Dàn bài làm phật giáo - my homework - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Dàn bài làm phật giáo - my homework - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học.

I. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo
1. Bối cảnh lịch sử
Link: https://luatminhkhue.vn/phat-giao-la-gi-nguon-goc-dia-ly-va-lich-su-cua-phat-giao-la-gi.aspx
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ 6 trước Công nguyên khi đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
là người đầu tiên sáng lập ra đạo Phật. Đức Phật xuất thân từ một Thái tử ở Ấn Độ có tên là
Tất Đạt Đa (Shidartha) thuộc dòng họ Thích Ca (Sakya). Mặc dù Đức Phật đang có cuộc
sống sung túc và vương giả nhưng ngài đã từ bỏ ngai vàng để xuất gia tìm đạo để đi tìm ra
câu trả lời cho câu hỏi “ Làm thế nào để con người thoát khỏi khổ, đau và sinh tử” và tìm ra
căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân
hồi. Cuối cùng, Thái tử đến ngòi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không
thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49
ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh
giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni vào ngày 8 tháng 12 năm đó Đức Phật chỉ 31 tuổi.
2.Phân đoạn các thời kỳ Phật giáo
Link: B. Phân đoạn các thời kỳ Phật giáo - QuangDuc.comhttps://quangduc.com › b-phan-doan-cac-
thoi-ky-phat-...
Tính từ lúc xuất hiện thì Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm và đã trải qua rất nhiều sự thay
đổi. Cho đến hiện nay, tôn giáo này được chia thành bốn thời kỳ.
- Đầu tiên là thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ, còn được gọi là giai đoạn Tiểu thừa. Thời
kỳ thứ hai được đánh dấu bởi sự phát triển của giáo lý Đại thừa. Thời kỳ thứ ba là
sự phát triển của Mật tông và Thiền tông. Ba thời kỳ này kéo dài đến khoảng thế kỷ
11. Sau đó Phật giáo không còn sự thay đổi nội tại nào đáng kể nữa mà chỉ tiếp tục
duy trì. Thời kỳ thứ tư được cho là khoảng thời gian 1000 năm gần đây.
- Về mặt địa lý, Phật giáo ở thời kỳ đầu giới hạn trong phạm vi Ấn Độ. Sang đến thời
kỳ Đại thừa, Phật giáo bắt đầu cuộc xuất hiện tại Đông Á, và bản thân lại cũng chịu
ảnh hưởng đáng kể bởi những tư tưởng bên ngoài Ấn Độ. Trong suốt thời kỳ thứ ba,
có nhiều trung tâm phát huy một cách sáng tạo các tư tưởng Phật giáo được hình
thành bên ngoài Ấn Độ, đặc biệt là ở Trung Hoa.
- Về mặt triết học, thời kỳ Tiểu thừa tập trung vào những vấn đề tâm lý, thời kỳ Đại
thừa là những vấn đề về bản chất của sự hiện hữu, và thời kỳ thứ ba là về các vấn
đề vũ trụ. Thời kỳ đầu chuyên chú đến việc cá nhân cố gắng tự nhiếp phục tâm ý
mình, và sự phân tích tâm lý là phương tiện được dùng để đạt đến sự chế ngự tâm.
Thời kỳ thứ hai chuyển sang bản chất tự nhiên của thực thể,1 hay được gọi là tự
tánh; và sự nhận thức của tâm về tự tánh của vạn hữu được xem là yếu tố quyết
định để đạt đến sự giải thoát. Thời kỳ thứ ba xem việc điều chỉnh tự thân cho hài hòa
với vũ trụ là đầu mối để đạt đến giác ngộ, và sử dụng những phương thức có tính
cách mầu nhiệm, huyền bí từ thời cổ xưa để làm được điều đó.
- Trên phương diện giải thoát, các thời kỳ này khác nhau về quan niệm đào luyện con
người. Trong thời kỳ đầu, lý tưởng mà sự tu tập nhắm đến là thánh quả A-la-hán,
nghĩa là bậc đã dứt trừ hết ái nhiễm, mọi dục vọng đều dứt sạch, và không còn phải
tái sinh trong luân hồi. Thời kỳ thứ hai, mẫu mực được hướng đến là Bồ Tát, người
phát nguyện cứu độ toàn thể sinh linh và tin tưởng chắc chắn vào việc tự mình có
thể đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn để trở thành một vị Phật. Thời kỳ thứ ba, lý tưởng
được nhắm đến là các vị Tất-đạt, người đạt đến sự hòa hợp hoàn toàn với vũ trụ,
không còn bất cứ giới hạn nào, và hoàn toàn tự tại trong sự vận dụng những năng
lực của vũ trụ trong tự thân cũng như đối với ngoại cảnh.
- Những tôn giáo khác có lẽ cũng đều có những thay đổi đáng chú ý như vậy, nhưng
điều đặc biệt của Phật giáo là những thay đổi trong mỗi một giai đoạn mới đều được
hỗ trợ bởi sự hình thành một loại kinh tạng mới, mặc dù được viết ra nhiều thế kỷ
sau khi Phật nhập diệt, nhưng vẫn được xem là lời Phật dạy. Kinh tạng của thời kỳ
đầu, đến thời kỳ thứ hai được bổ sung thêm rất nhiều kinh điển Đại thừa, và đến thời
kỳ thứ ba là một số lượng khổng lồ các kinh Tan-tra. Tất cả những kinh sách xuất
hiện về sau này đều vô danh, theo nghĩa là tác giả của chúng không được biết đến.
Và việc cho rằng tất cả những kinh sách này đều do chính miệng Phật thuyết sẽ có
liên quan đến một quan niệm khá linh hoạt về đức Phật.
- Thực ra, trong một quãng thời gian bất kỳ nào đó, những phát triển mới không phải
hoàn toàn thay thế hết những cái cũ. Những trường phái cũ vẫn song song tồn tại
với những trường phái mới, mặc dù thường phải chịu ảnh hưởng thay đổi rất đáng
kể. Phật giáo nguyên thủy trong thời kỳ thứ nhất, khi bước sang thời kỳ thứ hai đã
hấp thụ rất nhiều giáo lý của Đại thừa. Và sự tiếp xúc giữa các kinh Tan-tra với kinh
điển Đại thừa đã dẫn đến một sự tổng hợp diễn ra tại các trường đại học Bengal và
Orissa suốt thời đại Pla. Tập sách này chỉ tập trung vào những đột biến mang tính
sáng tạo, và điều đó sẽ là định hướng trong suốt quá trình hình thành tập sách.
- Sự phân chia lịch sử Phật giáo thành những giai đoạn 500 năm không chỉ phù hợp
với các sự kiện, mà còn được đề cập đến trong nhiều tác phẩm Phật học ra đời vào
khoảng đầu Công nguyên. Năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là 500 năm, được kể ra như
để đánh dấu sự suy yếu liên tục của giáo lý theo thời gian. Và người ta cho rằng,
giống như vạn vật ở đời, tăng đoàn Phật giáo và giáo lý rồi cũng sẽ phải chịu sự suy
tàn. Trong mỗi thời kỳ, phần tâm linh sẽ sa sút dần. Và sau 2.500 năm, ngọn lửa tâm
linh được dự báo là sẽ đi dần đến chỗ sắp tắt hẳn. Cho dù quan sát thực tế có
chứng minh được sự suy thoái theo như dự đoán này hay không, nó vẫn có một ảnh
hưởng mạnh mẽ về mặt tinh thần đối với tín đồ Phật giáo trong những thời đại tiếp
theo sau đó, và chúng ta sẽ vẫn còn nghe nhắc lại điều này nhiều lần nữa. Câu
chuyện về lịch sử Phật giáo quả thật không chỉ toàn một vẻ huy hoàng, mà còn có cả
những bi thương nữa.
3. Thời kỳ tiêu biểu:
Phật giáo ở Ấn Độ:
Phật giáo đại thừa ở Ấn Độ:
Đầu Công nguyên, một tư tưởng theo chiều hướng mới hình thành trong Phật giáo,
với cái tên là Phật giáo Đại thừa. Bộ phái này được gây dựng nên bởi những sự suy
kiệt của giáo lý cũ. Phật giáo Đại thừa được tóm tắt trong năm miêu tả như sau:
Về mục đích, có sự thay đổi từ lý tưởng A-la-hán sang lý tưởng Bồ Tát.
