối mặt với những khó khăn này, đặc biệt là sự tăng lên 
của trị liệu qua email và trực tuyến, Hiệp hội Trị liệu và Tư vấn Anh đã thành lập 
Nhóm Tư vấn trực tuyến và sau đó xuất bản tài liệu hướng dẫn cho những nhà trị 
liệu định làm loại công việc này (Goss và cộng sự, 2001b).      lOMoAR cPSD| 60696302
Chat rooms trực tuyến (phòng chat trực tuyến) 
Một sự phát triển xa hơn của tư vấn trực tuyến là việc sử dụng internet ở chat room 
cho phép truyền cả văn bản và lời nói giữa những người sử dụng máy tính. Dù sao, 
để duy trì mức độ an toàn phù hợp để tránh người khác vào chat room trong suốt quá 
trình tư vấn, chỉ những người trong một danh sách riêng những thành viên được mời 
bởi Yahoo Group (***) mới có thể tham gia như là nhà trị liệu hay thân chủ duy 
nhất. Điểm lợi của hệ thống này là nhà trị liệu và thân chủ có thể nói chuyện như khi 
gọi điện. Nhưng không giống điện thoại, dịch vụ này miễn phí và cho phép khách 
hàng nói chuyện với nhà trị liệu từ bất cứ nơi nào trên thế giới, miễn là máy tính đó 
có nối mạng, có micrô và loa (xem Ross, 2000). 
1.1.4 Quy trình tiến hành một buổi tư vấn  
(1). Tiếp xúc ban đầu (hay Lần gặp đầu tiên) 
 Sau khi bạn có lịch hẹn, bạn và Nhà tham vấn sẽ gặp gỡ và trao đổi tại phòng làm 
việc. Trong buổi gặp đầu tiên, bạn sẽ chia sẻ với nhà tham vấn một số thông tin cá 
nhân cơ bản về bạn và những băn khoăn, rắc rối… bạn đang gặp phải. Bạn cũng sẽ 
hiểu đôi chút về nhà tham vấn làm việc với bạn. Nhà tham vấn sẽ lắng nghe và chia 
sẻ cảm xúc cùng bạn về những điều đang khiến bạn phải phiền lòng, khó khăn hay 
đau khổ. Có thể bạn đã phải sống chung với những vấn đề này hàng tuần, hàng tháng, 
thậm chí hàng năm và nhiều hơn thế. Vậy nên, rất mong bạn hãy kiên trì để bạn và 
nhà tham vấn khám phá vấn đề mà bạn đang gặp phải. Có thể bạn khó mà cảm thấy 
nhẹ nhõm trong phút chốc và có ngay một giải pháp cho khó khăn của bạn chỉ trong 
vài chục phút gặp gỡ đầu tiên ấy. 
 Cũng trong buổi đầu tiên này, bạn và Nhà tâm lý sẽ trao đổi về chương trình làm 
việc tiếp theo và các điều khoản trong Thoả thuận tham vấn. Những trao đổi để bạn      lOMoAR cPSD| 60696302
hiểu trong tham vấn cũng có những nguyên tắc làm việc rất chặt chẽ. Bạn cũng có 
thể hiểu hơn về quyền lợi và trách nhiệm của bạn trong mối quan hệ tương tác này. 
(2).Tìm hiểu thông tin và xác định vấn đề 
 Sau buổi gặp đầu tiên, thông thường Nhà tham vấn và bạn sẽ trao đổi thêm 2 - 4 
buổi để xác định vấn đề bạn đang gặp phải. Để giải quyết bất kỳ vấn đề gì chúng ta 
cần phải nhận thức, hiểu biết về nó. Càng nhận thức rõ ràng về vấn đề bao nhiêu thì 
giải pháp đưa ra càng thích hợp bấy nhiêu. 
 Sự cởi mở, hợp tác chia sẻ về bản thân bạn trong giai đoạn này là rất quan trọng. 
Bạn cần hiểu rằng Bạn chính là chuyên gia về chính mình. Nhà tham vấn tâm lý sẽ 
giúp bạn khám phá thế giới của bạn tốt nhất khi có bạn đồng hành một cách tích cực. 
