lOMoARcPSD| 47028186
Trường Đại Học Mở Hà Nội
Khoa Luật
Môn học: Luật Hình sự
Đề bài: Anh/chị hãy phân tích nguyên tắc phân hoá
trách nhiệm hình sự và nêu thực tiễn thi hành nguyên
tắc này thời gian qua
Giảng viên : Thiều Cẩm Sơn
Họ và tên : Đỗ Thu An
Mã sinh viên : 22A5001D0001
Lớp: 2250A02
Ngành: Luật
Hà Nội, ngày 29, tháng 03, năm 2023
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 47028186
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
I. Phân hoá trách nhiệm hình sự
1 .Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
1.1 . Khái niệm phân hoá trách nhiệm hình sự
1.2 . Các đặc điểm của phân hoá trách nhiệm hình sự
1.3 . Các giới hạn của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
1.4 . Các mức độ phân hoá trách nhiệm hình sự
II . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
1 . Khái niệm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
2.Các biểu hiện của phân hoá TNHS trong luật
3 . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
4 .Một số điểm nổi bật trong việc áp dụng nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình
sự tại Việt Nam gồm
III. Thực tiễn thi hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự thời gian
qua
PHẦN KẾT
Danh mục tài liệu tham khảo
Bài làm
PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như các ngành luật khác , ngành luật hình sự được xây dựng trên
những nguyên tắc nhất định , trong đó những nguyên tắc nhất định,
lOMoARcPSD| 47028186
trong đó những nguyên tắc chung cho cả hệ thống pháp luật
nguyên tắc đặc thù cho ngành luật hình sư.Nguyên tắc phân hoá trách
nhiệm hình sự một nguyên tắc quan trọng trong lĩnh vực hình sự.
Nguyên tắc này chràng , chỉ những hành vi vi phạm pháp luật
mới bị trừng phạt , chỉ các nhân vật liên quan đến hành vi đó
mới chịu trách nhiệm hình sự
PHẦN NỘI DUNG
I. Phân hoá trách nhiệm hình sự
1 .Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
1.1 . Khái niệm phân hoá trách nhiệm hình sự
-Phân hoá trách nhiệm hình sự là một trong những khái niệm thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước . Xung quanh
vấn đề nội hàm của khái niệm đã nêu ra hai nhóm quan điểm sau:
+Nhóm 1: Các tác giả không có sự phân biệt giữa nguyên tắc phân hoá TNHS
và nguyên tắc cá thể hoá TNHS mà cho rằng chúng là nguyên tắc tồn tại xuyên
suốt từ hoạt động xây dựng pháp luật (mà kết quả là các quy phạm pháp luật
hình sự) đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự (kết quả là bản án, quyết định
của toà án). Theo quan điểm này có thể sử dụng các tên gọi khác nhau như
nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, nguyên tắc phân hoá và cá thể hoá TNHS
nhưng chúng đều được hiểu là những khái niệm thể hiện thái độ xử lí có phân
biệt của Nhà nước đối với các trường hợp phạm tội khác nhau, chúng được thể
hiện trong các quy phạm pháp luật hình sự, trong các văn bản giải thích, hướng
dẫn áp dụng pháp luật hình sự cũng như trong hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự.
Giữa quan điểm thuộc nhóm này chỉ tồn tại sự khác biệt ở phần nội hàm của
khái niệm có liên quan đến phần thể hiện trong hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự (chỉ bao gồm hoạt động quyết định hình phạt hay bao gồm cả điều tra, truy tố
và chấp hành hình phạt) nhưng đều khẳng định nguyên tắc này vừa được thể
hiện trong luật vừa được thể hiện trong hoạt động áp dụng luật.(1)
+ Nhóm 2: Các tác giả có sự phân biệt rõ ràng khái niệm phân hoá TNHS với
khái niệm cá thể hoá TNHS và xác định phân hoá TNHS là nguyên tắc được thể
lOMoARcPSD| 47028186
hiện trong luật còn cá thể hoá TNHS là nguyên tắc được thể hiện trong hoạt
động áp dụng luật. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hoà đă thể hiện rõ quan điểm này
khi khẳng định: “Vấn đề phân hoá và cá thể hoá TNHS được đặt ra và được coi
là một nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này không chỉ có ý
nghĩa khi áp dụng luật hình sự mà đi hỏi trước hết phải có sự phân hoá TNHS 
ngay trong luật và đó là cơ sở để có thể cá thể hoá TNHS trong thực tiễn áp
dụng luật”.(2) Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì phân hoá TNHS và
cá thể hoá hình phạt được xác định là những nguyên tắc độc lập với quan điểm
“Để cá thể hoá hình phạt trong khi áp dụng luật đi hỏi phải có sự phân hoá 
TNHS trong luật và giải thích luật. Trách nhiệm hình sự càng được phân hoá
trong luật và trong giải thích luật thìì càng có cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt
trong áp dụng”.(3)
Những nghiên cứu trên cho thấy hiện nay các nhà khoa học pháp lí hình
sự chưa có quan điểm thống nhất trong việc xác định khái niệm phân hoá
TNHS. Sự không thống nhất này có thể là một trong những nguyên nhân hạn
chế việc nghiên cứu sâu ở mức độ cần thiết nguyên tắc quan trọng này về mặt lí
luận nhằm tạo cơ sở để chúng phát huy hết giá trị trong thực tiễn lập pháp và áp
dụng pháp luật.
Từ việc phân tích các quan điểm cho rằng việc tách riêng hai khái niệm
phân hoá TNHS và cá thể hoá TNHS (cá thể hoá hình phạt) với các nội hàm
khác nhau sẽ làm cho cách hiểu về mỗi khái niệm phù hợp chính xác với tên của
mỗi khái niệm đó.
Khái niệm phân hoá TNHS được thể hiện trong luật với nội dung quy định
đường lối xử lí có phân biệt đối với từng loại trường hợp phạm tội nhất định còn
khái niệm cá thể hoá TNHS được thể hiện trong hoạt động áp dụng luật với nội
dung vận dụng đường lối xử lí theo nguyên tắc phân hoá TNHS để giải quyết
vấn đề TNHS cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt.
Chỉ trong thực tiễn áp dụng pháp luật, gắn với từng trường hợp phạm tội cụ thể,
gắn với từng người thực hiện hành vi phạm tội cụ thể mới có thể sử dụng khái
niệm cá thể hoá TNHS. Ngược lại, khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình
sự, nhà làm luật chỉ có thể dự liệu và phân định ra các loại trường hợp phạm tội
có thể xảy ra trong thực tiễn khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă
hội hoặc do những nhóm đối tượng khác nhau thực hiện. Trong trường hợp này
sử dụng khái niệm phân hoá TNHS lại là phù hợp
Như vậy, nguyên tắc phân hoá TNHS và nguyên tắc cá thể hoá TNHS là
những 4 nguyên tắc riêng biệt trong đó phân hoá TNHS là nguyên tắc xuyên
suốt trong pháp luật hình sự thể hiện việc quy định đường lối xử lí có phân biệt
đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xă hội của tội phạm và các đặc điểm về nhân thân người thực hiện tội phạm
còn cá thể hoá TNHS là nguyên tắc thể hiện trong hoạt động áp dụng luật hình
sự, là việc cơ quan áp dụng pháp luật vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự
(đă được xây dựng theo nguyên tắc phân hoá TNHS) để xác định TNHS (với
loại và mức cụ thể) cho từng người phạm tội trong từng trường hợp phạm tội
riêng biệt với yêu cầu: “Làm cho hình phạt được tuyên phù hợp với tính chất,
lOMoARcPSD| 47028186
mức độ nguy hiểm cho xă hội của hành vi phạm tội, phù hợp với nhân thân
người phạm tội cũng như hoàn cảnh phạm tội của họ”.(4)
=> Như vậy, có thể thấy hai nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
trong đó nguyên tắc phân hoá TNHS tạo ra cơ sở, nền tảng để có thể tiến hành
cá thể hoá TNHS và ngược lại, nguyên tắc cá thể hoá TNHS chính là sự triển
khai vận dụng trong thực tiễn xét xử tư tưởng phân hoá TNHS, là cầu nối trực
tiếp để nguyên tắc phân hoá TNHS thể hiện giá trị.
1.2 . Các đặc điểm của phân hoá trách nhiệm hình sự
Từ những phân tích nêu trên có thể xác định các đặc điểm của nguyên tắc phân
hoá TNHS như sau:
1.2.1. Phân hoá TNHS là nguyên tắc của hoạt động xây dựng pháp luật (hình
sự)
Phân hoá TNHS với nội dung tạo ra các quy phạm pháp luật hình sự thể
hiện đường lối xử lí có phân biệt của Nhà nước đối với những loại trường hợp
phạm tội có sự khác biệt nhất định đi hỏi phải được nhà làm luật sử dụng như là
một  nguyên tắc cơ bản khi thực hiện hoạt động xây dựng pháp luật. Tinh thần
của nguyên tắc này cần phải được thể hiện xuyên suốt trong pháp luật hình sự,
cả trong các quy định thuộc phần chung và các quy định thuộc phần các tội
phạm một cách thống nhất nhằm tạo ra đường lối xử lí có phân hoá rõ nét mà cơ
quan áp dụng pháp luật có thể vận dụng dễ dàng để giải quyết vấn đề TNHS đối
với từng trường hợp phạm tội cụ thể trong thực tiễn.
1.2.2. Phân hoá TNHS có nội dung là việc quy định đường lối xử lí có phân
biệt đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau
Trong đời sống thực tiễn, các hành vi phạm tội được thực hiện rất phong
phú, đa dạng và có thể đi hỏi phải có những cách thức xử lí khác nhau nhằm đạt
được
mục đích bảo vệ các quan hệ xă hội, giáo dục người phạm tội. Thực trạng
đó đi  hỏi nhà làm luật phải dự liệu được một cách cơ bản về sự khác biệt giữa
các trường hợp phạm tội có thể xảy ra trong thực tiễn và quy định cho chúng
một “liều lượng” TNHS cần thiết, hợp lí. Mức độ phân hoá trong đường lối xử lí
mà nhà làm luật quy định đi hỏi phải tương ứng với sự đa dạng, phức tạp của
các  hành vi phạm tội được thực hiện trong thực tiễn sao cho các quy phạm pháp
luật có thể là cơ sở pháp lí để xác định đúng TNHS phù hợp cho mỗi trường hợp
phạm tội riêng biệt.