Một phương thức giải thoát mới được vạch ra, trong đó từ bi được xếp ngang với trí
huệ, và được đánh dấu bởi sự tiến bộ dần qua sáu ba-la-mật.
Đức tin được đặt vào những đối tượng mới, bằng cách đưa ra một loạt các vị thánh,
hoặc tin vào con người hơn là thần thánh.
Phương tiện thiện xảo là một đức tính hoàn toàn mới, trở nên thiết yếu cho hàng
thánh giả và thậm chí còn được xem trọng hơn cả trí huệ, vốn trước kia vẫn được
xem là đức tính cao quý nhất.
Một phần giáo lý mạch lạc về bản thể được vạch ra, giải quyết những vấn dề như
tánh không, chân như.
Phật giáo Tiểu thừa ở Ấn Độ:
Mặc dù Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh mẽ, Phật giáo Tiểu thừa vẫn duy trì được
bản sắc riêng của họ. Trong đó họ có vay mượn trực tiếp các vị thần trong Phật giáo
Đại thừa nhưng vẫn giữ nét riêng cho mình. Điển hình là về quan niệm Bồ Tát đã trở
nên nổi bật trong những câu chuyện của họ. Thêm vào đó, một loạt mười pháp ba-
la-mật bên cạnh sáu ba-la-mật của Đại thừa. Đặc biệt những người theo Tiểu thừa
lại không bao giờ từ bỏ niềm tin của họ và vẫn tiếp tục phát triển giáo lý của riêng họ,
chủ yếu tập trung tìm hiểu thêm hàm nghĩa hợp lý trong bộ A-tỳ-đạt-ma của họ.
Phật giáo ở Trung Hoa https://giacngo.vn/su-du-nhap-cua-phat-giao-vao-thoi-ky-dau-
trung-quoc-post54628.html
https://nghiencuuquocte.org/2019/05/18/anh-huong-phat-giao-van-hoa-trung-quoc/
https://phatgiaohanoi.vn/khai-quat-lich-su-phat-giao-trung-quoc.html
Phật giáo ở Trung Hoa được truyền vào một cách tự nhiên vì Trung Hoa đã chinh
phục vùng đất Trung Á ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Thời gian được cho là
khởi đầu là từ dưới đời nhà Hán dần dần được truyền rộng ra các nơi. Mãi cho đến
khi nhà Hán sụp đổ, Phật giáo mới tự mình trở thành một tôn giáo mới và chính thức
ở Trung Hoa, trong khoảng năm 221 đến năm 589.
Phật giáo ở Trung Hoa được các vị Vua coi trọng vì thấy các tín đồ Phật giáo yêu
chuộng hoà bình.
Trong suốt quá trình phát triển ở Trung Hoa, Phật giáo đã có những bộ Kinh kinh
điển như: Diệu pháp liên hoa, kinh Duy-ma-cật và kinh Đại Bát Niết-bàn.
Ngày nay, Phật giáo là tôn giáo được thể chế hóa lớn nhất ở Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, ước tính có khoảng 185 đến 250 triệu tín đồ, bao gồm cả 3 truyền thống
Phật giáo lớn là (có số lượng tín đồ lớn nhất, phân bố ở hầu Phật giáo Bắc truyền
hết lãnh thổ), (chủ yếu ở ) và Phật giáo Nam truyền Vân Nam Phật giáo Mật truyền
(chủ yếu ở Tây Tạng).
Có nhiều sự khác nhau khi bàn về niên đại du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Chủ yếu
có 7 thuyết:
1. Thuyết Tây phương Thánh giả của Khổng Tử: Thiên “Trọng Ni” trong “Liệt Tử” có
dẫn lời của Khổng Tử rằng: “Phương Tây có bậc Thánh, không trị mà không loạn,
không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự làm”. Theo thuyết này, Khổng Tử đã biết
đến Phật giáo.
2. Thuyết Thích Lợi Phòng đem Phật giáo truyền vào: Đời vua Tần Thuỷ Hoàng
năm thứ IV ( năm 243 trước Tây lịch ), có vị Sa môn tên là Thích Lợi Phòng đem
kinh Phật từ Tây Vực truyền vào Trung Quốc. Vua Tần Thuỷ Hoàng cho việc đó là
quái gở, liền bắt đem bỏ ngục, nhưng đến nửa đêm vua thấy có người thân vàng
cao một trượng sáu thước tới phá ngục cứu ra. Vì thế vua rất sợ hãi và dập đầu kính
lễ.
3. Thuyết Trương Khiên đã nghe thấy Phật giáo: Sách Nguỵ Thư chép: “ Đời Võ Đế
nhà Tiền Hán, có tướng Trương Khiên phụng mệnh vua đi sứ sang Tây Vực về tâu
rằng: “ ở ấn Độ có đạo Phù Đồ”. ( Phật giáo )
4. Thuyết lễ bái hình người vàng: Năm 121 trước Tây lịch, đời vua Võ Đế nhà Tiền
Hán năm thứ II, vua sai tướng Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô, bắt được hình
người bằng vàng đem về dâng vua. Nhà vua bèn đem thờ trong cung Cam Tuyền để
sớm tối đốt hương lễ bái.
5. Thuyết Lưu Hướng nói đến Phật điển: Đời vua Thành Đế ( sau đời vua Võ Đế nhà
Tiền Hán 34 năm ), vua sai Lưu Hướng chỉnh đốn lại sách vở của triều đình. Lưu
Hướng đã thấy bộ “ ”. Có một đoạn văn dẫn chứng của Lưu HướngPhật Tổ thống kỷ
trong cuốn Liệt Truyện rằng: “ Tôi kiểm điểm thư tàng sưu tầm đại sử để soạn liệt
tiên đồ. Kể từ vua Hoàng Đế trở xuống cho tới nay có hơn 700 người được đạo tiên,
sau khi xét định thực hư, được 146 người. Trong số đó có hơn 70 người đã thấy kinh
Phật”.
6. Thuyết khẩu truyền Phật giáo của Y Tồn: Niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu ( thế kỷ
thứ II trước Công Nguyên ) đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán có Y Tồn, sứ giả nước Đại
Nhục Chi tới đem Phật giáo truyền miệng cho Trần Cảnh Hiên.
7. Thuyết niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ X: Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ X ( năm 67
Tây lịch ), đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán, có một đêm vua nằm mộng thấy người
vàng, có hào quang rực rỡ từ phương Tây tới. Vì vậy, nhà vua đoán biết có Phật
giáo ở phương Tây, vua liền sai tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Trần Cảnh.. ( 18
người ) sang Tây Vực để thỉnh tượng Phật. Họ vâng lệnh vua đi nửa đường thì gặp
hai bậc Phạn Tăng là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan chở kinh tượng bằng
ngựa trắng đi về phía Đông. Họ liền mời hai Ngài đến Trung Quốc. Vua Minh Đế liền
sắc dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm nơi dịch kinh điển cho hai Ngài.
Phật giáo ở Đông Nam Á https://tapchinghiencuuphathoc.vn/nhung-con-duong-du-
nhap-phat-giao-o-dong-nam-a.html
Những hoạt động thuốc địa hoá của người Ấn Độ là kết quả của việc Phật giáo được truyền
đến Đông Nam Á. Dần về sau, từ thế kỷ thứ 3, vùng Đông Nam Á cũng được biết như một
“Ấn Độ mở rộng”, ngày càng bị thống trị bởi những người gốc Ấn và bị chi phối không chỉ
nền văn hoá - tín ngưỡng, tôn giáo.
Một số mốc thời gian Phật giáo được truyền vào Đông Nam Á:
- Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa được truyền vào Miến Điện vào thế kỷ 5 và 6.
- Phật giáo du nhập vào Indonesia vào thế kỷ thứ 5.
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam tứ thế kỷ thứ II sau Công nguyên.
- Phật giáo truyền vào Thái Lan từ thế kỷ thứ III trước Công Nguyên
Phật giáo từ Ấn Độ, nhờ sự ủng hộ của hoàng đế Ashoka, các đoàn truyền giáo được cử
đến các nước thân cận để truyền bá tôn giáo, truyền theo các con đường khác nhau và
truyền vào Đông Nam Á từ thể kỷ thứ III trước Công Nguyên, gắn bó với đời sống chính trị-
xã hội của một số nước Đông Nam Á. Đến thế kỷ XIII-XIV, Phật giáo trở thành tôn giáo lớn
nhất ở 2 quốc gia ở Đông Nam Á là Sukhothai (Thái Lan) và Đại Việt (Việt Nam). Tuy nhiên,
do những biến động lịch sử nên ở Thái Lan Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất nhưng ở Việt
Nam, sau thời kỷ đỉnh cao là thế kỷ XIV, Phật giáo trở nên ít hơn, không còn lớn mạnh nữa.
