



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 36844358
Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam 
Câu 1:Phân tích một quan niệm về văn hóa mà anh/chị cho là tiêu biểu nhất? Phân 
biệt văn hóa với văn minh, lấy ví dụ cụ thể từ nền văn hóa Việt Nam.  A, 
*Quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh:”Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của 
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, 
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt 
hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và 
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh 
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những 
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.  *Phân tích quan niệm: 
-Quan niệm đã nêu ra cấu trúc của văn hóa, bao gồm:   +Văn hóa vật chất   +Văn hóa tinh thần 
 +Tổng hợp phương thức sinh hoạt 
-Quan niệm bàn đến đặc trưng của văn hóa: tính vị nhân sinh, được thể hiện ở hai 
phương diện: con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là chủ thể  hưởng thụ văn hóa. 
-Nhấn mạnh chức năng của văn hóa, trong đó có hai chức năng quan trọng là: duy 
trì đời sống xã hội, phục vụ đời sống của con người và từ đó nâng cao giá trị của  cuộc sống. 
-Nhìn nhận các vấn đề trong quan hệ logic tổng hợp. 
-Về hình thức: phát biểu mang tính chất quan niệm, không phải học thuật. 
B, Phân biệt văn hóa với văn minh:   Văn hóa   Văn minh      lOMoAR cPSD| 36844358
-Văn hóa có đặc trưng lịch sử truyền thống. Ta có thể chứng minh qua nền văn hóa 
Việt Nam giàu truyền thống lịch sử: truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn, 
yêu thương đồng loại… 
-Là một quá trình tích lũy và được sang lọc lâu dài. Văn hóa Việt Nam trải qua 
mấy ngàn năm đã giữ lại được nhiều nét văn hóa đẹp, giàu bản sắc và loại bỏ đi 
những văn hóa cổ hủ, không theo kịp thời đại(trọng nam khinh nữ, tảo hôn,..) 
-Mang tính cộng đồng, dân tộc, bản sắc. Văn hóa Việt Nam không được tạo từ một 
người, hay một nhóm người mà là thành quả chung của cộng đồng người Việt, từ 
nhiều dân tộc Việt. Vì vậy mà trở nên vô cùng đa dạng và đậm dà bản sắc 
-Được bảo lưu, duy trì, ổn định, gắn với thói quen, tập quán, tâm linh. Dân tộc Việt 
Nam duy trì được nhiều nét đẹp văn hóa như thờ cúng tổ tiên, biết ơn,… 
-Văn hóa gắn bó với nhiều hơn vơi phương Đông nông nghiệp. Văn hóa Việt Nam 
được hình thành ven lưu vực các con song lớn, thuân lợi cho sản xuất nông nghiệp. 
-Văn minh gắn với hiện đại và thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại. Nói dến văn 
minh, ta thường nhớ đến một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển”, một lát cắt 
đồng đại. Ví dụ nền ta nói văn minh nhân loại phát triển rực rỡ với sự ra đời của 
điện và hệ thống máy móc hiện đại. 
-Là những sáng tạo, phát kiến mang tính cá nhân. Ví dụ như Thomas Edison phát 
minh ra bóng đèn, Anbe phát minh ra chiếc máy tính đầu tiên… 
-Mang giá trị phổ thông toàn nhân loại, quốc tế. Văn minh mang nét nghĩa rộng 
lớn, là thành quả của toàn nhân loại, được toàn thể con người công nhận và sử  dụng. 
-Thay đổi liên tục. Để phù hợp với sự thay đổi của xã hội, văn minh biến đổi theo. 
Trước kia,con người luôn cho rằng trái đất đứng yên nhưng đến thế kỉ 17,con 
người đã thay đổi cách nhìn và cho rằng trái đất quay quanh mặt trời. 
-Văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Phương Tây có nhiều phát  minh hiện đại. 
Câu 2: Trình bày đặc trưng và chức năng của văn hóa      lOMoAR cPSD| 36844358
*Đặc trưng của văn hóa 
Các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài nước đúc kết thành nhiều đặc trưng 
của văn hóa, trong đó nổi bật nhất bà bốn đặc trưng cơ bản sau:  - 
Một là, tính hệ thống. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về văn hóa 
vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của cộng đồng người. Từ những 
thành tố căn bản này đã nẩy sinh và bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều tầng bậc 
khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú.  - 
Hai là, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị thuộc về đời sống vật 
chất, giá trị thuộc về đời sống tinh thần) trở thành thước đó về mức độ nhân bản 
của xã hội và con người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn 
hóa để tồn tại và có giá trị của văn hóa để phát triển.  - 
Ba là, tính lịch sử. Văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua một quá trình 
và được tích lũy qua nhiều thế hệ, là những thành tựu do cộng đồng người trong 
quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội mà được sáng tạo và luôn 
hướng tới sự hoàn thiện để đạt đến tính giá trị.  - 
Bốn là, tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng thuộc về xã hội loài 
người, gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, là những giá trị do một 
cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc về con người, ở trong con người và mang dấu 
ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa là chủ thể của văn hóa, đồng thời là 
khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa. 