 Vào cuối giai đoạn này, Nhà tâm lý sẽ trao đổi với bạn những đánh giá, chẩn đoán 
của họ. Bạn sẽ biết vấn đề của bạn là gì, nó xuất phát từ đâu và thời gian cho quá 
trình can thiệp tham vấn/ trị liệu tiếp theo là bao lâu. 
 Lưu ý: Giai đoạn Tìm hiểu thông tin – xác định vấn đề có thể kéo dài hơn 3-4 buổi 
gặp trong trường hợp làm việc với trẻ em và những người có “cơ chế phòng vệ” quá 
cao, mức độ cởi mở với Nhà tâm lý không nhiều. 
(3). Lựa chọn giải pháp và hành động 
Có một câu châm ngôn rằng “Luôn có hơn một giải pháp cho một vấn đề”, nhà tham 
vấn và bạn sẽ cùng thảo luận và cân nhắc để lựa chọn giải pháp nào phù hợp hơn cả 
cho vấn đề của bạn. Giải pháp được thảo luận và thống nhất một cách cẩn thận – với 
những mục tiêu cụ thể, khả thi, thực tế và trong một khoảng thời gian nhất định mà 
bạn có thể làm được.      lOMoAR cPSD| 60696302
Khi bạn thực hiện một giải pháp cụ thể để đạt tới mục tiêu thay đổi của bạn thì Nhà 
tâm lý có vai trò giám sát quá trình hành động của bạn. Lúc này, thời gian gặp Nhà 
tâm lý có thể sẽ thưa dần. Tuy nhiên, bạn cũng cần phải báo cáo lại quá trình hành 
động cũng như kết quả của nó ra sao. Thực tế có thể vấp phải khó khăn nào đó mà 
không thể đạt được mục tiêu ban đầu, khi đó Nhà tâm lý và bạn lại cùng thảo luận 
để có hướng khắc phục hoặc có những hỗ trợ khác cho bạn. 
(4). Đánh giá và kết thúc 
 Ngay sau khi bạn đã hoàn thành “chiến lược” thay đổi thì Nhà tâm lý sẽ trợ giúp 
bạn nhìn nhận kết qủa bạn đã đạt được, kết quả ấy có ý nghĩa như thế nào với bạn 
và vấn đề của bạn. Liệu bạn có cần một chiến lược thứ 2,3 nữa không? Liệu bạn có 
cần tiếp tục được trợ giúp nữa không? Quá trình tham vấn đã giúp bạn trở nên như 
thế nào? Những đề xuất và đánh giá của bạn đối với dịch vụ tham vấn?... 
 Trong buổi kết thúc bạn và Nhà tâm lý cùng tổng kết lại quá trình tham vấn đã trải 
qua những cảm nhận của bạn và ngược lại. 
 Mong đợi của một người làm tham vấn trị liệu tâm lý là khi kết thúc quá trình 
tham vấn trị liệu, khách hàng của mình có thể bước ra khỏi phòng tham vấn một 
cách vui vẻ, hạnh phúc hơn và mạnh mẽ hơn. 
 Trong suốt quá trình làm việc, nhà Tâm lý không làm việc một mình với bạn mà 
có sự hỗ trợ, giám sát về mặt chuyên môn của chuyên gia và đồng nghiệp. Vấn đề 
của bạn sẽ được cùng phân tích với chuyên gia giám sát của nhà Tham vấn và được 
hỗ trợ khi gặp khó khăn. Tuy nhiên, bạn có thể hoàn toàn yên tâm về tính bí mật của 
thông tin. Những thông tin chia sẻ ra chỉ là vấn đề mà bạn đang gặp phải, quá trình 
giải quyết như thế nào và bước tiếp theo ra sao. Những thông tin cá nhân của bạn sẽ      lOMoAR cPSD| 60696302
được giữ kín và ngay cả vấn đề của bạn cũng chỉ nhà tham vấn, chuyên gia hỗ trợ, 
giám sát chuyên môn được biết. 
1.2. Ứng dụng trong giao tiếp hiệu quả 
1.2.1. Định nghĩa giao tiếp 
Giao tiếp là một hoạt động rất phức tạp, là khách thể nghiên cứu của khoa học liên 
ngành, là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học. Ở mỗi góc độ khác nhau, người 
ta đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Trong Tâm lí học, giao tiếp được 
hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người – người, hiện thực hoá quan 
hệ xã hội giữa người với nhau. Nói cách khác, giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa 
người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, 
trị giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. 
