Con người dưới góc nhìn của triết học và vấn đề con người trong quá trình đổi mới hiện nay | Tiểu luận cuối kì môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin

Chúng ta đang sống ở thời đại mới thời đại công nghệ và trí tuệ lên ngôi sự cạnh tranh nhau càng gay gắt trong xã hội và nên kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trong trong đời sống . Chính vì thế trong xã hội cần những còn người được đào tạo, rèn luyện, cố gắng , có trình độ học vấn , ý thức lao động và đạo đức tốt để đáp ứng nhu cầu của khoa học và xã hội hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TIỂU LUẬN
CON NGƯỜI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA TRIẾT HỌC
VÀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI HIỆN NAY
GVHD:
SVTH:
1. Vũ Trần Hữu Bằng 23147015
2. Trần Thanh Dương 23147021
3. Đăng Thanh Tĩnh 23147078
4. Cao Xuân Trường 23147084
5. Đào Duy Đức 23146069
Mã lớp học: LLCT130105_18CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2023-2024
Tên đề tài:: con người dưới góc nhìn của triết học và vấn đề con người trong
quá trình đổi mới ngày nay
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
MÃ SỐ SINH VIÊN
TỈ LỆ %
HOÀN THÀNH
1 Vũ Trần Hữu Bằng 100%
23147015
2 Trần Thanh Dương 100%
23147021
3 Đặng Thanh Tĩnh 100%
23147078
4 Cao Xuân Trường 100%
23147084
5 Đào Duy Đức 100%
23146069
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 4
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 5
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 6
Chương 1: CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN: ................ 6
1.1. Con người và bản chất của con người ................................................ 6
1. .1.1 Con người là thực thể sinh học – xã hội .......................................... 6
1. .1 2. Con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm lịch sử .... 9
1. .1 3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân người... 11
1. .1 4. Bản chất con người là tông hòa các mối quan hệ xã hội .................. 11
1. .1 5. Sự khác biệt của con người với muôn loài ..................................... 12
1.2. Vấn đề của con người .................................................................................. 13
1.2.1. Hiện tượng tha hóa của con người ..................................................... 13
1.2.2. Vấn đề xã hội đối với nước ta ............................................................. 17
1.2.3. Vấn đề giải phóng con người .............................................................. 18
1.3. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội ......................................................... 19
1.3.1. Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ ............................................ 20
CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM NHÂN TỐ CON NGƯỜI, CHIẾN LƯỢC
CON NGƯỜI: ........................................................................................................ 23
2.1. Nhân tố con người ....................................................................................... 23
2.2. Chiến lược con người cùng với chiến lược trong sự đổi mới ở nước ta . 23
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 25
Tài liệu tham khảo
4
A.PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống ở thời đại mới thời đại công nghệ và trí tuệ lên ngôi sự cạnh
tranh nhau càng gay gắt trong xã hội và nên kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trong
trong đời sống . Chính vì thế trong xã hội cần những còn người được đào tạo ,
rèn luyện, cố gắng , có trình độ học vấn , ý thức lao động và đạo đức tốt để đáp
ứng nhu cầu của khoa học và xã hội hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được
coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là những gì mà chúng ta cần để thây đổi và
nâng tầm giá trị của đất nước lên tầm cao mới. Chúng ta phải thừa nhận con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế và công nghệ trong
xã hội để ngày càng phát triển, để phát triển ở đây ta cần nhiều tới những con
người có trí tuệ , đầu óc thông minh và có đạo đức . Từ đây mỗi con người dần
dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh
thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta
phải thực hiện chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con
người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục và đào
tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và
những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi
mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
Sau khi học qua chương trình triết học đại cương, theo đề tài tiểu luận sẵn có
cũng như giảng viên và trợ giảng đã giải thích và hướng dẫn. Chúng em quyết
định chọn đề tài tiểu luận triết học: “Con người dưới góc nhìn của triết học và
vấn đề con người trong quá trình đổi mới ngày nay”. Để làm rõ nội dung đề
tài trước tiên chúng ta cần biết “Con người là gì? Tại sao con người lại quan
trọng?”
5
Mục Tiêu Nghiên Cứu
Đối với nhóm:
Đề tài này giúp nhóm chúng em hiểu rõ hơn về con người, bản chất, vai trò và
khả năng của con người trong xã hội, cũng như những vấn đề mà con người phải
đối mặt trong quá trình đổi mới.
Đề tài này giúp chúng em nắm bắt được những quan điểm triết học khác nhau về
con người, từ triết học cổ điển đến triết học Mác - Lênin, và phân tích được ưu
nhược điểm của từng quan điểm.
Đề tài này giúp em áp dụng được những kiến thức triết học vào thực tiễn, đánh
giá được tình hình phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, và đề xuất được
những giải pháp để nâng cao chất lượng con người trong quá trình đổi mới.
Đối với nội dung chủ đề chúng ta cần nắm rõ:
Những quan điểm triết học khác nhau về con người, bản chất, vai trò và khả
năng của con người trong xã hội, cũng như những vấn đề mà con người phải đối
mặt trong quá trình đổi mới và ảnh hưởng của triết học Mác - Lênin đến việc
nghiên cứu và giải quyết vấn đề con người trong bối cảnh kinh tế tri thức và toàn
cầu hoá. Cùng đó là yêu cầu và giải pháp để nâng cao chất lượng con người
trong quá trình đổi mới, đáp ứng được những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
6
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1.1. Con người và bản chất của con người
1.1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý và khắc
phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết học
trước đó, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người không phải là cái gì đó đồng
nhất tuyệt đối về chất, – đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt
giữa hai yếu tố đối lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự
nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực
thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động
qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành con người.
“Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định
việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có
của con vật”
Con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải
“đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng
không được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh
học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con
người còn là một thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội
của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương
diện kia.
Theo C.Mác “ Con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên
tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa ”.
7
- Còn về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm
của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ
loài động vật mà ra cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn
thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” - điều đó có nghĩa rằng con
người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu
tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh con đẻ cái, tồn tại và phát triển nhưng không
được tuyệt đối hóa điều đó.
=> Khi xem xét con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin không thể
tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương
diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.(kết quả của quá trình tiến
hóa tự nhiên)
- Con người không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng là một bộ
phận của giới tự nhiên. Khi xét về phương diện thực thể sinh học, con người còn
phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người
là một bộ phận đặc biệt quan trọng của giới tự nhiên nhưng lại có thể biến đổi
giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan - đây
chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể
sinh học khác. Còn về mặt thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tự
nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở,…Bằng hoạt
động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với
giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ
của con người”.
=> Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa
hợp với giới tự nhiên, mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền
8
tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh
khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay. ( bộ phận của
giới tự nhiên )
- Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
để phục vụ đời sống của mình, hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập
các quan hệ xã hội.
- Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội và hoạt động xã
hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy
nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”, nếu
con vật phải sống dựa vào hoàn hoàn toàn các sản phẩm của tự nhiên, phải dựa
vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của của mình. Chính nhờ
có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể trở thành thực thể xã
hội, thành chủ thể của có lý tính, có “lịch sử có tính tự nhiên”, “bản năng xã
hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người đúng nghĩa
của nó.
=> Lao động là điều kiện quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành
và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lần phương diện xã hội.
- Trong hoạt động, con người không chỉ có các hoạt quan hệ lẫn nhau trong sản
xuất mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác; những quan hệ đó ngày càng
phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với
nhau. Xã hội, xét đến cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”,
9
con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người
khác với con vật.
- Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội, nó không chỉ phục
vụ cho con người mà còn phục vụ cho xã hội; khác với hoạt động của con vật đó
là nó chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và
giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức. Tư duy và ý thức của con người chỉ có
thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau, cũng chính nhờ có lao
động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ đã xuất hiện và phát triển.
- Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội
của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất về phương diện con người
là một thực thể xã hội.
=> Chính vì điều đó đã làm con người khác với con vật, con người chỉ có thể tồn
tại và phát triển trong xã hội loài người. ( sự tồn tại luôn chịu tác động của các
nhân tố và quản lý xã hội ).
=>> Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt
sinh học được xem là tiền đề, là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người; còn mặt
xã hội là yếu tố quy định sự khác biệt giữa con người với thế loài vật.
1.1.2. Con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử.
- Con người tồn tại nên là bởi nhờ vào có thế giới tự nhiên và có lịch sử xã
hội, nếu không có thế giới tự nhiên và điều kiện lịch sử xã hội thì sẽ không có sự
xuất hiện của con người. Vì thế nên ta có thể khẳng định rằng con người chính
là một sản phẩm của lịch sử, của quá trình tiến hóa lâu dài trong giới hữu sinh.
Và quan trọng hơn nữa con người còn chính là chủ thể của lịch sử và xã hội.
Con người với tư cách là một thực thể của xã hội, hoạt động vào thực tiễn và tác
động vào thế giới tự nhiên, thay đổi giới tự nhiên. Bên cạnh đó, con người đã
góp phần thúc đẩy quá trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.
Trong quá trình thay đổi cải biến thế giới tự nhiên ấy thì con người cũng tự hình
thành nên quá trình lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử
10
và đồng thời con người cũng là chủ thế của lịch sử, là người sáng tạo lịch sử của
chính bản thân mình và của cả nhân loại. Bản chất của con người là một hệ
thống mở, không phải hệ thống đóng kín và nó tương ứng với các điều kiện tồn
tại của từng con người. Vì vậy muốn để cho bản chất con người càng ngày càng
phát triển theo hướng tích cực hơn thì cần phải đặt bản thân vào nhiều hoàn cảnh
mang tính nhiều người hơn. Con người luôn tiếp nhận hoàn cảnh theo hướng
tích cực và tác động quay trở lại hoàn cảnh trên các phương diện khác nhau.
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng
thời con người cũng lại là chủ thể của lịch sử, bởi lao động và sáng tạo là thuộc
tính tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình,
nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “ là lịch
sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái
hiện nay. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà
chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không
hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, “con người càng cách
xa con vật” hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người lại càng tự
mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu. Hoạt động lịch sử
đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là
hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo
công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành
chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm
ra lịch sử của mình. là bản chất của con người, nhưng con “Sáng tạo ra lịch sử”
người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà phải dựa
vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến
hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Từ khi con
người sáng tạo ra lịch sử cho tới nay con người luôn là chủ thể của lịch sử,
nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
- Ví dụ về con người là sản phẩm của lịch sử: Chứng kiến cảnh nước nhà lầm
than, nhân dân có cuộc sống đau khổ chính là động lực khiến cho cha ông ta
11
đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, tạo nên những người anh hùng dân tộc
lịch sử.
- Ví dụ về con người là chủ thể của lịch sử: Trong cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, nhân dân ta là những ng đầy lùi sự xâm lược của kè thù, viét nên lịch
sử nước Việt Nam độc lập, tự do như ngày hôm nay.
1.1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của
Phoiơbắc đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động
thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng,
không có hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ hiện
thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong
sản xuất. Do vậy, ông đã tuyệt đối hóa nh yêu giữa người với người. Hơn thế
nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ông lý
tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng
khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác
khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con
người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm rằng, tiền đề của lý Hệ tư tưởng Đức
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện
thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm
cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người là
sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người, khác với con
vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người còn là chủ thể
của lịch sử.
1.1.4. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con
người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó,
bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Bản chất của con
12
người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của
con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại
với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác
nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại:
Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ
trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ
kinh tế, quan hệ phi kinh tế...Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành lên
bản chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc
muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ
thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và
cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất người của con người mới được
phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết
định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người không
còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh
đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực
thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
1.1.5. Sự khác biệt của con người với muôn loài
Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình .
- “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”.
- ‘’Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ:
loài vượn may mắn lắm chỉ trong khi con người lại . Chỉ riêng hái lượm sản xuất
13
sự khác biệt duy nhất nhưng cơ bản ấy cũng khiến chúng ta không thể chuyển -
nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng - các quy luật của các xã hội
loài vật sang xã hội loài người.
- Các nhà tư tưởng trước C.Mác cũng đã có những ý kiến khác nhau về sự khác
biệt giữa con người và các động vật khác với tư cách là những dấu hiệu về nội
hàm của khái niệm con người.Chẳng hạn Arisstoteles đã cho rằng con người là
động vật chính trị. Nhưng quan niệm của triết học Mác - Lênin về sự khác biệt
giữa con người và các động vật khác thể hiện tính chất duy vật nhất quán xác
định: sự khác biệt đó dựa trên nền tảng của sản xuất vật chất. Lao động, tức là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, tạo ra con người và xã hội, thúc đẩy con
người và xã hội phát triển. Đây là điểm khác biệt rất căn bản, chi phối các đặc
điểm khác biệt khác giữa con người với động vật khác. Quan niệm này được
Ph.Ăngghen làm sáng rõ trong tác phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người .