1.2.3. Phân hoá TNHS được thực hiện dựa trên sự khác biệt về tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm và các đặc điểm nhân thân người phạm
tội
Đây chính là những dấu hiệu thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa các trường
hợp phạm tội khác nhau, chúng thể hiện các quan hệ xă hội cần được bảo vệ bị
đặt vào các tình trạng nguy hiểm khác nhau đồng thời cũng thể hiện loại và mức
lOMoARcPSD| 47028186
độ TNHS mà Nhà nước cần phải áp dụng đối với người phạm tội trong trường
hợp đó.
Căn cứ để tiến hành phân hoá TNHS được hiểu là những tiêu chí giúp nhà
làm luật xác định được những nhóm trường hợp phạm tội khác nhau mà xuất
phát từ đi hỏi của các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự như nguyên tắc nhân
đạo,  nguyên tắc công bằng, nhà làm luật cần quy định đối với từng nhóm “liều
lượng” TNHS phù hợp. Khi bàn đến vấn đề TNHS, nhà làm luật bao giờ cũng
phải tính đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm và những
đặc điểm nhân thân người phạm tội. Nói cách khác, đây chính là các căn cứ của
việc phân hoá TNHS.
Trước hết, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm được xác
định là căn cứ quan trọng hàng đầu mà nhà làm luật phải cân nhắc trong mọi
trường hợp phân hoá TNHS. Với vai trò là chuẩn đánh giá so sánh tính nguy
hiểm cho xă hội giữa các trường hợp phạm tội khác nhau, tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xă hội của tội phạm thể hiện rõ mức độ cần thiết của vai trò bảo
vệ của Nhà nước đối với các quan hệ xă hội bị xâm hại. Hành vi có tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xă hội càng cao càng đi hỏi ở mức độ lớn hơn sự can 
thiệp, bảo vệ của Nhà nước thông qua việc quy định TNHS.
- Khi sử dụng căn cứ này nhà làm luật cần lựa chọn những trường hợp phạm tội
có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội để xếp vào cùng một nhóm (
dụ: Những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia không thể được quy định chung
nhóm với những hành vi phạm tội khác; những hành vi xâm phạm tính mạng
không thể xếp vào cùng nhóm với những hành vi xâm phạm sức khoẻ của con
người), tránh tình trạng xếp những hành vi khác nhau về tính chất, mức độ nguy
hiểm vào cùng một nhóm.
-Việc phân nhóm đúng các hành vi có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xă hội là yêu cầu quan trọng đầu tiên của nguyên tắc phân hoá TNHS, đây chính
là cơ sở để quy định TNHS phù hợp đối với từng nhóm. Điều này cho thấy đối
với những trường hợp tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm
tương đương nhau thì không nên chia tách thành nhiều nhóm, điều đó có thể dẫn
đến tình trạng quy phạm pháp luật trở nên vụn vặt, ngược lại, cũng không nên
nhập những trường hợp phạm tội có sự khác nhau rõ rệt về tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xă hội vào cùng một nhóm và quy định cho chúng một khung chế
tài có biên độ dao động lớn Vì điều đó lại tạo ra những quy phạm pháp luật có
tính phân hoá (TNHS) không cao, dễ dẫn đến sự vận dụng tuỳ tiện, không thống
nhất trong thực tiễn xét xử.
-Đồng thời với việc phân nhóm hành vi, nhà làm luật cũng cần cân nhắc tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của từng nhóm trường hợp phạm tội để quy
định cho chúng “liều lượng” TNHS phù hợp. TNHS phù hợp được quy định và
áp dụng đối với người phạm tội là một trong những điều kiện giữ vai trò quyết
định để thực hiện được mục tiêu bảo vệ các quan hệ xă hội trước các hành vi
lOMoARcPSD| 47028186
phạm tội thông qua việc tác động giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm
tội mới cũng như giáo dục, răn đe các thành viên khác trong xă hội.
-Với mỗi nhóm đă được phân hoá nói trên nhà làm luật cần cân nhắc để quy
định một cách phù hợp nhất loại và có thể cả khoảng mức độ TNHS nên áp dụng
đối với họ. Nhà làm luật phải xác định rõ nhóm được miễn hoặc có thể được
miễn TNHS, nhóm không cần áp dụng hình phạt, nhóm cần phái áp dụng hình
phạt (theo loại, khoảng mức hình phạt) v.v.. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xă hội của tội phạm tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa các hành vi phạm tội được
thực hiện trên thực tế và theo nguyên tắc về sự tương xứng giữa TNHS với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm được thực hiện, nhà làm luật
cần phải quy định TNHS tỉ lệ thuận với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội
của tội phạm.
Ngoài căn cứ trên, khi tiến hành phân hoá TNHS nhà làm luật cũng cần
tính đến các đặc điểm về nhân thân người thực hiện tội phạm. Căn cứ này được
tính đến trong trường hợp nhà làm luật thấy rằng các đặc điểm về nhân thân của
người phạm tội nói chung hoặc của người thực hiện hành vi phạm tội nhất định
có thể phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm (ví dụ: Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm), phản ánh khả năng giáo dục đối với người phạm tội
(ví dụ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) hoặc thể hiện hoàn
cảnh đặc biệt của họ (ví dụ: Người phạm tội là phụ nữ có thai).
-Trường hợp các đặc điểm về nhân thân người thực hiện tội phạm ảnh hưởng
đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm thì đương nhiên những
đặc điểm này phải được cân nhắc như căn cứ thứ nhất nói trên. Trường hợp các
đặc điểm về nhân thân phản ánh khả năng giáo dục của người thực hiện tội phạm
cũng đi hỏi nhà làm luật cân nhắc khi xác định TNHS đối với họ tương
ứng với
mức độ khả năng giáo dục được phản ánh Vì mục đích hàng đầu của việc áp
dụng TNHS đối với người phạm tội là nhằm giáo dục họ. Điều đó thể hiện rằng
nếu khả năng giáo dục đối với nhóm người phạm tội nào đó càng cao thì loại
mức TNHS áp dụng đối với họ càng nên hạn chế.
-Ngoài ra, TNHS còn cần được phân hoá dựa trên các đặc điểm nhân thân
phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà xuất phát từ nguyên tắc
nhân đạo xă hội chủ nghĩa Nhà nước cần quy định đối với họ TNHS nhẹ hơn so
với những trường hợp khác. Tương tự như khi phân hoá TNHS dựa vào các đặc
điểm nhân thân thuộc các trường hợp nói trên, khi phân hoá TNHS dựa vào các
đặc điểm về nhân thân phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội nhà làm
luật cũng cần cân nhắc mức độ đặc biệt của hoàn cảnh được phản ánh để phân
hoá TNHS tối đa đối với h
.
1.3 . Các giới hạn của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
lOMoARcPSD| 47028186
Phân hoá TNHS là hoạt động góp phần tạo ra đường lối xử lí có phân biệt
đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau, đối với các nhóm chủ thể thực
hiện tội phạm khác nhau và là cơ sở để tiến hành cá thể hoá TNHS trong áp
dụng luật hình sự. Việc xác định đúng các giới hạn phân hoá TNHS là yêu cầu
quan trọng gắn liền với việc đạt được mục đích của nguyên tắc này. Để có thể
tạo ra cơ sở pháp lí cần thiết phục vụ cho việc cá thể hoá TNHS trong thực tiễn,
việc phân hoá TNHS phải đồng thời giải quyết được hai yêu cầu liên quan đến
giới hạn của việc phân hoá TNHS sau đây:
1. Phải thể hiện được đường lối xử lí khác biệt ở mức tối đa đối với các loại
trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội và
các đặc điểm nhân thân người phạm tội;
2. Phải tránh hiện tượng quy định cụ thể hướng xử lí đối với từng nhóm
trường hợp phạm tội quá nhỏ, làm cho quy phạm pháp luật trở thành vụn vặt.
Một mặt, có thể khẳng định rằng việc phân hoá TNHS càng triệt để thì càng tạo
thuận lợi cho việc cá thể hoá TNHS. Khi tiến hành cá thể hoá TNHS, người áp
dụng pháp luật phải sử dụng các quy phạm pháp luật đă được xây dựng theo
nguyên tắc phân hoá TNHS để giải quyết vấn đề TNHS cho từng trường hợp
phạm tội cụ thể.
-Trong thực tiễn xét xử những trường hợp này lại rất phong phú, đa dạng, giữa
chúng có thể tồn tại sự khác biệt rất lớn tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội
của tội phạm hoặc về các đặc điểm của nhân thân người thực hiện tội phạm.
-Trong khi đó, việc đánh giá các căn cứ này ở các chủ thể khác nhau lại có thể
không giống nhau, thậm chí có thể khác nhau một cách rõ rệt. Điều đó có thể
dẫn đến tình trạng TNHS được áp dụng đối với người phạm tội không phù hợp
với yêu cầu giải quyết vụ việc đó (quá nặng hoặc quá nhẹ).
-Vì vậy, có thể khẳng định rằng sự phân hoá TNHS trong luật càng cao thì càng
tạo cơ sở pháp lí để hạn chế tình trạng tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật hình sự
và do đó nguyên tắc cá thể hoá TNHS càng được thực hiện một cách triệt để và
thống nhất. Với những quy phạm pháp luật mà nguyên tắc phân hoá TNHS thể
hiện một cách mờ nhạt, đường lối xử lí mang tính khái quát, chung chung thì
việc vận dụng chúng để giải quyết vấn đề TNHS đối với từng trường hợp phạm
tội riêng biệt gặp rất nhiều khó khăn và khó có thể đi đến thống nhất. -Mặt
khác, cũng cần khẳng định rằng gắn liền với tính khái quát của các quy phạm
pháp luật hình sự nơi mà nguyên tắc phân hoá TNHS được thể hiện việc phân
hoá TNHS cũng không thể được thực hiện một cách quá chi tiết, cụ thể. Phân
hoá TNHS chỉ được dừng lại ở nấc cuối cùng ở việc tạo ra đường lối xử lí có
phân hoá (khác biệt) tương xứng với từng nhóm trường hợp phạm tội tương
đương nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội hay giống nhau về các
đặc điểm của nhân thân người thực hiện hành vi.
lOMoARcPSD| 47028186
- Nếu nhà làm luật vượt qua ranh giới này để quy định cụ thể phương án giải
quyết vấn đề TNHS cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt hoặc từng nhóm
nhỏ các trường hợp phạm tội riêng biệt sẽ dẫn đến tình trạng họ làm thay công
việc cá thể hoá TNHS của người áp dụng pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là
quy phạm pháp luật bị tước mất tính khái quát cần thiết, khi đó những quy phạm
này sẽ trở thành vụn vặt và hoàn toàn có thể trở thành nguyên nhân của hiện
tượng người áp dụng pháp luật bị trói tay trước những tình huống đa dạng, phức
tạp trong thực tiễn.