Giao tiếp là một dạng hoạt động đặc trưng của con người và tham gia vào tất cả các 
dạng hoạt động (lao động, học tập, vui chơi...) với nhiều hình thức khác nhau: Giao 
tiếp giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân với nhóm; giữa nhóm với nhóm; giữa  nhóm với cộng đồng... 
Giao tiếp có những đặc trưng cơ bản sau:  
- Giao tiếp là một quá trình mà con người ý thức được mục đích, nội dung vànhững 
phương tiện cần thiết để đạt được mục đích khi tiếp xúc với người khác. Vì vậy, 
giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa các chủ thể. 
- Giao tiếp bao giờ cũng diễn ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, nhu 
cầu...giữa những người tham gia giao tiếp. Nhờ vậy, qua giao tiếp, mỗi người đều 
chiếm lĩnh được nội dung của các mối quan hệ xã hội, nền văn hoá xã hội, hình 
thành và phát triển nhân cách. Đó chính là quá trình xã hội hoá cá nhân.      lOMoAR cPSD| 60696302
- Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất cá nhân. Tính chất xãhội 
của giao tiếp thể hiện ở chỗ, nó nảy sinh, hình thành trong xã hội và sử dụng các 
phương tiện do con người làm ra, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính 
chất cá nhân thể hiện nội dung, phạm vi, nhu cầu, phong cách, kĩ năng... giao tiếp  của mỗi người. 
- Giao tiếp không chỉ xảy ra trong hiện tại mà còn với cả quá khứ và tương lai. 
- Giao tiếp không chỉ là điều kiện phát triển nhân cách cá nhân mà còn là tiền đềcho 
sự phát triển của xã hội, cộng đồng, dân tộc, cho sự tiếp thu và hoà quyện lẫn nhau 
giữa các nền văn hoá, văn minh nhân loại. 
Chức năng của giao tiếp 
Giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau phục vụ cho xã hội, cộng đồng hay từng 
thành viên của xã hội. Có thể nêu lên những chức năng cơ bản sau: 
- Chức năng thông tin 
Qua giao tiếp, con người trao đổi, truyền đạt tri thức, kinh nghiệm với nhau. Mỗi cá 
nhân vừa là nguồn phát thông tin vừa là nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lí 
thông tin là con đường quan trọng hình thành nên thế giới tinh thần của mỗi người. 
Nguyễn Trãi từng nói: Trải biến nhiều thì lo nghĩ sâu, tính toán xa thì thành công  lớn. 
- Chức năng cảm xúc 
Giao tiếp không chỉ bộc lộ cảm xúc mà còn tạo ra những ấn tượng, những cảm xúc 
mới giữa những người tham gia giao tiếp. Vì vậy giao tiếp là một trong những con 
đường hình thành tình cảm của con người.      lOMoAR cPSD| 60696302
- Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau 
Trong giao tiếp, mỗi chủ thể tự bộc lộ quan điểm, tư tưởng, thái độ, thói quen... của 
mình, do đó các chủ thể có thể nhận thức được về nhau làm cơ sở đánh giá lẫn nhau. 
Một điều quan trọng hơn trên cơ sở so sánh với người khác và ý kiến đánh giá của 
người khác, mỗi chủ thể có thể tự nhận thức, tự đánh giá được về bản thân mình. 
- Chức năng điều chỉnh hành vi 
Trên cơ sở nhận thức lẫn nhau và tự đánh giá được bản thân, trong giao tiếp, mỗi 
chủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình cũng như có thể tác động đến 
động cơ, mục đích, quá trình ra quyết định và hành động của người khác. 
- Chức năng phối hợp hoạt động 
Nhờ có quá trình giao tiếp, con người có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải 
quyết nhiệm vụ nào đó nhằm đạt tới mục tiêu chung. 