*Việt Nam:
Ở miền Bắc Việt Nam, Phật giáo có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều kết quả nghiên cứu
cho thấy, từ thế kỷ thứ II sau Công Nguyên, miền Bắc Việt Nam đã hình thành một trung tâm
Phật giáo lớn tại Luy Lâu. Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ vào và trung tâm Luy Lâu đã phát
triển trước các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương (Trung Hoa). Tuy nhiên từ thế kỷ thứ V
trở về sau, Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam lại ngày càng chịu ảnh hưởng của Mahayana
Trung Hoa. Hai dòng thiền thành lập ở miền Bắc Việt Nam vào thời kì Bắc thuộc là Tì Ni Đa
Lưu Chi (Vinitaruci) và Vô Ngôn Thông đều xuất xứ từ Trung Hoa. Đây là bước chuyển quan
trọng của Phật giáo Việt Nam, đánh dấu sự chuyển biến từ việc được truyền thừa Phật giáo
Ấn Độ sang Phật giáo Trung Hoa.
Đến thời Lý, Phật giáo càng chiếm được địa vị quan trọng trong đời sống chính trị xã hội Đại
Việt, khi trở thành lực lượng ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi sau cái chết của Lê Long Đỉnh
vào năm 1009. Phật giáo thời Lý còn hình thành nên dòng Thiền Thảo Đường do nhà sư
Thảo Đường sáng lập vào năm 1069. Dòng Thiền này chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc
không xuất gia như: vua Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và các đại thần như:
Thái phó Đỗ Anh Vũ, Thái phó Đỗ Thường...10 Như vậy đến triều Lý, Phật giáo Mahayana
đã phát triển với 3 thiền phái đều xuất phát từ Trung Hoa: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông
và Thảo Đường.
Bên cạnh Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông của Mahayana cũng du nhập vào Việt
Nam và xuất hiện khá sớm. Nhưng trong ba tông phải này, Thiền Tông chiếm vai trò chủ
đạo, các yếu tố của Tịnh Độ và Mật Tông không phát triển thành một hệ phái riêng như ở
Trung Hoa, Nhật Bản hay Tây Tạng mà hòa quyện vào Thiền Tông. Sự phát triển của Thiền
Tông ở Đại Việt thời Lý (1009-1225) đã tạo điều kiện cho Phật giáo nước ta phát triển đến
đỉnh cao trong thế kỷ XIII-XIV.
*Thái Lan:
Đều cùng một xuất phát điểm tiếp thu trực tiếp Phật giáo Ấn Độ nhưng Việt Nam tiếp thu
truyền thừa Mahayana còn Thái Lan lại du nhập dòng truyền thừa Theravada.
Trước thế kỷ XIII, nơi đây chịu sự kiểm soát bởi các vương quốc của người Môn, Khmer và
vương quốc Srivijaya ở Java. Phật giáo truyền vào Thái Lan từ thế kỷ thứ III trước Công
Nguyên, sau lần kết tập kinh điển của vua Ashoka. Vào năm 757, đế chế Srivijaya kiểm soát
vùng bán đảo Malay, trong đó có miền Nam Thái Lan ngày nay. Phật giáo Mahayana được
truyền vào Nam Thái Lan theo con đường này. Đến thế kỷ XI, Phật giáo Mahayana lại
truyền vào vùng đất Thái Lan từ đế chế Angkor dưới vương triều Suryavarman. Trong khi đó
vào năm 1057, Anuruddha Minsaw (Anawratha) trở thành vị vua quyền lực của Pagan
(Myanmar ngày nay), mở rộng sức ảnh hưởng tại miền Bắc và Trung Thái Lan (Chiangmai,
Lopburi, Nakhon Pathom). Và Pagan giai đoạn này theo truyền thống Phật giáo Theravada.
Như vậy, sau thiên niên kỷ thứ nhất, lãnh thổ Thái Lan đang chịu ảnh hưởng của các thế lực
chính trị lớn ở Đông Nam Á bấy giờ là Srivijaya, Angkor và Pagan, cùng tồn tại các truyền
thống Phật giáo Theravada và Mahayana. Sự thành lập các nhà nước của dân tộc Thái thế
kỷ XIII đánh dấu quá trình chuyển biến lịch sử Phật giáo Thái Lan, thống nhất theo con
đường Theravada.
II. Phật giáo ở Việt Nam https://thuvienhoasen.org/a14322/anh-
huong-phat-giao-trong-doi-song-nguoi-viet
1. Du nhập vào Việt Nam
Vì có địa hình nằm giữa hai nước rộng lớn là Ấn Độ và Trung Hoa, Việt Nam
đã chịu ảnh hưởng nhiều về văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của hai nền văn
minh ấy. Cụ thể là Phật giáo, các nhà sư du nhập vào Việt Nam bằng hai con
đường là từ phía Bắc xuống bằng đường bộ và từ phía Nam lên bằng được
thuỷ. Trong đó, con đường truyền giáo từ Trung Hoa là con đường chính vì
cường quốc này đã đô hộ Việt Nam gần một ngàn năm dài.
Dựa vào những thông tin đó có thể nói rằng đạo Phật du nhập đầu tiên sang
Việt Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III.
Đạo Phật được cho rằng đã xuất hiện và được truyền vào Việt Nam từ rất sớm
khoảng từ cuối thế kỉ thứ II đến đầu thế kỉ thứ III Tây Lịch qua 2 con đường Hồ Tiêu
và Đồng Cỏ dựa trên các tài liệu, lập luận khoa học của nhiều đọc giả và nghiên cứu
a) Du nhập qua con đường Hồ Tiêu:
-Con đường Hồ Tiêu(Chemi des espices): là đường biển xuất phát từ các vùng hải
cảng Nam Ấn qua Sri Lanka, Indonesia, Việt Nam,.. lợi dụng được luồng gió thổi
định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam
Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán hàng bằng những con
thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân thường cung
thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ
đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.
-Lịch sử đã chính thức xác nhận năm 240 trước Tây Lịch, Mahoda - con vua A Dục
(Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam.
-Sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3(triều đại thứ 18 Vua Hùng từ
TCN 2879-258) được chứng tỏ qua dữ kiện và tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái
với câu chuyện của công chúa Tiên Dung(con gái Vua Hùng thứ 3) lấy chồng là
Đồng Tử và cả hai cùng lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một
hôm, bỗng Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây đã
gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Và cũng nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên
Dung đã biết đến Đạo Phật.
- "Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo
tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật đã
được trực tiếp truyền vào nước ta" trích từ bài nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi thuộc
viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng.
-Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và
Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Việt Nam
vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc
- Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm
Thiên (542-607 TL) đối thoại với Tùy Cao Đế (?-604 TL): "Một phương Giao Châu,
đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông (Trung Hoa) chưa có,
mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15
quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương
Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó"
- Các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng thế kỉ thứ hai đến thế kỉ thứ 3
theo sử chép gồm: Ma Ha Kỳ vực, Khâu Đà La (188 TL) người Ấn Độ hay Trung Á;
Mâu Bác (165-170 TL) người Trung Hoa; Khương Tăng Hội (200-247 TL) người Ấn
Độ; Chi Cương Lương (?-264 TL) người xứ Nhục Chi. Đây là những vị sư được ghi
lại tên tuổi, kỳ thực nhưng không phải phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam.
Từ thế kỉ thứ ba trước Tây Lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch đã có nhiều tăng sĩ
đặt chân đến hoằng pháp tại VN, nên Pháp sư Đàm Thiên chỉ dẫn phần giới hạn và
căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác.
-> Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt Nam chứ không thông qua Trung
Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh
rằng Đạo Phật cũng được truyền tới VN qua con đường Đồng Cỏ.
b) Du nhập qua con đường Đồng Cỏ :
-Con đường Đồng Cỏ(Chemin des Steppes): đường bộ hay còn gọi là con đường tơ
lụa nối liền Đông Tây, xuất phát từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung
Á, một nhánh của con đường đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và sa mạc
Trung Á tới Lạc Dương bằng lạc đà.
-Cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) trích: "Các thương nhân xuất phát
từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông
Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng
Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…)
chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của
vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập
trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con
đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ
An".
-Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên quan đến sự
giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử
còn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo Việt Nam
thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh
điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như
Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn đông,
trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana
-Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý kiến
trong quyển lịch sử Phật Giáo Thế Giới.
-Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai
vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật
Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền
giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê
Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn
hiện nay (cách Hải Phòng khoảng 12km)"
-> Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng
những phương tiện hòa bình, không đổ máu.
2. Phật giáo Việt Nam phát triển qua các thời đại (4 thời đại):
Từ đầu công nguyên đến hết là giai đoạn hình thành và thời kỳ Bắc thuộc
phát triển rộng khắp;
Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;
Từ đời đến cuối là giai đoạn suy thoái;Hậu Lê thế kỷ 19
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chn hưng.
3. Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V, thời kỳ du nhập hình
thành Phật giáo Việt Nam.
- Luy Lâu (Bắc Ninh), thủ phủ của Giao Chỉ trở thành trung tâm Phật Giáo lớn
nhất trong vùng nhờ sự nổ lực truyền giáo của các tăng Ấn Độ. Xuất hiện
hình Phật Giáo Việt Nam hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu cũng với sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La. Phật
Giáo Việt Nam đã sớm bắt rễ Giao Châu do sự việc ngài Mâu Bác theo mẹ từ
Trung Quốc sang Giao Châu từ nhỏ, đã viết bài “Lý hoặc Luận” và đã dịch một số
kinh sách chứng tỏ đã học Phật Giáo tại Giao Châu nên Phật Giáo Giao Châu đã
phát triển khá mạnh mẽ, ít nhất là vào nửa đầu thế kỉ thứ III Tây Lịch.
- Vào thế kỉ thứ II, sự thâm nhập của Phật Giáo đã vào ở một giai đoạn mới: hình
thành nhiều tăng đoàn; việc hành đạo đi vào tổ chức; các tăng bắt đầu dịch
kinh; chùa chiền cũng được xây cất. Tuy nhiên, sự hành đạo cũng gặp một ít khó
khăn từ những người ủng hộ Khổng, Lão..
- Ở thế kỉ thứ III, có 3 nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng pháp tại Giao Châu
các ngài Khương Tăng Hội(gốc người Sogdiane); ngài Chi Cương Lương
Tiếp(người xứ Nhục Chi) ngài Ma Ha Vực(người Ấn Độ). Vào thời này,
Niết bàn đã là mục đích của người xuất gia.
- Đến thế kỉ thứ V,hai thiền sư xuất hiện Đạt Ma Đề Bà(Ohardema) và Huệ
Thắng(người Việt Nam). Thiền sư Đạt Ma Đề người Ấn Độ đến Giao Châu
vào giữa thế kỉ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Cũng do được truyền
từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu kỉ nguyên Tây lịch, nên danh xưng
Buddha(Bất Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt
Bụt.
http://chuavn.orgfree.com/8a.htm
http://dongtac.hncity.org/spip.php?article16
https://thuvienphatviet.com/tran-tien-dat-dac-diem-cua-phat-giao-viet-nam-giai-
doan-dau-cong-nguyen-den-the-ky-x-sau-cong-nguyen/
2. Phật giáo VN từ thế kỷ thứ VI đến hết
thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển
Đâygiai đoạn thời kì Bắc thuộc, bước sang thời kỳ này, Phật giáo Trung
Quốc càng được lan truyền rộng rãi vào nước ta dần thay thế vị trí của Phật
giáo Nam Truyền.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa ba tông phái được truyền vào Việt
Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông.
a/ Thiền Tông :
tông phái hay đúng hơn một pháp môn tu tập từ thời Đức Phật
Thích Ca rồi truyền xuống. Đến năm 520 Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đến Trung Hoa để
hoằng dương Phật pháp. Tại nơi đây, Thiền Tông đã được hình thành nhanh
chóng hưng thịnh.
Thiền môn pháp với chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu
theo pháp môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu khả năng trí tuệ,
do vậy chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu.
Có tất thảy 3 dòng thiền của Thiền Tông được lưu truyền rộng rãi trong giai đoạn
này.
- Dòng thiền thứ nhất được Tổ Vinitaruci sáng lập. Ngài đến Việt Nam
vào năm 580, tại chùa Pháp Vân (nay Thuận Thành Bắc) để
hoằng pháp truyền cho tổ thứ hai ngài Pháp Hiền (người Việt
Nam). Đây dòng thiền tích cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ
được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời
sống thực tế đơn giản của quần chúng nghèo khổ Việt Nam. Dòng
thiền này truyền được 19 thế hệ.
- Dòng thiền thứ hai là thiền phái Vô Ngôn Thông. Đây là thiền phái chịu
ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất gần gũi
với đời sống hội, hòa nhập vào đời sống người dân Việt trong khi
vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình. Thiền phái này
truyền được 17 thế hệ.
- Dòng thiền thứ ba là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường
(người Trung Hoa) sáng lập, ngài vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành,
được vua Lý Thánh Tông (1054-1072) giải phóng khỏi kiếp sống tù đày
vua cho lập đạo tràng tại chùa Khai Quốc ngay kinh thành Thăng
Long (1069) đệ tử theo học rất đông, trong đó cả chính vua
Thánh Tông. Thiền phái này khuynh hướng thiền tông trí thức
văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần chúng chỉ ảnh
hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh hướng văn học.
Dòng thiền này truyền được 6 thế hệ.
b/ Tịnh Độ Tông
Tịnh Độ Tông chủ trương phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài và cũng
pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau do Đức Phật truyền
giáo. Sự giúp đỡ trong việc truyền giáo khai sáng đó còn cho thấy bản thân
của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm
những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên niệm danh hiệu Phật để đạt
được bình yên trong tâm hồn, hành giả trong lúc niệm Phật phải hình dung về thế
giới Cực lạc để tâm mình hướng tới. Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên
Tịnh Độ Tông tông phái phổ biến khắp đất nước Việt Nam. Tượng Phật A-Di-
Đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đờiphổ biến Việt Nam. Điển hìnhpho
tượng Phật A-Di-Đà bằng đá, cao gần 2m, thờ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du,
Tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Thánh Tông năm 1057. Đây một
bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Độ Tông đầu tiên ở Việt Nam.
c/ Mật tông
một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể những mật ngữ,
mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật
chủ xướng hai bộ kinh chính là Kinh Đại NhậtKinh Kim Cang. Mật tông
truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng
hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế, cầu
đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu
phát triển ràng Việt Nam, chỉ tùy thuộc vào sự thọ trì của từng chùa
của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.
3.Phật Giáo VN từ thế kỷ thứ đến hết XI
thế kỷ thứ XIII, thời kỳ cực thịnh :
Đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam mới chấm dứ thời kì Bắc thuộc với điểm mốc
chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 939. Chính trong thế kỷ này Đạo Phật
mới thực sự hưng thịnh những đóng góp tích cực cho đất nước. Năm 971
vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Thiền
sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài Khuông Việt Thái Sư,
chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự.
Cũng chính trong thế kỷ này vua Đại Hành đã mời thiền Pháp Thuận
thiền Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi làm cố vấn chính sự. Các
thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ giúp vua
Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp. Đó chính là Phật Giáo của 3 đời Ngô, Đinh, Tiền Lê.
Sau sự kiện Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, đánh dấu sự
chuyển tiếp từ triều Lý sang thời Trần, thì Phật Giáo nước ta ngày càng phát triển
cực thịnh. Lúc này, xuất hiện thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258-
1305) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ
Trung Thượng Sĩ, một thiền sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần. Sau khi xuất gia vào năm
1299 với đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu núi Yên Tử (tỉnh Quảng
Ninh) và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Việt Nam đầu
tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật Giáo Ấn-
Hoa. Thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền tổng hợp được ba yếu tố đặc thù của
xã hội. Tc Lâm đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện cho nông dân và Huyền
Quang đại diện cho nho sĩ. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc thù của thiền phái
Trúc Lâm, kể từ đó đưa Đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo
hội được tổ chức chặt chẽ, củng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc.
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn cực
thịnh. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các
thiền đời Lý, nhưng Phật Giáo một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm.
Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính
sách bình dân, thân dân dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần quốc giáo, mọi
người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo.
rất nhiều chùa tháp qui to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây
dựng trong thời Trần như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng,
chùa Một Cột,... Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo Việt
Nam thời Lý Trần sách vở Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4 công trình nghệ
thuật lớn mà họ gọi là An-Nam Tứ Đại Khí. Đó là :
- Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm : chùa Quỳnh Lâm Đông Triều
(Quảng Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, pho tượng Di
Lặc bằng đồng theo văn bia nay vẫn còn giữ được trong chùa
thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một tòa
| 1/22

Preview text:

I. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo 1. Bối cảnh lịch sử
Link: h ttps://luatminhkhue.vn/phat-giao-la-gi-nguon-goc-dia-ly-va-lich-su-cua-phat-giao-la-gi.aspx
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ 6 trước Công nguyên khi đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
là người đầu tiên sáng lập ra đạo Phật. Đức Phật xuất thân từ một Thái tử ở Ấn Độ có tên là
Tất Đạt Đa (Shidartha) thuộc dòng họ Thích Ca (Sakya). Mặc dù Đức Phật đang có cuộc
sống sung túc và vương giả nhưng ngài đã từ bỏ ngai vàng để xuất gia tìm đạo để đi tìm ra
câu trả lời cho câu hỏi “ Làm thế nào để con người thoát khỏi khổ, đau và sinh tử” và tìm ra
căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân
hồi. Cuối cùng, Thái tử đến ngòi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không
thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49
ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh
giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni vào ngày 8 tháng 12 năm đó Đức Phật chỉ 31 tuổi.
2.Phân đoạn các thời kỳ Phật giáo Link: B
. Phân đoạn các thời kỳ Phật giáo - QuangDuc.comhttps://quangduc.com › b-phan-doan-cac- thoi-ky-phat-...
Tính từ lúc xuất hiện thì Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm và đã trải qua rất nhiều sự thay
đổi. Cho đến hiện nay, tôn giáo này được chia thành bốn thời kỳ. -
Đầu tiên là thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ, còn được gọi là giai đoạn Tiểu thừa. Thời
kỳ thứ hai được đánh dấu bởi sự phát triển của giáo lý Đại thừa. Thời kỳ thứ ba là
sự phát triển của Mật tông và Thiền tông. Ba thời kỳ này kéo dài đến khoảng thế kỷ
11. Sau đó Phật giáo không còn sự thay đổi nội tại nào đáng kể nữa mà chỉ tiếp tục
duy trì. Thời kỳ thứ tư được cho là khoảng thời gian 1000 năm gần đây. -
Về mặt địa lý, Phật giáo ở thời kỳ đầu giới hạn trong phạm vi Ấn Độ. Sang đến thời
kỳ Đại thừa, Phật giáo bắt đầu cuộc xuất hiện tại Đông Á, và bản thân lại cũng chịu
ảnh hưởng đáng kể bởi những tư tưởng bên ngoài Ấn Độ. Trong suốt thời kỳ thứ ba,
có nhiều trung tâm phát huy một cách sáng tạo các tư tưởng Phật giáo được hình
thành bên ngoài Ấn Độ, đặc biệt là ở Trung Hoa. -
Về mặt triết học, thời kỳ Tiểu thừa tập trung vào những vấn đề tâm lý, thời kỳ Đại
thừa là những vấn đề về bản chất của sự hiện hữu, và thời kỳ thứ ba là về các vấn
đề vũ trụ. Thời kỳ đầu chuyên chú đến việc cá nhân cố gắng tự nhiếp phục tâm ý
mình, và sự phân tích tâm lý là phương tiện được dùng để đạt đến sự chế ngự tâm.
Thời kỳ thứ hai chuyển sang bản chất tự nhiên của thực thể,1 hay được gọi là tự
tánh; và sự nhận thức của tâm về tự tánh của vạn hữu được xem là yếu tố quyết
định để đạt đến sự giải thoát. Thời kỳ thứ ba xem việc điều chỉnh tự thân cho hài hòa
với vũ trụ là đầu mối để đạt đến giác ngộ, và sử dụng những phương thức có tính
cách mầu nhiệm, huyền bí từ thời cổ xưa để làm được điều đó. -
Trên phương diện giải thoát, các thời kỳ này khác nhau về quan niệm đào luyện con
người. Trong thời kỳ đầu, lý tưởng mà sự tu tập nhắm đến là thánh quả A-la-hán,
nghĩa là bậc đã dứt trừ hết ái nhiễm, mọi dục vọng đều dứt sạch, và không còn phải
tái sinh trong luân hồi. Thời kỳ thứ hai, mẫu mực được hướng đến là Bồ Tát, người
phát nguyện cứu độ toàn thể sinh linh và tin tưởng chắc chắn vào việc tự mình có
thể đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn để trở thành một vị Phật. Thời kỳ thứ ba, lý tưởng
được nhắm đến là các vị Tất-đạt, người đạt đến sự hòa hợp hoàn toàn với vũ trụ,
không còn bất cứ giới hạn nào, và hoàn toàn tự tại trong sự vận dụng những năng
lực của vũ trụ trong tự thân cũng như đối với ngoại cảnh. -
Những tôn giáo khác có lẽ cũng đều có những thay đổi đáng chú ý như vậy, nhưng
điều đặc biệt của Phật giáo là những thay đổi trong mỗi một giai đoạn mới đều được
hỗ trợ bởi sự hình thành một loại kinh tạng mới, mặc dù được viết ra nhiều thế kỷ
sau khi Phật nhập diệt, nhưng vẫn được xem là lời Phật dạy. Kinh tạng của thời kỳ
đầu, đến thời kỳ thứ hai được bổ sung thêm rất nhiều kinh điển Đại thừa, và đến thời
kỳ thứ ba là một số lượng khổng lồ các kinh Tan-tra. Tất cả những kinh sách xuất
hiện về sau này đều vô danh, theo nghĩa là tác giả của chúng không được biết đến.
Và việc cho rằng tất cả những kinh sách này đều do chính miệng Phật thuyết sẽ có
liên quan đến một quan niệm khá linh hoạt về đức Phật.
-
Thực ra, trong một quãng thời gian bất kỳ nào đó, những phát triển mới không phải
hoàn toàn thay thế hết những cái cũ. Những trường phái cũ vẫn song song tồn tại
với những trường phái mới, mặc dù thường phải chịu ảnh hưởng thay đổi rất đáng
kể. Phật giáo nguyên thủy trong thời kỳ thứ nhất, khi bước sang thời kỳ thứ hai đã
hấp thụ rất nhiều giáo lý của Đại thừa. Và sự tiếp xúc giữa các kinh Tan-tra với kinh
điển Đại thừa đã dẫn đến một sự tổng hợp diễn ra tại các trường đại học Bengal và
Orissa suốt thời đại Pla. Tập sách này chỉ tập trung vào những đột biến mang tính
sáng tạo, và điều đó sẽ là định hướng trong suốt quá trình hình thành tập sách.
-
Sự phân chia lịch sử Phật giáo thành những giai đoạn 500 năm không chỉ phù hợp
với các sự kiện, mà còn được đề cập đến trong nhiều tác phẩm Phật học ra đời vào
khoảng đầu Công nguyên. Năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là 500 năm, được kể ra như
để đánh dấu sự suy yếu liên tục của giáo lý theo thời gian. Và người ta cho rằng,
giống như vạn vật ở đời, tăng đoàn Phật giáo và giáo lý rồi cũng sẽ phải chịu sự suy
tàn. Trong mỗi thời kỳ, phần tâm linh sẽ sa sút dần. Và sau 2.500 năm, ngọn lửa tâm
linh được dự báo là sẽ đi dần đến chỗ sắp tắt hẳn. Cho dù quan sát thực tế có
chứng minh được sự suy thoái theo như dự đoán này hay không, nó vẫn có một ảnh
hưởng mạnh mẽ về mặt tinh thần đối với tín đồ Phật giáo trong những thời đại tiếp
theo sau đó, và chúng ta sẽ vẫn còn nghe nhắc lại điều này nhiều lần nữa. Câu
chuyện về lịch sử Phật giáo quả thật không chỉ toàn một vẻ huy hoàng, mà còn có cả những bi thương nữa.