Xuất phát từ hai yêu cầu đó, việc phân hoá TNHS phải được tiến hành
theo các giới hạn sau đây:
1.3.1. Phân hoá giữa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự với các
trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự
Theo giới hạn này, nhà làm luật cần quy định rõ nhóm những trường hợp
hành vi tuy cấu thành tội phạm nhưng có những dấu hiệu phản ánh mức độ gây
nguy hại cho xă hội hoặc các đặc điểm của nhân thân người thực hiện hành vi
cho thấy có thể đạt được mục đích giáo dục người phạm tội, bảo vệ các quan hệ
xă hội tương ứng mà không cần buộc họ phải chịu TNHS và ngược lại là nhóm
những trường hợp phạm tội nhất thiết phải áp dụng TNHS đối với người phạm
tội. Khi quy định nhóm thứ nhất nói trên nhà làm luật không những phải chỉ rõ
các điều kiện để được xếp vào nhóm đó mà còn cần phải phân hoá thành những
trường hợp được miễn TNHS và những trường hợp chỉ có thể được miễn TNHS.
1.3.2. Phân hoá giữa các trường hợp không phải chịu biện pháp cưỡng chế về
hình sự với các trường hợp phải chịu biện pháp cưỡng chế về hình sự và mang
án tích
Nếu hiểu TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: Nghĩa vụ phải
chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế về hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích(5) thì
trong các quy phạm pháp luật hình sự nhà làm luật cần tiếp tục phân hoá đường
lối xử lí đối với những hành vi cùng phải chịu TNHS thành những hành vi cần
phải áp dụng hình phạt hay các biện pháp tư pháp và chịu mang án tích với
những trường hợp không cần áp dụng biện pháp cưỡng chế này.
1.3.3. Phân hoá giữa những trường hợp phải chịu hình phạt với những trường
hợp áp dụng biện pháp tư pháp
Với vai trò là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước có nội
dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội (người bị kết án),
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh
(lananh14062003@gmail.com)
hình phạt thể hiện tính cưỡng chế nghiêm khắc cao hơn rõ rệt so với các biện
pháp tư pháp.
Vì vậy, đối với những trường hợp cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế của
TNHS cũng đi hỏi phải được phân hoá ở mức độ cao hơn để cơ quan áp dụng có
thể phân định được những trường hợp cần áp dụng hình phạt và những trường
hợp chỉ cần áp dụng biện pháp tư pháp.
1.3.4. Phân hoá giữa các trường hợp chịu các loại hình phạt hoặc các loại biện
pháp tư pháp khác nhau
Đây là giới hạn cuối cùng của việc phân hoá TNHS. Giới hạn này cũng
xuất phát chính từ tính đa dạng, phong phú của các hành vi phạm tội được thực
hiện. Giới hạn này thể hiện qua việc nhà làm luật tiếp tục phân thành nhóm nhỏ
hơn những hành vi đă được lựa chọn và xếp vào nhóm áp dụng hình phạt hay
nhóm áp dụng biện pháp tư pháp. Theo quy định của pháp luật hình sự, cả hình
phạt và biện pháp tư pháp đều có thể bao gồm nhiều loại khác nhau, chúng thể
hiện những mức độ cưỡng chế nghiêm khắc khác nhau và vì vậy nhà làm luật
cần quy định rõ từng loại hình phạt hay loại biện pháp tư pháp cụ thể được áp
dụng gắn với từng nhóm hành vi phạm tội nhất định
.1.4 . Các mức độ phân hoá trách nhiệm hình sự
Trong luật hình sự việc phân hoá TNHS được tiến hành theo nhiều mức
độ khác nhau. Tính theo sự thu hẹp dần về phạm vi phân hoá TNHS, có thể xác
định các mức độ phân hoá sau đây: Phân hoá TNHS theo chế định, phân hoá
TNHS theo quy phạm pháp luật và phân hoá TNHS trong phạm vi từng quy
phạm.
1.4.1. Phân hoá trách nhiệm hình sự theo chế định
Việc phân hoá TNHS theo chế định được hiểu là việc nhà làm luật tạo ra
đường lối xử lí khác biệt đối với một loại trường hợp phạm tội bằng cách xây
dựng chế định riêng liên quan đến vấn đề TNHS của những người thực hiện
những hành vi phạm tội dựa trên những đặc điểm nhân thân của người phạm tội,
cách thức thực hiện hành vi phạm tội của họ hoặc dựa trên tính chất của nhóm
quan hệ xă hội mà hành vi phạm tội xâm hại. Ở mức độ phân hoá này, tất cả
những trường hợp phạm tội cần được xử lí bằng đường lối riêng, được xếp vào
cùng một chế định với những quy định rõ ràng về điều kiện áp dụng, loại và
mức TNHS được áp dụng đối với người phạm tội. Biểu hiện rõ rệt của việc phân
hoá TNHS ở mức độ này là việc xây dựng các chế định TNHS đối với người
chưa thành niên phạm tội, đồng phạm hay việc tách riêng các nhóm tội thuộc
phần các tội phạm.
1.4.2. Phân hoá trách nhiệm hình sự theo quy phạm
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
Trên cơ sở phân hoá TNHS theo chế định, TNHS đối với người phạm tội
tiếp tục được phân hoá ở mức độ thứ hai: Phân hoá trong phạm vi chế định hay
phân hoá theo các quy phạm pháp luật cụ thể. Ở mức độ này, những loại trường
hợp phạm tội đă được xếp theo chế định nói trên lại tiếp tục được chia tách
thành các lớp khác nhau với “liều lượng” TNHS khác nhau dựa trên mức độ đặc
biệt của các đặc điểm nhân thân người phạm tội hay sự khác biệt về tính chất
nguy hiểm cho xă hội của tội phạm được thực hiện. Ví dụ: Những hành vi xâm
hại quan hệ sở hữu sau khi được xếp vào cùng một nhóm (theo mức độ phân hoá
nói trên) lại tiếp tục được tách ra và quy định thành các tội danh riêng như tội
cướp tài sản, tội trộm cắp tài sản v.v..
1.4.3 . Phân hoá trách nhiệm hình sự trong phạm vi quy phạm
Ở mức độ thứ ba, nhà làm luật tiến hành phân hoá TNHS trong phạm vi
từng quy phạm. Đây là sự phân hoá thể hiện mức độ chi tiết cao nhất, nó đi hỏi
nhà  làm luật trên cơ sở dự liệu và chi tiết hoá các tình huống phạm tội đối với
một loại tội cụ thể, từ đó xác định những trường hợp phạm tội có cùng tính chất
nguy hiểm cho xă hội để tách thành những nhóm nhỏ với mức TNHS phù hợp.
Mức độ phân hoá này được thể hiện thông qua việc nhà làm luật xây dựng các
cấu thành tội phạm khác nhau cho các điều luật ở phần các tội phạm. Đối với
những tội có thể có những trường hợp phạm tội có tính nguy hiểm cao hơn hoặc
thấp hơn so với những trường hợp thông thường khác thì cần phải xây dụng cho
chúng các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ
tương ứng bên cạnh cấu thành tội phạm cơ bản.
Trong trường hợp nếu chỉ xây dựng một cấu thành tội phạm tăng nặng mà chưa
phân hoá triệt để được TNHS của những người thực hiện nhóm hành vi (thuộc
loại tăng nặng) đó Vì trong nhóm hành vi này vẫn có những hành vi có tính chất
nguy hiểm cho xă hội cao hơn các hành vi khác thì nhà làm luật cần tách chúng
10 thành nhiều khung tăng nặng khác nhau với chế tài tương xứng. Ngoài ra,
mức độ phân hoá này còn đi hỏi nhà làm luật quy định TNHS khác biệt đối với 
những trường hợp phạm tội có cùng tính chất nguy hiểm cho xă hội nhưng khác
nhau về mức độ nguy hiểm cho xă hội bằng cách quy định các tình tiết (dấu
hiệu) giảm nhẹ TNHS hoặc tăng nặng TNHS để tạo cơ sở pháp lí cho việc cá thể
hoá TNHS đối với những trường hợp phạm tội cụ thể khác nhau ở việc có hay
không có hoặc giữa có ít hay có nhiều các tình tiết phản ánh sự khác biệt về mức
độ nguy hiểm cho xă hội theo các hướng khác nhau.
Như vậy, có thể khẳng định rằng phân hoá TNHS là một nguyên tắc cơ
bản của luật hình sự Việt Nam, tồn tại trong hoạt động xây dựng pháp luật nhằm
tạo ra đường lối xử lí người phạm tội dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xă hội của tội phạm được thực hiện và những đặc điểm nhân thân người phạm
tội. Với vai trò quan trọng này, nguyên tắc phân hoá TNHS đi hỏi phải được tiếp
tục
nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, từ đó vận dụng những hiểu biết
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh
(lananh14062003@gmail.com)
tương ứng vào việc hoàn thiện luật hình sự để tạo ra cơ sở pháp lí tốt nhất cho
hoạt động cá thể hoá TNHS trong thực tiễn xét xử.
II . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
1 . Khái niệm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
-Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự phải được thể hiện trong xây dựng
pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự. Trong áp dụng pháp luật hình
sự, nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự
hay nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
=> Như vậy, thể hoá TNHS trong áp dụng luật hình sự và phân hoá TNHS
trong luật hình sự hai nội dung không tách rời nhau của nguyên tắc phân hoá
TNHS. Trong đó, phân hoá TNHS trong luật là cơ sở pháp cần thiết cho việc
thể hoá TNHS trong áp dụng.
