Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975)
Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975)với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Preview text:
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975)
I. Đảng l1nh đ3o cuộc kháng chi;n chống th>c dân Pháp xâm lược lần thứ II (9- 1945 - 7-1954)
1.1. Hoàn cảnh lịch sử sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945
Cách mạng tháng 8 ta chống:pháp (1858 trở đi), địa chủ phong kiến, nhật
lật đổ pk, giành chính quyền từ tay nhật
Thuận lợi và khó khăn sau cách mạng tháng 8 1945 Thuận lợi:
Đảng đã đấu tranh và giành được chính quyền
Nhân dân trở thành người làm chủ
Đảng trở thành đảng cầm quyền trong phạm vi cả nước sau khi lãnh đạo nhân dân giành chính quyền
Bộ máy chính quyền được xây dựng
Thế lực đồng minh và liên xô đã thắng lợi trong cuộc chiến tranh thế giới lần 2
Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển tương đối mạnh
Khó khăn:3 khó khăn cơ bản cũng là nhiện vụ phải giải quyết 3 thứ giặc Giặc đói giặc dốt giặc ngoại xâm
Chỉ thị,chủ trương nào của ta để chống l3i đói, dốt, ngo3i xâm
Chống giặc đói: tăng gia sản xuất, khuyên góp ủng hộ lập hủ gạo cứu đói,không dùng gạo
để nấu rựơu, tổ chức ngày đồng tâm,xây dựng quỹ độc lập vận động khuyên góp tuần lễ
vàng để ủng hộ cho ngân quỹ quốc gia quỹ quốc phòng, phát hàng đồng tiền giấy mới
Chống giặc dốt: tổ chức lớp “bình dân học vụ”, kêu gọi toàn dân tham gia xoá nạn mù chữ
Chống giặc ngoại xâm: nhân nhượng về kinh tế và chính trị cho chúng dùng tiền của
chúng, cung cấp lương thực, nhượng các ghế trong quốc hội không qua bầu cử, để được
độc lập về chính trị, thêm thời gian hoà bình, tránh cùng lúc đối đầu với nhiều tên kẻ thù
( thực dân pháp là kẻ thù chính của ta)
i. Tình hình quốc tế và khu vực
- Tháng 8 - 1945 cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II cơ bản kết thúc, thắng lợi thuộc về
phe đồng minh chống phát xít với vai trò quyết định của Liên Xô.
- Một loạt nước Đông Âu được Liên Xô giải phóng khỏi chủ nghĩa phát xít lựa chọn con
đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Sau đó phe chủ nghĩa xã hội dần hình thành do Liên
Xô đứng đầu trở thành hệ thống đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu.
- Do tác động tích cực và ảnh hưởng lan tỏa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
chống chủ nghĩa phát xít, đế quốc thực dân trong chiến tranh thế giới lần thứ II, phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa dâng cao.
- Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, sự thảm bại của phát xít Nhật và các thế lực tay
sai đã tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc.
- Tuy nhiên, các nước lớn, phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới trong việc
“chia lại” hệ thống thuộc địa, bắt tay, dàn xếp với nhau tiếp tục tấn công phong trào cách
mạng thế giới, trong đó có cuộc cách mạng của Việt Nam. Dù có được những mối quan hệ ban
đầu tốt đẹp với nước Mỹ và đồng minh chống phát xít, nhưng sau khi Việt Nam giành được
chính quyền tháng 8 năm 1945, vì lợi ích cục bộ của mình, các nước đồng minh chống phát xít
không ủng hộ lập trường độc lập của Việt Nam, không có nước nào công nhận Nhà nước Việt
Nam mới. Quan hệ của Đảng Cộng sản Đông Dương với các Đảng cộng sản thế giới, với
phong trào giải phóng dân tộc gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
- Trong khu vực và các nước láng giềng, các lực lượng yêu nước, cách mạng đang gặp
nhiều khó khăn do sự quay trở lại xâm lược của thực dân Pháp, dưới sự giúp đỡ của đế quốc
Anh và sự bảo trợ của phe đế quốc chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu.
ii. Tình hình trong nước
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8-1945, Đảng ta, cách mạng nước ta đứng trước
nhiều thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức mới rất to lớn và quyết liệt. - Về thuận lợi:
Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân ta trở thành chủ nhân của chế độ
xã hội mới: Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Hệ thống chính quyền cách mạng, chính quyền dân chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo
được thiết lập thống nhất từ trung ương đến cơ sở trong toàn quốc với những phẩm chất chính
trị hoàn toàn mới, cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động gắn bó mật thiết với nhân dân, toàn
tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của quốc dân, đồng bào.
Sự lãnh đạo quyết đoán, sáng tạo với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông
Dương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh trở thành linh hồn của Đảng, là
trung tâm đoàn kết toàn dân tộc, là niềm tin của nhân dân.
Các công cụ chuyên chính có nhiệm vụ bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng tám được
xây dựng và phát triển với những phẩm chất chính trị mới, sức mạnh mới làm chỗ dựa cho
cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng. Đặc
biệt sự hình thành lực lượng Quân đội quốc gia Việt Nam, Công an nhân dân, các tòa án quân
sự, hệ thống luật pháp cách mạng và các tổ chức bán vũ trang khác.
- Về khó khăn, thách thức mới:
Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập còn rất non trẻ, thiếu thốn về nhiều
mặt và phải chịu tác động tiêu cực từ nhiều thói hư tật xấu của chế độ cũ, đứng trước các thử
thách mới hết sức nghiêm trọng.
Sau khi giành được chính quyền, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một
nền kinh tế tiêu điều, sơ xác sau chiến tranh tàn khốc; nền tài chính kiệt quệ, tệ nạn xã hội tràn
ngập, nhất là nạn mù chữ, thất học, nạn đói.
Sự quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ 2 của thực dân Pháp dưới sự thỏa thuận của
phe đế quốc và sự bảo trợ trực tiếp của 2 vạn quân Anh-Ấn; sự có mặt của hơn 20 vạn quân
đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng miền Bắc từ vĩ tuyến 16 trở ra dưới danh nghĩa quân đội
Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật theo thỏa thuận Hiệp ước Pôtxdam (Đức -7-1945). Ăn
theo các đội quân xâm lược là các thế lực đảng phái chính trị phản động; làm tay sai cho ngoại
bang kéo vào, các thế lực chống đối trong giai cấp bóc lột cũ, các thế lực phản cách mạng tay
sai đế quốc thực dân cũng ngóc đầu dậy chống phá cách mạng rất quyết liệt. Trên đất nước ta
lúc này còn khoảng 6 vạn quân đội Nhật hoàng bại trận đang chờ giải giáp. Chưa bao giờ trên
đất nước ta có nhiều kẻ thù và đội
quân nước ngoài đông đúc như lúc này, tổng số khoảng gần 30 vạn tên. Nền độc lập của Tổ
quốc bị đe dọa nghiêm trọng; vận mệnh chính quyền cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc.
Đảng Cộng sản cầm quyền đang phải đối mặt với những thách thức hết sức to lớn, nghiêm
trọng và những khó khăn chồng chất, phức tạp khôn lường. b.
Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống giặc ngoài, thù trong và bước đầu xây
dựng xã hội mới từ 9-1945 đến 12-1946
i. Chủ trương lớn của Đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ
- Ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến
quốc” định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền.
Trong đó xác định rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng; mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương
lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “ Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”;
tập trung vào nhiệm vụ chiến lược giữ vững nền độc lập dân tộc. Và đề ra phương hướng
nhiệm vụ, giải pháp lớn của cách mạng Việt Nam lúc này là: phải tăng cường mặt trận dân tộc
thống nhất chống xâm lược; củng cố chính quyền cách mạng; kiên quyết chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân.
Trên cơ sở đường lối chỉ đạo chiến lược và nguyên tắc, phương châm đã vạch ra; phân
tích đúng âm mưu của phe đế quốc và từng kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã lãnh
đạo toàn dân kiên quyết chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược ở Nam Bộ lần thứ 2 ngay
từ ngày 23-9-1945. Chủ trương kháng chiến chống Pháp thể hiện rõ ý chí sắt đá, tinh thần kiên
quyết chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được, ngăn chặn cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp lan rộng, và tích cực chuẩn bị kháng chiến lâu dài sau này.
- Đối với quân đội Trung Hoa dân quốc (quân Tưởng), thực hiện tinh thần Nghị quyết
Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào tháng 8-1945, Đảng chủ trương giao thiệp thân
thiện, tránh khiêu khích, tránh xung đột, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc, vận dụng sách
lược mềm dẻo, khôn khéo để đối phó với quân Tưởng và các tổ chức đảng phái tay sai thân
Tưởng và số cầm đầu Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh
hội (Việt Cách) khi vào Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, quyết đoán của Đảng và Chính
phủ lực lượng Công an phối hợp với các lực lượng vũ trang khác, được sự ủng hộ, giúp đỡ của
quần chúng nhân dân đã phá thành công Vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu (Vụ án Ôn Như Hầu),
tấn công truy quyét, bóc gỡ hơn 40 hang ổ,
trụ sở của bọn Quốc dân đảng phản động ở Hà Nội và các khu vực lân cận; đập tan hoàn toàn
âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai phản động câu kết với thực dân Pháp ở
Hà Nội, giữ vững chính quyền dân chủ nhân dân, lột mặt nạ phản dân hại nước của bọn tay sai
thân Tưởng, tăng cường khối đoàn kết mặt trận dân tộc thống nhất.