3. Thời kỳ tiêu biểu:
● Phật giáo ở Ấn Độ:
Phật giáo đại thừa ở Ấn Độ:
Đầu Công nguyên, một tư tưởng theo chiều hướng mới hình thành trong Phật giáo,
với cái tên là Phật giáo Đại thừa. Bộ phái này được gây dựng nên bởi những sự suy
kiệt của giáo lý cũ. Phật giáo Đại thừa được tóm tắt trong năm miêu tả như sau:
● Về mục đích, có sự thay đổi từ lý tưởng A-la-hán sang lý tưởng Bồ Tát.
● Một phương thức giải thoát mới được vạch ra, trong đó từ bi được xếp ngang với trí
huệ, và được đánh dấu bởi sự tiến bộ dần qua sáu ba-la-mật.
● Đức tin được đặt vào những đối tượng mới, bằng cách đưa ra một loạt các vị thánh,
hoặc tin vào con người hơn là thần thánh.
● Phương tiện thiện xảo là một đức tính hoàn toàn mới, trở nên thiết yếu cho hàng
thánh giả và thậm chí còn được xem trọng hơn cả trí huệ, vốn trước kia vẫn được
xem là đức tính cao quý nhất.
● Một phần giáo lý mạch lạc về bản thể được vạch ra, giải quyết những vấn dề như tánh không, chân như.
Phật giáo Tiểu thừa ở Ấn Độ:
Mặc dù Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh mẽ, Phật giáo Tiểu thừa vẫn duy trì được
bản sắc riêng của họ. Trong đó họ có vay mượn trực tiếp các vị thần trong Phật giáo
Đại thừa nhưng vẫn giữ nét riêng cho mình. Điển hình là về quan niệm Bồ Tát đã trở
nên nổi bật trong những câu chuyện của họ. Thêm vào đó, một loạt mười pháp ba-
la-mật bên cạnh sáu ba-la-mật của Đại thừa. Đặc biệt những người theo Tiểu thừa
lại không bao giờ từ bỏ niềm tin của họ và vẫn tiếp tục phát triển giáo lý của riêng họ,
chủ yếu tập trung tìm hiểu thêm hàm nghĩa hợp lý trong bộ A-tỳ-đạt-ma của họ.
● Phật giáo ở Trung Hoa https://giacngo.vn/su-du-nhap-cua-phat-giao-vao-thoi-ky-dau- trung-quoc-post54628.html
https://nghiencuuquocte.org/2019/05/18/anh-huong-phat-giao-van-hoa-trung-quoc/
https://phatgiaohanoi.vn/khai-quat-lich-su-phat-giao-trung-quoc.html
Phật giáo ở Trung Hoa được truyền vào một cách tự nhiên vì Trung Hoa đã chinh
phục vùng đất Trung Á ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Thời gian được cho là
khởi đầu là từ dưới đời nhà Hán dần dần được truyền rộng ra các nơi. Mãi cho đến
khi nhà Hán sụp đổ, Phật giáo mới tự mình trở thành một tôn giáo mới và chính thức
ở Trung Hoa, trong khoảng năm 221 đến năm 589.
Phật giáo ở Trung Hoa được các vị Vua coi trọng vì thấy các tín đồ Phật giáo yêu chuộng hoà bình.
Trong suốt quá trình phát triển ở Trung Hoa, Phật giáo đã có những bộ Kinh kinh
điển như: Diệu pháp liên hoa, kinh Duy-ma-cật và kinh Đại Bát Niết-bàn.
Ngày nay, Phật giáo là tôn giáo được thể chế hóa lớn nhất ở Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, ước tính có khoảng 185 đến 250 triệu tín đồ, bao gồm cả 3 truyền thống
Phật giáo lớn là Phật giáo Bắc truyền (có số lượng tín đồ lớn nhất, phân bố ở hầu
hết lãnh thổ), Phật giáo Nam truyền (chủ yếu ở Vân Nam) và Phật giáo Mật truyền (chủ yếu ở Tây Tạng).
Có nhiều sự khác nhau khi bàn về niên đại du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Chủ yếu có 7 thuyết:
1. Thuyết Tây phương Thánh giả của Khổng Tử: Thiên “Trọng Ni” trong “Liệt Tử” có
dẫn lời của Khổng Tử rằng: “Phương Tây có bậc Thánh, không trị mà không loạn,
không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự làm”. Theo thuyết này, Khổng Tử đã biết đến Phật giáo.
2. Thuyết Thích Lợi Phòng đem Phật giáo truyền vào: Đời vua Tần Thuỷ Hoàng
năm thứ IV ( năm 243 trước Tây lịch ), có vị Sa môn tên là Thích Lợi Phòng đem
kinh Phật từ Tây Vực truyền vào Trung Quốc. Vua Tần Thuỷ Hoàng cho việc đó là
quái gở, liền bắt đem bỏ ngục, nhưng đến nửa đêm vua thấy có người thân vàng
cao một trượng sáu thước tới phá ngục cứu ra. Vì thế vua rất sợ hãi và dập đầu kính lễ.
3. Thuyết Trương Khiên đã nghe thấy Phật giáo: Sách Nguỵ Thư chép: “ Đời Võ Đế
nhà Tiền Hán, có tướng Trương Khiên phụng mệnh vua đi sứ sang Tây Vực về tâu
rằng: “ ở ấn Độ có đạo Phù Đồ
”. ( Phật giáo )
4. Thuyết lễ bái hình người vàng: Năm 121 trước Tây lịch, đời vua Võ Đế nhà Tiền
Hán năm thứ II, vua sai tướng Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô, bắt được hình
người bằng vàng đem về dâng vua. Nhà vua bèn đem thờ trong cung Cam Tuyền để
sớm tối đốt hương lễ bái.
5. Thuyết Lưu Hướng nói đến Phật điển: Đời vua Thành Đế ( sau đời vua Võ Đế nhà
Tiền Hán 34 năm ), vua sai Lưu Hướng chỉnh đốn lại sách vở của triều đình. Lưu
Hướng đã thấy bộ “ Phật Tổ thống kỷ”. Có một đoạn văn dẫn chứng của Lưu Hướng
trong cuốn Liệt Truyện rằng: “ Tôi kiểm điểm thư tàng sưu tầm đại sử để soạn liệt
tiên đồ. Kể từ vua Hoàng Đế trở xuống cho tới nay có hơn 700 người được đạo tiên,

sau khi xét định thực hư, được 146 người. Trong số đó có hơn 70 người đã thấy kinh Phật”.
6. Thuyết khẩu truyền Phật giáo của Y Tồn: Niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu ( thế kỷ
thứ II trước Công Nguyên ) đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán có Y Tồn, sứ giả nước Đại
Nhục Chi tới đem Phật giáo truyền miệng cho Trần Cảnh Hiên.
7. Thuyết niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ X: Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ X ( năm 67
Tây lịch ), đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán, có một đêm vua nằm mộng thấy người
vàng, có hào quang rực rỡ từ phương Tây tới. Vì vậy, nhà vua đoán biết có Phật
giáo ở phương Tây, vua liền sai tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Trần Cảnh.. ( 18
người ) sang Tây Vực để thỉnh tượng Phật. Họ vâng lệnh vua đi nửa đường thì gặp
hai bậc Phạn Tăng là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan chở kinh tượng bằng
ngựa trắng đi về phía Đông. Họ liền mời hai Ngài đến Trung Quốc. Vua Minh Đế liền
sắc dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm nơi dịch kinh điển cho hai Ngài.
● Phật giáo ở Đông Nam Á https://tapchinghiencuuphathoc.vn/nhung-con-duong-du-
nhap-phat-giao-o-dong-nam-a.html
Những hoạt động thuốc địa hoá của người Ấn Độ là kết quả của việc Phật giáo được truyền
đến Đông Nam Á. Dần về sau, từ thế kỷ thứ 3, vùng Đông Nam Á cũng được biết như một
“Ấn Độ mở rộng”, ngày càng bị thống trị bởi những người gốc Ấn và bị chi phối không chỉ
nền văn hoá - tín ngưỡng, tôn giáo.