-Chức năng giáo dục của luật hình schỉ thể trở thành hiện thực khi TNHS
được xác định đúng cho từng người phạm tội. Hình phạt áp dụng cho người phạm
tội cụ thể phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho hội ca tội
phạm đã gây ra và phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của người
phạm tội. Đây chính yêu cầu của thể hoá TNHS (hình phạt) trong áp dụng
luật hình sự. Tương tự nvậy, TNHS của pháp nhân thương mại cũng phải được
cá thể hoá cho phù hợp với tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS
cũng như phù hợp với “nhân thân” của pháp nhân thương mại.
-Để cá thể hoá TNHS (hình phạt) trong khi áp dụng luật đòi hỏi phải sự phân
hoá TNHS trong luật giải thích luật. TNHS càng được phân hoá trong luật và
trong giải thích luật thì càng sở cho việc thể hoá hình phạt trong áp dụng.
Do vậy, hoàn thiện sự phân hoá TNHS một trong những nội dung hoàn thiện
luật hình sự nói chung.
2 .Các biểu hiện của phân hoá TNHS trong luật có thể là :
Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để có các quy định
khác nhau về TNHS
- Đa dạng hoá hệ thống hình phạt;
Phân hoá chế tài của mi tội thành nhiều khung hình phạt khác nhau
v.v.
Thể hiện nguyên tắc này, khoản 1 và khoản 2 Điều 3 BLHS xác định các đối
tượng cần nghiêm trị và các đối tượng cần khoan hồng
- Điều 3 . Nguyên tắc xử lý BLHS
+ Khoản 1 :đối với người phạm tội
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
1 . Đối với người phạm tội :
a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử
lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới
tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn
đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt , có tổ chức , có tính
chất chuyên nghiệp , cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiệm trọng
Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra;
đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo
dục;
e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ
sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu
họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn
chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;
g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống
lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được
xóa án tích.
Khoản 2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát
hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính
chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
d)Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có
trách nhiệm trong viêc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án
, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hai gây ra , chủ động ngăn chặn hoặc
khắc phục hậu quả xảy ra
Theo đó, những người phạm tội cần nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy, tái phạm nguy hiểm, côn đồ, ngoan cố chống đối, là người lợi dụng chức
vụ, quyền hạn hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt để phạm tội, là người phạm tội có
tố chức, có tính chất chuyên nghiệp, cổ ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh
(lananh14062003@gmail.com)
Trường hợp pháp nhân thương mại cần bị nghiêm trị là trường hợp đã dùng thủ
đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Đối tượng cần được khoan hồng theo quy định của điều luật là người tự thú,
đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực
hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá
trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại gây ra.
Trường hợp pháp nhân thương mại cần được khoan hồng là trường hợp tích
cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong
quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra,
chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra
Nội dung phân hóa này đã được cụ thể hoá tại các điều 51 và 52 BLHS (các tình
tiết giảm nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS) cũng như được cụ thể hoá ở
dấu hiệu định khung hình phạt của một số tội phạm. Nội dung phân hoá này
cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự để cá thể hoá trách nhiệmnh sự.
3 . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc quan trọng trong hệ
thống pháp luât của Việt Nam. Theo nguyên tắc này , chỉ những người có trách
nhiệm chính trong việc vi phạm pháp luật mới phải chịu trách nhiệm hình sự ,
trong khi những người khác liên quan đến vụ việc chỉ phải chịu trách nhiệm
hành chính hoặc dân sự.
Cụ thể , nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự có các nguyên tắc chính sau:
3.1. Người vi phạm pháp luật chỉ chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ
đáng bị trừng phạt theo quy định của pháp luật . Ngược lại những người không
thực hiện trực tiếp hành vi phạm tội chỉ chịu trách nhiệm hành chính hoặc dân
sự tương ứng với hành vi của họ.
3.2 Việc xác định trách nhiệm của từng đối tượng liên quan đến vụ án phải căn
cứ vào sự thật và bằng chứng khách quan , tránh tình trạng xử phạt sai người ,
sai tội
3.3 Phải áp dụng nguyên tắc “có tội mới chịu trách nhiệm” và “không áp dụng
trách nhiệm chung”để đảm bảo tính công bằng và chính xác trong xử lý các vụ
án .
3.4 Đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc: trong quá trình điều tra truy tố và
xét xử, cần đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc đặc biệt là quyền lợi về tư
pháp . Nếu có bất kỳ sự vi phạm nào người bị cáo buộc có đơn kháng cáo với cơ
quan có thẩm quyền để được giải quyết
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
4 .Một số điểm nổi bật trong việc áp dụng nguyên tắc phân hoá trách nhiệm
hình sự tại Việt Nam gồm :
4.1 Điều chỉnh hình phạt theo mức độ phạm tội:Hình phạt được quy định trong
Luật Hình sự của Việt Nam đã được điều chỉnh để phù hợp với mức độ phạm tội
của từng đối tượng . Những người có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội sẽ
chịu hình phạt nặng hơn những người không liên quan
Thực hiện phân biệt trách nhiệm hình sự:Việc phân biệt trách nhiệm hình sự:
Viêc phân biệt trách nhiệm hình sự là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Tuy
nhiên , trong thực tế , các cơ quan tố tụng đã thực hiện đúng theo nguyên tắc này
để trách kết án những ngưởi vô tội
Đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ tố tụng : Để áp dụng nguyên tắc phân
hoá trách nhiệmnh sự hiệu quả , cần có sự chuyên môn cao từ phía cán bộ tố
tụng. Do đó , các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tăng cường đào tạo và
nâng cao trình độ cho cán bộ tố tụng
Đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc : Trong quá trình điều ta , truy tố , xét
xử, cần đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc , đặc biệt là quyền lợi tư
pháp.Nếu có bất kỳ sự vi phạm nào , người bị cáo buộc có quyền gửi đơn kháng
cáo đến cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết.
III. Thực tiễn thi hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự thời gian
qua
Tuy nhiên , việc thực tiễn thi hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự tại
Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế . Một số vấn đề cần phải được giải
quyết để đảm bảo tính hiệu quả của nguyên tắc này , bao gồm:
1. Sự khó khăn trong việc xác định trách nhiệm của từng đối tượng trong từng
vụ án : Trong một số trường hợp , việc xác định trách nhiệm của từng đối tượng
trong một vụ án vẫn là một vấn đề gây khó khăn cho cơ quan tố tụng
2 thiếu tài nguyên và năng lực của cơ quan chức năng: Việc áp dụng nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự đòi hỏi sự chuyên môn cao từ phía cán bộ tố tụng ,
đặc biệt là trong việc xác định định trách nhiệm của từng đối tượng . Tuy nhiên ,
các cơ quan chức năng của Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn trong việc tăng
cường đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ tố tụng
3. Sự thiếu minh bạch trong việc điều tra và xử lý các vụ án : Trong một số
trường hợp , việc điều tra và xử lý các vụ án vẫn còn thiếu minh bạch và gây
tranh cãi về tính công bằng
Thực tiễn thi hành nguyên hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự trong
thời gian qua đã có những kết quả tích cực và ý nghĩa đối với công tác xây dựng
và tăng cường sự trung thực , minh bạch , công bằng trong việc xử lý các vụ vi
phạm pháp luật
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh
(lananh14062003@gmail.com)
Cụ thể, trong lĩnh vực này , các cơ quan tố tụng và các cơ quan tư pháp đã tổ
chức thực hiện việc phân hoá trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc của pháp luật
và nhận thức đầy đủ về ảnh hưởng của các vi phạm đến các bên liên quan cũng
như xã hội
Các cơ quan tố tụng đã áp dụng nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự trong
viêc xử lý các vụ vi phạm pháp luật như tội giết người, trộm cắp , gian lận tài
chính , gian lân thương mại,.. theo đó những kẻ phạm tội nặng sẽ bị xử lý
nghiêm khắc hơn, còn những kẻ phạm tội nhẹ sẽ được giảm nhẹ hình phạt hoặc
được thương lượng với các phương thức xử lý khác như đền bù cho bị hại hay
tham gia các chương trình xã hội hỗ trợ
Các cơ quan tư pháp cũng thực hiện việc phân hoá trách nhiệm hình sự đúng đắn
và nhanh chóng giúp cho việc xử lý cá vụ vi phạm liên quan đến hình sự được
thực hiện đúng hạn
Điểm nổi bật của việc phân hoá trách nhiệm hình sự là quan tâm đến giáo dục ,
cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ nhân viên công bằng, trung thực và có
phẩm chất tốt . Do đó , việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng thúc đẩy cho sự
nhân rộng và nâng cao năng lực và năng suất của đội ngũ xử lý các vụ vi phạm
pháp luật
PHẦN KẾT
Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm
bảo công lý và giúp trách việc truy cứu đối với những người thiệt hại không liên
quan đến tội phạm . Thực tiễn thi hành nguyên tắc này tring thời gian qua cũng
được thể hiện thông qua các vụ án được giải quyết và xử lý theo cách phân hoá
trách nhiệm hợp lý
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số vụ án trong thực tế vẫn có sự mơ hồ trong việc
phân hoá trách nhiệm hình sự. Nhiều trường hợp xảy ra tranh cãi về việc ai chịu
trách nhiệm chính , ai là người liên quan và phải chịu trách nhiệm phụ. Điều này
đòi hỏi các cơ quan thực thi pháp luật cần cẩn trọng và sử dụng bằng chứng đầy
đủ để xác thực đúng mức độ của từng đối tượng tham gia và hành vi phạm tội
Tóm lại , nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc cơ bản
trong lĩnh vực pháp luật và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm công lý .