Những chủ trương, biện pháp đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời, quyết đoán, sáng tạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cuộc đấu tranh phản cách mạng nói chung, chống giặc
ngoài, thù trong nói riêng những năm đầu chính quyền cách mạng được thành lập đã đem lại
thắng lợi quan trọng; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của
các kẻ thù, của phe đế quốc, mà trực tiếp là của thực dân Pháp và đội quân Trung Hoa dân
quốc và các thế lực tay sai, góp phần quan trọng củng cố, giữ vững và bảo vệ an toàn toàn hệ
thống bộ máy chính quyền cách mạng từ trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc
Cách mạng tháng Tám; tranh thủ thời gian hòa bình, hòa hoãn, tích cực chuẩn bị lực lượng cho kháng chiến lâu dài.
ii. Đảng lãnh đạo khắc phục khó khăn, bước đầu xây dựng xã hội mới
- Th>c hiện chủ trương chi;n lược của Đảng “vừa kháng chi;n vừa ki;n quốc”,
dưới s> l1nh đ3o của Chủ tịch Hồ Chí Minh Chính phủ và hệ thống chính quyền toàn
quốc đ1 đề ra và tích c>c triển khai những nhiệm vụ lớn và cấp bách về kinh t; - x1 hội,
là: chống giặc đói, chống giặc dốt, xây d>ng đời sống mới, củng cố, tăng cường xây d>ng
bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân....
- Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói được xác định là một nhiệm vụ lớn, quan trọng,
cấp bách lúc bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đ3o,
động viên, tập hợp lôi kéo đông đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân tham gia với các phong
trào lớn: Tăng gia sản xuất, th>c hành ti;t kiệm; lập hũ g3o ti;t kiệm và phát động các
cuộc vận động lớn trong toàn quốc: Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ quốc
phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chi;n. Nhiều
thứ thu; vô lý của ch; độ cũ bị xóa bỏ, th>c hiện chính sách giảm tô 25%; ngân quỹ
quốc gia được xây d>ng l3i, phát hành đồng giấy b3c Việt Nam. Nhờ đó đầu năm 1946 n3n đói cơ bản
được đẩy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ.
- Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt,
coi đó là một “giải pháp quan trọng” để xây d>ng hệ thống chính quyền cách m3ng và
phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng chủ trương phát động phong trào “Bình
dân học vụ” toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ n3n dốt; vận động toàn
dân xây d>ng đời sống mới, nền văn hóa mới để đẩy lùi
các tệ n3n, hủ tục, thói quen cũ cản trở ti;n bộ... Đ;n cuối năm 1946 cả nước có thêm hơn
2,5 triệu người dân bi;t đọc, bi;t vi;t chữ quốc ngữ.
- Xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền cách mạng. Trước hết để bảo toàn chính
quyền cách mạng, làm thất bại âm mưu thâm độc của quân Tưởng “diệt Cộng, cầm Hồ”, Đảng
chủ trương tránh mọi âm mưu khiêu khích của quân Tưởng và thực hiện sách lược hòa hoãn,
nhân nhượng có nguyên tắc với quân Tưởng ở miền Bắc. Đảng chủ trương rút vào hoạt động
bí mật, bằng việc tuyên bố tự giải tán và thành lập Hội những người nghiên cứu chủ nghĩa
Mác ở Đông Dương (11-1945); về quân sự Quân đội quốc gia Việt Nam được đổi thành Vệ
quốc đoàn (9- 1945); Chính phủ Việt Nam nhân nhượng đồng ý đảm bảo cung cấp lương thực,
thực phẩm cần thiết cho 20 vạn quân đội Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân
Nhật khi ở Việt Nam và nhân nhượng cho phép quân Tưởng được sử dụng và lưu hành đồng
tiền Quan kim cùng với đồng bạc Đông Dương ở phía Bắc Việt Nam...
Với tinh thần làm chủ và khẳng định Việt Nam là một quốc gia độc lập có quyền làm
chủ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tiến hành cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu và
quyết định chạy đua với thời gian để tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trong toàn quốc bầu ra Quốc
hội và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, toàn dân Việt Nam lần đầu tiên đi bỏ
phiếu dân chủ bầu ra Quốc hội đầu tiên với 333 đại biểu. Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu
tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 2-3-1946 và lập ra Chính phủ chính thức do Cụ Hồ Chí Minh
làm chủ tịch, Quốc hội cũng thành lập ra Ban soạn thảo Hiến pháp mới và sau đó đã thông qua
bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946)...
Để tiếp tục tranh thủ lực lượng và tăng cường mở rộng hơn nữa mặt trận dân tộc thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện chủ trương “bôi trắng cái đầu” và chính sách
“liên hiệp bên trên, quyét sạch bên dưới”, Đảng và Hồ Chí Minh quyết định chấp nhận
nhường 70 ghế quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt cách, Việt quốc;
chấp nhận mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức,
người không đảng phái và cả một số phần tử cầm đầu tổ chức phản động tay sai của quân
Tưởng, trong đó có nhiều ghế Bộ trưởng quan trọng, như: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ
trưởng Bộ Kinh tế thậm chí là chức vụ Phó Chủ tịch Chính phủ cho ông Nguyễn Hải Thần....
- Đầu năm 1946, do sự thỏa thuận, dàn xếp của phe đế quốc, Chính phủ Pháp và Chính
phủ Trung Hoa dân quốc đã ký kết với nhau bản “Hiệp ước Trùng Khánh” (còn gọi là Hiệp
ước Hoa-Pháp ngày 28-2-1946), trong đó có nội
dung thỏa thuận để Pháp đưa quân ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật
thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước. Đây thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ và trà đạp
lên nền độc lập của Việt Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp và cũng
gây ra những sự mâu thuẫn, xung đột kịch liệt về quyền lợi giữa các tập đoàn lợi ích của quân
đội Tưởng ở Việt Nam và quân đội Pháp. Chính quyền cách mạng Việt Nam lại đứng trước
tình thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn là
Pháp và Tưởng, trong khi thực lực cách mạng vẫn còn rất non kém.
Đảng đã nhanh chóng đề ra chủ trương mới, đúng đắn là: tạm hòa với Pháp để đẩy đuổi
nhanh quân Tưởng về nước, tranh thủ kéo dài thêm khoảng thời gian hòa hoãn để chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến chống Pháp sau này.
Thực hiện chủ trương đó, ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội là ông
J.Xanhtơny bản Hiệp định sơ bộ. Về mặt pháp lý Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một
quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên bang
Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền
Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục
tiến hành đàm phán chính thức...
Tiếp theo Hiệp định sơ bộ, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành một cuộc
đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn trong suốt cả năm 1946 ở cả mặt trận
trong nước và ngoài nước. Từ ngày 19-4 đến 10-5- 1946, đại diện Việt Nam và Pháp gặp nhau
tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt; từ ngày 31-5 đến 20-10-1946, theo lời mời của Quốc hội và
Chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch dẫn đầu phái đoàn của Chính phủ Việt Nam thăm nước Pháp;
phái đoàn Quốc hội Việt Nam thăm thân thiện và tham gia đàm phán chính thức giữa 2 bên
Việt - Pháp tại Hội nghị Phôngtenơblô (Paris - Pháp) từ ngày 6-7 đến 10-9-1946. Tuy nhiên,
do vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nên mọi cuộc gặp
gỡ, đàm phán Việt - Pháp đều không đạt kết quả tích cực. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho
đoàn đại biểu Việt Nam rời Pháp về Việt Nam, trước khi lên đường về nước Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký với đại diện của Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9 tại Mác-xây (Pháp), nhân
nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam, đồng thời hai bên cam
kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm phán....
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam về đến cảng Hải
Phòng an toàn trong không khí đón chào nồng nhiệt của nhân dân, của đồng bào, đồng chí. Và
cũng từ đây công cuộc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài của nhân dân ta được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Đến ngày toàn quốc kháng chiến,
Đảng và nhân dân ta có thêm 3 tháng chuẩn bị và tăng cường thực lực cho cuộc chiến tranh
chống thực dân Pháp xâm lược. Điều mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi. c.
Đảng lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ
12-1946 đến 12-1950 i.
Đường lối kháng chiến của Đảng Hoàn cảnh lịch sử
- Sau bản Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9, tình hình chiến sự ở Việt Nam tiếp tục
căng thẳng do thái độ hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp ngày càng lộ rõ, nguy
cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp ngày càng đến gần. Đảng, Chính phủ và nhân
dân Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn và tỏ rõ thiện chí hòa bình, thái
độ nhân nhượng nhằm tìm kiếm con đường tốt nhất bảo vệ và giữ gìn toàn vẹn nền độc lập
của Việt Nam và tìm mọi cách có thể được để cứu vãn mối quan hệ Việt - Pháp đang ngày
càng xấu đi và nguy cơ nổ ra một cuộc chiến tranh quân sự.
- Từ khi cuộc đàm phán Phôngtenơblô thất bại, để cố gắng cứu vãn tình thế và tránh
một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không cân sức với Pháp, Đảng, Chính phủ và Hồ Chí
Minh đã kiên trì thuyết phục và tìm mọi cách để duy trì mối quan hệ với phía Pháp. Nhiều lần
Hồ Chủ tịch đã gửi điện văn, thư từ cho Chính phủ Pháp, Thủ tướng Pháp song đều không
được hồi đáp; kiên trì con đường đấu tranh ngoại giao với Chính phủ Pháp và đại diện Pháp
tại Hà Nội nhưng cũng đều không đưa đến kết quả tích cực vì luôn vấp phải lập trường hiếu
chiến, xâm lược của phía Pháp và thái độ ngạo mạn, hợm hĩnh của phe chủ chiến trong Chính
phủ và quân đội Pháp là chỉ “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp”1
- Song về phía Chính phủ Pháp và Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam đã bộc lộ rõ
thái độ bội ước. Quân đội Pháp và các thế lực hiếu chiến tăng cường gây hấn, khiêu khích, lấn
chiếm, gây xung đột quân sự ở nhiều nơi, mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra các tỉnh Bắc
Bộ Việt Nam; đồng thời dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đặt lại nền thống trị ở Campuchia và
Lào. Cuối tháng 11- 1946 thực dân Pháp tấn công đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó
chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công vào các vùng tự do của ta ở Nam
Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực lượng phản động xúc tiến thành lập cái gọi là “Chính
phủ Cộng hòa Nam kỳ” và triệu tập Hội nghị Liên bang
1 Nghị quyết của ủy ban Liên bộ Đông Dương (Comindo) ngày 23/11/1946
Đông Dương vv... Đặc biệt nghiêm trọng là bước leo thang chiến tranh cao nhất của thực dân
Pháp trong 2 ngày 15 và 16-12-1946, quân đội Pháp ở Hà Nội đã tổ chức gây hấn với ta ở
nhiều nơi, tấn công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12,
chúng bắn đại bác gây ra vụ thảm sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh, Hàng Bún. Ngang nhiên
hơn ngày 18/12 đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính
phủ Việt Nam, đưa liên tiếp 3 tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp; phải phá bỏ công
sự, chướng ngại vật trên đường phố Hà Nội, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi thực thi
nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ an ninh, trật tự của thành phố....