Một số mốc thời gian Phật giáo được truyền vào Đông Nam Á: -
Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa được truyền vào Miến Điện vào thế kỷ 5 và 6. -
Phật giáo du nhập vào Indonesia vào thế kỷ thứ 5. -
Phật giáo du nhập vào Việt Nam tứ thế kỷ thứ II sau Công nguyên. -
Phật giáo truyền vào Thái Lan từ thế kỷ thứ III trước Công Nguyên
Phật giáo từ Ấn Độ, nhờ sự ủng hộ của hoàng đế Ashoka, các đoàn truyền giáo được cử
đến các nước thân cận để truyền bá tôn giáo, truyền theo các con đường khác nhau và
truyền vào Đông Nam Á từ thể kỷ thứ III trước Công Nguyên, gắn bó với đời sống chính trị-
xã hội của một số nước Đông Nam Á. Đến thế kỷ XIII-XIV, Phật giáo trở thành tôn giáo lớn
nhất ở 2 quốc gia ở Đông Nam Á là Sukhothai (Thái Lan) và Đại Việt (Việt Nam). Tuy nhiên,
do những biến động lịch sử nên ở Thái Lan Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất nhưng ở Việt
Nam, sau thời kỷ đỉnh cao là thế kỷ XIV, Phật giáo trở nên ít hơn, không còn lớn mạnh nữa. *Việt Nam:
Ở miền Bắc Việt Nam, Phật giáo có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều kết quả nghiên cứu
cho thấy, từ thế kỷ thứ II sau Công Nguyên, miền Bắc Việt Nam đã hình thành một trung tâm
Phật giáo lớn tại Luy Lâu. Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ vào và trung tâm Luy Lâu đã phát
triển trước các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương (Trung Hoa). Tuy nhiên từ thế kỷ thứ V
trở về sau, Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam lại ngày càng chịu ảnh hưởng của Mahayana
Trung Hoa. Hai dòng thiền thành lập ở miền Bắc Việt Nam vào thời kì Bắc thuộc là Tì Ni Đa
Lưu Chi (Vinitaruci) và Vô Ngôn Thông đều xuất xứ từ Trung Hoa. Đây là bước chuyển quan
trọng của Phật giáo Việt Nam, đánh dấu sự chuyển biến từ việc được truyền thừa Phật giáo
Ấn Độ sang Phật giáo Trung Hoa.
Đến thời Lý, Phật giáo càng chiếm được địa vị quan trọng trong đời sống chính trị xã hội Đại
Việt, khi trở thành lực lượng ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi sau cái chết của Lê Long Đỉnh
vào năm 1009. Phật giáo thời Lý còn hình thành nên dòng Thiền Thảo Đường do nhà sư
Thảo Đường sáng lập vào năm 1069. Dòng Thiền này chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc
không xuất gia như: vua Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và các đại thần như:
Thái phó Đỗ Anh Vũ, Thái phó Đỗ Thường...10 Như vậy đến triều Lý, Phật giáo Mahayana
đã phát triển với 3 thiền phái đều xuất phát từ Trung Hoa: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường.
Bên cạnh Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông của Mahayana cũng du nhập vào Việt
Nam và xuất hiện khá sớm. Nhưng trong ba tông phải này, Thiền Tông chiếm vai trò chủ
đạo, các yếu tố của Tịnh Độ và Mật Tông không phát triển thành một hệ phái riêng như ở
Trung Hoa, Nhật Bản hay Tây Tạng mà hòa quyện vào Thiền Tông. Sự phát triển của Thiền
Tông ở Đại Việt thời Lý (1009-1225) đã tạo điều kiện cho Phật giáo nước ta phát triển đến
đỉnh cao trong thế kỷ XIII-XIV. *Thái Lan:
Đều cùng một xuất phát điểm tiếp thu trực tiếp Phật giáo Ấn Độ nhưng Việt Nam tiếp thu
truyền thừa Mahayana còn Thái Lan lại du nhập dòng truyền thừa Theravada.
Trước thế kỷ XIII, nơi đây chịu sự kiểm soát bởi các vương quốc của người Môn, Khmer và
vương quốc Srivijaya ở Java. Phật giáo truyền vào Thái Lan từ thế kỷ thứ III trước Công
Nguyên, sau lần kết tập kinh điển của vua Ashoka. Vào năm 757, đế chế Srivijaya kiểm soát
vùng bán đảo Malay, trong đó có miền Nam Thái Lan ngày nay. Phật giáo Mahayana được
truyền vào Nam Thái Lan theo con đường này. Đến thế kỷ XI, Phật giáo Mahayana lại
truyền vào vùng đất Thái Lan từ đế chế Angkor dưới vương triều Suryavarman. Trong khi đó
vào năm 1057, Anuruddha Minsaw (Anawratha) trở thành vị vua quyền lực của Pagan
(Myanmar ngày nay), mở rộng sức ảnh hưởng tại miền Bắc và Trung Thái Lan (Chiangmai,
Lopburi, Nakhon Pathom). Và Pagan giai đoạn này theo truyền thống Phật giáo Theravada.
Như vậy, sau thiên niên kỷ thứ nhất, lãnh thổ Thái Lan đang chịu ảnh hưởng của các thế lực
chính trị lớn ở Đông Nam Á bấy giờ là Srivijaya, Angkor và Pagan, cùng tồn tại các truyền
thống Phật giáo Theravada và Mahayana. Sự thành lập các nhà nước của dân tộc Thái thế
kỷ XIII đánh dấu quá trình chuyển biến lịch sử Phật giáo Thái Lan, thống nhất theo con đường Theravada.
II. Phật giáo ở Việt Nam https://thuvienhoasen.org/a14322/anh-
huong-phat-giao-trong-doi-song-nguoi-viet 1. Du nhập vào Việt Nam
Vì có địa hình nằm giữa hai nước rộng lớn là Ấn Độ và Trung Hoa, Việt Nam
đã chịu ảnh hưởng nhiều về văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của hai nền văn
minh ấy. Cụ thể là Phật giáo, các nhà sư du nhập vào Việt Nam bằng hai con
đường là từ phía Bắc xuống bằng đường bộ và từ phía Nam lên bằng được
thuỷ. Trong đó, con đường truyền giáo từ Trung Hoa là con đường chính vì
cường quốc này đã đô hộ Việt Nam gần một ngàn năm dài.
Dựa vào những thông tin đó có thể nói rằng đạo Phật du nhập đầu tiên sang
Việt Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III.
Đạo Phật được cho rằng đã xuất hiện và được truyền vào Việt Nam từ rất sớm
khoảng từ cuối thế kỉ thứ II đến đầu thế kỉ thứ III Tây Lịch qua 2 con đường Hồ Tiêu
và Đồng Cỏ dựa trên các tài liệu, lập luận khoa học của nhiều đọc giả và nghiên cứu
a) Du nhập qua con đường Hồ Tiêu:
-Con đường Hồ Tiêu(Chemi des espices): là đường biển xuất phát từ các vùng hải
cảng Nam Ấn qua Sri Lanka, Indonesia, Việt Nam,.. lợi dụng được luồng gió thổi
định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam
Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán hàng bằng những con
thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân thường cung
thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ
đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.
-Lịch sử đã chính thức xác nhận năm 240 trước Tây Lịch, Mahoda - con vua A Dục
(Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam.
-Sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3(triều đại thứ 18 Vua Hùng từ
TCN 2879-258) được chứng tỏ qua dữ kiện và tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái
với câu chuyện của công chúa Tiên Dung(con gái Vua Hùng thứ 3) lấy chồng là
Đồng Tử và cả hai cùng lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một
hôm, bỗng Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây đã
gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Và cũng nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên
Dung đã biết đến Đạo Phật.
- "Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo
tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật đã
được trực tiếp truyền vào nước ta" trích từ bài nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi thuộc
viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng.
-Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và
Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Việt Nam
vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc
- Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm
Thiên (542-607 TL) đối thoại với Tùy Cao Đế (?-604 TL): "Một phương Giao Châu,
đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông (Trung Hoa) chưa có,
mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15
quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương
Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó"
- Các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng thế kỉ thứ hai đến thế kỉ thứ 3
theo sử chép gồm: Ma Ha Kỳ vực, Khâu Đà La (188 TL) người Ấn Độ hay Trung Á;
Mâu Bác (165-170 TL) người Trung Hoa; Khương Tăng Hội (200-247 TL) người Ấn
Độ; Chi Cương Lương (?-264 TL) người xứ Nhục Chi. Đây là những vị sư được ghi
lại tên tuổi, kỳ thực nhưng không phải phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam.