Tuy nhiên , để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi sự cẩn trọng và công bằng từ
phía các cơ quan thực thi pháp luật
Danh mục tài liệu tham kháo
1 .Bộ luật hình sự (hiện hành bộ luật năm 2015 sửa đổi , bố sung năm 2017
2 .Giáo trình luật hình sự đại học Luật Hà Nội
3.trách nhiệmnh sự là gì -luật ACC
4 . phân hoá trách nhiệm hình sự theo tạp chí luật học số 2/2006
*chú thích từ viết tắt
lOMoARcPSD| 47028186
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)
TNHS là trách nhiệm hình sự
.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47028186
Trường Đại Học Mở Hà Nội Khoa Luật
Môn học: Luật Hình sự
Đề bài: Anh/chị hãy phân tích nguyên tắc phân hoá
trách nhiệm hình sự và nêu thực tiễn thi hành nguyên tắc này thời gian qua
Giảng viên : Thiều Cẩm Sơn Họ và tên : Đỗ Thu An Mã sinh viên : 22A5001D0001 Lớp: 2250A02 Ngành: Luật
Hà Nội, ngày 29, tháng 03, năm 2023 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 47028186 PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG
I. Phân hoá trách nhiệm hình sự
1 .Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
1.1 . Khái niệm phân hoá trách nhiệm hình sự
1.2 . Các đặc điểm của phân hoá trách nhiệm hình sự
1.3 . Các giới hạn của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
1.4 . Các mức độ phân hoá trách nhiệm hình sự
II . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
1 . Khái niệm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
2.Các biểu hiện của phân hoá TNHS trong luật
3 . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
4 .Một số điểm nổi bật trong việc áp dụng nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình
sự tại Việt Nam gồm
III. Thực tiễn thi hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự thời gian qua PHẦN KẾT
Danh mục tài liệu tham khảo Bài làm PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như các ngành luật khác , ngành luật hình sự được xây dựng trên
những nguyên tắc nhất định , trong đó có những nguyên tắc nhất định, lOMoAR cPSD| 47028186
trong đó có những nguyên tắc chung cho cả hệ thống pháp luật và
nguyên tắc đặc thù cho ngành luật hình sư.Nguyên tắc phân hoá trách
nhiệm hình sự là một nguyên tắc quan trọng trong lĩnh vực hình sự.
Nguyên tắc này chỉ rõ ràng , chỉ có những hành vi vi phạm pháp luật
mới bị trừng phạt , và chỉ có các nhân vật có liên quan đến hành vi đó
mới chịu trách nhiệm hình sự PHẦN NỘI DUNG
I. Phân hoá trách nhiệm hình sự
1 .Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
1.1 . Khái niệm phân hoá trách nhiệm hình sự
-Phân hoá trách nhiệm hình sự là một trong những khái niệm thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước . Xung quanh
vấn đề nội hàm của khái niệm đã nêu ra hai nhóm quan điểm sau:
+Nhóm 1: Các tác giả không có sự phân biệt giữa nguyên tắc phân hoá TNHS
và nguyên tắc cá thể hoá TNHS mà cho rằng chúng là nguyên tắc tồn tại xuyên
suốt từ hoạt động xây dựng pháp luật (mà kết quả là các quy phạm pháp luật
hình sự) đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự (kết quả là bản án, quyết định
của toà án). Theo quan điểm này có thể sử dụng các tên gọi khác nhau như
nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, nguyên tắc phân hoá và cá thể hoá TNHS
nhưng chúng đều được hiểu là những khái niệm thể hiện thái độ xử lí có phân
biệt của Nhà nước đối với các trường hợp phạm tội khác nhau, chúng được thể
hiện trong các quy phạm pháp luật hình sự, trong các văn bản giải thích, hướng
dẫn áp dụng pháp luật hình sự cũng như trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự.
Giữa quan điểm thuộc nhóm này chỉ tồn tại sự khác biệt ở phần nội hàm của
khái niệm có liên quan đến phần thể hiện trong hoạt động áp dụng pháp luật hình
sự (chỉ bao gồm hoạt động quyết định hình phạt hay bao gồm cả điều tra, truy tố
và chấp hành hình phạt) nhưng đều khẳng định nguyên tắc này vừa được thể
hiện trong luật vừa được thể hiện trong hoạt động áp dụng luật.(1)
+ Nhóm 2: Các tác giả có sự phân biệt rõ ràng khái niệm phân hoá TNHS với
khái niệm cá thể hoá TNHS và xác định phân hoá TNHS là nguyên tắc được thể lOMoAR cPSD| 47028186
hiện trong luật còn cá thể hoá TNHS là nguyên tắc được thể hiện trong hoạt
động áp dụng luật. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hoà đă thể hiện rõ quan điểm này
khi khẳng định: “Vấn đề phân hoá và cá thể hoá TNHS được đặt ra và được coi
là một nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này không chỉ có ý
nghĩa khi áp dụng luật hình sự mà đi hỏi trước hết phải có sự phân hoá TNHS ̣
ngay trong luật và đó là cơ sở để có thể cá thể hoá TNHS trong thực tiễn áp
dụng luật”.(2) Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì phân hoá TNHS và
cá thể hoá hình phạt được xác định là những nguyên tắc độc lập với quan điểm
“Để cá thể hoá hình phạt trong khi áp dụng luật đi hỏi phải có sự phân hoá ̣
TNHS trong luật và giải thích luật. Trách nhiệm hình sự càng được phân hoá
trong luật và trong giải thích luật thìì càng có cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt trong áp dụng”.(3) –
Những nghiên cứu trên cho thấy hiện nay các nhà khoa học pháp lí hình
sự chưa có quan điểm thống nhất trong việc xác định khái niệm phân hoá
TNHS. Sự không thống nhất này có thể là một trong những nguyên nhân hạn
chế việc nghiên cứu sâu ở mức độ cần thiết nguyên tắc quan trọng này về mặt lí
luận nhằm tạo cơ sở để chúng phát huy hết giá trị trong thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật. –
Từ việc phân tích các quan điểm cho rằng việc tách riêng hai khái niệm
phân hoá TNHS và cá thể hoá TNHS (cá thể hoá hình phạt) với các nội hàm
khác nhau sẽ làm cho cách hiểu về mỗi khái niệm phù hợp chính xác với tên của mỗi khái niệm đó.
Khái niệm phân hoá TNHS được thể hiện trong luật với nội dung quy định
đường lối xử lí có phân biệt đối với từng loại trường hợp phạm tội nhất định còn
khái niệm cá thể hoá TNHS được thể hiện trong hoạt động áp dụng luật với nội
dung vận dụng đường lối xử lí theo nguyên tắc phân hoá TNHS để giải quyết
vấn đề TNHS cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt.
Chỉ trong thực tiễn áp dụng pháp luật, gắn với từng trường hợp phạm tội cụ thể,
gắn với từng người thực hiện hành vi phạm tội cụ thể mới có thể sử dụng khái
niệm cá thể hoá TNHS. Ngược lại, khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình
sự, nhà làm luật chỉ có thể dự liệu và phân định ra các loại trường hợp phạm tội
có thể xảy ra trong thực tiễn khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă
hội hoặc do những nhóm đối tượng khác nhau thực hiện. Trong trường hợp này
sử dụng khái niệm phân hoá TNHS lại là phù hợp –
Như vậy, nguyên tắc phân hoá TNHS và nguyên tắc cá thể hoá TNHS là
những 4 nguyên tắc riêng biệt trong đó phân hoá TNHS là nguyên tắc xuyên
suốt trong pháp luật hình sự thể hiện việc quy định đường lối xử lí có phân biệt
đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xă hội của tội phạm và các đặc điểm về nhân thân người thực hiện tội phạm
còn cá thể hoá TNHS là nguyên tắc thể hiện trong hoạt động áp dụng luật hình
sự, là việc cơ quan áp dụng pháp luật vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự
(đă được xây dựng theo nguyên tắc phân hoá TNHS) để xác định TNHS (với
loại và mức cụ thể) cho từng người phạm tội trong từng trường hợp phạm tội
riêng biệt với yêu cầu: “Làm cho hình phạt được tuyên phù hợp với tính chất, lOMoAR cPSD| 47028186
mức độ nguy hiểm cho xă hội của hành vi phạm tội, phù hợp với nhân thân
người phạm tội cũng như hoàn cảnh phạm tội của họ”.(4)
=> Như vậy, có thể thấy hai nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
trong đó nguyên tắc phân hoá TNHS tạo ra cơ sở, nền tảng để có thể tiến hành
cá thể hoá TNHS và ngược lại, nguyên tắc cá thể hoá TNHS chính là sự triển
khai vận dụng trong thực tiễn xét xử tư tưởng phân hoá TNHS, là cầu nối trực
tiếp để nguyên tắc phân hoá TNHS thể hiện giá trị.
1.2 . Các đặc điểm của phân hoá trách nhiệm hình sự
Từ những phân tích nêu trên có thể xác định các đặc điểm của nguyên tắc phân hoá TNHS như sau:
1.2.1. Phân hoá TNHS là nguyên tắc của hoạt động xây dựng pháp luật (hình sự) –
Phân hoá TNHS với nội dung tạo ra các quy phạm pháp luật hình sự thể
hiện đường lối xử lí có phân biệt của Nhà nước đối với những loại trường hợp
phạm tội có sự khác biệt nhất định đi hỏi phải được nhà làm luật sử dụng như là
một ̣ nguyên tắc cơ bản khi thực hiện hoạt động xây dựng pháp luật. Tinh thần
của nguyên tắc này cần phải được thể hiện xuyên suốt trong pháp luật hình sự,
cả trong các quy định thuộc phần chung và các quy định thuộc phần các tội
phạm một cách thống nhất nhằm tạo ra đường lối xử lí có phân hoá rõ nét mà cơ
quan áp dụng pháp luật có thể vận dụng dễ dàng để giải quyết vấn đề TNHS đối
với từng trường hợp phạm tội cụ thể trong thực tiễn.
1.2.2. Phân hoá TNHS có nội dung là việc quy định đường lối xử lí có phân
biệt đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau
Trong đời sống thực tiễn, các hành vi phạm tội được thực hiện rất phong
phú, đa dạng và có thể đi hỏi phải có những cách thức xử lí khác nhau nhằm đạt
được ̣ mục đích bảo vệ các quan hệ xă hội, giáo dục người phạm tội. Thực trạng
đó đi ̣ hỏi nhà làm luật phải dự liệu được một cách cơ bản về sự khác biệt giữa
các trường hợp phạm tội có thể xảy ra trong thực tiễn và quy định cho chúng
một “liều lượng” TNHS cần thiết, hợp lí. Mức độ phân hoá trong đường lối xử lí
mà nhà làm luật quy định đi hỏi phải tương ứng với sự đa dạng, phức tạp của
các ̣ hành vi phạm tội được thực hiện trong thực tiễn sao cho các quy phạm pháp
luật có thể là cơ sở pháp lí để xác định đúng TNHS phù hợp cho mỗi trường hợp phạm tội riêng biệt.