1.2. Vấn đề của con người
1.2.1. Hiện tượng tha hóa con người
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, hiện tượng tha hóa của con người là quá
trình mà con người mất đi bản chất, năng lực và quyền lực của mình do sự phát
triển của chế độ tư hữu và tư liệu sản xuất. Con người bị biến thành công cụ, nô
lệ và đối tượng của những thứ do chính mình tạo ra. Sự tha hóa con người là
nguyên nhân và thực chất của sự bất công, bóc lột và khủng hoảng của xã hội có
giai cấp
Sự tha hóa con người có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng theo C.Mác trình
bày chúng ta có những quan niệm sau:
Một là, tha hóa là quá trình con người đã trở thành không phải chính mình.
Điều này được thể hiện trong việc C.Mác vạch ra và lý giải, do nhiều nguyên
nhân khác nhau và trong những điều kiện xác định, quá trình tha hóa ở con
người với tư cách là những cá nhân trong xã hội đã diễn ra như một quá trình.
14
“Việc quan hệ cá nhân chuyển biến thành mặt đối lập của nó” - C.Mác viết - ,
tức là thành quan hệ thuần túy khách thể, việc cá nhân tự mình phân biệt cá tính
và tính ngẫu nhiên, như chúng tôi đã chỉ rõ, là một quá trình lịch sử và mang
những hình thức khác nhau, ngày càng gay gắt và phổ biến ở các giai đoạn phát
triển khác nhau. Trong thời đại hiện nay, sự thống trị của những quan hệ khách
thể đối với cá nhân, sự khống chế của tính ngẫu nhiên đối với cá tính đã mang
một hình thức gay gắt nhất, phổ biến nhất, do vậy đã đặt ra trước những cá nhân
đang tồn tại một nhiệm vụ hoàn toàn rõ ràng. Sự thống trị đó đã đặt ra trước họ
nhiệm vụ sau đây: xác lập sự thống trị của cá nhân đối với tính ngẫu nhiên và
những quan hệ để thay thế cho sự thống trị của những quan hệ và của tính ngẫu
nhiên đối với cá nhân”. Khi phê phán Pruđông về vấn đề này, C.Mác phân tích
rõ hơn: “Pruđông chưa thể diễn đạt tư tưởng ấy của mình một cách thích đáng.
“Chiếm hữu bình đẳng” là quan niệm kinh tế chính trị, do đó vẫn còn là biểu
hiện tha hóa của một sự thực là: vật thể, với tư cách là sự tồn tại vì con người,
với tư cách là sự tồn tại vật thể của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại
hiện có của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có của con người vì
người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là quan hệ xã hội
của người đối với người”.
Hai là, tha hóa là một hiện tượng xã hội: Hêghen cho rằng tha hóa là một
thuộc tính phổ biến, một quá trình phổ biến của cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Vớicác nhà lý luận tôn giáo, tha hóa là một quan hệ thuần túy mang tính tư
tưởng. Ở Pruđông, tha hóa chỉ đơn giản là một phạm trù thuần túy “kinh tế chính
trị” (lý thuyết thuần túy). Ở Phoiơbắc, tha hóa chính là quá trình hòa tan bản
chất con người vào bản chất tôn giáo (chính xác hơn là Cơ đốc hóa bản chất con
người). Còn với C.Mác, tha hóa chỉ là một loại quan hệ xã hội, tha hóa chỉ tồn
tại ở con người và xã hội loài người. Nói cách khác,nội dung của phạm trù tha
hóa chỉ phản ánh và thể hiện những cái, những hiện tượng, những quá trình có
liên quan đến con người và xã hội loài người.
15
Tư tưởng coi tha hóa là một loại quan hệ xã hội được V.I.Lênin đánh giá rất cao,
cho là hết sức đặc sắc và độc đáo:“Vì nó vạch rõ C.Mác đã tiến gần như thế nào
đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông”.
Ba là, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người, do
nhiều nguyên nhân, đã trở thành cái khác xa lạ, đứng lên trên con người và xã
hội loài người; quay trở lại chi phối, nô dịch con người và xã hội loài người.
“Sự tha hóa thể hiện ở chỗ, tư liệu sinh hoạt của tôi thuộc về người khác, ở chỗ
đối tượng mong muốn của tôi là vật sở hữu của người khác mà tôi không với
tới được, cũng như ở chỗ bản thân mỗi vật hóa ra là một cái khácvới bản thân
nó, ở chỗ hoạt động của tôi hóa ra là một cái khácnào đó và cuối cùng - điều
này cũng đúng cả đối với nhà tư sản, - lực lượng không phải ngườinói chung
thống trị tất cả”. - C.Mác viết -
Như vậy, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người, song
trong những điều kiện và hoàn cảnh bất thuận đã trở thành cái xa lạ, quay trở lại
chi phối, thống trị con người và xã hội loài người. Rõ ràng, cách hiểu của C.Mác
về tha hóa khác về chấtso với cách hiểu của những nhà lý luận tôn giáokhác
nhưPhoiơbắc, Pruđông và kể cả Hêghen, mặc dù trong giai đoạn đầu của sự
nghiệp triết học, C.Mác đã một vài lần sử dụng thuật ngữ “vật hóa” (thuật ngữ
mà Hêghen thường dùng để luận giải về tha hóa).
Bốn là, lao động tha hóa. Đây là nội dung cơ bản nhất, xuyên suốt nhất, bao
trùm nhất trong toàn bộ lý luận của C.Mác về tha hóa.
Theo C.Mác, thực chất của lao động bị tha hóa là quá trình lao động và sản
phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con người, để phát triển con người đã bị
biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người. Người lao động chỉ
hành động với tính cách con người khi thực hiện các chức năng sinh học như ăn,
ngủ, sinh con đẻ cái,… còn khi lao động, tức là khi thực hiện chức năng cao quý
của con người thì họ lại chỉ như là con vật.
16
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện tượng tha hóa của
con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân
chia giai cấp. Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng tha hoá con người được đẩy lên cao nhất trong
xã hội tư bản chủ nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm
hữu tư nhân tư liệu sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản,
một số ít trở thành tư sản, chiếm hữu toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì
vậy những người vô sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để các nhà
tư sản bóc lột mình và sự tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là
nội dung chính yếu, là nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa của con người.
Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên chế độ tư
hữu tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó, sự tha hóa của lao động còn được tạo
nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội: Sự tha hóa
của nền chính trị vì thiểu số ích kỷ, sự tha hóa của các tư tưởng của tầng lớp
thống trị, sự tha hóa của các thiết chế xã hội khác. Chính vì vậy, Việc khắc phục
sự tha hóa không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà
còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương điện khắc cửa đời
sống xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp đế giải phóng con người, giải
phóng lao động.