Ví dụ: Để tổ chức trò chơi cho trẻ, hàng giao tiếp, cô giáo và trẻ cũng như giữa các 
trẻ với nhau thống nhất cách chơi, luật chơi, giao tiếp giữa các quốc gia, các cộng 
đồng trên thế giới cùng hành động bảo vệ môi trường 
Tóm lại, giao tiếp là quá trình quan hệ, tác động qua lại gia Con người và con người, 
trong đó con người trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức, đánh giá và điều chỉnh 
hành vi lẫn nhau, đồng thời tự điều chỉnh hành vi của mình. 
1.2.2. Phương tiện giao tiếp 
Phương tiện giao tiếp là phương tiện để con người truyền đi bất cứ một loại thông 
tin nào đó, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật. Phương tiện giao tiếp giúp 
thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, mối quan hệ và những tâm lý khác trong một  cuộc giao tiếp.      lOMoAR cPSD| 60696302
Có 2 loại phương tiện giao tiếp đó là: phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn  ngữ 
(1). Ngôn ngữ 
Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ là quá trình mà cá nhân sử dụng một thứ tiếng để 
giao tiếp và tư duy. Cần chú ý đến tất cả yếu tố của ngôn ngữ như: nội dung, ngữ 
pháp, phát âm, giọng nói, tốc độ nói, ngữ điệu, phong cách ngôn ngữ v.v… 
- Phát âm chuẩn, không nói nhanh quá hoặc chậm quá, 
- Nhịp độ nói cần lúc trầm, lúc bổng, có điểm nhấn mới hấp dẫn người nghe 
- Lối nói lịch sự, đôi lúc dùng lối nói ẩn ý, tế nhị khéo léo 
(2). Phi ngôn ngữ 
hương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ bao gồm giọng nói (ngữ điệu, chất giọng, độ cao...) 
và hình ảnh (nét mặt, dáng vẻ, trang phục, di chuyển, hành vi, cử chỉ...) được sử 
dụng trong quá trình giao tiếp. 
Các hình thức giao tiếp phi ngôn từ  Nét mặt: 
Khuôn mặt là nơi diễn đạt cảm xúc của bạn; nó thể hiện cả hình thức cũng như mức 
độ cảm xúc của bạn. Nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc như vui mừng, buồn bã, ngạc 
nhiên, sợ hãi, kinh hoàng, tức giận, yêu ghét… Ngoài tính biểu cảm, nét mặt cũng 
là bộ phận biểu lộ tính cách, cá tính của con người.  Nụ cười: 
Nụ cười được xem là một thứ trang sức trong giao tiếp và cũng là phương tiện làm 
quen hay xin lỗi rất tinh tế, ý nhị. Trong giao tiếp, nụ cười là phương tiện phi ngôn 
ngữ biểu lộ tình cảm, thái độ của đối tượng giao tiếp. Mỗi loại nụ cười thể hiện một      lOMoAR cPSD| 60696302
cá tính nhất định: Nụ cười hồn nhiên, đôn hậu; nụ cười chua chát, miễn cưỡng; nụ 
cười hiểm độc, nanh ác; nụ cười đồng cảm, thân thiện; nụ cười chế diễu, khinh miệt... 
Biết sử dụng nụ cười đúng lúc, hợp lý là một nghệ thuật cần được rèn luyện thường 
xuyên để có thể biểu cảm thông qua các kiểu cười khác nhau. Luôn nở nụ trên môi 
sẽ tạo được kết quả giao tiếp tốt. Tác dụng của nụ cười: Cải thiện giao tiếp; Mâu 
thuẫn dễ được giải quyết; Giúp chúng ta lạc quan hơn; Giảm gánh nặng căng thẳng; 
Tạo ra năng lượng; Phá vỡ sự mệt mỏi, nhàm chán; Đoàn kết mọi người.  Ánh mắt: 
Đôi mắt được ví là cửa sổ của tâm hồn, là yếu tố bộc lộ rõ nhất cảm xúc của con 
người. Trong khi giao tiếp, có thể hiểu được cảm xúc người khác thông qua ánh mắt 
để có cách ứng xử phù hợp. Trong khi trò chuyện, thỉnh thoảng hãy giao tiếp bằng 
mắt 1 đến 10 giây và hãy chú ý lắng nghe. o Ánh mắt hỗ trợ ngôn ngữ nói: Ánh mắt 
đi kèm theo lời nói sẽ làm cho lời nói truyền cảm hơn, tự tin hơn, thuyết phục hơn. 
