-
Thông tin
-
Quiz
Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X và những thành tựu, hạn chế cơ bản | Đại học Lao động - Xã Hội
Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X và những thành tựu, hạn chế cơ bản | Đại học Lao động - Xã Hội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Lịch sử đảng ( LSD 21) 29 tài liệu
Đại học Lao động - Xã hội 592 tài liệu
Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X và những thành tựu, hạn chế cơ bản | Đại học Lao động - Xã Hội
Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X và những thành tựu, hạn chế cơ bản | Đại học Lao động - Xã Hội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Lịch sử đảng ( LSD 21) 29 tài liệu
Trường: Đại học Lao động - Xã hội 592 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
















Tài liệu khác của Đại học Lao động - Xã hội
Preview text:
Nhóm 13
Câu hỏi: Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X và
những thành tựu, hạn chế cơ bản. Bài làm
1. Đại hội Đảng VII và những thành tựu, hạn chế cơ bản.
ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN,ĐỒNG BỘ ĐƯA ĐẤT NƯỚC TIẾN LÊN
THEO CON ĐƯỜNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
* Khát quát, giới thiệu về Đại hội Đảng VII -Thời gian:24-27/6/1991
-Địa điểm : Thủ đô Hà Nội
-Đại biểu tham dự : 1.176 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.155.021
đảng viên trên cả nước.
-Tổng bí thư được bầu tại đại hội : Đồng chí Đỗ Mười
-Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại đại hội : 146 ủy viên
-Bộ chính trị được bầu tại đại hội : 13 ủy viên
-Nhiệm vụ : Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường mới
-Nội dung khái quát của đại hội : Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ-đổi
mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết; là Đại hội lần đầu tiên thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc. Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội thông qua:Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội;Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến
năm 2000;Báo cáo xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng.
* Thành tựu của Đại hội Đảng VII
-Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước
-Đổi mới toàn diện,đồng bộ và triệt để,nhưng có bước đi,hình thức và cách làm phù hợp
-Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai
trò quản lý của Nhà nước
-Phát huy sâu rộng nền dân chủ XHCN
-Quan tâm dự báo tình hình,kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn
những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới
-Tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận xây
dựng con đường XHCN ở nước ta
-Thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.Cương lĩnh khẳng định: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội :
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hóa tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Các dân tộc cùng bình đẳng,đoàn kết,giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hợp tác ,hữu nghị với nhân dân trên toàn thế giới.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức,bóc lột,bất công: làm theo
năng lực,hưởng theo lao động ,có cuộc sống ấm no,tự do,hạnh phúc,có
điều kiện phát triển toàn diện điều kiện cá nhân.
* Hạn chế cơ bản của Đại hội Đảng VII.
a, Hạn chế,bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền,nội
dung,phương thức cầm quyền của Đảng.
Khái niệm,nội dung,phương thức về đảng cầm quyền dường như còn
khá mới mẻ.Đến đại hội VII Đảng ta nhấn mạnh”Tiếp tục tổng kết thực
tiễn,nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền,xác định rõ phương
thức,nội dung,điều kiện cầm quyền:vấn đề phát huy dân chủ trong điều
kiện một đảng duy nhất cầm quyền :các nguy cơ cần phải phòng ngừa
với đảng cầm quyền” .Đại hội XII chỉ rõ “Tiếp tục tổng kết thực tiễn
nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung,phương thức lãnh đạo,cầm
quyền của Đảng”. Có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo
và cầm quyền của Đảng.Vấn đề đặt ra là liệu “Đảng cầm quyền”và
“Đảng lãnh đạo”có phải là hai khái niệm đồng nhất? … đều cần có sự
phân định và luận giải tường minh.
b, Hạn chế.bất cập trong xây dựng chủ trương,nghị quyết của Đảng.
Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham
mưu đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ
lưỡng; chưa đánh giá, dự báo những tác động, ảnh hưởng một cách đầy
đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về việc lấy ý kiến của
nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị quyết.
Tương tự như vậy, một số chính sách công mới chỉ được ban hành dựa
trên những nhận thức và mong muốn chủ quan của các cơ quan quản lý
nhà nước, sự tham gia đề xuất và góp ý của người dân và doanh nghiệp
với tư cách là đối tượng thụ hưởng, chịu sự tác động của chính sách
còn rất hạn chế; vì vậy, khó tránh khỏi tình trạng “vừa đá bóng, vừa
thổi còi”, “lợi ích nhóm”, cục bộ. Một số dự thảo luật đưa ra Quốc hội
thảo luận chưa tạo được sự đồng tình, thống nhất cao.
c, Hạn chế,bất cập trong công tác tư tưởng,lý luận của Đảng.