Cũng theo C.Mác, sự tha hóa sản phẩm lao động và sự tha hóa hình thái lao
động có mối quan hệ nhân quả: tha hóa hình thái lao động là nguyên nhân, tha
hóa sản phẩm lao động là kết quả, là hệ quả tất yếu của tha hóa hành vi sản xuất.
C.Mác phân tích:
“Cho đến nay, chúng ta xét sự tha hóa của công nhân chỉ về một phương diện,
cụ thể là phương diện quan hệ của anh ta với sản phẩm lao động của anh
ta. Nhưng sự tha hóa xuất hiện không chỉ trong kết quả cuối cùng của sản xuất
mà cả trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất.
17
Người công nhân có thể đứng đối lập với sản phẩm của hoạt động của anh ta
như một cái gì đó xa lạ hay không, nếu trong chính ngay hành vi sản xuất, anh
ta không tha hóa khỏi bản thân anh ta? Trên thực tế, sản phẩm chỉ là kết quả
của hoạt động, của sản xuất. Vậy, nếu sản phẩm của lao động là sự tha hóa thì
bản thân sản xuất phải là sự tha hóa bằng hành động, là sự tha hóa của hoạt
động, là hoạt động của sự tha hóa. Sự tha hóa của đối tượng lao động chỉ là kết
quả tổng kết sự tha hóa trong hoạt động của bản thân lao động”
(1)
.
1.2.2. Vấn đề xã hội đối với đất nước ta
ở Việt Nam hiện nay, tha hóa một hiện tượng xã hội khá phổ biến, đang tồn tại
ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể: tha hóa về hành vi sản xuất (tức
hình thái lao động) và sản phẩm lao động; tha hóa về các quan hệ xã hội; tha hóa
các hệ giá trị xã hội; quyền lực bị tha hóa; tha hóa về hành vi tín ngưỡng và
niềm tin tôn giáo.
Thứ nhất là về vấn đề tôn giáo. Trong thời gian qua, ở Việt Nam, việc thực hiện
các hành vi tín ngưỡng, tôn giáo biến tướng, lệch chuẩn đã bùng phát, gây nhiều
bức xúc trong đời sống xã hội: “Trong nội bộ các tổ chức tôn giáo, vẫn còn một
bộ phận chức sắc lãnh đạo có dấu hiệu tha hóa, tư lợi, buông lỏng việc thực hành
quy định giáo lý, giáo luật của tôn giáo, mất đoàn kết, tranh giành vị trí, muốn
khẳng định vai trò cá nhân trong tổ chức. Thậm chí, ngay trong một tổ chức tôn
giáo còn có những biểu biện bề dưới bất tuân bề trên, hiệu lực quản lý hành
chính giáo hội không được thực thi, hay cá biệt có sự mâu thuẫn, công kích nhau
của những chức sức cùng tôn giáo về việc thực hành giáo lý tôn giáo. Khi trong
nội bộ tôn giáo còn tiềm ẫn những nguy cơ xung đột thì việc đối thoại liên tôn
giáo chắc chắn có những trở ngại vì chính nguy cơ nội tại đó của các tôn giáo.
Các thế lực xấu lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, mất đoàn kết tôn giáo, gây mất
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đây là trở lực khách quan, nằm ngoài
tôn giáo, nhưng khi bị kích động, lợi dụng thì những ngoại lực này lại biến thành
18
nội lực trong một bộ phận chức sắc, tín đồ tôn giáo thiếu thiện chí. Trong thực
tế, đây đã và đang là trở ngại gây khó khăn không chỉ trong việc đối thoại tôn
giáo mà còn ảnh hưởng đến việc đại đoàn kết dân tộc.”
(4)
Thứ hai, tha hóa về các quan hệ xã hội
Ở nước ta hiện nay còn tồn tại tình trạng bất công trong một số lĩnh vực xã hội:
thành quả nhận được không tương xứngvới sản phẩm lao động, những người
sống vì xã hội, vì công bằng xã hội không được đền đáp một cách xứng đáng.
“Chính vì hàng ngày phải va chạm với những hiện tượng ấy, con người (nhất là
thanh niên) phải tự đi tìm cho mình thế giới riêng, những lợi ích riêng, không
đồng nhất với lợi ích xã hội. Họ sống lo toan về cuộc sống cá nhân, còn xã hội
bên ngoài như một cái gì đó xa lạ, chứa đựng những yếu tố bất công mà cá nhân
con người bất lực trước những hiện tượng đó. Vì thế con người không còn tính
tích cực xã hội, thờ ơ, xa lánh công việc xã hội, lợi ích xã hội. Tính tích cực của
con người như người chủ xã hội thực sự, nhất định sẽ dần dần giảm đi bởi sự
tích cực không đem lại lợi ích cho họ, và ngược lại sự thờ ơ, xa lánh công việc
xã hội, tự lo toan cho bản thân lại thỏa mãn được lợi ích cá nhân. Giữa thế giới
cá nhân và thế giới xã hội không còn thống nhất được nữa”.
1.2.3. Vấn đề giải phóng con người
Để giải quyết sự tha hóa con người, C.Mác đề xuất vấn đề giải phóng con người
trên tất cả các phương diện và các nội dung:
“Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”.
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lối của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con người. Giải phóng con người được các nhà kinh điển
triển khai trọng nhiều nội dung lý luận và trên nhiều phương diện khác nhau.
Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chù nghĩa, để giải phóng con người về
phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục sự tha hóa
19
của con người và của lao động của họ, biến lao động sáng tạo trở thành chức
năng thực sự của con người là nội dung có ý nghĩa then chốt.
“Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho
mỗi cá nhân riêng biệt”
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, việc giải
phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Việc giải phóng con người được
quan niệm một cách toàn diện, đầy đủ, ở tất cả các nội dung và phương diện của
con người, cộng đồng, xã hội và nhân loại với tính cách là các chủ thể ở các cấp
độ khác nhau. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa
Mác – Lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội dung và các phương
diện: con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân
loại,…
1.3. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một chủ thể
đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với
những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt
động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch
sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trongmối quan hệ với xã
hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài "người". Không có con người
nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một
chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
20
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã hội
thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi
thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính định hướng về thế
giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử
cụ thể đó.
-Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau, trong
đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là quan hệ lợi ích.
Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho
khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế,
xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện,
là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không
chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt
động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử, cá
nhân hành động không phải riêng rẽ mà vớitư cách là một bộ phận của tập thể xã
hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng đồng lớn nhất,
trong đó cá nhân hành động như chủthể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành
phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình
thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.