Từ thế kỉ thứ ba trước Tây Lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch đã có nhiều tăng sĩ
đặt chân đến hoằng pháp tại VN, nên Pháp sư Đàm Thiên chỉ dẫn phần giới hạn và
căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác.
-> Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt Nam chứ không thông qua Trung
Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh
rằng Đạo Phật cũng được truyền tới VN qua con đường Đồng Cỏ.
b) Du nhập qua con đường Đồng Cỏ :
-Con đường Đồng Cỏ(Chemin des Steppes): đường bộ hay còn gọi là con đường tơ
lụa nối liền Đông Tây, xuất phát từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung
Á, một nhánh của con đường đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và sa mạc ở
Trung Á tới Lạc Dương bằng lạc đà.
-Cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) trích: "Các thương nhân xuất phát
từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông
Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng
Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…)
chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của
vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập
trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con
đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
-Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên quan đến sự
giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử
còn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo Việt Nam
thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh
điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như
Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn đông,
trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana
-Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý kiến
trong quyển lịch sử Phật Giáo Thế Giới.
-Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai
vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật
Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền
giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê
Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn
hiện nay (cách Hải Phòng khoảng 12km)"
-> Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng
những phương tiện hòa bình, không đổ máu.
2. Phật giáo Việt Nam phát triển qua các thời đại (4 thời đại):
● Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
● Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;
● Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
● Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.
3. Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V, thời kỳ du nhập và hình
thành Phật giáo Việt Nam.
- Luy Lâu (Bắc Ninh), thủ phủ của Giao Chỉ trở thành trung tâm Phật Giáo lớn
nhất trong vùng nhờ sự nổ lực truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Độ. Xuất hiện mô
hình Phật Giáo Việt Nam hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu cũng với sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La. Phật
Giáo Việt Nam đã sớm bắt rễ ở Giao Châu do sự việc ngài Mâu Bác theo mẹ từ
Trung Quốc sang Giao Châu từ nhỏ, đã viết bài “Lý hoặc Luận” và đã dịch một số
kinh sách chứng tỏ đã học Phật Giáo tại Giao Châu nên Phật Giáo Giao Châu đã
phát triển khá mạnh mẽ, ít nhất là vào nửa đầu thế kỉ thứ III Tây Lịch.
- Vào thế kỉ thứ II, sự thâm nhập của Phật Giáo đã vào ở một giai đoạn mới: hình
thành nhiều tăng đoàn; việc hành đạo đi vào tổ chức; các tăng sĩ bắt đầu dịch
kinh; chùa chiền cũng được xây cất. Tuy nhiên, sự hành đạo cũng gặp một ít khó
khăn từ những người ủng hộ Khổng, Lão..
- Ở thế kỉ thứ III, có 3 nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng pháp tại Giao Châu
là các ngài Khương Tăng Hội(gốc người Sogdiane); ngài Chi Cương Lương
Tiếp(người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kì Vực(người Ấn Độ). Vào thời kì này,
Niết bàn đã là mục đích của người xuất gia.
- Đến thế kỉ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện là Đạt Ma Đề Bà(Ohardema) và Huệ
Thắng(người Việt Nam). Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu
vào giữa thế kỉ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Cũng do được truyền
bá từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu kỉ nguyên Tây lịch, nên danh xưng
Buddha(Bất Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt.
http://chuavn.orgfree.com/8a.htm
http://dongtac.hncity.org/spip.php?article16
https://thuvienphatviet.com/tran-tien-dat-dac-diem-cua-phat-giao-viet-nam-giai-
doan-dau-cong-nguyen-den-the-ky-x-sau-cong-nguyen/
2. Phật giáo VN từ thế kỷ thứ VI đến hết
thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển
Đây là giai đoạn thời kì Bắc thuộc, bước sang thời kỳ này, Phật giáo Trung
Quốc càng được lan truyền rộng rãi vào nước ta và dần thay thế vị trí của Phật giáo Nam Truyền.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt
Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. a/ Thiền Tông :
Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Đức Phật
Thích Ca rồi truyền xuống. Đến năm 520 Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đến Trung Hoa để
hoằng dương Phật pháp. Tại nơi đây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.
Thiền là môn pháp với chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu
theo pháp môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ,
do vậy chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu.
Có tất thảy 3 dòng thiền của Thiền Tông được lưu truyền rộng rãi trong giai đoạn này.
- Dòng thiền thứ nhất được Tổ Vinitaruci sáng lập. Ngài đến Việt Nam
vào năm 580, ở tại chùa Pháp Vân (nay là Thuận Thành Hà Bắc) để
hoằng pháp và truyền cho tổ thứ hai là ngài Pháp Hiền (người Việt
Nam). Đây là dòng thiền có tích cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ
được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời
sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ Việt Nam. Dòng
thiền này truyền được 19 thế hệ.
- Dòng thiền thứ hai là thiền phái Vô Ngôn Thông. Đây là thiền phái chịu
ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất gần gũi
với đời sống xã hội, hòa nhập vào đời sống người dân Việt trong khi
vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình. Thiền phái này
truyền được 17 thế hệ.
- Dòng thiền thứ ba là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường
(người Trung Hoa) sáng lập, ngài vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành,
được vua Lý Thánh Tông (1054-1072) giải phóng khỏi kiếp sống tù đày
và vua cho lập đạo tràng tại chùa Khai Quốc ở ngay kinh thành Thăng
Long (1069) đệ tử theo học rất đông, trong đó có cả chính vua Lý
Thánh Tông. Thiền phái này có khuynh hướng thiền tông trí thức và
văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh
hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh hướng văn học.
Dòng thiền này truyền được 6 thế hệ. b/ Tịnh Độ Tông
Tịnh Độ Tông chủ trương phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài và cũng là
pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau do Đức Phật truyền
giáo. Sự giúp đỡ trong việc truyền giáo và khai sáng đó còn cho thấy bản thân
của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm
những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên niệm danh hiệu Phật để đạt
được bình yên trong tâm hồn, hành giả trong lúc niệm Phật phải hình dung về thế
giới Cực lạc để tâm mình hướng tới. Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên
Tịnh Độ Tông là tông phái phổ biến khắp đất nước Việt Nam. Tượng Phật A-Di-
Đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Điển hình là pho
tượng Phật A-Di-Đà bằng đá, cao gần 2m, thờ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du,
Tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057. Đây là một
bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Độ Tông đầu tiên ở Việt Nam. c/ Mật tông
Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ,
mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật
chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cang. Mật tông
truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng
hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế, cầu
đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu
phát triển rõ ràng ở Việt Nam, mà chỉ tùy thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và
của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.
3.Phật Giáo VN từ thế kỷ thứ XI đến hết
thế kỷ thứ XIII, thời kỳ cực thịnh :
Đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam mới chấm dứ thời kì Bắc thuộc với điểm mốc
là chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 939. Chính trong thế kỷ này Đạo Phật
mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp tích cực cho đất nước. Năm 971
vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Thiền
sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài Khuông Việt Thái Sư,
chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự.
Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền sư Pháp Thuận và
thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi làm cố vấn chính sự. Các
thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ giúp vua Lý
Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp. Đó chính là Phật Giáo của 3 đời Ngô, Đinh, Tiền Lê.
Sau sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, đánh dấu sự
chuyển tiếp từ triều Lý sang thời Trần, thì Phật Giáo nước ta ngày càng phát triển
cực thịnh. Lúc này, xuất hiện thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258-
1305) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ
Trung Thượng Sĩ, một thiền sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần. Sau khi xuất gia vào năm
1299 với đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử (tỉnh Quảng
Ninh) và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Việt Nam đầu
tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật Giáo Ấn-
Hoa. Thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền tổng hợp được ba yếu tố đặc thù của
xã hội. Trúc Lâm đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện cho nông dân và Huyền
Quang đại diện cho nho sĩ. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc thù của thiền phái
Trúc Lâm, kể từ đó đưa Đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo
hội được tổ chức chặt chẽ, củng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc.
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực
thịnh. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các
thiền sư đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm.
Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính
sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc giáo, mọi
người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo.
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây
dựng trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng,
chùa Một Cột,... Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo Việt
Nam thời Lý Trần mà sách vở Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4 công trình nghệ
thuật lớn mà họ gọi là An-Nam Tứ Đại Khí. Đó là :
- Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm : chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều
(Quảng Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di
Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được trong chùa
thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một tòa