1.2.3. Phân hoá TNHS được thực hiện dựa trên sự khác biệt về tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm và các đặc điểm nhân thân người phạm tội
Đây chính là những dấu hiệu thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa các trường
hợp phạm tội khác nhau, chúng thể hiện các quan hệ xă hội cần được bảo vệ bị
đặt vào các tình trạng nguy hiểm khác nhau đồng thời cũng thể hiện loại và mức lOMoAR cPSD| 47028186
độ TNHS mà Nhà nước cần phải áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đó. –
Căn cứ để tiến hành phân hoá TNHS được hiểu là những tiêu chí giúp nhà
làm luật xác định được những nhóm trường hợp phạm tội khác nhau mà xuất
phát từ đi hỏi của các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự như nguyên tắc nhân
đạo, ̣ nguyên tắc công bằng, nhà làm luật cần quy định đối với từng nhóm “liều
lượng” TNHS phù hợp. Khi bàn đến vấn đề TNHS, nhà làm luật bao giờ cũng
phải tính đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm và những
đặc điểm nhân thân người phạm tội. Nói cách khác, đây chính là các căn cứ của việc phân hoá TNHS. –
Trước hết, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm được xác
định là căn cứ quan trọng hàng đầu mà nhà làm luật phải cân nhắc trong mọi
trường hợp phân hoá TNHS. Với vai trò là chuẩn đánh giá so sánh tính nguy
hiểm cho xă hội giữa các trường hợp phạm tội khác nhau, tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xă hội của tội phạm thể hiện rõ mức độ cần thiết của vai trò bảo
vệ của Nhà nước đối với các quan hệ xă hội bị xâm hại. Hành vi có tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xă hội càng cao càng đi hỏi ở mức độ lớn hơn sự can ̣
thiệp, bảo vệ của Nhà nước thông qua việc quy định TNHS.
- Khi sử dụng căn cứ này nhà làm luật cần lựa chọn những trường hợp phạm tội
có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội để xếp vào cùng một nhóm (ví
dụ: Những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia không thể được quy định chung
nhóm với những hành vi phạm tội khác; những hành vi xâm phạm tính mạng
không thể xếp vào cùng nhóm với những hành vi xâm phạm sức khoẻ của con
người), tránh tình trạng xếp những hành vi khác nhau về tính chất, mức độ nguy
hiểm vào cùng một nhóm.
-Việc phân nhóm đúng các hành vi có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xă hội là yêu cầu quan trọng đầu tiên của nguyên tắc phân hoá TNHS, đây chính
là cơ sở để quy định TNHS phù hợp đối với từng nhóm. Điều này cho thấy đối
với những trường hợp tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm
tương đương nhau thì không nên chia tách thành nhiều nhóm, điều đó có thể dẫn
đến tình trạng quy phạm pháp luật trở nên vụn vặt, ngược lại, cũng không nên
nhập những trường hợp phạm tội có sự khác nhau rõ rệt về tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xă hội vào cùng một nhóm và quy định cho chúng một khung chế
tài có biên độ dao động lớn Vì điều đó lại tạo ra những quy phạm pháp luật có
tính phân hoá (TNHS) không cao, dễ dẫn đến sự vận dụng tuỳ tiện, không thống
nhất trong thực tiễn xét xử.
-Đồng thời với việc phân nhóm hành vi, nhà làm luật cũng cần cân nhắc tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của từng nhóm trường hợp phạm tội để quy
định cho chúng “liều lượng” TNHS phù hợp. TNHS phù hợp được quy định và
áp dụng đối với người phạm tội là một trong những điều kiện giữ vai trò quyết
định để thực hiện được mục tiêu bảo vệ các quan hệ xă hội trước các hành vi lOMoAR cPSD| 47028186
phạm tội thông qua việc tác động giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm
tội mới cũng như giáo dục, răn đe các thành viên khác trong xă hội.
-Với mỗi nhóm đă được phân hoá nói trên nhà làm luật cần cân nhắc để quy
định một cách phù hợp nhất loại và có thể cả khoảng mức độ TNHS nên áp dụng
đối với họ. Nhà làm luật phải xác định rõ nhóm được miễn hoặc có thể được
miễn TNHS, nhóm không cần áp dụng hình phạt, nhóm cần phái áp dụng hình
phạt (theo loại, khoảng mức hình phạt) v.v.. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xă hội của tội phạm tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa các hành vi phạm tội được
thực hiện trên thực tế và theo nguyên tắc về sự tương xứng giữa TNHS với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm được thực hiện, nhà làm luật
cần phải quy định TNHS tỉ lệ thuận với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm. –
Ngoài căn cứ trên, khi tiến hành phân hoá TNHS nhà làm luật cũng cần
tính đến các đặc điểm về nhân thân người thực hiện tội phạm. Căn cứ này được
tính đến trong trường hợp nhà làm luật thấy rằng các đặc điểm về nhân thân của
người phạm tội nói chung hoặc của người thực hiện hành vi phạm tội nhất định
có thể phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm (ví dụ: Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm), phản ánh khả năng giáo dục đối với người phạm tội
(ví dụ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) hoặc thể hiện hoàn
cảnh đặc biệt của họ (ví dụ: Người phạm tội là phụ nữ có thai).
-Trường hợp các đặc điểm về nhân thân người thực hiện tội phạm ảnh hưởng
đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội phạm thì đương nhiên những
đặc điểm này phải được cân nhắc như căn cứ thứ nhất nói trên. Trường hợp các
đặc điểm về nhân thân phản ánh khả năng giáo dục của người thực hiện tội phạm
cũng đi hỏi nhà làm luật cân nhắc khi xác định TNHS đối với họ tương ̣ ứng với
mức độ khả năng giáo dục được phản ánh Vì mục đích hàng đầu của việc áp
dụng TNHS đối với người phạm tội là nhằm giáo dục họ. Điều đó thể hiện rằng
nếu khả năng giáo dục đối với nhóm người phạm tội nào đó càng cao thì loại và
mức TNHS áp dụng đối với họ càng nên hạn chế.
-Ngoài ra, TNHS còn cần được phân hoá dựa trên các đặc điểm nhân thân
phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà xuất phát từ nguyên tắc
nhân đạo xă hội chủ nghĩa Nhà nước cần quy định đối với họ TNHS nhẹ hơn so
với những trường hợp khác. Tương tự như khi phân hoá TNHS dựa vào các đặc
điểm nhân thân thuộc các trường hợp nói trên, khi phân hoá TNHS dựa vào các
đặc điểm về nhân thân phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội nhà làm
luật cũng cần cân nhắc mức độ đặc biệt của hoàn cảnh được phản ánh để phân
hoá TNHS tối đa đối với họ .
1.3 . Các giới hạn của việc phân hoá trách nhiệm hình sự lOMoAR cPSD| 47028186 –
Phân hoá TNHS là hoạt động góp phần tạo ra đường lối xử lí có phân biệt
đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau, đối với các nhóm chủ thể thực
hiện tội phạm khác nhau và là cơ sở để tiến hành cá thể hoá TNHS trong áp
dụng luật hình sự. Việc xác định đúng các giới hạn phân hoá TNHS là yêu cầu
quan trọng gắn liền với việc đạt được mục đích của nguyên tắc này. Để có thể
tạo ra cơ sở pháp lí cần thiết phục vụ cho việc cá thể hoá TNHS trong thực tiễn,
việc phân hoá TNHS phải đồng thời giải quyết được hai yêu cầu liên quan đến
giới hạn của việc phân hoá TNHS sau đây: 1.
Phải thể hiện được đường lối xử lí khác biệt ở mức tối đa đối với các loại
trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội và
các đặc điểm nhân thân người phạm tội; 2.
Phải tránh hiện tượng quy định cụ thể hướng xử lí đối với từng nhóm
trường hợp phạm tội quá nhỏ, làm cho quy phạm pháp luật trở thành vụn vặt.
Một mặt, có thể khẳng định rằng việc phân hoá TNHS càng triệt để thì càng tạo
thuận lợi cho việc cá thể hoá TNHS. Khi tiến hành cá thể hoá TNHS, người áp
dụng pháp luật phải sử dụng các quy phạm pháp luật đă được xây dựng theo
nguyên tắc phân hoá TNHS để giải quyết vấn đề TNHS cho từng trường hợp phạm tội cụ thể.
-Trong thực tiễn xét xử những trường hợp này lại rất phong phú, đa dạng, giữa
chúng có thể tồn tại sự khác biệt rất lớn tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội
của tội phạm hoặc về các đặc điểm của nhân thân người thực hiện tội phạm.
-Trong khi đó, việc đánh giá các căn cứ này ở các chủ thể khác nhau lại có thể
không giống nhau, thậm chí có thể khác nhau một cách rõ rệt. Điều đó có thể
dẫn đến tình trạng TNHS được áp dụng đối với người phạm tội không phù hợp
với yêu cầu giải quyết vụ việc đó (quá nặng hoặc quá nhẹ).