1.3.1. Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ
Quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng, nó được biểu hiện: Thứ
nhất, là sự thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính
trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh
tụ. Những cá nhân kiệt xuất, ưu tú là sản phẩm của thời đại. Vì vậy họ sẽ là nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích
củamình. Sự thống nhất về các mục tiêu cách mạng, hành động cách mạng giữa
quần chúng nhân dân là lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi ích biểu
| 1/26

Preview text:


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TIỂU LUẬN
CON NGƯỜI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA TRIẾT HỌC
VÀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI HIỆN NAY GVHD: SVTH:
1. Vũ Trần Hữu Bằng 23147015
2. Trần Thanh Dương 23147021
3. Đăng Thanh Tĩnh 23147078
4. Cao Xuân Trường 23147084 5. Đào Duy Đức 23146069
Mã lớp học: LLCT130105_18CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2023-2024
Tên đề tài:: con người dưới góc nhìn của triết học và vấn đề con người trong
quá trình đổi mới ngày nay TỈ LỆ % STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN HOÀN THÀNH 1 Vũ Trần Hữu Bằng 23147015 100% 2 Trần Thanh Dương 23147021 100% 3 Đặng Thanh Tĩnh 23147078 100% 4 Cao Xuân Trường 23147084 100% 5 Đào Duy Đức 23146069 100%
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Điểm: …………………………….. KÝ TÊN MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 4
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 5
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 6
Chương 1: CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN: ................ 6
1.1. Con người và bản chất của con người ................................................ 6
1.1.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội .......................................... 6
1.1.2. Con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm lịch sử .... 9
1.1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân người... 11
1.1.4. Bản chất con người là tông hòa các mối quan hệ xã hội .................. 11
1.1.5. Sự khác biệt của con người với muôn loài ..................................... 12
1.2. Vấn đề của con người .................................................................................. 13
1.2.1. Hiện tượng tha hóa của con người ..................................................... 13
1.2.2. Vấn đề xã hội đối với nước ta ............................................................. 17
1.2.3. Vấn đề giải phóng con người .............................................................. 18
1.3. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội ......................................................... 19
1.3.1. Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ . .......................................... 20
CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM NHÂN TỐ CON NGƯỜI, CHIẾN LƯỢC
CON NGƯỜI: ........................................................................................................ 23

2.1. Nhân tố con người . ..................................................................................... 23
2.2. Chiến lược con người cùng với chiến lược trong sự đổi mới ở nước ta . 23
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 25 Tài liệu tham khảo A.PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống ở thời đại mới thời đại công nghệ và trí tuệ lên ngôi sự cạnh
tranh nhau càng gay gắt trong xã hội và nên kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trong
trong đời sống . Chính vì thế trong xã hội cần những còn người được đào tạo ,
rèn luyện, cố gắng , có trình độ học vấn , ý thức lao động và đạo đức tốt để đáp
ứng nhu cầu của khoa học và xã hội hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được
coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là những gì mà chúng ta cần để thây đổi và
nâng tầm giá trị của đất nước lên tầm cao mới. Chúng ta phải thừa nhận con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế và công nghệ trong
xã hội để ngày càng phát triển, để phát triển ở đây ta cần nhiều tới những con
người có trí tuệ , đầu óc thông minh và có đạo đức . Từ đây mỗi con người dần
dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh
thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta
phải thực hiện chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con
người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục và đào
tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và
những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi
mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
Sau khi học qua chương trình triết học đại cương, theo đề tài tiểu luận sẵn có
cũng như giảng viên và trợ giảng đã giải thích và hướng dẫn. Chúng em quyết
định chọn đề tài tiểu luận triết học: “Con người dưới góc nhìn của triết học và
vấn đề con người trong quá trình đổi mới ngày nay”. Để làm rõ nội dung đề
tài trước tiên chúng ta cần biết “Con người là gì? Tại sao con người lại quan trọng?” 4
Mục Tiêu Nghiên Cứu Đối với nhóm:
Đề tài này giúp nhóm chúng em hiểu rõ hơn về con người, bản chất, vai trò và
khả năng của con người trong xã hội, cũng như những vấn đề mà con người phải
đối mặt trong quá trình đổi mới.
Đề tài này giúp chúng em nắm bắt được những quan điểm triết học khác nhau về
con người, từ triết học cổ điển đến triết học Mác - Lênin, và phân tích được ưu
nhược điểm của từng quan điểm.
Đề tài này giúp em áp dụng được những kiến thức triết học vào thực tiễn, đánh
giá được tình hình phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, và đề xuất được
những giải pháp để nâng cao chất lượng con người trong quá trình đổi mới.
Đối với nội dung chủ đề chúng ta cần nắm rõ:
Những quan điểm triết học khác nhau về con người, bản chất, vai trò và khả
năng của con người trong xã hội, cũng như những vấn đề mà con người phải đối
mặt trong quá trình đổi mới và ảnh hưởng của triết học Mác - Lênin đến việc
nghiên cứu và giải quyết vấn đề con người trong bối cảnh kinh tế tri thức và toàn
cầu hoá. Cùng đó là yêu cầu và giải pháp để nâng cao chất lượng con người
trong quá trình đổi mới, đáp ứng được những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. 5 B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1.1. Con người và bản chất của con người
1.1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý và khắc
phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết học
trước đó, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người không phải là cái gì đó đồng
nhất tuyệt đối về chất, – đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt
giữa hai yếu tố đối lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự
nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực
thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động
qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành con người.
“Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định
việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có
của con vật”
Con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải
“đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng
không được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh
học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con
người còn là một thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội
của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Theo C.Mác “ Con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên
tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa ”. 6
- Còn về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm
của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ
loài động vật mà ra cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn
thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” - điều đó có nghĩa rằng con
người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu
tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh con đẻ cái, tồn tại và phát triển nhưng không
được tuyệt đối hóa điều đó.
=> Khi xem xét con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin không thể
tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương
diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.(kết quả của quá trình tiến hóa tự nhiên)
- Con người không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng là một bộ
phận của giới tự nhiên. Khi xét về phương diện thực thể sinh học, con người còn
phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người
là một bộ phận đặc biệt quan trọng của giới tự nhiên nhưng lại có thể biến đổi
giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan - đây
chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể
sinh học khác. Còn về mặt thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tự
nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở,…Bằng hoạt
động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với
giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.
=> Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa
hợp với giới tự nhiên, mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền 7
tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh
khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay. ( bộ phận của giới tự nhiên )
- Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong
hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
để phục vụ đời sống của mình, hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập các quan hệ xã hội.
- Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội và hoạt động xã
hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy
nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”, nếu
con vật phải sống dựa vào hoàn hoàn toàn các sản phẩm của tự nhiên, phải dựa
vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của của mình. Chính nhờ
có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể trở thành thực thể xã
hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã
hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người đúng nghĩa của nó.
=> Lao động là điều kiện quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành
và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lần phương diện xã hội.
- Trong hoạt động, con người không chỉ có các hoạt quan hệ lẫn nhau trong sản
xuất mà còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác; những quan hệ đó ngày càng
phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với
nhau. Xã hội, xét đến cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, 8
con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật.
- Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội, nó không chỉ phục
vụ cho con người mà còn phục vụ cho xã hội; khác với hoạt động của con vật đó
là nó chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và
giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức. Tư duy và ý thức của con người chỉ có
thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau, cũng chính nhờ có lao
động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ đã xuất hiện và phát triển.
- Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội
của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất về phương diện con người
là một thực thể xã hội.
=> Chính vì điều đó đã làm con người khác với con vật, con người chỉ có thể tồn
tại và phát triển trong xã hội loài người. ( sự tồn tại luôn chịu tác động của các
nhân tố và quản lý xã hội ).
=>> Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt
sinh học được xem là tiền đề, là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người; còn mặt
xã hội là yếu tố quy định sự khác biệt giữa con người với thế loài vật.
1.1.2. Con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử.
- Con người tồn tại nên là bởi nhờ vào có thế giới tự nhiên và có lịch sử xã
hội, nếu không có thế giới tự nhiên và điều kiện lịch sử xã hội thì sẽ không có sự
xuất hiện của con người. Vì thế nên ta có thể khẳng định rằng con người chính
là một sản phẩm của lịch sử, của quá trình tiến hóa lâu dài trong giới hữu sinh.
Và quan trọng hơn nữa con người còn chính là chủ thể của lịch sử và xã hội.
Con người với tư cách là một thực thể của xã hội, hoạt động vào thực tiễn và tác
động vào thế giới tự nhiên, thay đổi giới tự nhiên. Bên cạnh đó, con người đã
góp phần thúc đẩy quá trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.
Trong quá trình thay đổi cải biến thế giới tự nhiên ấy thì con người cũng tự hình
thành nên quá trình lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử 9
và đồng thời con người cũng là chủ thế của lịch sử, là người sáng tạo lịch sử của
chính bản thân mình và của cả nhân loại. Bản chất của con người là một hệ
thống mở, không phải hệ thống đóng kín và nó tương ứng với các điều kiện tồn
tại của từng con người. Vì vậy muốn để cho bản chất con người càng ngày càng
phát triển theo hướng tích cực hơn thì cần phải đặt bản thân vào nhiều hoàn cảnh
mang tính nhiều người hơn. Con người luôn tiếp nhận hoàn cảnh theo hướng
tích cực và tác động quay trở lại hoàn cảnh trên các phương diện khác nhau.
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng
thời con người cũng lại là chủ thể của lịch sử, bởi lao động và sáng tạo là thuộc
tính tối cao của con người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình,
nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “ là lịch
sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái
hiện nay. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà
chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không
hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, “con người càng cách
xa con vật” hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người lại càng tự
mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu. Hoạt động lịch sử
đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là
hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo
công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành
chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm
ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con
người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà phải dựa
vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến
hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Từ khi con
người sáng tạo ra lịch sử cho tới nay con người luôn là chủ thể của lịch sử,
nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
- Ví dụ về con người là sản phẩm của lịch sử: Chứng kiến cảnh nước nhà lầm
than, nhân dân có cuộc sống đau khổ chính là động lực khiến cho cha ông ta 10
đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, tạo nên những người anh hùng dân tộc lịch sử.
- Ví dụ về con người là chủ thể của lịch sử: Trong cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, nhân dân ta là những ng đầy lùi sự xâm lược của kè thù, viét nên lịch
sử nước Việt Nam độc lập, tự do như ngày hôm nay.
1.1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của
Phoiơbắc đã xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động
thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng,
không có hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ hiện
thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong
sản xuất. Do vậy, ông đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn thế
nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ông lý
tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng
khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác
khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con
người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện
thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm
cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần lưu ý rằng con người là
sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con người, khác với con
vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
1.1.4. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con
người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó,
bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Bản chất của con 11
người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của
con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại
với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác
nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại:
Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ
trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ
kinh tế, quan hệ phi kinh tế...Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành lên
bản chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc
muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ
thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và
cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất người của con người mới được
phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết
định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người không
còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh
đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực
thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
1.1.5. Sự khác biệt của con người với muôn loài
Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình .
- “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”.
- ‘’Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ:
loài vượn may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất. Chỉ riêng 12
sự khác biệt duy nhất nhưng cơ bản ấy cũng khiến chúng ta không thể chuyển -
nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng - các quy luật của các xã hội
loài vật sang xã hội loài người.
- Các nhà tư tưởng trước C.Mác cũng đã có những ý kiến khác nhau về sự khác
biệt giữa con người và các động vật khác với tư cách là những dấu hiệu về nội
hàm của khái niệm con người.Chẳng hạn Arisstoteles đã cho rằng con người là
động vật chính trị. Nhưng quan niệm của triết học Mác - Lênin về sự khác biệt
giữa con người và các động vật khác thể hiện tính chất duy vật nhất quán xác
định: sự khác biệt đó dựa trên nền tảng của sản xuất vật chất. Lao động, tức là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, tạo ra con người và xã hội, thúc đẩy con
người và xã hội phát triển. Đây là điểm khác biệt rất căn bản, chi phối các đặc
điểm khác biệt khác giữa con người với động vật khác. Quan niệm này được
Ph.Ăngghen làm sáng rõ trong tác phẩm Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người .
1.2. Vấn đề của con người
1.2.1. Hiện tượng tha hóa con người
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, hiện tượng tha hóa của con người là quá
trình mà con người mất đi bản chất, năng lực và quyền lực của mình do sự phát
triển của chế độ tư hữu và tư liệu sản xuất. Con người bị biến thành công cụ, nô
lệ và đối tượng của những thứ do chính mình tạo ra. Sự tha hóa con người là
nguyên nhân và thực chất của sự bất công, bóc lột và khủng hoảng của xã hội có giai cấp
Sự tha hóa con người có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng theo C.Mác trình
bày chúng ta có những quan niệm sau:
Một là, tha hóa là quá trình con người đã trở thành không phải chính mình.