Như vậy, cho đến ngày 19-12-1946, mọi cố gắng ngoại giao và thiện chí hòa bình, hòa
hoãn của Chính phủ và Nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp thẳng thừng chối bỏ và cự
tuyệt; phía Pháp đã công nhiên thể hiện rõ lập trường hiếu chiến, xâm lược. Âm mưu xâm
chiếm, thống trị nước ta một lần nữa của thực dân Pháp đã bộc lộ hoàn toàn. Vì vậy, Đảng ta
và nhân dân Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác là phải cầm súng đứng lên chống lại
thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập non trẻ và chính quyền cách mạng; bảo vệ
những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám.
- Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ", Hội
nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay
thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) và kịp thời đề ra chủ trương đối phó; quyết định phát
động toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngay tối ngày 19-12-1946 vào lúc
20 giờ, Hà Nội và tất cả các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra quân và dân ta đã đồng loạt nổ
súng chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 20-12-1946, Hồ Chủ tịch
ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta và
vạch ra nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến...
Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung phát
triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947 và được thể hiện
trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong đó nội dung tập trung ở các văn bản: Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-11-1945);
Chỉ thị tình hình và chủ trương (3-3-1946); Chỉ thị hòa để tiến (9-3-1946); Chỉ thị toàn dân
kháng chiến (12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-
12-1946); Tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh
(8-1947). Quan điểm chỉ đạo cuộc kháng chiến được nêu ra gồm những nội dung chính sau đây:
- Tính chất của cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chính nghĩa,chống lại cuộc chiến
tranh xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp.
- Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập,
tự do, thống nhất hoàn toàn. Đây là hình thức tiếp tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc, dân
chủ nhân dân vì nền tự do dân chủ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
- Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến là: toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, động viên toàn dân, đoàn k;t toàn
dân tham gia cuộc kháng chi;n “mỗi người dân là một chi;n sĩ, mỗi làng x1 là một pháo
đài, mỗi phố là một mặt trận”. Trong đó quân đội và các l>c lượng vũ trang làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện là kháng chi;n trên mọi lĩnh v>c, mọi mặt trận không chỉ
đánh địch bằng quân s> mà cả về chính trị, kinh t;, ngo3i giao, văn hóa tư tưởng trong
đó mặt trận quân s>, đấu tranh vũ trang giữ vai trò tiên phong, mang tính quy;t định.
Phải động viên, phát huy cho được mọi tiềm năng, sức m3nh của dân tộc, mọi nguồn l>c
vật chất, tinh thần trong nhân dân để phục vụ kháng chi;n.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đ3o chi;n lược của Đảng trong bối cảnh so
sánh l>c lượng ban đầu giữa ta và địch quá chênh lệch, không cân sức. Vì vậy ta cần
phải có thời gian vật chất để chuyển hóa l>c lượng nhỏ thành lớn, y;u thành m3nh. Đây
là một quy luật cơ bản của cuộc chi;n tranh nhân dân lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh
lớn trong lịch sử chi;n tranh của dân tộc Việt Nam. Kháng chi;n lâu dài nhưng không
phải là kéo dài vô thời h3n mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng
chi;n có bước ti;n nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đ;n thắng lợi cuối cùng. Đây
là bước đánh dấu s> hình thành và phát triển tư duy quân s> mới và nghệ thuật chi;n
tranh nhân dân của Đảng ta.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính. Đây là s> k; thừa tư tưởng chi;n lược
trong chỉ đ3o s> nghiệp cách m3ng giải phóng dân tộc “đem sức ta mà t> giải phóng cho
ta”. Cuộc kháng chi;n của nhân dân ta nổ ra trong điều kiện quốc t; bất lợi, phe đ; quốc
chủ nghĩa hung hăng hi;u chi;n; Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đ; quốc.
Vì vậy con đường duy nhất đúng dắn lúc bấy giờ là phải t> lập, t> cường, t> cấp, t> túc
về mọi mặt; phải d>a vào nguồn nội l>c của dân tộc, phát huy nguồn m3nh vật chất, tinh
thần vốn có trong nhân dân làm sức m3nh, chỗ d>a chủ y;u của cuộc chi;n tranh, làm
cơ sở để sử dụng và phát huy ngo3i l>c khi có điều kiện. Trong đó t> l>c, độc lập về đường lối, chủ
trương kháng chi;n là yêu tố quan trọng hàng đầu; phát huy tinh thần bất khuất, lòng
yêu nước thi;t tha, ý thức dân tộc t> cường, t> quy;t của nhân dân Việt Nam là quy;t định.
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành trong những năm đầu của cuộc chiến
tranh chống Pháp là hoàn toàn đúng đắn và là ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta; huy động và phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức
mạnh của toàn dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đường lối kháng chiến của Đảng được
nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
ii. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến từ 12-1946 đến 12-1950
- Ngày từ trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chủ trương từng bước đưa cả nước chuyển sang tình trạng chiến tranh lâu dài. Một mặt,
Đảng tích cực lãnh đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các thành phố, thị xã, mặt khác
thực hiện cuộc tổng di chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các
ban, bộ, ngành, quân đội, công an và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa phương ra khỏi
thành phố, thị xã, tổ chức củng cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến khu, các ẠTK để bảo toàn
lực lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Hàng ngàn tấn máy móc, nguyên nhiên vật liệu được
di chuyển, mua sắm, cất giữ trên các chiến khu, căn cứ địa kháng chiến, nhất là ở các ATK
Thái Nguyên, Tuyên Quang; hàng vạn nhân dân được động viên, hướng dẫn tản cư khỏi vùng
chiến sự. Ở các nơi quân Pháp có thể chiếm đóng, nhân dân thực hiện tiêu thổ kháng chiến,
phá hoại nhà cửa, đường xá, cầu cống, dựng chướng ngại vật trên đường với khẩu hiệu “vườn
không nhà trống”, “phá hoại để kháng chiến” nhằm ngăn cản bước tiến của địch, hạn chế tiềm
năng kinh tế địch, phá kinh tế địch.
- Thực hiện mệnh lệnh toàn quốc kháng chiến, tối ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến
toàn quốc của nhân dân ta đồng thời nổ ra ở các đô thị từ vĩ tuyến 16 trở ra phía Bắc. Quán
triệt đường lối, chủ trương của Đảng và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quân và dân ta dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng đã đồng loạt nổ súng tấn công
địch mạnh mẽ, quyết liệt trong hầu hết các đô thị và những nơi đóng quân của thực dân Pháp.
Tại Hà Nội, vào lúc 20 giờ 3 phút, pháo đài Láng nổ súng báo hiệu toàn quốc kháng
chiến bắt đầu. Đèn điện trong thành phố vụt tắt, các lực lượng vũ trang Vệ quốc đoàn, Tự vệ
chiến đấu, Công an xung phong nhất loạt tấn công các vị trí đóng quân của Pháp trong thành
phố. Cuộc chiến đấu những ngày sau đó diễn ra vô cùng ác liệt, không cân sức trong suốt 60
ngày đêm khói lửa, đặc
biệt là các trận đánh diễn ra quyết liệt ở nhà Bắc Bộ phủ; nhà Bưu điện Bờ Hồ; ga Hàng cỏ;
chợ Đồng Xuân; sân bay Bạch Mai; Ô Cầu Dền... Trong quá trình chiến đấu quân và dân Hà
Nội đã nêu cao ý chí bất khuất, kiên cường “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đánh tiêu diệt,
tiêu hao nhiều sinh lực địch, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não của Trung ương rút ra ngoại
thành; hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bước đầu làm thất bại kế hoạch
đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn lực lượng quân sự, phát triển thành một
trung đoàn chiến đấu tinh nhuệ, hùng mạnh mang tên Trung đoàn Thủ đô...
Ở các đô thị khác: từ Đà Nẵng đến Huế, Vinh, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang quân và
dân ta hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch đã đồng loạt nổ súng tấn
công vào các vị trí đóng quân của địch. Vừa tấn công vừa bao vây, ngăn chặn địch trên các
tuyến giao thông, đánh phá các kho tàng hậu cần và cơ sở hạ tầng chiến tranh của địch; kìm
giữ chân địch không cho chúng mở rộng địa bàn chiếm đóng ra các vùng xung quanh thành
phố, thị xã, thị trấn. Tiếp tục phát triển lực lượng ta, huy động, di chuyển nhân tài, vật lực lên
các khu căn cứ địa phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Những thắng lợi của quân và dân ta trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến đã
chứng tỏ sự đúng đắn của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện; có tác dụng cổ vũ, khích
lệ rất lớn đối với toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta vững tin vào thắng lợi.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội
rút về hoạt động tại các căn cứ ATK an toàn. Để phục vụ yêu cầu chỉ đạo mới của cuộc kháng
chiến, Trung ương Đảng quyết định chia cả nước thành các khu và sau này thành các chiến
khu quân sự. Các Ủy ban kháng chiến hành chính được thành lập; các tổ chức chính trị, xã hội
được củng cố và thành lập mới nhằm tăng cường đoàn kết chặt chẽ, tập hợp toàn dân tham gia kháng chiến.