-Vì vậy, có thể khẳng định rằng sự phân hoá TNHS trong luật càng cao thì càng
tạo cơ sở pháp lí để hạn chế tình trạng tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật hình sự
và do đó nguyên tắc cá thể hoá TNHS càng được thực hiện một cách triệt để và
thống nhất. Với những quy phạm pháp luật mà nguyên tắc phân hoá TNHS thể
hiện một cách mờ nhạt, đường lối xử lí mang tính khái quát, chung chung thì
việc vận dụng chúng để giải quyết vấn đề TNHS đối với từng trường hợp phạm
tội riêng biệt gặp rất nhiều khó khăn và khó có thể đi đến thống nhất. -Mặt
khác, cũng cần khẳng định rằng gắn liền với tính khái quát của các quy phạm
pháp luật hình sự nơi mà nguyên tắc phân hoá TNHS được thể hiện việc phân
hoá TNHS cũng không thể được thực hiện một cách quá chi tiết, cụ thể. Phân
hoá TNHS chỉ được dừng lại ở nấc cuối cùng ở việc tạo ra đường lối xử lí có
phân hoá (khác biệt) tương xứng với từng nhóm trường hợp phạm tội tương
đương nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xă hội hay giống nhau về các
đặc điểm của nhân thân người thực hiện hành vi. lOMoAR cPSD| 47028186
- Nếu nhà làm luật vượt qua ranh giới này để quy định cụ thể phương án giải
quyết vấn đề TNHS cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt hoặc từng nhóm
nhỏ các trường hợp phạm tội riêng biệt sẽ dẫn đến tình trạng họ làm thay công
việc cá thể hoá TNHS của người áp dụng pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là
quy phạm pháp luật bị tước mất tính khái quát cần thiết, khi đó những quy phạm
này sẽ trở thành vụn vặt và hoàn toàn có thể trở thành nguyên nhân của hiện
tượng người áp dụng pháp luật bị trói tay trước những tình huống đa dạng, phức tạp trong thực tiễn. –
Xuất phát từ hai yêu cầu đó, việc phân hoá TNHS phải được tiến hành
theo các giới hạn sau đây:
1.3.1. Phân hoá giữa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự với các
trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự
Theo giới hạn này, nhà làm luật cần quy định rõ nhóm những trường hợp
hành vi tuy cấu thành tội phạm nhưng có những dấu hiệu phản ánh mức độ gây
nguy hại cho xă hội hoặc các đặc điểm của nhân thân người thực hiện hành vi
cho thấy có thể đạt được mục đích giáo dục người phạm tội, bảo vệ các quan hệ
xă hội tương ứng mà không cần buộc họ phải chịu TNHS và ngược lại là nhóm
những trường hợp phạm tội nhất thiết phải áp dụng TNHS đối với người phạm
tội. Khi quy định nhóm thứ nhất nói trên nhà làm luật không những phải chỉ rõ
các điều kiện để được xếp vào nhóm đó mà còn cần phải phân hoá thành những
trường hợp được miễn TNHS và những trường hợp chỉ có thể được miễn TNHS.
1.3.2. Phân hoá giữa các trường hợp không phải chịu biện pháp cưỡng chế về
hình sự với các trường hợp phải chịu biện pháp cưỡng chế về hình sự và mang án tích

Nếu hiểu TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: Nghĩa vụ phải
chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế về hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích(5) thì
trong các quy phạm pháp luật hình sự nhà làm luật cần tiếp tục phân hoá đường
lối xử lí đối với những hành vi cùng phải chịu TNHS thành những hành vi cần
phải áp dụng hình phạt hay các biện pháp tư pháp và chịu mang án tích với
những trường hợp không cần áp dụng biện pháp cưỡng chế này.
1.3.3. Phân hoá giữa những trường hợp phải chịu hình phạt với những trường
hợp áp dụng biện pháp tư pháp
Với vai trò là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước có nội
dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội (người bị kết án), lOMoAR cPSD| 47028186
hình phạt thể hiện tính cưỡng chế nghiêm khắc cao hơn rõ rệt so với các biện pháp tư pháp.
Vì vậy, đối với những trường hợp cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế của
TNHS cũng đi hỏi phải được phân hoá ở mức độ cao hơn để cơ quan áp dụng có ̣
thể phân định được những trường hợp cần áp dụng hình phạt và những trường
hợp chỉ cần áp dụng biện pháp tư pháp.
1.3.4. Phân hoá giữa các trường hợp chịu các loại hình phạt hoặc các loại biện
pháp tư pháp khác nhau
Đây là giới hạn cuối cùng của việc phân hoá TNHS. Giới hạn này cũng
xuất phát chính từ tính đa dạng, phong phú của các hành vi phạm tội được thực
hiện. Giới hạn này thể hiện qua việc nhà làm luật tiếp tục phân thành nhóm nhỏ
hơn những hành vi đă được lựa chọn và xếp vào nhóm áp dụng hình phạt hay
nhóm áp dụng biện pháp tư pháp. Theo quy định của pháp luật hình sự, cả hình
phạt và biện pháp tư pháp đều có thể bao gồm nhiều loại khác nhau, chúng thể
hiện những mức độ cưỡng chế nghiêm khắc khác nhau và vì vậy nhà làm luật
cần quy định rõ từng loại hình phạt hay loại biện pháp tư pháp cụ thể được áp
dụng gắn với từng nhóm hành vi phạm tội nhất định
.1.4 . Các mức độ phân hoá trách nhiệm hình sự
Trong luật hình sự việc phân hoá TNHS được tiến hành theo nhiều mức
độ khác nhau. Tính theo sự thu hẹp dần về phạm vi phân hoá TNHS, có thể xác
định các mức độ phân hoá sau đây: Phân hoá TNHS theo chế định, phân hoá
TNHS theo quy phạm pháp luật và phân hoá TNHS trong phạm vi từng quy phạm.
1.4.1. Phân hoá trách nhiệm hình sự theo chế định
Việc phân hoá TNHS theo chế định được hiểu là việc nhà làm luật tạo ra
đường lối xử lí khác biệt đối với một loại trường hợp phạm tội bằng cách xây
dựng chế định riêng liên quan đến vấn đề TNHS của những người thực hiện
những hành vi phạm tội dựa trên những đặc điểm nhân thân của người phạm tội,
cách thức thực hiện hành vi phạm tội của họ hoặc dựa trên tính chất của nhóm
quan hệ xă hội mà hành vi phạm tội xâm hại. Ở mức độ phân hoá này, tất cả
những trường hợp phạm tội cần được xử lí bằng đường lối riêng, được xếp vào
cùng một chế định với những quy định rõ ràng về điều kiện áp dụng, loại và
mức TNHS được áp dụng đối với người phạm tội. Biểu hiện rõ rệt của việc phân
hoá TNHS ở mức độ này là việc xây dựng các chế định TNHS đối với người
chưa thành niên phạm tội, đồng phạm hay việc tách riêng các nhóm tội thuộc phần các tội phạm.
1.4.2. Phân hoá trách nhiệm hình sự theo quy phạm Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186 –
Trên cơ sở phân hoá TNHS theo chế định, TNHS đối với người phạm tội
tiếp tục được phân hoá ở mức độ thứ hai: Phân hoá trong phạm vi chế định hay
phân hoá theo các quy phạm pháp luật cụ thể. Ở mức độ này, những loại trường
hợp phạm tội đă được xếp theo chế định nói trên lại tiếp tục được chia tách
thành các lớp khác nhau với “liều lượng” TNHS khác nhau dựa trên mức độ đặc
biệt của các đặc điểm nhân thân người phạm tội hay sự khác biệt về tính chất
nguy hiểm cho xă hội của tội phạm được thực hiện. Ví dụ: Những hành vi xâm
hại quan hệ sở hữu sau khi được xếp vào cùng một nhóm (theo mức độ phân hoá
nói trên) lại tiếp tục được tách ra và quy định thành các tội danh riêng như tội
cướp tài sản, tội trộm cắp tài sản v.v..
1.4.3 . Phân hoá trách nhiệm hình sự trong phạm vi quy phạm
Ở mức độ thứ ba, nhà làm luật tiến hành phân hoá TNHS trong phạm vi
từng quy phạm. Đây là sự phân hoá thể hiện mức độ chi tiết cao nhất, nó đi hỏi
nhà ̣ làm luật trên cơ sở dự liệu và chi tiết hoá các tình huống phạm tội đối với
một loại tội cụ thể, từ đó xác định những trường hợp phạm tội có cùng tính chất
nguy hiểm cho xă hội để tách thành những nhóm nhỏ với mức TNHS phù hợp.
Mức độ phân hoá này được thể hiện thông qua việc nhà làm luật xây dựng các
cấu thành tội phạm khác nhau cho các điều luật ở phần các tội phạm. Đối với
những tội có thể có những trường hợp phạm tội có tính nguy hiểm cao hơn hoặc
thấp hơn so với những trường hợp thông thường khác thì cần phải xây dụng cho
chúng các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ
tương ứng bên cạnh cấu thành tội phạm cơ bản.
Trong trường hợp nếu chỉ xây dựng một cấu thành tội phạm tăng nặng mà chưa
phân hoá triệt để được TNHS của những người thực hiện nhóm hành vi (thuộc
loại tăng nặng) đó Vì trong nhóm hành vi này vẫn có những hành vi có tính chất
nguy hiểm cho xă hội cao hơn các hành vi khác thì nhà làm luật cần tách chúng
10 thành nhiều khung tăng nặng khác nhau với chế tài tương xứng. Ngoài ra,
mức độ phân hoá này còn đi hỏi nhà làm luật quy định TNHS khác biệt đối với ̣
những trường hợp phạm tội có cùng tính chất nguy hiểm cho xă hội nhưng khác
nhau về mức độ nguy hiểm cho xă hội bằng cách quy định các tình tiết (dấu
hiệu) giảm nhẹ TNHS hoặc tăng nặng TNHS để tạo cơ sở pháp lí cho việc cá thể
hoá TNHS đối với những trường hợp phạm tội cụ thể khác nhau ở việc có hay
không có hoặc giữa có ít hay có nhiều các tình tiết phản ánh sự khác biệt về mức
độ nguy hiểm cho xă hội theo các hướng khác nhau. –
Như vậy, có thể khẳng định rằng phân hoá TNHS là một nguyên tắc cơ
bản của luật hình sự Việt Nam, tồn tại trong hoạt động xây dựng pháp luật nhằm
tạo ra đường lối xử lí người phạm tội dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xă hội của tội phạm được thực hiện và những đặc điểm nhân thân người phạm
tội. Với vai trò quan trọng này, nguyên tắc phân hoá TNHS đi hỏi phải được tiếp
tục ̣ nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, từ đó vận dụng những hiểu biết
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
tương ứng vào việc hoàn thiện luật hình sự để tạo ra cơ sở pháp lí tốt nhất cho
hoạt động cá thể hoá TNHS trong thực tiễn xét xử.
II . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
1 . Khái niệm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
-Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự phải được thể hiện trong xây dựng
pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự. Trong áp dụng pháp luật hình
sự, nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự
hay nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
=> Như vậy, cá thể hoá TNHS trong áp dụng luật hình sự và phân hoá TNHS
trong luật hình sự là hai nội dung không tách rời nhau của nguyên tắc phân hoá
TNHS. Trong đó, phân hoá TNHS trong luật là cơ sở pháp lí cần thiết cho việc cá
thể hoá TNHS trong áp dụng.