Điều này được thể hiện trong việc C.Mác vạch ra và lý giải, do nhiều nguyên
nhân khác nhau và trong những điều kiện xác định, quá trình tha hóa ở con
người với tư cách là những cá nhân trong xã hội đã diễn ra như một quá trình. 13
“Việc quan hệ cá nhân chuyển biến thành mặt đối lập của nó” - C.Mác viết - ,
tức là thành quan hệ thuần túy khách thể, việc cá nhân tự mình phân biệt cá tính
và tính ngẫu nhiên, như chúng tôi đã chỉ rõ, là một quá trình lịch sử và mang
những hình thức khác nhau, ngày càng gay gắt và phổ biến ở các giai đoạn phát
triển khác nhau. Trong thời đại hiện nay, sự thống trị của những quan hệ khách
thể đối với cá nhân, sự khống chế của tính ngẫu nhiên đối với cá tính đã mang
một hình thức gay gắt nhất, phổ biến nhất, do vậy đã đặt ra trước những cá nhân
đang tồn tại một nhiệm vụ hoàn toàn rõ ràng. Sự thống trị đó đã đặt ra trước họ
nhiệm vụ sau đây: xác lập sự thống trị của cá nhân đối với tính ngẫu nhiên và
những quan hệ để thay thế cho sự thống trị của những quan hệ và của tính ngẫu
nhiên đối với cá nhân”. Khi phê phán Pruđông về vấn đề này, C.Mác phân tích
rõ hơn: “Pruđông chưa thể diễn đạt tư tưởng ấy của mình một cách thích đáng.
“Chiếm hữu bình đẳng” là quan niệm kinh tế chính trị, do đó vẫn còn là biểu
hiện tha hóa của một sự thực là: vật thể, với tư cách là sự tồn tại vì con người,
với tư cách là sự tồn tại vật thể của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại
hiện có của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có của con người vì
người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là quan hệ xã hội
của người đối với người”.
Hai là, tha hóa là một hiện tượng xã hội: Hêghen cho rằng tha hóa là một
thuộc tính phổ biến, một quá trình phổ biến của cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Vớicác nhà lý luận tôn giáo, tha hóa là một quan hệ thuần túy mang tính tư
tưởng. Ở Pruđông, tha hóa chỉ đơn giản là một phạm trù thuần túy “kinh tế chính
trị” (lý thuyết thuần túy). Ở Phoiơbắc, tha hóa chính là quá trình hòa tan bản
chất con người vào bản chất tôn giáo (chính xác hơn là Cơ đốc hóa bản chất con
người). Còn với C.Mác, tha hóa chỉ là một loại quan hệ xã hội, tha hóa chỉ tồn
tại ở con người và xã hội loài người. Nói cách khác,nội dung của phạm trù tha
hóa chỉ phản ánh và thể hiện những cái, những hiện tượng, những quá trình có
liên quan đến con người và xã hội loài người. 14
Tư tưởng coi tha hóa là một loại quan hệ xã hội được V.I.Lênin đánh giá rất cao,
cho là hết sức đặc sắc và độc đáo:“Vì nó vạch rõ C.Mác đã tiến gần như thế nào
đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông”.
Ba là, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người, do
nhiều nguyên nhân, đã trở thành cái khác xa lạ, đứng lên trên con người và xã
hội loài người; quay trở lại chi phối, nô dịch con người và xã hội loài người.
“Sự tha hóa thể hiện ở chỗ, tư liệu sinh hoạt của tôi thuộc về người khác, ở chỗ
đối tượng mong muốn của tôi là vật sở hữu của người khác mà tôi không với
tới được, cũng như ở chỗ bản thân mỗi vật hóa ra là một cái khácvới bản thân
nó, ở chỗ hoạt động của tôi hóa ra là một cái khácnào đó và cuối cùng - điều
này cũng đúng cả đối với nhà tư sản, - lực lượng không phải ngườinói chung
thống trị tất cả”. - C.Mác viết -
Như vậy, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người, song
trong những điều kiện và hoàn cảnh bất thuận đã trở thành cái xa lạ, quay trở lại
chi phối, thống trị con người và xã hội loài người. Rõ ràng, cách hiểu của C.Mác
về tha hóa khác về chấtso với cách hiểu của những nhà lý luận tôn giáokhác
nhưPhoiơbắc, Pruđông và kể cả Hêghen, mặc dù trong giai đoạn đầu của sự
nghiệp triết học, C.Mác đã một vài lần sử dụng thuật ngữ “vật hóa” (thuật ngữ
mà Hêghen thường dùng để luận giải về tha hóa).
Bốn là, lao động tha hóa. Đây là nội dung cơ bản nhất, xuyên suốt nhất, bao
trùm nhất trong toàn bộ lý luận của C.Mác về tha hóa.
Theo C.Mác, thực chất của lao động bị tha hóa là quá trình lao động và sản
phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ con người, để phát triển con người đã bị
biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người. Người lao động chỉ
hành động với tính cách con người khi thực hiện các chức năng sinh học như ăn,
ngủ, sinh con đẻ cái,… còn khi lao động, tức là khi thực hiện chức năng cao quý
của con người thì họ lại chỉ như là con vật. 15
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện tượng tha hóa của
con người là một hiện tượng lịch sử đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có phân
chia giai cấp. Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng tha hoá con người được đẩy lên cao nhất trong
xã hội tư bản chủ nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm
hữu tư nhân tư liệu sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản,
một số ít trở thành tư sản, chiếm hữu toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì
vậy những người vô sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để các nhà
tư sản bóc lột mình và sự tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là
nội dung chính yếu, là nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa của con người.
Tha hóa con người là thuộc tính vốn có của các nền sản xuất dựa trên chế độ tư
hữu tư liệu sản xuất, nhưng nó được đẩy lên ở mức cao nhất trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất đó, sự tha hóa của lao động còn được tạo
nên bởi sự tha hóa trên các phương diện khác của đời sống xã hội: Sự tha hóa
của nền chính trị vì thiểu số ích kỷ, sự tha hóa của các tư tưởng của tầng lớp
thống trị, sự tha hóa của các thiết chế xã hội khác. Chính vì vậy, Việc khắc phục
sự tha hóa không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa mà
còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương điện khắc cửa đời
sống xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp đế giải phóng con người, giải phóng lao động.