Các lực lượng vũ trang nhân dân được chăm lo củng cố, xây dựng cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Công tác đảng, công tác chính trị, công tác chính qui hóa được từng bước
thực hiện trong quân đội. Đến giữa năm 1947, bộ đội phát triển lên hơn 12 vạn quân được
biên chế thành 57 trung đoàn và 20 tiểu đoàn độc lập; toàn quân có khoảng hơn 20 xưởng sửa
chữa, sản xuất vũ khí thô sơ. Tuy nhiên, việc trang bị của bộ đội chủ lực còn rất thiếu thốn chỉ
có khoảng 3 vạn khẩu súng. Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy là cơ quan lãnh đạo quân sự cao
nhất của Đảng lúc bấy giờ. Lực lượng công an được thống nhất tổ chức trong toàn quốc và
hoạt động cả trong vùng địch hậu và vùng tự do; Nha công an Việt Nam (sau đổi thành Nha
Công an Trung ương) được thành lập thay cho
Việt Nam Công an vụ nằm trong Bộ Nội vụ và các Ty công an, Quận công an trong toàn quốc
được thiết lập theo hệ thống dọc và có bước phát triển nhanh chóng đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội Đảng tiếp tục quan tâm đến phong trào tăng gia
sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho lực lượng kháng chiến và nhân dân.
Tiếp tục duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông các cấp.
Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới đối
với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, như: đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện, cử
đoàn đại biểu đi dự các hội nghị quốc tế...
- Triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh của thực dân Pháp.
Thất bại trong âm mưu đánh úp, thắng nhanh, giải quyết nhanh bằng quân sự trong các
đô thị, các thế lực hiếu chiến Pháp quyết định mở cuộc tiến công quân sự lớn lên Việt Bắc
mang tên kế hoạch Lê A nhằm mục đích bắt gọn bộ máy đầu não kháng chiến của Việt Minh;
đánh tan quân chủ lực của Việt Minh, khóa chặt biên giới Việt - Trung, bao vây cuộc kháng
chiến ngăn chặn, phá hủy tiềm lực kháng chiến của Việt Minh để mau chóng kết thúc cuộc
chiến tranh theo ý đồ của Pháp.
Phục vụ cho chiến dịch này, Pháp đã huy động khoảng 15.000 quân, gồm cả ba lực
lượng lục quân, hải quân và không quân hình thành 3 mũi tiến công chính tiến lên vùng ATK
Việt Bắc, trong đó có mũi thọc sâu, đột kích nhảy dù xuống trung tâm thị xã Bắc Kạn, hòng
bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh. Để thực hiện kế hoạch đó, ngày 7-10-1947 mũi tiến công đột
kích bằng đường không của địch do tướng A. Sôvanhắc chỉ huy đã nhảy dù xuống Bắc Kạn.
Các mũi khác tiến theo đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao Bằng; một mũi tiến theo đường sông
Hồng lên sông Lô, sông Gâm tiến công vào ATK Tuyên Quang, kế hoạch của địch sẽ hội quân
ở Đài Thị (Tuyên Quang) và càn quyét, tàn phá các vùng ATK của ta ở Tuyên Quang -Thái Nguyên - Bắc Kạn...
Để đối phó với cuộc tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc của giặc Pháp, ngày 15-10-1947,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của
giặc Pháp”. Chỉ thị nêu rõ quyết tâm của quân và dân ta, vạch ra thế yếu của địch và đề ra các
nhiệm vụ quân sự cho các chiến trường, trong đó chỉ rõ phải ra sức phát động mạnh mẽ cuộc
chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ; chặt đứt giao thông, bao vây không cho
địch tiếp tế, liên lạc tiếp ứng cho nhau; tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân đồng loạt đánh
địch trên tất cả các hướng tiến công của địch cả trên mặt trận đường bộ và đường sông.
Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục (từ ngày 7-10 đến 21-12-1947) quân và dân ta đã
chiến đấu vô cùng oanh liệt, thông minh, sáng tạo, anh dũng tuyệt vời, lần lượt bẻ gãy các mũi
tiến công nguy hiểm của giặc Pháp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, phá hủy
hàng trăm xe cơ giới, tàu xuồng và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Bảo toàn tuyệt đối an
toàn cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến; bộ đội chủ lực có bước trưởng thành quan
trọng về cả lực lượng, về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến; các lực lượng kháng chiến được tôi
luyện và trưởng thành một bước trong thực tế chiến đấu. Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947
đã đánh bại hoàn toàn ảo vọng chiến tranh đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
Thắng lợi của cuộc phản công Việt Bắc của quân ta đã mở ra bước ngoặt mới cho cuộc
kháng chiến của nhân dân ta. Tình hình quốc tế có sự chuyển biến có lợi cho các lực lượng
đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, độc lập và cũng có những tác động tích cực đối với cuộc
kháng chiến của nhân dân ta. Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân đạt được nhiều thành tựu
mới trong phát triển kinh tế, xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền nhà nước. Tháng 10-
1949 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) ra đời làm thay đổi cán cân
so sánh lực lượng giữa hai phe dân chủ và tư bản chủ nghĩa, tạo ra lợi thế cho phong trào cách
mạng thế giới. Nước Pháp khủng hoảng kéo dài, cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông
Dương bế tắc, phải đối mặt với nhiều khó khăn, mâu thuẫn nảy sinh, thế chiến lược của Pháp
ở Đông Dương bị đảo lộn...
Trước những thuận lợi mới, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện nhằm làm thất bại một bước âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh và kế hoạch “lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp”. Trên lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, việc xây dựng thực lực kháng chiến được tổ chức phát động rộng
rãi, mạnh mẽ trong các ngành, các giới, các đoàn thể thông qua cuộc vận động thi đua ái quốc
theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (6-1948). Trên mặt trận ngoại giao, Đảng chủ
trương tích cực tranh thủ và đặt quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.
Lần lượt Trung Quốc (1-1950), Liên Xô (2-1950) và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu
công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam. Với Lào và Campuchia. Đảng, Nhà nước ta chủ trương “mở rộng mặt
trận Lào -Miên” để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu. Trên mặt trận quân sự, Đảng chủ trương
phát triển chiến tranh du kích cả trong vùng địch hậu, “biến hậu phương của địch
thành tiền phương của ta”. Đánh tập kích, phục kích, chia sẻ, phá hoại, quấy rối địch, phá hội
tề, trừ gian, diệt ác là các loại hình chiến thuật phổ biến của quân dân ta trong vùng địch tạm
chiến. Lực lượng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) được
từng bước xây dựng và trưởng thành nhanh chóng. Lực lượng Công an được Đảng quan tâm
chỉ đạo xây dựng theo đường lối Công an nhân dân và 6 lời dạy của Chủ tich Hồ Chí Minh về
tư cách người Công an cách mạng.
Đặc biệt nghệ thuật chiến tranh du kích, hoạt động du kích chiến phối hợp với các hoạt
động quân sự của quân chủ lực được phát huy cao độ và giành được thắng lợi giòn giã trong
nhiều trận đánh phục kích lớn ở các địa phương, tiêu biểu như các trận: Cầu Kè, La Ngà, Tầm
Vu, Đông Đương, Hương An... Trên cơ sở đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở
chiến dịch quân sự lớn tiến công dọc theo biên giới Việt- Trung (chiến dịch Cao-Bắc-Lạng)
nhằm tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một khu vực rộng lớn dọc theo
biên giới phía Bắc, phá thế bao vây của kẻ thù, tạo cơ hội mở rộng quan hệ thông thương với
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa; đưa cuộc kháng chiến của ta phát triển lên giai
đoạn mới chuẩn bị tổng phản công và tiến công để giành thắng lợi cuối cùng. Để phối hợp
chiến dịch Biên giới, trước đó Đảng chủ trương mở rộng sự phối hợp chiến đấu với quân, dân
Lào, Campuchia và Trung Quốc. Tham gia hỗ trợ cách mạng Trung Quốc trong chiến dịch
Thập Vạn Đại Sơn và tiễu phỉ Quốc dân đảng ở khu vực biên giới Trung-Việt.
Chiến dịch Biên giới thu đông 1950 diễn ra từ ngày 16-9 đến 14-10 trải dài dọc theo
tuyến biên giới Việt - Trung từ Đình Lập (Móng Cái) đến thị xã Cao Bằng (Cao Bằng). Đây là
chiến dịch quân sự lớn đầu tiên do quân ta chủ động mở, là chiến dịch hết sức quan trọng,
đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch này. Sau gần 1 tháng
chiến đấu vô cùng anh dũng và quyết liệt, quân ta đã giành thắng lợi to lớn, “đạt được mục
tiêu diệt địch, kết thúc thời kỳ chiến đấu trong vòng vây”, “mở ra cục diện mới tạo điều kiện
thuận lợi phát triển lực lượng về mọi mặt, đẩy mạnh kháng chiến tiến tới”
d. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi từ 1-1951 đến 7-1954
i. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
- Phát huy thắng lợi to lớn của chiến dịch Biên giới (10-1950), Đảng ta tiếp tục lãnh
đạo, chỉ đạo phát triển thế tiến công và phản công trên các chiến trường, giành quyền chủ
động trên chiến trường chính Bắc Bộ. Phía Pháp sau thất bại trên phòng tuyến biên giới Việt -
Trung bị lâm vào tình thế khó khăn hơn, tâm lý thất bại bắt đầu lan truyền sang giới chính trị
và kinh tế Pháp. Cuộc chiến tranh xâm lược của pháp ở Đông Dương bị coi là “cuộc chiến
tranh bẩn thỉu” và bị lên
án, công kích tại nhiều nơi cả ở Pháp và các nước thuộc địa Pháp. Song, do bản chất ngoan cố,
hiếu chiến lại được Mỹ tiếp sức, hà hơi, can thiệp và trực tiếp viện trợ quân sự, nên Pháp vẫn
ngoan cố quyết chiếm giữ Đông Dương. Đầu năm 1951, Chính phủ Pháp đã cử Đại tướng Đờ
Lát Đờ Tátxinhi - đang làm Tư lệnh lục quân khối NATO, một danh tướng tài ba bậc nhất
nước Pháp sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm chức Cao ủy Pháp ở Đông
Dương hòng cứu vãn tình thế thất bại. Tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi đến Đông Dương và mang
theo một kế hoạch quân sự - chính trị vô cùng thâm hiểm, đặt Việt Nam vào kế hoạch chống
cộng chung của Pháp-Mỹ ở Đông Dương. Với kế hoạch này, trong những ngày đầu địch đã
gây cho ta nhiều khó khăn mới, nhất là ở vùng địch hậu.