Trước bối cảnh, tình hình mới có nhiều biến đổi mau lẹ, khó lường,
sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, trình độ dân trí và dân chủ ngày
càng được nâng cao, đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận của Đảng cần
phải được đổi mới mạnh mẽ. Các văn kiện của Đảng những năm gần
đây đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, bất cập của công tác
tư tưởng, lý luận nói chung, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
nói riêng.Điển hình như văn kiện đại hội IX,XII:”Chất lượng và hiệu
quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả
những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết
phục... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng
yêu cầu của công cuộc đổi mới’’
d, Hạn chế,bất cập về công tác cán bộ,đảng viên của Đảng.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến
lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang
tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Không ít cán bộ quản lý
doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi
dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi,
làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị
xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp,
chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ
cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.Vấn đề suy thoái về tư tưởng
chính trị, phai nhạt lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; động
cơ vào Đảng không đúng đắn, ý thức chấp hành kỷ luật đảng không
nghiêm; việc nêu gương, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên
trước quần chúng còn hạn chế. Còn có những biểu hiện cá nhân chủ
nghĩa, tư tưởng cơ hội, thực dụng trong các tổ chức đảng cần được
nhanh chóng nhận diện rõ và có giải pháp khắc phục kịp thời.
e, Hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự
kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng
vẫn là khâu yếu; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy chưa đi vào nề nếp. Công tác giám sát ở các
cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối
tượng còn hẹp; hiệu quả phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn
hạn chế. Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn
hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm.
2. Đại hội Đảng VIII và những thành tựu, hạn chế cơ bản .
Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày
càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.
Bối cảnh quốc tế nói trên, có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo
nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố.
Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết
cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những thành tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với
nhiều thách thức như nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế, “diễn biến hoà bình”;
tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tình
hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng ta những
nhiệm vụ và bước đi mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng
Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba
Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu
130 nghìn đảng viên trong cả nước.
* Thành tựu đạt được tại đại hội Đảng VII:
1. Kinh tế tăng trưởng khá: Tổng sản phẩm trong nước năm 2000
tănghơn gấp đôi năm 1990, GDP tăng bình quân hàng năm 7%, kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội, năng lực sản xuất các ngành đều tăng.
Công nghiệp tăng 18,5%, các dịch vụ và xuất nhập khẩu đều phát triển.
2. Văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện; giáo dục đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật
chất, đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
3. Tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường.
4. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống
chính trị được củng cố.
5. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
* Hạn chế của đại hội Đ ảng VIII:
1. Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta chưa thực hiện
tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển.
Nhà nước còn thiếu chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn
trong dân. Sử dụng nguồn lực còn phân tán, kém hiệu quả, chưa
kiên quyết tập trung cho các chương trình, dự án kinh tế - xã hội cấp thiết.
2. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực và nhiều vấn đề phải
giải quyết. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn
chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể,
trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất,
xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu... nghiên
trọng kéo dài. Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hoá giàu
nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
3. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa
lúng túng vừa buông lỏng. Chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ
chế, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước
nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn.
4. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, các hoạt động khoa học và
công nghệ bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, giáo dục, đào ,
tạo, thông tin, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ chưa tốt.
5. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả
lãnh đại của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu
quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp
với đòi hỏi của tình hình đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng “có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển
của cách mạng nước ta”. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục đổi
mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân. “Kết quả của Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân
tộc và tương lai đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI”.
3. Đại hội Đảng IX và những thành tựu, hạn chế cơ bản .
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam IX là đại hội đầu tiên trong thế kỉ XXI
của Đảng, diễn ra từ ngày 19 đến ngày 24/4/2001 tại Thủ đô Hà Nội, với sự
tham dự của 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.717 đảng viên trong toàn
Đảng, diễn ra trong bối cảnh đất nước đã trải qua việc thực hiện công cuộc
đổi mới được đề ra từ Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI hơn 15 năm
và đạt được những thắng lợi to lớn , được nhân dân và quốc tế ủng hộ.
* Kế hoạch 10 năm năm 2001-2010:
- Xuất phát từ đạt điểm tình hình trong và ngoài nước Đại Hội IX đề ra kế
hoạch 10 năm 2001-2010 và quyết định phương hướng , nhiệm vụ , mục
tiêu kinh tế xã hội của kế hoạch là:
+ Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
+ Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần nhân dân.
+ Tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành 1 nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
+ Đại Hội dã đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-
2010 với mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển , tạo nền tảng để đến năm 2020 , nước ta cơ bản trở thành 1 nước
công nghiệp theo hướng hiện đại , tiếp tục đưa GDP năm 2010 lên gấp đôi so với năm 2000. *
Ý nghĩa và thành tựu
- Phát triển kinh tế vẫn giữ được nhịp độ cao, những mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch hoàn thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước tăng
8%/năm, công nghiệp tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỉ trọng
công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên và tỉ trọng nông nghiệp giảm.
- Kinh tế đối ngoại phát triển, bắt đầu đầu tư sang các nước khác nhất
là Lào và Campuchia cũng như 1 số nước châu Phi
- Khoa học công nghiệp văn hóa xã hội phát triển
- Chính trị xã hội quốc phòng an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại được mở rộng
- Vị thế của nước ta trên thị trường quốc tế được tăng lên, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường
- Kết quả thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000 đã đưa “tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng
hơn gấp đôi so với năm 1990”
- Qua 5 năm 1996 - 2001, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã
kiểu mởi dưới nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong các ngành,
lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn đã có đổi mới, đóng
góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nưóc
- Qua 10 năm 1991 - 2001, kinh tế tư nhân - gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân, đã phát triển rộng khắp trong cả nước,
đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế
- Luật đất đai năm 1987 được ban hành, những đổi mối trong chính
sách, pháp luật về đất đai đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển
- khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng
- Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác dân tộc,
khẳng định, trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác dân tộc đã đạt
được những thành tựu to lởn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
cách mạng chung củađất nước.