Cũng theo C.Mác, sự tha hóa sản phẩm lao động và sự tha hóa hình thái lao
động có mối quan hệ nhân quả: tha hóa hình thái lao động là nguyên nhân, tha
hóa sản phẩm lao động là kết quả, là hệ quả tất yếu của tha hóa hành vi sản xuất. C.Mác phân tích:
“Cho đến nay, chúng ta xét sự tha hóa của công nhân chỉ về một phương diện,
cụ thể là phương diện quan hệ của anh ta với sản phẩm lao động của anh
ta. Nhưng sự tha hóa xuất hiện không chỉ trong kết quả cuối cùng của sản xuất
mà cả trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất. 16
Người công nhân có thể đứng đối lập với sản phẩm của hoạt động của anh ta
như một cái gì đó xa lạ hay không, nếu trong chính ngay hành vi sản xuất, anh
ta không tha hóa khỏi bản thân anh ta? Trên thực tế, sản phẩm chỉ là kết quả
của hoạt động, của sản xuất. Vậy, nếu sản phẩm của lao động là sự tha hóa thì
bản thân sản xuất phải là sự tha hóa bằng hành động, là sự tha hóa của hoạt
động, là hoạt động của sự tha hóa. Sự tha hóa của đối tượng lao động chỉ là kết
quả tổng kết sự tha hóa trong hoạt động của bản thân lao động”(1).
1.2.2. Vấn đề xã hội đối với đất nước ta
ở Việt Nam hiện nay, tha hóa là một hiện tượng xã hội khá phổ biến, đang tồn tại
ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể: tha hóa về hành vi sản xuất (tức
hình thái lao động) và sản phẩm lao động; tha hóa về các quan hệ xã hội; tha hóa
các hệ giá trị xã hội; quyền lực bị tha hóa; tha hóa về hành vi tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo.
Thứ nhất là về vấn đề tôn giáo. Trong thời gian qua, ở Việt Nam, việc thực hiện
các hành vi tín ngưỡng, tôn giáo biến tướng, lệch chuẩn đã bùng phát, gây nhiều
bức xúc trong đời sống xã hội: “Trong nội bộ các tổ chức tôn giáo, vẫn còn một
bộ phận chức sắc lãnh đạo có dấu hiệu tha hóa, tư lợi, buông lỏng việc thực hành
quy định giáo lý, giáo luật của tôn giáo, mất đoàn kết, tranh giành vị trí, muốn
khẳng định vai trò cá nhân trong tổ chức. Thậm chí, ngay trong một tổ chức tôn
giáo còn có những biểu biện bề dưới bất tuân bề trên, hiệu lực quản lý hành
chính giáo hội không được thực thi, hay cá biệt có sự mâu thuẫn, công kích nhau
của những chức sức cùng tôn giáo về việc thực hành giáo lý tôn giáo. Khi trong
nội bộ tôn giáo còn tiềm ẫn những nguy cơ xung đột thì việc đối thoại liên tôn
giáo chắc chắn có những trở ngại vì chính nguy cơ nội tại đó của các tôn giáo.
Các thế lực xấu lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, mất đoàn kết tôn giáo, gây mất
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đây là trở lực khách quan, nằm ngoài
tôn giáo, nhưng khi bị kích động, lợi dụng thì những ngoại lực này lại biến thành 17
nội lực trong một bộ phận chức sắc, tín đồ tôn giáo thiếu thiện chí. Trong thực
tế, đây đã và đang là trở ngại gây khó khăn không chỉ trong việc đối thoại tôn
giáo mà còn ảnh hưởng đến việc đại đoàn kết dân tộc.”(4)
Thứ hai, tha hóa về các quan hệ xã hội
Ở nước ta hiện nay còn tồn tại tình trạng bất công trong một số lĩnh vực xã hội:
thành quả nhận được không tương xứngvới sản phẩm lao động, những người
sống vì xã hội, vì công bằng xã hội không được đền đáp một cách xứng đáng.
“Chính vì hàng ngày phải va chạm với những hiện tượng ấy, con người (nhất là
thanh niên) phải tự đi tìm cho mình thế giới riêng, những lợi ích riêng, không
đồng nhất với lợi ích xã hội. Họ sống lo toan về cuộc sống cá nhân, còn xã hội
bên ngoài như một cái gì đó xa lạ, chứa đựng những yếu tố bất công mà cá nhân
con người bất lực trước những hiện tượng đó. Vì thế con người không còn tính
tích cực xã hội, thờ ơ, xa lánh công việc xã hội, lợi ích xã hội. Tính tích cực của
con người như người chủ xã hội thực sự, nhất định sẽ dần dần giảm đi bởi sự
tích cực không đem lại lợi ích cho họ, và ngược lại sự thờ ơ, xa lánh công việc
xã hội, tự lo toan cho bản thân lại thỏa mãn được lợi ích cá nhân. Giữa thế giới
cá nhân và thế giới xã hội không còn thống nhất được nữa”.
1.2.3. Vấn đề giải phóng con người
Để giải quyết sự tha hóa con người, C.Mác đề xuất vấn đề giải phóng con người
trên tất cả các phương diện và các nội dung:
“Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”.
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lối của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con người. Giải phóng con người được các nhà kinh điển
triển khai trọng nhiều nội dung lý luận và trên nhiều phương diện khác nhau.
Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chù nghĩa, để giải phóng con người về
phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục sự tha hóa 18
của con người và của lao động của họ, biến lao động sáng tạo trở thành chức
năng thực sự của con người là nội dung có ý nghĩa then chốt.
“Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho
mỗi cá nhân riêng biệt”
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, việc giải
phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Việc giải phóng con người được
quan niệm một cách toàn diện, đầy đủ, ở tất cả các nội dung và phương diện của
con người, cộng đồng, xã hội và nhân loại với tính cách là các chủ thể ở các cấp
độ khác nhau. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa
Mác – Lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội dung và các phương
diện: con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại,…
1.3. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một chủ thể
đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với
những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt
động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch
sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trongmối quan hệ với xã
hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài "người". Không có con người
nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một
chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. 19
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã hội
thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi
thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính định hướng về thế
giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
-Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau, trong
đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là quan hệ lợi ích.
Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho
khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế,
xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện,
là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không
chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt
động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử, cá
nhân hành động không phải riêng rẽ mà vớitư cách là một bộ phận của tập thể xã
hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng đồng lớn nhất,
trong đó cá nhân hành động như chủthể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành
phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình
thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.
1.3.1. Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ
Quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng, nó được biểu hiện: Thứ
nhất, là sự thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính
trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh
tụ. Những cá nhân kiệt xuất, ưu tú là sản phẩm của thời đại. Vì vậy họ sẽ là nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích
củamình. Sự thống nhất về các mục tiêu cách mạng, hành động cách mạng giữa
quần chúng nhân dân là lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi ích biểu 20