*Chức năng của văn hóa: 
+Chức năng tổ chức xã hội 
+Chức năng điều chỉnh xã hội  +Chức năng giao tiếp  +Chức năng giáo dục 
*Phân tích một đặc trưng và chức năng của văn hóa: 
 Đặc trưng quan trọng của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là 
“trở thành đẹp, thành có giá trị”, tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. 
Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.      lOMoAR cPSD| 36844358
Các giá trị văn hóa, theo muc đích cố thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho 
nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa 
có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thấm mĩ theo thời gian 
có thể phân hiệt các giá trị vĩnh cừu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị 
theo thời gian cho phép ta có đươc cái nhìn hiện chứng– và khách quan trong việc 
đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – 
phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời. 
Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy 
theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có 
thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ 
“giá trị” và “phi giá trị” của nó. về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có 
giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp 
dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các 
triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn… đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. 
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan 
trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng 
thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi 
của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển  của xã hội.  *Lấy ví dụ chứng minh 
Câu 3:Văn hóa Việt Nam thuộc về loại hình văn hóa gốc nông nghiệp điển hình với 
những đặc trưng chủ yếu sau đây: 
Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông-Nam Châu Á nên Việt Nam thuộc 
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của 
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ nét trong đặc  trưng văn hóa Việt Nam. 
-Trong ứng xử với môi trường tự nhiên luôn có ý thức tôn trọng và sống hòa hợp 
với thiên nhiên, tôn sùng thiên nhiên, thể hiện đức hiếu sinh 
Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự 
nhiên, do nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên,      lOMoAR cPSD| 36844358
đơm hoa, kết trái và thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng” An cư 
lạc nghiệp” . Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức 
tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra 
là nói “ nhờ trời”, “lạy trời”… Các tín ngưỡng và lễ hội sung bái tự nhiên rất phổ 
biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đât nước.  - 
Vì sống bằng kinh tế nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúc nước, ở đó con 
người có sự phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên (như trời, đất, nước, nắng, 
mưa...), nên trong nhận thức đã hình thành một lối tư duy tổng hợp, trọng quan hệ, 
trọng tình biện chứng, thiên về kinh nghiệm, trực giác, cảm tính và duy linh (linh  cảm). 
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trông trời, trông đất, 
trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…” nên về mặt nhận thức, 
hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan 
cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen… Người làm nông 
quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa chúng. 
Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan 
hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa 
cau thì đau mùa lúa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì  râm… 
-Trong tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên 
tắc trọng tình, chuộng sự hòa thuận, tương trợ, quan tâm đến những láng giềng.  - 
Lối sống trọng tình đưa đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng Mẫu đề cao  nguyên lý Mẹ.  - 
Nguyên tắc trọng tình cũng là cơ sở của tâm lí hiếu hòa, chuộng sự bình 
đẳng, dân chủ, đề cao tính cộng đồng, tính tập thể. 
Về mặt tổ chức cộng đồng, người Việt có lỗi sống cố định lâu dài nên tạo ra những 
mối quan hệ tình cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống trọng tình.. 
Nhưng cũng từ đây hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lỗi sống trọng 
tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong ngôi 
nhà của người Việt rất coi trọng gian bếp, thể hiện sự coi trọng phụ nữ. Người Việt 
coi: Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà… Người phụ nữ cũng được 
xem là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu;      lOMoAR cPSD| 36844358
Con dại cái mang… Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa: Lá 
lành đùm lá rách; Bầu ơi thương lấy bí cùng…; các quan hệ ứng xử thường đặt lý 
cao hơn tình: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình.  - 
Lối tư duy tổng hợp biện chứng, cộng với nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối 
sống linh hoạt, luôn ứng biến cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.  - 
Tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy 
định thái độ dung hợp trong tiếp nhận các yếu tố khoan dung trong ứng xử, mềm  dẻo trong đối phó. 
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông 
nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đên lối sống linh hoạt, luôn thay đổi 
để thích hợp với từng hoàn cảnh: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo 
cà sa, đi với ma mặc áo giấy; … Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu 
hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “ cửa sau” để giải 
quyết công việc( Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế). 
Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân 
chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lý coi trọng 
cộng đồng, coi trọng tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, 
luôn có tập thể sau lưng. 
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp vfa phong cách linh hoạt 
còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những không có 
chiến tranh tôn giáo mà mọi tôn giáo đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc 
chiến tranh xâm lược người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. 
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp 
trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong cách tố chức đời sống, phương thức tư 
duy, lối ứng xử của người Việt truyền thống. 
- Tuy nhiên, mặt trái của tính linh hoạt và trọng tình là nó dẫn đến thái độ tùy tiện, 
coi thường tính nguyên tắc, ý thức tổ chức kỷ luật kém. 