Để đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn phát triển mới với khí thế mới, từ
ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại thôn
Chinh, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tại Đại hội này, đồng chí Tổng Bí
thư Trường Chinh đã trình bày bản báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam; Chủ tịch Hồ Chí
Minh trình bày Báo cáo chính trị của đại hội. Đại hội nghe và thảo luận các báo cáo tham luận
khác của đại biểu các ngành, giới, lĩnh vực công tác...
Đại hội xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: tiêu diệt thực
dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập thống nhất hoàn toàn, bảo vệ
hòa bình thế giới. Đại hội chỉ ra về nhiệm vụ quân sự phải tích cực xây dựng bộ đội chính quy,
coi trọng giáo dục bản chất cách mạng đi đôi với chấn chỉnh về tổ chức biên chế, tăng cường
kỷ luật, rèn luyện về kỹ thuật, chiến thuật. Về công tác xây dựng Đảng, trong Báo cáo chính
trị đã khẳng định những thành tích hoạt động của Đảng qua các thời kỳ từ năm 1930, đồng
thời chỉ ra nhiều khuyết điểm về các mặt công tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức,
cán bộ và các căn bệnh cần khắc phục kịp thời: chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, công
thần... Báo cáo chính trị nêu rõ các nhiệm vụ lớn và phương hướng của cuộc kháng chiến
trong giai đoạn mới. Đại hội nhất trí đưa Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên mới là Đảng
Lao động Việt Nam. Ở Lào và Campuchia sẽ thành lập đảng riêng. Đại hội quyết định xây
dựng Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Điều lệ mới trong đó nêu rõ những
nội dung cơ bản về Đảng Lao động Việt Nam và nhấn mạnh “trong giai đoạn này quyền lợi
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”
Đại hội Đảng lần thứ II thành công đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng ta về mọi
mặt, nhất là về công tác xây dựng Đảng cầm quyền; đây là đại hội “thúc đẩy kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam”1. Sau đại hội Đảng, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng mở Hội nghị lần thứ nhất bàn việc quán triệt Nghị quyết Đại hội và
triển khai các nhiệm vụ chính trị, quân sự trong tình hình mới. ii.
Đảng chỉ đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi
- Để đối phó và làm thất bại Kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương mở liên
tiếp 3 chiến dịch tiến công quân sự có quy mô lớn đó là các chiến dịch mang biệt danh: Trần
Hưng Đạo (12-1950), Hoàng Hoa Thám (3- 1951), Quang Trung (5-1951) đánh vào vùng
chiếm đóng của địch ở một số địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhằm tiêu diệt, tiêu hao
sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Tiếp đó, ta
mở chiến dịch Hòa Bình (12-1951) đánh vào chỗ yếu của địch, phát huy lợi thế của ta và
giành được thắng lợi to lớn. Thu đông 1952 Đảng chủ trương mở tiếp chiến dịch Tây Bắc
nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và nhân dân vùng Tây
Bắc. Sau hơn 2 tháng chiến đấu quyết liệt, gian khổ ta đã làm chủ vùng đất đai rộng lớn, địch
chỉ còn đóng giữ được ở thị xã Lai châu và Nà Sản (Sơn la). Tháng 4-1953 phát huy thắng lợi
của các chiến dịch quân sự trong nước, Đảng quyết định phối hợp với cách mạng Lào mở
chiến dịch Thượng Lào (địa bàn 2 tỉnh Hủa Phăn và Xiêng Khoảng), giải phóng thêm một
phần đất đai, giúp Chính phủ kháng chiến Lào xây dựng và mở rộng khu căn cứ địa, đồng thời
phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ ra sức chăm lo phát
triển lực lượng, củng cố và tăng cường sức mạnh của hậu phương kháng chiến. Từ năm 1952,
Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, động viên mọi
tầng lớp công nhân, nông dân, cán bộ viên chức khắc phục khó khăn, hăng hái lao động, tăng
gia sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm; bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân
trang quân dụng cung cấp cho bộ đội. Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Đảng, Chính phủ quan
tâm chấn chỉnh lại chế độ thuế khóa, tài chính, xây dựng ngành thương nghiệp, ngân hàng.
Thực hiện từng bước chính sách ruộng đất, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách giảm tô,
giảm tức. Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, xây
1 Đảng cộng sản Việt Nam, toàn tập NXB CTQG Hồ Chí Minh tập...
dựng nếp sống mới cũng được phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới... Đặc biệt từ đầu
năm 1953, Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương và thông qua nhiều chính sách thực hiện triệt
để giảm tô và bước đầu thí điểm cải cách ruộng đất thực hiện mục tiêu người cầy có ruộng ở
một số vùng nông thôn tự do...
Sau thắng lợi của các chiến dịch quân sự lớn trên chiến trường, cuộc kháng chiến của
quân và dân ta chuyển biến mạnh theo chiều hướng có lợi cho ta, bất lợi cho địch, đẩy địch
vào tình thế khó khăn, ngày càng nguy khốn. Quân đội Pháp mắc kẹt trong mâu thuẫn giữa tập
trung và chiếm giữ, giữa tiến công và phòng ngự, giữa bảo vệ đồng bằng Bắc Bộ và bảo vệ
vùng Thượng Lào... Nước Pháp lúng túng, bị động lệ thuộc ngày càng sâu vào viện trợ quân
sự Mỹ; giới quân sự Pháp hung hăng, tuyệt vọng đang tìm mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh
hòng tìm một lối thoát trong danh dự.
Tháng 5-1953 được sự thỏa thuận, đồng tình và hối thúc của Mỹ, Chính phủ Pháp quyết
định cử Đại tướng H.Nava đang đảm nhiệm chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối
NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava
đã vạch ra kế hoạch chính trị- quân sự mới lấy tên là Kế hoạch Nava và đã được Hội đồng
Quốc phòng Pháp nhanh chóng thông qua. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18
tháng với 2 bước cơ bản nhằm “chuyển bại thành thắng”. Đây được coi là cố gắng cao nhất và
cuối cùng của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Với kế hoạch chiến lược này,
trong quá trình thực hiện NaVa đã dần biến Điện Biên Phủ - một địa danh của vùng Tây Bắc
Việt Nam thành một căn cứ quân sự mạnh nhất Đông Dương, là trung tâm điểm của kế hoạch
NaVa và chấp nhận cuộc quyết chiến chiến lược với chủ lực Việt Minh ở địa bàn này.
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy và Bộ
Tổng Tư lệnh, đầu tháng 9-1953 Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghiên
cứu, đánh giá toàn diện tình hình quân sự trên chiến trường và vạch ra kế hoạch tác chiến mới.
Cuối tháng 9-1953, Hội nghị Bộ Chính trị họp về nhiệm vụ quân sự 1953-1954 và quyết định
thông qua chủ trương tác chiến đông xuân 1953-1954 với phương châm “tích cực, chủ động,
cơ động, linh hoạt”. Nghị quyết quan trọng này Bộ chính trị đã mở đường đi tới những thắng
lợi lịch sử trong chiến cuộc Đông xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị trong chiến lược đông xuân 1953-1954, tháng 12-1953
trên cơ sở kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954, Tổng Quân ủy báo cáo quyết tâm và Bộ
Chính trị đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội được giao trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ và góp phần
nghi binh, phân tán lực lượng địch trên chiến trường Đông Dương, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo
các đơn vị mở các cuộc tấn công địch đồng loạt, mạnh mẽ trên các hướng chiến lược quan
trọng, như: Lai Châu (12-1953); Trung Lào (12-1953), Hạ Lào và Đông Campuchia (12-
1953); mặt trận Tây Nguyên (1- 1954); Thượng Lào (1-1954). Một số địa bàn quan trọng khác
ở Bình Trị Thiên, cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ ta tổ chức tấn công địch kết hợp phát động
quần chúng phá tề, trừ gian, mở chiến dịch địch, ngụy vận, phá hủy giao thông, chiến tranh du kích chiến....
Từ tháng 12-1953, chiến dịch Điện biên Phủ được ráo riết chuẩn bị. Cả nước, các vùng
tự do, vùng mới giải phóng, vùng căn cứ du kích đồng bằng đều tập trung mọi nguồn lực,
chuẩn bị tiếp tế, chi viện nhân tài vật lực cho mặt trận Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà cả về
chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân,
toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”1. Khẩu hiệu hành động: tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng ở Điện Biên Phủ.
Đến đầu năm 1954, với cố gắng cao nhất của Pháp và Mỹ, Điện Biên Phủ đã được xây
dựng thành một “pháo đài khổng lồ bất khả xâm phạm”, với hệ thống công sự phòng ngự kiên
cố theo kiểu hiện đại, trang bị nhiều phương tiện chiến tranh tiên tiến nhất lúc bầy giờ và đặc
biệt trong lòng chảo Mường Thanh, Điện Biên Phủ, hình thành một tập đoàn cứ điểm mạnh
nhất Đông Dương được giới quân sự- chính trị Pháp - Mỹ coi là “cỗ máy để nghiền Việt Minh” vv...