o Ánh mắt thay thế lời nói: Có những điều kiện, hoàn cảnh người ta không cần nói 
nhưng vẫn có thể làm cho người ta hiểu được điều mình muốn nói thông qua ánh 
mắt. Yêu cầu khi sử dụng ánh mắt: Phải thể hiện đúng ánh mắt mình muốn chuyển 
tải điều cần nói, đồng thời không nên sử dụng những ánh mắt khó chịu, soi mói,  chằm chằm… 
Các cử chỉ, hành động: 
Trong giao tiếp các cử chỉ chân tay, đầu, thân thể luôn có nghĩa nhất định. Các cử 
chỉ này thể hiện ý nguyện trong các hoàn cảnh cụ thể như: đồng ý, phản đối, đáng 
tiếc, tức giận… Các cử chỉ khác như mũi, tai, lông mày, miệng… cũng là phương 
tiện biểu lộ các trạng thái tâm lý, tình cảm để truyền thông điệp trong quá trình giao  tiếp.  Tư thế:      lOMoAR cPSD| 60696302
Là một phương tiện thể hiện tác phong trong giao tiếp. Tư thế thể hiện mối quan hệ 
đối với vai trò, vị trí, vị thế xã hội của đối tượng giao tiếp. Tư thế có vai trò biểu 
cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải mái hay căng thẳng. Ví 
dụ: Tư thế thoải mái, ngồi nói chuyện đầu hơi ngả về phía sau là tư thế của bề trên, 
của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu, tựa hồ đang lắng nghe là tư thế của cấp dưới. 
Tính thân mật trong giao tiếp chỉ thật sự có kết quả khi bạn và người nghe đối mặt 
với nhau. Và tránh đừng bao giờ nói mà xoay lưng lại hoặc nhìn sàn nhà, trần nhà vì 
điều này khiến giao tiếp trở nên thờ ơ.  Diện mạo 
Bao gồm sắc mặt, nét mặt, đặc điểm của khuôn mặt, râu tóc, trang phục, trang sức… 
là phương tiện có thể gây ấn tượng mạnh, đặc biệt là lần giao tiếp đầu tiên. Đối tượng 
giao tiếp cao ráo, khỏe mạnh, khuôn mặt hài hòa, nét mặt tươi sáng, ưa nhìn bao giờ 
cũng gây ấn tượng tốt hơn người gầy, bé, khuôn mặt không cân đối, nét mặt khó đăm 
đăm. Diện mạo sáng sủa là một lợi thế trong giao tiếp. Người có diện mạo sáng sủa 
thường dễ dàng thu hút được thiện cảm của những người xung quanh. Cách ăn mặc, 
đồ trang sức… của một người cũng thể hiện cá tính, cấp độ và trình độ văn hóa, nghề 
nghiệp đẳng cấp của người đó. Thông qua cách ăn mặc, trạng thái tình cảm hoặc tâm 
lý của đối tượng cũng có thể được nhận biết. 