Văn minh nông nghiệp kéo dài đã làm chậm sự phát triển của tiến trình lịch sử Việt 
Nam, không tạo ra được những tiền đề và điều kiện để bức ra khỏi cái khung 
phong kiến phương Đông, làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của con người 
Việt Nam và dẫn đến sự trì trệ của xã hội Việt Nam. 
Câu 4: Vai trò của văn hóa trong sự phát triển      lOMoAR cPSD| 36844358
*Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội 
-Đào tạo con người theo các giá trị chân-thiện-mĩ 
-Hình thành trong phẩm chất mọi thành viên trong xã hội ý thức phát huy các tiềm 
năng về thể lực, trí lực và nhân cách 
-Tích cực xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh để có đủ sức đề kháng đẩy 
lùi các tiêu cực xã hội, bài trừ những văn hóa phản tiến bộ. 
*Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội 
-Sự phát triển của một dân tộc gắn liền với cái mới nhưng không tách rời cội  nguồn, văn hóa 
-Con người là nhân tố có vai trò quan trọng và là không thể thiếu trong sự phát 
triển của kinh tế, xã hội 
-Văn hóa có khả năng tiếp thu và cải biên những yếu tố văn hóa ngoại sinh để biến 
thành ngoại lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội 
-Văn hóa sẽ giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong 
mọi lĩnh vực đời sống xã hội mà trước hết là kinh tế 
*Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển 
-Mục tiêu của sự phát triển ở nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,  văn minh” 
Trong chiến lược phát triển kinh tế 2011-2020: 
-Xác định: phát huy tối đa nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ 
yếu và là mục tiêu của sự phát triển” 
-Yêu cầu: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện 
công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”. 
*Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển 
-Phát triển phải hướng tới mục tiêu văn hóa- xã hội mới đảm bảo được sự bền vững 
và trường tồn cho sự giàu mạnh của tổ quốc. 
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con 
người và xây dựng xã hội mới.Văn hóa giúp mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí, 
giúp bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, cho nhân      lOMoAR cPSD| 36844358
dân Việt Nam lí tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đồng thời bồi 
dưỡng phong cách, lối sống lành mạnh, hướng con người đến chân-thiện-mĩ để  hoàn thiện bản thân. 
Câu 5: Trình bày vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa Việt Nam 
Đạo Phật truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ 
lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt 
Nam, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên 
không do áp đặt của chính quyền, cả khi Phật giáo được tôn là Quốc giáo...  Nguồn gốc đạo Phật 
Dạo Phật là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, được ra đời vào khoảng thế 
kỷ VI trước công nguyên, ở vùng phía Tây Bắc Ấn do thái tử Tất Đạt Đa sáng lập, 
hiệu là Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni). 
Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh rối ren của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Thế kỷ VI trước 
Công nguyên, lúc này Ấn Độ đang trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Sự phân chia 
đẳng cấp ngặt nghèo sâu sắc. Thời kỳ này xã hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp 
cách biệt nhau…. Đẳng cấp Bà la môn (địa vị cao nhất); đẳng cấp Sát đế lỵ (dòng 
họ vua quan, quý tộc); đẳng cấp Vệ xá (gần những người giàu có, buôn bán thủ 
công), đẳng cấp Thủ đà la (nô lệ). Ngoài ra còn có một tầng lớp người thuộc hàng 
cùng khổ dưới đáy xã hội, bị mọi người khinh rẻ. Trước khi có sự ra đời của đạo 
Phật, mâu thuẫn giữa các đẳng cấp trên hết sức gay gắt được thể hiện trong những 
cuộc đấu tranh mang tính chất toàn xã hội. Cùng thời điểm này Ấn Độ đã và đang 
diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhà duy vật và duy tâm, đấu tranh giữa các tôn 
giáo, bởi lẽ bên cạnh sự thống trị của đạo Bà la môn còn có sự hiện diện của Phệ 
đà giáo và một số giáo phái khác, đồng thời tư tưởng duy vật thô sơ và tư duy biện  chứng đã xuất hiện.      lOMoAR cPSD| 36844358
Hoàn cảnh xã hội và những tư tưởng quan niệm trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp 
phần thúc đẩy sự ra đời của đạo Phật. 
Bỏ qua những truyền thuyết về Tất Đạt Đa tìm đường cứu khổ cho chúng sinh mà 
sáng lập ra đạo Phật thì có thể thấy rằng thực chất Phật giáo ra đời là do kết quả 
của cuộc đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp, đấu tranh giữa thần quyền và thế 
quyền, giữa những người nắm kinh tế của xã hội và những người nắm tư tưởng xã 
hội. Cuộc đấu tranh ấy đã lôi kéo đông đảo quần chúng nghèo khổ tham gia, thay 
bằng thành quả bình đẳng thật sự nơi trần gian, quần chúng đã nhận được sự bình 
đẳng trong tư tưởng, nơi gọi là cõi Niết bàn của nhà Phật. 