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Quân đội ta đã tập trung 33 vạn quân với mọi nỗ lực cao nhất bao vây chặt Điện Biên Phủ. Để
bảo đảm chắc thắng, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã quyết đoán kịp thời chuyển
hướng phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”,
“đánh chắc thắng”. Ngày 13/3/1954 quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung
tâm Mường Thanh, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra theo
3 đợt: đợt I từ ngày 13-3 đến 26-3 ta tấn công vào các vị trí địch ở phía Bắc và Đông Bắc
trung tâm Mường Thanh; đợt II từ ngày 30-3 đến 28-4 tập trung tấn công địch tại các ngọn đồi
phía Đông, trong đó có đồi A1- cứ điểm
1 Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp (12/1953)
phòng ngự quan trọng nhất, mạnh nhất ở phía Đông Mường Thanh; đợt III diễn ra từ ngày 1-5
đến 7-5-1954 ta tập trung tấn công tiêu diệt các cứ điểm ở phía Đông, chuyển sang tổng công
kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vào hồi 17 giờ 30 phút, chiều 7-5-
1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Cátơri chỉ
huy trưởng và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ
toàn thắng sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, kiên cường, thông minh sáng tạo và vô cùng
anh dũng, hy sinh vô bờ bến của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến thắng vĩ đại
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ở Điện Biên Phủ là chiến thắng của toàn dân tộc Việt
Nam, của lòng yêu nước sâu sắc, ý chí và khát vọng độc lập tự do của nhân dân Việt Nam mà
nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đánh dấu sự thất bại thảm hại
của chủ nghĩa thực dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc, thực dân trong thế kỷ XX.
Với thắng lợi to lớn, vang dội ở Điện Biên Phủ và các mặt trận khác trên toàn chiến
trường Đông Dương trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, nước Pháp không còn sự lựa
chọn nào khác, cùng với các nước Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý triệu tập Hội nghị
Giơnevơ (Thụy Sĩ) bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương với sự tham gia của các nước hữu
quan. Với thiện chí hòa bình, mong muốn chấm dứt chiến tranh, ngày 8-5-1954 phái đoàn
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Sau 75 ngày
đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp hẹp và
phải chịu nhiều tác động, áp lực của khách quan và sức ép của các nước lớn, nhưng với tinh
thần chủ động, kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc, nhân nhượng có điều kiện, ngày 20-7-
1954 phía ta đã chấp nhận ký kết bản Hiệp định Giơnevơ. Tinh thần cao nhất của bản Hiệp
định là: Pháp và các nước tham dự Hội nghị long trọng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó.
Hiệp định Giơnevơ được kí kết là một thắng lợi to lớn của cách mạng ba nước Đông
Dương, phản ánh xu thế chung của tình hình quốc tế lúc bấy giờ. Đây là văn bản pháp lý quốc
tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và các dân tộc ở Đông Dương.
Tuy chưa phản ánh đúng thực chất thực lực của ta trên chiến trường, nhưng việc ký Hiệp định
được ghi nhận là sự kiện lịch sử đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng từ ngày 23-9-1945 đến 20-7-1954; lập lại nền hòa bình ở
Đông Dương; mở ra trang lịch sử mới của dân tộc Việt Nam. e.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi, ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế của Đảng trong
lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp i. Những ưu điểm
- Ngay từ đầu Đảng ta đã thể hiện rõ quyết tâm sắt đá kiên quyết, kiên trì bảo vệ nền
độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc; không lúc nào nao núng, run sợ trước sức mạnh và
mọi sự uy hiếp của kẻ thù giai cấp và dân tộc.
- Đảng đã sớm hoạch định được đường lối cơ bản “kháng chiến kiến quốc” đúng đắn,
sáng tạo; khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực
sáng tạo của nhân dân; kết hợp sức mạnh và sự sáng tạo của nhân dân với việc tận dụng, tranh
thủ tối đa những điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế và các lực lượng
tiến bộ đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
- Kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc; kết hợp
nhuần nhuyễn cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự là nòng cốt với xây dựng, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội củng cố chế độ dân chủ nhân dân và chính quyền cách mạng. Sự kết hợp
này là nội dung xuyên suốt, nhất quán trong mọi giai đoạn của cuộc kháng chiến, tạo ra nền
tảng, cơ sở hạ tầng chính trị - xã hội vững chắc để phát huy hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo và tổ
chức cuộc kháng chiến trên thực tế. Nâng cao uy tín, vai trò và sự tin tưởng ngày càng cao của
mọi tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lãnh đạo, chỉ
đạo nhiệm vụ kháng chiến.
- Đảng đã đề ra và ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc
chiến tranh phù hợp với đặc thù của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn. Xây dựng và phát
triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo đó là chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn
diện; kết hợp với chiến tranh chính qui với chiến tranh du kích phát huy sở trường của ta, hạn
chế tối đa sở trường tác chiến và phương tiện công nghệ chiến tranh hiện đại của địch; xây
dựng và hình thành chiến thuật tác chiến linh hoạt và nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam .
- Từng bước xây dựng và phát triển lực lượng quân sự 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp và đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị -quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, con
người của các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân một
cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện của Việt Nam và đóng vai trò là lực lượng nòng cốt,
xung kích, làm chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh giặc.
ii. Hạn chế, khuyết điểm
- Trong chỉ đạo có thời điểm, có lúc Đảng mắc vào tư tưởng chủ quan, nóng vội, phân
tích thiếu sâu sắc, coi thường sức mạnh của địch, chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm,
đường lối kháng chiến tường kỳ, tự lực cánh sinh, nhất là ở thời điểm sau chiến thắng Biên
giới 1950 và trong quá trình chỉ đạo mở các chiến dịch quân sự lớn ở vùng đồng bằng và trung
du Bắc Bộ đầu năm 1951.
- Tập trung cao độ vào nhiệm vụ quân sự, nhưng chưa chú ý đúng mức đến nhiệm vụ
xây dựng, kiến quốc, bồi dưỡng chăm lo phát triển sức dân. Có lúc, có nơi huy động sức dân,
động viên nguồn lực trong nhân dân quá mức, chưa giải quyết hài hòa, thỏa đáng mối quan hệ
giữa huy động sức dân với bồi dưỡng, nâng cao sức dân, nên đã gây ảnh hưởng tiêu cực đối
với tinh thần hăng hái kháng chiến của nhân dân; sự đồng tâm, nhất trí cao trong một bộ phận nhân dân.
- Trong quá trình chỉ đạo, tổ chức công cuộc kháng chiến, kiến quốc, trên một số mặt,
lĩnh vực công tác, chiến đấu khi học hỏi, tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm cách mạng Trung
Quốc có biểu hiện giáo điều, dập khuôn, kinh nghiệm chủ nghĩa, không tính đầy đủ đến hoàn
cảnh lịch sử, điều kiện cụ thể, đặc điểm của Việt Nam và từng địa phương, vùng miền, dân
tộc, tôn giáo. Điển hình như mắc khuyết điểm trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp
vào những năm cuối cuộc kháng chiến; tư tưởng định kiến, hẹp hòi, thành phần chủ nghĩa
trong công tác cán bộ, trong chỉnh đảng, chỉnh quân, trong phát động giảm tô, cải cách ruộng đất...
- Vấn đề đoàn kết, giúp đỡ, phối hợp chiến đấu, xây dựng lực lượng cách mạng đối với
cách mạng Lào, Campuchia có lúc chính sách chưa phù hợp, áp dụng máy móc kinh nghiệm
Việt Nam đối với bạn, nên hiệu quả chưa cao, sự đồng thuận chưa nhiều.
iii. Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
được tiến hành liên tục trong hơn 9 năm. Tuy, chưa giành được thắng lợi triệt để, trọn vẹn,
nhưng đây là thắng lợi có ý nghĩa vô cùng to lớn, có tính lan tỏa rộng lớn, mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn
của đội quân xâm lược nhà nghề có tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh, được điều hành
bởi các tướng tá quân sự tài ba, cùng với các phương tiện chiến tranh, trang bị vũ khí, công
nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại nhất lúc bấy giờ. Đập tan ách thống trị kéo dài hơn 80 năm
của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến ở Việt Nam và trên bán đảo Đông Dương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bảo vệ và phát triển tốt nhất các
thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám. Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
bảo đảm quyền lợi căn bản của người dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mang đến
niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Qua quá trình kháng chiến lâu dài, gian khổ lực lượng vũ trang nhân dân chính qui
(Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) cùng các lực lượng vũ trang khác đã được tôi
luyện, phát triển và trưởng thành mạnh mẽ về mọi mặt, có bản lĩnh giai cấp vững vàng, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân thể hiện được vai trò xung kích, làm nòng
cốt cho toàn dân dánh giặc, làm rường cột để phát triển chiến tranh du kích, chiến tranh nhân
dân chống xâm lược và trên cơ sở đó từng bước xây dựng nên nền nghệ thuật quân sự cách
mạng độc đáo huy động toàn dân đánh giặc, toàn dân bảo vệ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa đến việc giải phóng hoàn
toàn miền Bắc, tạo ra tiền đề về chính trị -xã hội vững chắc đưa miền Bắc phát triển mạnh mẽ,
toàn diện, chỗ dựa vững chắc, hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam sau này
và thực sự trở thành nhân tố quyết định nhất đối với công cuộc đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước sau này.