* Hạn chế và khó khăn
- Kinh tế Việt Nam còn phát chưa vững chắc , lạc hậu , trình độ kém ,
thu nhập quốc dân, năng suất còn thấp, đời sống nhân dân khó
khăn , tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao.
- Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực : tham nhũng, lãng phí,
buôn lậu và nhiều tiêu cực còn tồn tại trong nước.
- Trình độ khoa học kĩ thuật kém không đáp ứng nhu cầu đất nước .
Tình trạng chảy máu chất xám ngày càng cao.
- Các nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(1/1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lổn của cách mạng nước
ta.Bốn nguy cơ thách thức lớn đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu;
nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
- kinh tế tập thể còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại hạn chế;
hiệu quả ít; kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng thấp trong GDP, chưa đủ
sức đảm nhiệm tốt vai trò của mìnhkinh tế tư nhân nước ta còn
nhiều hạn chế, yếu kém như: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản
xuất lạc hậu, trình độ quản lý kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu,
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động.
- công tác quản lý và sử dụng đất đai còn nhiều hạn chế, yếu kém và
nhiều vấn đề bức xúc: Đất đai chưa được chuyển dịch hợp lý, hiệu
quả sử dụng còn thấp. Tình trạng người sử dụng đất vi phạm pháp
luật về đất đai và tình hình khiếu kiện về đất đai diễn ra nghiêm
trọng và phổ biến; việc thu hồi đất, đền bù giải toả mặt bằng thực hiện hết sức khó khăn.
- khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa thật bền chặt và đứng trước
những thách thức mối. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của
một bộ phận nhân dân chưa vững chắc. Nguyên nhân là do đời sống
nhân dân còn khó khăn, mặt khác, những bất công xã hội và tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến và nghiêm
trọng, kỷ cương phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, đạo
đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp.
- người Việt Nam ở một số’ nưốc còn nhiều khó khăn trong việc Ổn
định cuộc sông, ở một số nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa có
dịp về thăm đất nước, chưa thấy những thành tựu của công cuộc đổi
mới, vẫn còn thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá đất nước.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm
lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới,
thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4. Đại hội Đảng X và những thành tựu,hạn chế cơ bản.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn
ra trong thời điểm lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự nghiệp đổi
mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta vừa kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,
cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Nhìn khái quát 20 năm đổi mới
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đã đưa lại
cho đất nước ta một sự thay đổi cơ bản, toàn diện, làm cho thế và lực, uy
tín quốc tế của nước ta tăng lên nhiều so với trước.
Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm,
đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết
điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội 5 năm (2001 – 2005), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát triển và hoàn
thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng Đảng; bổ sung sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng; bầu Ban
Chấp hành Trung ương khoá X. *Thành tựu
cơ bản của Đại hội X
- Về tăng trưởng, phát triển kinh tế, Đất nước đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh . Sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật đáng kể. Phát triển được nhiều ngành kinh tế chủ lực,
nhiều vùng kinh tế trọng điểm và khu công nghiệp, chế xuất. Kim
ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Nội lực của nền kinh tế được phát huy có
hiệu quả. Hội nhập kinh tế có bước tiến mới rất quan trọng. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng.
- Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, những vấn đề về phát triển
văn hoá, xã hội, con người có nhiều tiến bộ. Mức sống về vật chất và
tinh thần của các tầng lớp nhân dân, các khu vực dân cư đều có bước
cải thiện đáng kể.Nhiều chính sách xã hội được thực hiện tích cực và
lan rộng, việc làm, chăm sóc sức khoẻ, khống chế, đẩy lùi thành công;
một số dịch bệnh nguy hiểm; đền ơn đáp nghĩa những người và gia đình
có công trong cách mạng và kháng chiến; giải quyết những hậu quả của
chiến tranh, với những người tàn tật, nhiễm chất độc màu da cam,
chống các tệ nạn xã hội. Hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, thể dục
thể thao có tiến bộ. Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển ở tất cả các
cấp học đã hoàn thành xoá mù chữ. phổ cập tiểu học tiến tới phổ cập trung học cơ sở.
- Chính trị - xã hội ổn định. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Đất nước đã vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức tác động từ bên ngoài, và sự chống phá của các
thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng và an ninh
được tăng cường, giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo
đảm. Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có nhiều thành tích trong
xây dựng lực lượng, nâng cao tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng ở một số địa bàn có hiệu quả.
Thế trận quốc phòng toàn toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố.
Hệ thống chính trị được tăng cường sức mạnh từ Trung ương đến cơ sở
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành có hiệu
lực, hiệu quả của chính quyền nàh nước các cấp, phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.