Giáo lý của đạo Phật tập trung vào hai vấn đề, một là sự khổ não, hai là sự giải 
thoát ra khỏi khổ não ấy. Khổ não là bởi sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân hồi thì 
khỏi khổ, mà muốn thoát khỏi vòng luân hồi thì phải bỏ hết tham, sân, si trên trần 
thế. Khi thoát khỏi vòng luân hồi con người mới chứng được trạng thái Niết bàn,  Cực lạc. 
Đạo Phật là một tôn giáo vô thần, không cùng bản chất như mọi tôn giáo khác. Đạo 
Phật còn có một số đặc điểm riêng: Đạo Phật không quan niệm về đấng sáng tạo ra 
thế giới. Thế giới tự nó vận động, phát triển thông qua luật vô thường nhân quả. Sự 
vận động ấy diễn ra trong không gian và thời gian, đạo Phật sơ kỳ ở Tiểu thừa 
mang nhiều tính duy vật những quan niệm của đạo Phật về thế giới về con người, 
về vận động mang hình thức biện chứng. Các giáo lý đạo Phật chứa đựng nhiều nội 
dung đạo đức, hướng thiện. Đồng thời cũng phủ nhận một cách gián tiếp những 
mâu thuẫn, xung đột xã hội.  Đạo Phật Việt Nam 
Với những đặc điểm đó, cùng với giáo lý của mình đạo Phật đã tìm được chỗ đứng 
của mình trong lòng xã hội Việt Nam. 
Đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên bằng hai con 
đường; đường thủy thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn Độ. Đường 
bộ thông qua giao lưu văn hóa với Trung Quốc mà Trung Quốc khi ấy cũng tiếp 
nhận Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ. Như vậy Phật giáo Việt Nam mang cả 
sắc thái Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc. 
Đạo Phật truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường chiếm lược, 
không phải do sự cưỡng chế của Trung Hoa mà thông qua đường giao thương buôn 
bán. Đạo Phật đến bằng con đường hòa bình, những giáo lý của đạo Phật về bình      lOMoAR cPSD| 36844358
đẳng, bắc ái, cứu khổ cứu nạn…gần gũi với cư dân Việt Nam do đó dễ được chấp 
nhận. Mặt khác thời kỳ này còn có các tín ngưỡng bản địa của cư dân nông nghiệp 
lúa nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo, đạo lão được Trung Quốc truyền vào, 
tuy nhiên các tín ngưỡng, tôn giáo đó còn có nhiều mặt khuyết thiếu đối với đời 
sống tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào chỗ thiếu hụt đấy. Vì vậy đạo 
Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản địa. 
Đạo Phật truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ 
lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt 
Nam, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên 
không do áp đặt của chính quyền, cả khi Phật giáo được tôn là Quốc giáo. Sự tồn 
tại lâu dài của Phật giáo trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã đem lại những 
đóng góp đáng kể cho văn hóa, tư tưởng, kinh tế, chính trị trong diễn trình lịch sử  Việt Nam. 
Người ta thường xếp tôn giáo vào phạm trù văn hóa, Phật giáo là một sự kiện tôn 
giáo, cũng là một sự kiện văn hóa. Phật giáo truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam vốn 
không phải là một sự kiện đơn độc, mà kéo theo nó (hoặc trước, hoặc sau, hoặc 
đồng thời với nó) là cái ảnh hưởng của tổng thể văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa 
Việt Cổ, ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: Nông nghiệp, y dược, âm 
nhạc vũ đạo ngôn ngữ… 
Điều quan trọng là văn hóa Việt cổ tiếp thu một lượng quan trọng ảnh hưởng của 
văn hóa n Độ qua ngả đường Phật giáo vào suốt thời Bắc thuộc, khi ảnh hưởng 
của văn minh Trung Hoa tràn lên trên đất Việt và mang khuynh hướng đồng hóa rõ  rệt. 
Ngoài đóng góp làm cho văn hóa Việt Nam thêm phong phú, khách quan mà nói 
ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ là một đối trọng của ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa 
trên đất Việt. Nó có tác dụng trung hòa ảnh hưởng quá mạnh mẽ vào nền văn minh 
Trung Hoa; nó góp sức cùng cơ tầng văn hóa Việt cổ ngăn chặn khuynh hướng 
đồng hóa của văn minh Trung Hoa, nó được hội nhập vào văn hóa Việt Nam làm 
giàu thêm nền văn hóa Việt, góp phần làm nên cái khác của văn hóa Việt so với  văn hóa Trung Hoa. 
Lấy một ví dụ cụ thể: Ở Thăng Long đời Lý, Hoàng Thành Thăng Long mở 4 cửa, 
nếu ở phía cửa Bắc thờ thánh Trấn Vũ – Trấn Vũ là một vị thần linh Trung Hoa 
được hội nhập vào đất Việt thì ở cửa Đông lại thờ thần Bạch Mã là ảnh hưởng của      lOMoAR cPSD| 36844358
Ấn Độ, và cửa Tây Long thành được mang tên “Quảng Phúc Môn”, mở ra phía 
Tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa” của đức Phật ở Tây Thiên. 