II. Đảng l1nh đ3o cuộc kháng chi;n chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
2.1. Quá trình hình thành đường lối cách mạng miền Nam
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử mới
Ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, với mưu đồ biến miền Nam Việt Nam thành
căn cứ quân sự, thuộc địa kiểu mới, tạo thành “con đê” ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản
tràn xuống Đông Nam Á, làm bàn đạp tấn công ra miền Bắc, đánh phá phong trào giải phóng
dân tộc, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, tiến hành “trưng cầu dân ý” ở
miền Nam, dùng bạo lực phản cách mạng đàn áp, khủng bố dã man nhân dân yêu nước miền
Nam. Những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ không được thực hiện, đất nước Việt Nam bị
chia cắt, khiến cách mạng miền Nam bị tổn thất rất nặng nề. Trong lúc đó, những tác động
phức tạp của tình hình quốc tế, đặc biệt là của những nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa, làm
cho phong trào cách mạng, lực lượng cách mạng thế giới bị chia rẽ. Giới cầm quyền hiếu
chiến Mỹ đã lợi dụng sự mâu thuẫn, chia rẽ đó để đẩy mạnh tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đứng trước thách thức nghiêm trọng, đòi hỏi phải có sự độc
lập, tự chủ trong quá trình hoạch định đường lối của cách mạng Việt Nam.
Xu hướng chung của nhân dân thế giới lúc này là mong muốn giải quyết các cuộc chiến
tranh, xung đột bằng thương lượng hòa bình, ngăn chặn sự bùng nổ cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba.
Các nước trong hệ thống XHCN thế giới, đặc biệt các nước lớn (Liên Xô, Trung Quốc)
bất đồng quan điểm về đường lối cách mạng và phương pháp tiến hành cách mạng.
Đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài 9 năm, hậu quả chiến tranh rất nặng nề,
kinh tế đình đốn, xuất phát điểm để xây dựng chủ nghĩa xã hội rất thấp. Lần đầu tiên Đảng
phải lãnh đạo đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền Nam, Bắc nên chưa có kinh nghiệm thực tiễn.
Tình hình quốc tế và trong nước đã ảnh hưởng đến quá trình hình thành đường lối kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng.
2.1.2. Quá trình hình thành và nội dung cơ bản đường lối cách mạng miền Nam
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa II) họp từ ngày 15
đến 18-7-1954, Đảng chủ động nhận diện kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ.
Nghị quyết Bộ Chính trị (9-1954) xác định nhiệm vụ của toàn Đảng là củng cố miền
Bắc, đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở miền Nam.
Tháng 1-1956 và tháng 6-1956, Bộ Chính trị họp và chuẩn bị văn kiện: Mấy vấn đề về
đường lối cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6- 1956 đã khẳng định một
hướng mới: cách mạng miền Nam cần kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang tự vệ.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tháng 12- 1957, xác
định đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thống nhất đất nước.
Tại Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương (khoá II), tháng 11- 1958, đường lối
cách mạng trong cả nước và của mỗi miền đã được hình thành một cách tổng quát.
Qua nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền Nam và
bản “Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ
uỷ Nam Bộ khởi thảo (8-1956), tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá II) họp tại Hà Nội bàn về đường lối cách mạng miền Nam. Hội nghị họp kỳ thứ
hai vào tháng 5-1959, thảo luận về chủ trương, đường lối và ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.
Trên cơ sở phân tích tình hình xã hội Việt Nam, Nghị quyết xác định: Cách
mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành đó là cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng có
quan hệ hữu cơ với nhau “Nếu không ra sức củng cố miền Bắc và tích cực đưa miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì không có chỗ dựa vững chắc để tranh thủ hòa bình thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Không kiên quyết đánh đổ ách thống trị của đế quốc và
phong kiến ở miền Nam, cụ thể là chế độ Mỹ - Diệm, thì cũng không thể tạo điều kiện thuận
lợi nhất để hòa bình thống nhất Tổ quốc” . 1
Về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Nghị quyết chỉ rõ: “Nhiệm vụ cơ bản là
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân
tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh” . 2
Nghị quyết xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến; Phương pháp cách mạng: dùng bạo lực
cách mạng của quần chúng nhân dân, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ
quyền thống trị của đế quốc và phong kiến; Chú trọng tăng cường công tác Mặt trận để mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân và công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là xây dựng Đảng bộ
miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị kết luận: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở
miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu
hiện nay của cách mạng, thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền
thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”3.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có vị trí và ý
nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết đã phản ánh và đáp
ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, thể hiện rõ bản
lĩnh cách mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng trong những thời điểm khó khăn của cuộc
kháng chiến. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã bổ sung và
phát triển những quan điểm và chủ trương của Nghị quyết 15. Đại hội khẳng định cần đồng thời tiến hành
hai chiến lược cách mạng ở hai miền và xác định vị
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002, tập 20, tr.62.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd tập 20, tr , .81.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 20, tr.82.
trí, nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền. Mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam (với vai trò là tiền tuyến lớn) với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (với vai
trò là hậu phương lớn). Cách mạng XHCN ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Cách
mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nghị quyết của Đại hội thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, không chỉ khơi dậy sức
mạnh tổng hợp của cả nước trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến mà còn là nền tảng, sự
định hướng cho bước phát triển tiếp theo của cả dân tộc khi đã hoàn thành công cuộc giải phóng.
2.2. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống M[, cứu nước từ 7-1954 đến 4-1975
2.2.1. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống chế độ thực dân
kiểu mới của đế quốc Mỹ từ 7-1954 đến 12-1960
Trong hoàn cảnh khó khăn của những năm 1955 - 1958, mặc dù bị đàn áp, khủng bố, tổn
thất rất nặng nề, nhưng các tổ chức Đảng ở miền Nam đã động viên và tổ chức được 12 triệu
lượt quần chúng đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau đòi nhà cầm
quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Giơnevơ, thực hiện các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân
sinh, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập, dân chủ, đấu tranh chống lại
sự khủng bố, đàn áp của quân đội và chính quyền Sài Gòn, đặc biệt là chống chính sách “tố
cộng”, “diệt cộng” tàn bạo của chúng.
Tuy nhiên, do Đảng chưa tìm được phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp nên
trong 4 năm (1955 - 1958), nhất là trong 2 năm (1957 - 1958), cách mạng miền Nam chịu
những tổn thất rất lớn.
Vào cuối giai đoạn này, thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, cách mạng miền
Nam vượt qua thử thách khốc liệt để chuyển từ đấu tranh chính trị lên khởi nghĩa từng phần.
Cao trào Đồng khởi năm 1960 đã đập tan từng mảng lớn chính quyền cơ sở của địch ở
nông thôn, đã làm phá sản một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới mà
đế quốc Mỹ dựng lên tại miền Nam Việt Nam, đưa cách mạng miền Nam vượt thoát ra khỏi
thời kỳ khó khăn, tổn thất, phát triển lên chiến tranh cách mạng.
Với thắng lợi của phong trào "Đồng khởi", cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn
lực lượng sang thế tiến công và chứng tỏ đường lối cách mạng của Đảng thể hiện trong Nghị
quyết Trung ương 15 là đúng đắn. Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập (20-12-1960) đánh dấu một bước phát triển
mới của cách mạng miền Nam.
2.2.2. Đảng lãnh đạo đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” từ 1- 1961 đến 5-1965
Ngày 20-1-1961, J.Kennơđi lên làm Tổng thống Hoa Kỳ, thông qua chiến lược toàn cầu
mới của Mỹ với tên gọi "Phản ứng linh hoạt". Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" là một bộ
phận trong chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt". Với công thức cố vấn, vũ khí Mỹ và
quân chủ lực Việt Nam Cộng hòa, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai thực hiện kế
hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng với tên gọi Kế hoạch Xtalây - Taylo; xương
sống của kế hoạch này là quốc sách lập ấp chiến lược. Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa dự định lập
17.000 ấp chiến lược, thực hiện "tát nước, bắt cá", tách nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng,
bình định nông thôn miền Nam.
Tháng 1-1961, Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về “Phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”, quyết định chuyển cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng và chỉ rõ những
nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng miền Nam là phải tiêu hao, tiêu diệt lực lượng quân đội Sài
Gòn và làm phá sản quốc sách ấp chiến lược của địch.
Ngày 23-1-1961, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) quyết
định thành lập Trung ương Cục miền Nam
Tháng 12-1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, xác định những vấn đề quan
trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng. Nghị quyết
Trung ương lần thứ 9 đã xác định "đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định trực tiếp" thắng lợi trên chiến trường.
Tháng 3-1964, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, biểu thị khối đại
đoàn kết và quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng, quân và dân miền Nam đã
lập chiến công ở Ấp Bắc (2-1-1963). Chiến thắng Ấp Bắc thể hiện sức mạnh và hiệu quả của
đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, chống địch càn quét và nổi dậy
giành quyền làm chủ. Sau chiến thắng Ấp Bắc, một phong trào thi đua với Ấp Bắc được đẩy
mạnh khắp miền Nam. Chiến thắng Bình Giã (12-1964), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài (7-
1965) đã sáng tạo một hình thức tiến công, phương châm tác chiến độc đáo ở miền Nam là : 2
chân (quân sự, chính trị), 3 mũi (quân sự, chính trị, binh vận), 3 vùng (đô thị, nông thôn đồng bằng, miền núi).
Với tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ năm 1961 đến giữa năm 1965), lực
lượng cách mạng đã làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở miền
Nam. Ba trụ cột của chiến lược này là xây dựng chính quyền mạnh, xây dựng quân đội Việt
Nam Cộng hoà mạnh và bình định nông thôn miền Nam đều không thực hiện được. Chính
quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1-11-1963) đã gây nên tình hình rối loạn kéo dài trên chính
trường miền Nam thời gian sau đó.
2.2.3. Đảng lãnh đạo đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” từ 5-1965 đến 12-1968
"Chiến tranh cục bộ" là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu "Phản ứng
linh hoạt" của Mỹ. Đế quốc Mỹ đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước Đồng minh của Mỹ
vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn
đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình định. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu
miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Trước tình hình cách mạng miền Nam diễn biến hết sức phức tạp, vận mệnh dân tộc
đứng trước những thách thức nghiêm trọng, Đảng kiên định lập trường, lãnh đạo nhân dân
kiên quyết kháng chiến. Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp, ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước ,
mắt quyết định chuyển
toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại và văn hóa, giáo dục, đảm bảo cho miền Bắc có đầy đủ sức
mạnh đánh thắng không quân, hải quân Mỹ; duy trì và giữ vững sản xuất, tăng khả năng chi
viện cho chiến trường miền Nam.
Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích một cách
toàn diện chiến lược và hành động mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Hội nghị kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh,
cuộc chiến đấu của quân và dân ta sẽ khó khăn, gian khổ gấp bội nhưng do quân Mỹ vào trong
thế thua, thế bị động nên lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không có sự thay đổi lớn. Vì
thế, cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Kết hợp đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị, nhưng đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp.
Phương châm là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Hội nghị hạ quyết tâm chiến lược:
“Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”1.
Quân và dân miền Nam đánh thắng Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Bầu Bàng, Đất Cuốc,
Plâyme..., đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, làm
thất bại kế hoạch tìm và diệt, bình định nhằm giành quyền chủ động trên chiến trường của
quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Miền Bắc bước đầu đánh thắng chiến tranh phá hoại, đảm bảo
giao thông thông suốt, chi viện cho chiến trường ngày càng nhiều và hiệu quả.
Kết hợp với những thắng lợi về quân sự và chính trị, ngày 28-1-1967, Hội nghị lần thứ
13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, bè bạn, mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm, phát huy sức
mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.
Phát huy thắng lợi đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ và Quân đội
Việt Nam Cộng hòa, tháng 12-1967, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về "tổng công kích, tổng khởi
nghĩa". Nghị quyết của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 14 họp tháng 1-1968 thông qua.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31- 1-1968
(giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968), quân và dân miền Nam đồng loạt nổ súng tổng tiến công
và nổi dậy, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não địch ở trung ương và địa phương, tại hàng
trăm thị xã, thị trấn, căn cứ quân sự của Mỹ, từ Đường 9 - Khe Sanh đến đồng bằng sông Cửu
Long, đặc biệt mạnh mẽ vang dội ở Sài Gòn - Gia Định, Huế.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương táo bạo và sáng tạo
của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một đòn tiến công chiến lược đánh
vào tận hang ổ kẻ thù. Đây là thất bại chiến lược có tính chất bước ngoặt, khởi đầu quá trình
đi đến thất bại hoàn toàn của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Chiến lược "chiến tranh cục bộ" của
đế quốc Mỹ phá sản. Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với Việt Nam từ ngày 13-5-1968 tại
Pari. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố: ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở ra phía Bắc (31-
3) và sau đó ngừng hoàn toàn việc ném bom miền Bắc từ 1-11-1968; không ra tranh cử Tổng
thống nhiệm kỳ thứ hai; bác bỏ đề nghị tăng thêm quân Mỹ đến miền Nam, triệu hồi tướng
Oétmolen, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam về nước.
Sau các đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, địch đã phản kích quyết liệt, đẩy
chủ lực ta ra xa khỏi các thành thị, các vùng ven, vùng đồng
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Sđd, tr. 634.
bằng, tiến hành bình định trên quy mô lớn, đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp nhằm triệt
phá cơ sở cách mạng miền Nam.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Đảng mắc sai lầm, khuyết
điểm nghiêm trọng: chủ quan trong đánh giá tình hình nên đề ra yêu cầu quá cao, chưa sát
thực tế. Trong hai đợt tổng tiến công và nổi dậy tiếp theo vào tháng 5-1968 và tháng 8-1968,
Đảng chủ trương tiếp tục tiến công và nổi dậy ở các đô thị khi không còn điều kiện thuận lợi
và bất ngờ nữa, lực lượng của ta đã mỏi mệt, tổn thất, là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, điều đó
làm cho thế trận và lực lượng cách mạng gặp nhiều khó khăn và tổn thất lớn. Đảng đã kết
luận: “Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà nhất là đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên
bước ngoặt quyết định của chiến tranh. Nhưng sau đó ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các
đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây
cho ta nhiều khó khăn, tổn thất” . 1
2.2.4. Đảng lãnh đạo đánh bại chiến lược"Việt Nam hoá chiến tranh" từ 1- 1969 đến 4- 1975
Ngày 20-1-1969, R. Ních-xơn lên làm Tổng thống của nước Mỹ, đưa ra chiến lược chiến
tranh mới: "Việt Nam hóa chiến tranh" với các nội dung: từng bước rút quân chiến đấu Mỹ về
nước, nỗ lực xây dựng quân đội và bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa để có thể thay thế
quân Mỹ; dùng người Việt đánh người Việt; đẩy mạnh thực hiện chính sách bình định nông
thôn; đánh vào hậu phương quốc tế của Việt Nam.
Thực hiện chiến lược này, Mỹ tăng cường viện trợ, xây dựng quân đội Sài Gòn về mọi
mặt, mặt khác tiến hành các cuộc hành quân càn quét và tiếp tục thực hiện chương trình bình
định. Mỹ coi chương trình bình định là biện pháp, mục đích và chìa khoá của Việt Nam hoá
chiến tranh, đồng thời Mỹ tìm cách mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.
Trong thời gian đầu đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, do
Đảng phạm sai lầm trong nửa cuối năm 1968, không nhận thức đầy đủ, kịp thời âm mưu mới
của địch, không đánh giá đúng mức tính chất thâm độc của các kế hoạch bình định nông thôn,
không tập trung đúng mức sự chỉ đạo và lực lượng đối phó, nên trước sự phản kích mãnh liệt
của địch, chiến tranh nhân dân địa phương và thế trận của cuộc kháng chiến bị suy giảm nặng nề.
Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ:
đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn công, vừa xây dựng lực lượng, giành
thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, tạo
1 Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 23-4-1994. Xem Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị:
Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H.2000, tr.160.
điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.
Sau Hội nghị lần thứ 18, Đảng chỉ đạo cách mạng miền Nam vượt qua khó khăn gian
khổ, kiên trì xây dựng và phát triển lực lượng, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh
bại từng bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của
đế quốc Mỹ trong những năm 1970-1971. Tại chiến trường Lào, đầu năm 1970, Mỹ và lực
lượng đặc biệt của Vàng
Pao mở cuộc hành quân lấn chiếm khu vực chiến lược Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng. Thực
hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng hai nước, liên quân Lào- Việt Nam đã phối hợp mở chiến
dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của kẻ thù, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu
của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía Tây miền Bắc Việt Nam và tuyến vận tải Tây Trường Sơn.
Các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam phối hợp với lực lượng kháng chiến
Campuchia kịp thời phản công địch, đánh bại cuộc hành quân của 10 vạn quân Mỹ và quân
đội Việt Nam Cộng hòa sang Đông Bắc Campuchia (5-1970), giữ vững căn cứ và vùng giải
phóng ở Đông - Bắc Campuchia, kiểm soát được nhiều vùng nông thôn rộng lớn, buộc đế
quốc Mỹ phải rút quân ra khỏi Campuchia (6-1970).
Năm 1971, quân và dân Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào chủ động mở chiến
dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719”
của Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào. Quân và dân Việt Nam đã
phối hợp với quân và dân Campuchia đập tan cuộc hành quân “Toàn thắng 1-1971” của Mỹ
đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại Đông - Bắc Campuchia.
Đế quốc Mỹ đối phó bằng cách vội vã “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam,
mở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đánh phá trở lại miền Bắc từ đầu tháng 4-1972 bằng
thủ đoạn hủy diệt tàn bạo. Tổng thống Mỹ Ních xơn đã sử dụng chính sách ngoại giao thâm
độc, chia rẽ và cô lập Việt Nam bằng việc thực hiện hai chuyến thăm Trung Quốc (2-1972) và
Liên Xô (5-1972), khiến cho cuộc kháng chiến của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trên cơ sở của
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5-1971 và Hội nghị Quân ủy Trung ương 6-1971, đã đề ra nhiệm
vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là: "Với tinh thần kiên trì kháng chiến cho đến thắng
lợi hoàn toàn, phải động viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, anh dũng tiến lên, đẩy mạnh cuộc
kháng chiến, đoàn kết phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân và dân Lào, quân và dân Campuchia, đánh bại
chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, đánh bại học thuyết Ních xơn, giành thắng lợi
to lớn hơn nữa cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước" . 1
Ngày 23-2-1972, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch
cuộc tiến công chiến lược Xuân Hè 1972.
Ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc tiến công Xuân Hè 1972 trên toàn miền Nam với
chiến trường chính là Trị Thiên, chiến trường phối hợp là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược 1972 đã làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam.
Cùng với thắng lợi ở miền Nam, quân và dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá
hoại lần thứ hai của Mỹ, lập nên chiến công lịch sử Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không 12
ngày đêm cuối tháng 12-1972, buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán để ký kết Hiệp định Pari.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Pari đã kéo dài suốt 4 năm 8 tháng 20 ngày
với 202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1000 cuộc phỏng
vấn, đã kết thúc vào ngày 27-1-1973 với "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam". Hiệp định Pari đã được ký kết, nhưng miền Nam vẫn chưa có hòa bình.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngang nhiên vi phạm Hiệp định Pari, thực hiện nhiều
hành động khủng bố trong vùng chúng kiểm soát và tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng.
Tháng 7-1973 và tháng 10-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã ra bản Nghị quyết:"Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm
vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới."
Hội nghị dự kiến hai khả năng của cách mạng miền Nam: một là, có thể từng bước buộc
địch thi hành Hiệp định Pari. Hai là, lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại
địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở phân tích âm mưu, hành động của địch, đánh giá
lực lượng so sánh, lường định diễn biến của tình hình chiến trường trong nước và trên thế
giới, Hội nghị khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực
cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối
chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”2.
1 Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Tập 2, Sđd, tr. 521
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Sđd, tr. 232.