1.2.3. Những rào cản trong giao tiếp 
Tất cả những gì ngăn cản việc hiểu thông điệp một cách chính xác đều được gọi là 
rào cản trong giao tiếp. Có rất nhiều rào cản khách quan và chủ quan tồn tại hiện  hữu:  - 
Định kiến, thành kiến là rào cản lớn nhất trong giao tiếp, khi có định kiến, 
thành kiến với người giao tiếp thì chúng ta khó giữ được tính khách quan mà thường 
đánh giá tiêu cực, lệch lạc về thông tin thu nhận được.      lOMoAR cPSD| 60696302 - 
Sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, phong tục tập quán: Sự khác nhau về đặc 
điểm văn hóa, phong tục tập tập quán có thể làm các bên không hiểu nhau trong quá 
trình giao tiếp nên sẽ tạo thành rào cản.  - 
Sự chênh lệch về địa vị, trình độ nhận thức... cũng sẽ gây trở ngại cho quá 
trình giao tiếp. Chúng ta thường răm rắp nghe theo những người có địa vị cao và bỏ 
qua những người có địa vị thấp.  - 
Môi trường giao tiếp không thuân tiệ ṇ : Thời tiết, khí hậu, tiếng ồn, chỗ đông 
người; hoàn cảnh, thời gian, không gian không phù hợp... sẽ cản trở quá trình giao 
tiếp. Người gửi và người nhận khó có khả năng tập trung cao độ vào thông điệp  trong giao tiếp.  - 
Bản thân chúng ta: Sự quá tập trung vào bản thân mình mà không chú ý tới 
người khác có thể dẫn tới những nhầm lẫn và xung đột trong giao tiếp. Nguyên nhân 
là do: Bản năng phòng vệ (chúng ta cảm thấy ai đó đang tấn công mình), sự ưu tiên 
(chúng ta cảm thấy mình hiểu biết nhiều hơn người khác) và cái tôi (chúng ta cảm 
thấy mình là trung tâm của mọi hoạt động). Căng thẳng tâm lý của bản thân cũng là 
rào cản trong giao tiếp. Mọi người sẽ không nhìn nhận vấn đề theo cùng một cách 
nếu họ đang bị căng thẳng tâm lý. Vào thời điểm thông điệp được đưa ra, những gì 
chúng ta nhìn nhận và tin tưởng sẽ chịu tác động bởi các yếu tố tâm lý như niềm tin, 
giá trị, kiến thức, kinh nghiệm và mục tiêu.  - 
Thông điệp không rõ ràng: Sự xao lãng thường xuất hiện khi chúng ta tiếp 
nhận những thông điệp mù mờ, không rõ ràng, gây cảm giác nhàm chán, không  muốn nghe. 
Các rào cản trên có thể được xem như là những bộ lọc, nghĩa là khi thông điệp rời 
người gửi sẽ phải đi xuyên qua các bộ lọc này để đến với người nhận. Những bộ lọc 
này sẽ “bóp méo” thông điệp. Và cách thức để thoát khỏi những bộ lọc đó là thông      lOMoAR cPSD| 60696302
qua chủ động lắng nghe và phản hồi thông tin. 1.2.4. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp  hiệu quả 
(1). Các nguyên tắc đảm bảo giao tiếp hiệu quả 
Muốn hoạt động giao tiếp có hiệu quả thì cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ  bản sau đây: 
Nguyên tắc 1: Đảm bảo sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các bên giao tiếp 
Bất kỳ ai, khi thực hiện các quan hệ giao tiếp đều mong muốn, tin tưởng và 
hy vọng rằng thông qua việc giao tiếp có thể đạt được một lợi ích nào đó cho mình 
hoặc cho chủ thể mà mình đại diện. Lợi ích mà con người hướng tới có thể là vật 
chất (tiền bạc, tài sản...) cũng có thể là lợi ích tinh thần (trình bày ức chế, mong được 
chia sẻ và cảm thông, hoặc một đề nghị được ghi nhận đóng góp của bản thân cho 
tập thể, cho xã hội…). Chính vì vậy, một nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp là phải 
cố gắng đảm bảo sự hài hòa về lợi ích của hai bên tham gia giao tiếp. Nguyên tắc 
này đòi hỏi những người trực tiếp giao tiếp với đối tác phải chú ý những điểm cơ  bản như sau:  - 
Hiểu tâm lý của đối tác, dành thời gian để tìm hiểu mục đích của đối 
tượnggiao tiếp, đồng thời phải biết mình cần đạt được mục đích gì trong hoạt động  giao tiếp.  - 
Trong trường hợp lợi ích của đối tượng giao tiếp không được thỏa mãn, 
cầnphải tỏ thái độ cảm thông, chia sẻ chứ không thể có thái độ hiếu thắng hoặc thờ  ơ. 
Nguyên tắc 2. Đảm bảo sự bình đẳng trong giao tiếp 
Trong hoạt động giao tiếp, người làm dịch vụ sẽ gặp nhiều đối tượng khác 
nhau (già - trẻ; nam - nữ; lãnh đạo - nhân viên; giàu - nghèo...). Vấn đề đặt ra ở đây 
là phải bảo đảm sự bình đẳng trong giao tiếp. Để giải quyết tốt vấn đề này thì cách