Và đạo Phật trong buổi đầu thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc là một đối tượng 
của Nho giáo mà Trung Hoa đem sang Việt Nam. Khi mà Phật giáo bị suy sút ở 
thượng tầng, thì ở chốn làng quê “cơ sở hạ tầng” Phật giáo lại tỏa ra dân chúng. 
Thời Lý Trần Phật giáo là Phật giáo quý tộc, còn sang thời Lê Nguyễn Phật giáo là 
Phật giáo dân gian, nhân gian (hay là được dân gian hóa – từ sau thế kỷ XV). Nếu 
như Quân chủ Việt Nam dựng ra cái đình ở làng quê với tư cách như một “tiểu 
triều đình” trọng nam khinh nữ ở chốn đình Trung, thì dân dã quê Việt Nam vẫn 
giữ và dựng cái chùa, cái “chùa làng” của dân gian chứ không phải cái quốc tự của 
triều đình và những ai trước hết là nữ giới bị loại bỏ khỏi sinh hoạt đình Trung thì 
đã có một tổ chức, một trung tâm sinh hoạt tâm linh là ngôi chùa. Thời nhà Lê, 
Nguyễn “đất vua, chùa làng” (đất của vua, chùa của làng) tức “chùa làng” đã trở 
thành đối trọng của đình làng, và bảo trợ cho một quá nửa lực lượng của dân tộc là 
“đàn bà”. Chính từ sự bảo trợ này mà Phật giáo Việt Nam có được chỗ đứng thêm 
vững vàng trên đất Việt. 
Khi đạo Phật vào Việt Nam, nếu nó chỉ có một kinh điển bất động không thôi thì sẽ 
không có tác dụng chủ yếu nào cả, mà tác dụng của nó như thế nào là do sự tổ 
chức, tuyên truyền giáo dục cải tạo của những người tiên phong thấm nhuần sâu 
sắc học thuyết Phật giáo. Lúc bấy giờ đã có những vị thiền sư Việt Nam ý thức và 
chấp nhận tính nhân đạo đại trí, đại dũng của Phật giáo, phù hợp với tinh thần anh 
dũng bất khuất, lòng thương người khổ đau và đặc tính phân biệt thiện ác, chánh tà 
của quần chúng nhân dân Việt Nam ta. Từ sự thấm nhuần tư tưởng Phật giáo xây 
dựng con người tốt cá biệt gắn liền với phát huy bản chất con người xã hội 
“Chư ác mạc tác – chúng thiện phụng hành 
Tự tịnh kỳ ý – Thị chư Phật giáo” 
Không hành ác tức không làm cho mình trở thành một tội khổ cho mình và cho 
người khác, là lời khuyên đầu tiên của đức Phật, tiếp theo là sự hành thiện, là hãy 
trở nên một phúc báu cho mình và cho người khác, lời kêu gọi cuối cùng là tự giữ 
tư tưởng cho trong sáng, đó là các điều giáo dục của Phật. Đối với các quốc gia 
dân tộc khác, lời dạy của Phật trên đây có thể chỉ có tầm giáo dục về tâm lý hay 
luân lý thông thường. Nhưng đối với hoàn cảnh và tình hình đất nước ta ngay từ xa 
xưa luôn địch họa rình rập, thì lời giáo dục ấy của Phật qua khí tiết, tính Việt Nam 
đã làm cho Phật giáo Việt Nam lại mang theo một ý nghĩa sâu sắc khác.      lOMoAR cPSD| 36844358
Không làm các việc ác cũng có nghĩa là chống ác, làm các việc lành, có đức cũng 
có nghĩa là liên minh với chân chính với thiện mỹ với chính nghĩa của nhân dân. 
Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm, với tinh thần “Từ bi – hỷ xả - vô ngã – vị 
tha”, năng động hóa bởi đạo lý Bát chính đạo, là điều giáo dục phổ biến đối với 
dân tộc ta, dân tộc thường xuyên bị những thế lực xâm lược đem theo sự thống trị 
đầy rãy những cái ác bất nhân, gieo mầm bất nghĩa, trái đạo lý dân tộc. Bởi thế 
Phật giáo phương xa đến Việt Nam đã đương nhiên trở thành Phật giáo Việt Nam 
với tư tưởng yêu nước là chủ yếu. Tư tưởng yêu nước này được xác minh qua 
nhiều thế hệ, suốt dòng lịch sử tranh đấu giữ nước và dựng nước của dân tộc ta, 
phù hợp với tư tưởng “Chư ác mạc tác” và nghĩa vụ “Chúng thiện phụng hành” của  giáo lý nhà Phật. 
Phật giáo Việt Nam nhập thế 
Từ các vị thiền sư Việt Nam đến không ít các vị vua, các anh hùng dân tộc Phật tử 
đã thấm nhuần tư tưởng yêu nước, trở thành mối quan hệ khăng khít giữa Phật giáo 
Việt Nam với lịch sử tư tưởng Việt Nam. Hơn nữa trong suốt hai cuộc kháng chiến 
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, nhiều chùa chiền Phật giáo Việt Nam là cơ sở 
bao che nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ cách mạng, những Tăng, Ni, Phật tử nằm 
trong các đoàn thể cứu quốc, đoàn thể Phật giáo yêu nước, hòa mình vào các sinh  hoạt cách mạng. 