-Chức năng giáo dục của luật hình sự chỉ có thể trở thành hiện thực khi TNHS
được xác định đúng cho từng người phạm tội. Hình phạt áp dụng cho người phạm
tội cụ thể phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm đã gây ra và phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của người
phạm tội. Đây chính là yêu cầu của cá thể hoá TNHS (hình phạt) trong áp dụng
luật hình sự. Tương tự như vậy, TNHS của pháp nhân thương mại cũng phải được
cá thể hoá cho phù hợp với tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS
cũng như phù hợp với “nhân thân” của pháp nhân thương mại.
-Để cá thể hoá TNHS (hình phạt) trong khi áp dụng luật đòi hỏi phải có sự phân
hoá TNHS trong luật và giải thích luật. TNHS càng được phân hoá trong luật và
trong giải thích luật thì càng có cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt trong áp dụng.
Do vậy, hoàn thiện sự phân hoá TNHS là một trong những nội dung hoàn thiện luật hình sự nói chung.
2 .Các biểu hiện của phân hoá TNHS trong luật có thể là :
• Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để có các quy định khác nhau về TNHS
• - Đa dạng hoá hệ thống hình phạt;
• Phân hoá chế tài của mỗi tội thành nhiều khung hình phạt khác nhau v.v.
Thể hiện nguyên tắc này, khoản 1 và khoản 2 Điều 3 BLHS xác định các đối
tượng cần nghiêm trị và các đối tượng cần khoan hồng
- Điều 3 . Nguyên tắc xử lý BLHS
+ Khoản 1 :đối với người phạm tội Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
1 . Đối với người phạm tội : a)
Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử
lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; b)
Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới
tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; c)
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn
đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; d)
Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt , có tổ chức , có tính
chất chuyên nghiệp , cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiệm trọng
Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;
đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục; e)
Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ
sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu
họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn
chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;

g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống
lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
Khoản 2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội: a)
Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát
hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; b)
Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; c)
Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính
chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
d)Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có
trách nhiệm trong viêc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án
, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hai gây ra , chủ động ngăn chặn hoặc
khắc phục hậu quả xảy ra

Theo đó, những người phạm tội cần nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy, tái phạm nguy hiểm, côn đồ, ngoan cố chống đối, là người lợi dụng chức
vụ, quyền hạn hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt để phạm tội, là người phạm tội có
tố chức, có tính chất chuyên nghiệp, cổ ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
Trường hợp pháp nhân thương mại cần bị nghiêm trị là trường hợp đã dùng thủ
đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Đối tượng cần được khoan hồng theo quy định của điều luật là người tự thú,
đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực
hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá
trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Trường hợp pháp nhân thương mại cần được khoan hồng là trường hợp tích
cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong
quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra,
chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra
Nội dung phân hóa này đã được cụ thể hoá tại các điều 51 và 52 BLHS (các tình
tiết giảm nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS) cũng như được cụ thể hoá ở
dấu hiệu định khung hình phạt của một số tội phạm. Nội dung phân hoá này
cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự để cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
3 . Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc quan trọng trong hệ
thống pháp luât của Việt Nam. Theo nguyên tắc này , chỉ những người có trách
nhiệm chính trong việc vi phạm pháp luật mới phải chịu trách nhiệm hình sự ,
trong khi những người khác liên quan đến vụ việc chỉ phải chịu trách nhiệm
hành chính hoặc dân sự.
Cụ thể , nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự có các nguyên tắc chính sau:
3.1. Người vi phạm pháp luật chỉ chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ
đáng bị trừng phạt theo quy định của pháp luật . Ngược lại những người không
thực hiện trực tiếp hành vi phạm tội chỉ chịu trách nhiệm hành chính hoặc dân
sự tương ứng với hành vi của họ.
3.2 Việc xác định trách nhiệm của từng đối tượng liên quan đến vụ án phải căn
cứ vào sự thật và bằng chứng khách quan , tránh tình trạng xử phạt sai người , sai tội
3.3 Phải áp dụng nguyên tắc “có tội mới chịu trách nhiệm” và “không áp dụng
trách nhiệm chung”để đảm bảo tính công bằng và chính xác trong xử lý các vụ án .
3.4 Đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc: trong quá trình điều tra truy tố và
xét xử, cần đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc đặc biệt là quyền lợi về tư
pháp . Nếu có bất kỳ sự vi phạm nào người bị cáo buộc có đơn kháng cáo với cơ
quan có thẩm quyền để được giải quyết Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
4 .Một số điểm nổi bật trong việc áp dụng nguyên tắc phân hoá trách nhiệm
hình sự tại Việt Nam gồm :
4.1 Điều chỉnh hình phạt theo mức độ phạm tội:Hình phạt được quy định trong
Luật Hình sự của Việt Nam đã được điều chỉnh để phù hợp với mức độ phạm tội
của từng đối tượng . Những người có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội sẽ
chịu hình phạt nặng hơn những người không liên quan
Thực hiện phân biệt trách nhiệm hình sự:Việc phân biệt trách nhiệm hình sự:
Viêc phân biệt trách nhiệm hình sự là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Tuy
nhiên , trong thực tế , các cơ quan tố tụng đã thực hiện đúng theo nguyên tắc này
để trách kết án những ngưởi vô tội
Đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ tố tụng : Để áp dụng nguyên tắc phân
hoá trách nhiệm hình sự hiệu quả , cần có sự chuyên môn cao từ phía cán bộ tố
tụng. Do đó , các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tăng cường đào tạo và
nâng cao trình độ cho cán bộ tố tụng
Đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc : Trong quá trình điều ta , truy tố , xét
xử, cần đảm bảo quyền lợi cho người bị cáo buộc , đặc biệt là quyền lợi tư
pháp.Nếu có bất kỳ sự vi phạm nào , người bị cáo buộc có quyền gửi đơn kháng
cáo đến cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết.
III. Thực tiễn thi hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự thời gian qua
Tuy nhiên , việc thực tiễn thi hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự tại
Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế . Một số vấn đề cần phải được giải
quyết để đảm bảo tính hiệu quả của nguyên tắc này , bao gồm:
1. Sự khó khăn trong việc xác định trách nhiệm của từng đối tượng trong từng
vụ án : Trong một số trường hợp , việc xác định trách nhiệm của từng đối tượng
trong một vụ án vẫn là một vấn đề gây khó khăn cho cơ quan tố tụng
2 thiếu tài nguyên và năng lực của cơ quan chức năng: Việc áp dụng nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự đòi hỏi sự chuyên môn cao từ phía cán bộ tố tụng ,
đặc biệt là trong việc xác định định trách nhiệm của từng đối tượng . Tuy nhiên ,
các cơ quan chức năng của Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn trong việc tăng
cường đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ tố tụng
3. Sự thiếu minh bạch trong việc điều tra và xử lý các vụ án : Trong một số
trường hợp , việc điều tra và xử lý các vụ án vẫn còn thiếu minh bạch và gây
tranh cãi về tính công bằng
Thực tiễn thi hành nguyên hành nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự trong
thời gian qua đã có những kết quả tích cực và ý nghĩa đối với công tác xây dựng
và tăng cường sự trung thực , minh bạch , công bằng trong việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
Cụ thể, trong lĩnh vực này , các cơ quan tố tụng và các cơ quan tư pháp đã tổ
chức thực hiện việc phân hoá trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc của pháp luật
và nhận thức đầy đủ về ảnh hưởng của các vi phạm đến các bên liên quan cũng như xã hội
Các cơ quan tố tụng đã áp dụng nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự trong
viêc xử lý các vụ vi phạm pháp luật như tội giết người, trộm cắp , gian lận tài
chính , gian lân thương mại,.. theo đó những kẻ phạm tội nặng sẽ bị xử lý
nghiêm khắc hơn, còn những kẻ phạm tội nhẹ sẽ được giảm nhẹ hình phạt hoặc
được thương lượng với các phương thức xử lý khác như đền bù cho bị hại hay
tham gia các chương trình xã hội hỗ trợ
Các cơ quan tư pháp cũng thực hiện việc phân hoá trách nhiệm hình sự đúng đắn
và nhanh chóng giúp cho việc xử lý cá vụ vi phạm liên quan đến hình sự được thực hiện đúng hạn
Điểm nổi bật của việc phân hoá trách nhiệm hình sự là quan tâm đến giáo dục ,
cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ nhân viên công bằng, trung thực và có
phẩm chất tốt . Do đó , việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng thúc đẩy cho sự
nhân rộng và nâng cao năng lực và năng suất của đội ngũ xử lý các vụ vi phạm pháp luật PHẦN KẾT
Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm
bảo công lý và giúp trách việc truy cứu đối với những người thiệt hại không liên
quan đến tội phạm . Thực tiễn thi hành nguyên tắc này tring thời gian qua cũng
được thể hiện thông qua các vụ án được giải quyết và xử lý theo cách phân hoá trách nhiệm hợp lý
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số vụ án trong thực tế vẫn có sự mơ hồ trong việc
phân hoá trách nhiệm hình sự. Nhiều trường hợp xảy ra tranh cãi về việc ai chịu
trách nhiệm chính , ai là người liên quan và phải chịu trách nhiệm phụ. Điều này
đòi hỏi các cơ quan thực thi pháp luật cần cẩn trọng và sử dụng bằng chứng đầy
đủ để xác thực đúng mức độ của từng đối tượng tham gia và hành vi phạm tội
Tóm lại , nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc cơ bản
trong lĩnh vực pháp luật và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm công lý .
Tuy nhiên , để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi sự cẩn trọng và công bằng từ
phía các cơ quan thực thi pháp luật
Danh mục tài liệu tham kháo
1 .Bộ luật hình sự (hiện hành bộ luật năm 2015 sửa đổi , bố sung năm 2017
2 .Giáo trình luật hình sự đại học Luật Hà Nội
3.trách nhiệm hình sự là gì -luật ACC
4 . phân hoá trách nhiệm hình sự theo tạp chí luật học số 2/2006
*chú thích từ viết tắt Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com) lOMoAR cPSD| 47028186
TNHS là trách nhiệm hình sự .
Downloaded by Tr?n Lan Anh (lananh14062003@gmail.com)