Phật giáo Việt Nam vừa là một học thuyết giải thoát về thuật sống lương thiện tốt 
đẹp cho con người Việt Nam, vừa là một học thuyết qua tinh thần Tứ ân có ơn với 
tổ quốc là trọng đại – đã thực sự góp phần trong việc hình thành nền tư tưởng Việt 
Nam, văn hóa dân tộc Việt Nam, trong đó tư tưởng yêu nước là chủ yếu. 
Phật giáo đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho nền tảng tư tưởng văn hóa Việt Nam. 
Trước hết Phật giáo đã đóng vai trò tích cực trong các cuộc đấu tranh giải phóng 
dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn, đạo đức, 
hành vi cư xử của người Việt, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. Trước sự 
đòi hỏi của dân tộc, của tín đồ Phật giáo, Phật giáo Việt Nam đã đóng góp tích cực 
cho nền văn hóa nước nhà. 
Dân tộc Việt Nam có cái duyên là đã được tiếp nhận đạo Phật, đạo Phật có cái 
duyên là tìm được chỗ đứng cho mình trong cộng đồng người Việt Nam. Cái cộng 
đồng dựa trên nền tảng kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, với quan niệm làng xã cổ      lOMoAR cPSD| 36844358
truyền, với tín ngưỡng đa thần đã tiếp nhận đạo Phật và cải biến nó cho ít nhiều 
phù hợp với cộng đồng ấy. 
Cộng đồng người Việt tiếp nhận Phật giáo, đồng thời tiếp nhận những tư tưởng 
bình đẳng, bắc ái, vô ngã, vô thường…ở đạo Phật, những tư tưởng này cùng với 
những tư tưởng cộng đồng cổ truyền đã làm cản trở cho quá trình phân hóa giai 
cấp, làm dịu những xung đột giai cấp trong xã hội. Trong thời gian tới, Phật giáo 
tồn tại và thậm chí tiếp tục phát triển mạnh ở Việt Nam. Phật giáo đóng góp phần 
tích cực của nó bằng cách tự làm trong sạch bản thân, xóa bỏ những yếu tố mê tín 
lỗi thời. Phật giáo góp phần cân bằng cuộc sống ngày càng quay cuồng với nhịp độ 
cao và Phật giáo góp phần hướng thiện cho con người. 
Việc cải tiến nghi lễ, và hiện đại hóa là một xu hướng tất yếu, là điều cần thiết của 
đạo Phật, điều đó có từ trong lịch sử Phật giáo của Việt Nam. Đạo Phật còn có vai 
trò to lớn trong đời sống tình cảm, tâm linh của người Việt Nam, người dân của đất 
nước đã trải qua nhiều đau thương và đang còn nhiều khó khăn trong đời sống xã  hội. 
Xin mượn lời của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong (Mấy ý kiến về Phật giáo và 
văn hóa dân tộc – Mấy vấn đề Phật giáo và tư tưởng Việt Nam) để khẳng định 
những giá trị văn hóa của đạo Phật “Đạo Phật có thể mất đi như mọi hiện tượng vô 
thường. Song cái tinh túy của văn hóa Phật giáo đã được dân tộc hóa và dân gian 
hóa thì mãi mãi trường tồn”. 
Ngày nay để tiếp tục phát huy những giá trị tích cực của mình, Phật giáo phải biết 
tự giữ gìn, bồi đắp và đổi mới cho phù hợp với thời đại nhằm góp phần thực hiện 
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” như trước 
đây đã từng đóng góp cho “quốc thái dân an”. 
Trong điều kiện xã hội hiện nay, những di sản văn hóa của Phật giáo đang tiếp tục 
phát huy tác dụng, tạo nên sắc thái dân tộc, góp phần làm phong phú bản sắc văn 
hóa Việt Nam. Gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã quyên góp, công đức tiền của 
để khôi phục, tôn tạo chùa chiền, xây cất tịnh xá, niệm Phật đường, đúc chuông, 
đắp tượng, dựng tháp… Ngoài ý nghĩa tâm linh, nhiều ngôi chùa đã trở thành 
những danh thắng nổi tiếng để du khách đến chiêm ngưỡng. Những giá trị văn hóa 
Phật giáo không chỉ tồn tại trong tư tưởng, mà còn đang hiện diện thông qua sự nỗ 
lực của hàng triệu tín đồ nhằm vươn tới một lẽ sống vì Tổ quốc giàu mạnh, nhân 
sinh hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định được vị trí, vai trò của Phật giáo trong 
suốt quá trình đồng hành cùng dân ta.      lOMoAR cPSD| 36844358 Câu 6: 
Nho giáo được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội 
Việt Nam, là nền tảng đạo đức giáo dục con người, đóng góp to lớn vào việc tổ 
chức nhà nước, duy trì trật tự xã hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong các 
triều đại quân chủ như Nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn, trong suốt chiều 
dài lịch sử phù hợp và dung hòa với đời sống người Việt hình thành nền Nho giáo 
bản sắc Việt Nam nôm na gọi là Việt Nho ... Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt 
Nam sâu sắc là nền tảng của nền văn minh tại Việt Nam và xếp Việt Nam vào các 
nước ảnh hưởng nền Văn minh Trung Hoa gọi là Vùng văn hóa Đông Á. Từng 
bước hình thành nên lối sống, sinh hoạt, đạo đức đối nhân xử thế trong xã hội của 
người Việt. Ngày nay Việt nho ít được xem trọng kèm những khía cạnh suồng sã, 
tiêu cực trong văn hóa phương tây ảnh hưởng đang làm đạo đức một bộ phận giới  trẻ xuống cấp. 
*Sự hình thành và phát triển 
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của 
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng 
Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống 
hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông 
là người sáng lập ra Nho giáo. 
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, 
Giêxu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách 
trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò 
của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần,vào 
khoảng hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời, khiến cho việc tìm hiểu tư tưởng 
gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố 
gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.  Nho giáo nguyên thủy 
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có 
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau 
Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau 
khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. 
Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời 
thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn      lOMoAR cPSD| 36844358
gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các 
tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến 
Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần 
(trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành 
hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó 
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu 
trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín 
điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.  Hán Nho 
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho 
giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. 
Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến 
Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. 
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai 
cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".  Tống Nho 
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận 
ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu 
giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên 
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế 
kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). 
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với 
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các 
yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.  Đặc điểm 
Về nội dung học tập, Nho giáo chỉ nói đến "trí dục" và "đức dục" mà không xét 
đến mặt "thể dục" là mặt cũng rất cần cho sự phát triển toàn diện con người. 
Những kiến thức về giới tự nhiên và về sản xuất vật chất không được Nho giáo đề 
cập (bởi ở thời của Khổng Tử, khoa học kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển). 
Do vậy, người học tuy thấm nhuần tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ 
văn, nhưng kiến thức về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì lại không phát 
triển. Cả hai mặt tiến bộ và hạn chế của Nho giáo đều để lại dấu ấn trên Nho sĩ. 
Khi tiếp xúc với nền văn minh phương Tây mạnh về khoa học kỹ thuật, nếu người      lOMoAR cPSD| 36844358
xuất thân Nho học biết tiếp thu những kiến thức khoa học và sản xuất thì sẽ khắc 
phục được mặt hạn chế, trở nên "Vừa có tài vừa có đức", ngược lại nếu tiếp thu 
không có chọn lọc thì không những không khắc phục được hạn chế mà những giá 
trị đạo đức của nền Nho học cũng bị đánh mất. 
Nhược điểm nghiêm trọng hơn nữa là Nho giáo Việt Nam thiếu sự xuất hiện các 
trường phái học thuật nên vận động trong sự đơn điệu và một chiều, chứ không 
được phong phú và đa dạng như Nho giáo Trung Quốc. Nho giáo Việt Nam thiếu 
sự vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh nên trì trệ. Đa số nhà Nho Việt Nam chỉ 
đặt cho mình mục đích học là để đi thi, thi đỗ thì ra làm quan để được giàu sang, 
sung sướng. Đạt được mục đích đó thì xem như việc học tập đã kết thúc. Ít người 
có chí cao xa, như học để tham gia tranh luận những vấn đề mang tầm khu vực, 
học để kinh bang tế thế hoặc để phát triển văn hoá, đạt đến những tầm cao tư 
tưởng. Cũng có một số Nho sĩ quan tâm đến học thuật, nhưng thường là các vấn đề 
chính trị và đạo đức, ít bàn đến vấn đề siêu hình, một lĩnh vực thuần túy triết học 
làm nền tảng cho khả năng nhận thức sâu sắc thế giới và hành động sáng tạo. Thậm 
chí, họ còn biến những vấn đề siêu hình thành cái thực tế, thực dụng. Vì học tập và 
tư duy như thế nên họ ít có cống hiến to lớn trong lĩnh vực học thuật có thể so sánh 
với các nước khác cũng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nền giáo dục Nho giáo Việt 
Nam chỉ sản sinh ra được một tầng lớp quan lại có nền tảng Nho học còn các loại 
hình trí thức then chốt của một tầng lớp trí thức thực thụ thì xuất hiện thưa thớt, 
mờ nhạt, hoặc hoàn toàn vắng bóng trong một số lĩnh vực như triết học. 
Một số nhà Nho uyên thâm của Việt Nam khi đứng trước kho tàng đồ sộ và uyên 
bác của Nho giáo Trung Quốc thường tóm lược lấy những điều cốt yếu, biên soạn 
lại thành những tài liệu đơn giản và ngắn gọn để dạy học trò. Có thể liệt kê các 
sách Nho học như “Tứ thư tập chú” của Chu Hy, “Tứ thư đại toàn” của Tống, 
Nguyên, Minh, Thanh Nho, sang Việt Nam chỉ còn là “Thuyết ước” (tóm lược học 
thuyết) và “Ước giải” (giải thích tóm tắt); hoặc như cuốn “Tính lý đại toàn” của Hồ 
Quảng thời Minh, sang Việt Nam chỉ còn “Tiết yếu”. Đây là hiện tượng chung của 
nhiều triều đại quân chủ Việt Nam. Nếu ở triều Trần có “Tứ thư thuyết ước” của 
Chu Văn An, thì ở triều Lê - Trịnh có “Tứ thư ước giải” của Lê Quý Đôn, triều 
Nguyễn có “Tứ thư trích giảng” của Nguyễn Văn Siêu; nếu ở triều Lê - Trịnh có 
cuốn “Tính lý tiết yếu” của Bùi Huy Bích, thì ở triều Nguyễn cuốn đó vẫn còn 
được xem là cuốn sách giáo khoa mẫu mực. Chính điều này đã lược bớt rất nhiều 
điều, làm mất rất nhiều điểm có khả năng gợi mở, giản đơn hoá nội dung phong 
phú và súc tích của học thuyết khiến người học không lĩnh hội được chiều sâu của      lOMoAR cPSD| 36844358
Nho giáo. Người được truyền đạt cũng hài lòng với cách làm đó thì mọi lối tư duy, 
mọi đường sáng tạo đều bị thu hẹp lại. Bên cạnh đó, Nho giáo Việt Nam đã pha 
trộn với tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Nhưng 
hạn chế lớn nhất là tập quán sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc của giới 
Nho sĩ Việt Nam. Trong khi đó bên cạnh Nho giáo còn có nhiều trường phái tư 
tưởng khác như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... Giữa các trường phái này luôn có sự 
tranh luận, phản bác nhau. Điều này khiến sự phát triển của Nho giáo Việt Nam 
hạn chế. Nó chỉ đạt đến mức độ tiếp thu một số tín điều từ Nho giáo Trung Hoa, 
chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện các học phái khác nhau. Phương pháp 
tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều Quá trình thâm nhập của Nho giáo vào  Việt Nam 
3.1. Hán Nho đã được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên, Sỹ 
Nhiếp ra sức truyền bá từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, vì đây là thứ văn hóa do kẻ 
xâm lược áp đặt cho nên, suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ 
đứng trong xã hội Việt Nam. Đến năm 1070, với sự kiện Lí Thánh Tông cho lập 
Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử, mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận 
thính thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho chứ không 
phải Hán Nho, Đường Nho hay Minh Nho, Thanh Nho. 
Đời Trần có Chu Văn An đào tạo được khá đông học trò. Các nhà nho những lớp 
đầu tiên này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy 
nhiên, cho đến gần cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. 
Trong cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh (1418- 1408), các nhà nho Việt 
Nam tập hợp dưới cờ Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Sự lớn mạnh của Nho 
giáo Việt Nam (điều kiện chủ quan) cùng với nhu cầu cải cách quản lí đất nước 
(yêu cầu khách quan) đã dẫn đến việc triều Lê đưa Nho giáo thành quốc giáo: sự 
phát triển của Nho giáo chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn Nho giáo độc tôn. 
Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của triều đình: Thời Lê sơ thì Nho 
giáo thịnh, chí sĩ đua nhau đi thi để ra làm việc nước. Thời Lê mạt thì Nho giáo 
suy, nhiều nhà nhà xuất sắc (như Nguyễn Bình Khiêm) lui về ở ẩn. Nhà Nguyễn 
lên cầm quyền, địa vị Nho giáo một lần nữa được khẳng định để rồi mất hẳn khi 
phải đối mặt với sự tấn công của văn hóa phương Tây.  *Vai trò, ảnh hưởng 
Tính từ khi bắt đầu du nhập cho đến lúc suy vong, Nho giáo đã có lịch sử 1900 
năm truyền bá ở Việt Nam. Thời Bắc thuộc, trong những thế kỷ đầu công nguyên,      lOMoAR cPSD| 36844358
các quan cai trị người Hán như Tích Quang (1 - 5), Nhâm Diên (29 - 33), Sĩ Nhiếp 
(187 - 226), Đỗ Tuệ Độ (đầu thế kỷ V) đã ra sức truyền bá Nho giáo ở Giao Châu. 
Cũng trong thời kỳ này, các đoàn người Hán di thực và tị nạn nối tiếp nhau kéo 
xuống Giao Châu, mang theo văn hóa Hán. Tuy nhiên, đây là thời kỳ mà văn hóa 
Việt - Mường đã đạt tới những thành tựu đỉnh cao, có sức mạnh văn hóa nội tại, và 
có khả năng chọn lọc, chuyển hóa những yếu tố văn hóa mới du nhập để bồi bổ 
cho sức mạnh văn hóa nội tại của mình. Trong khi đó, Nho giáo là công cụ củng cố 
thể chế nhà nước của quân xâm lược. Vì vậy, trải qua cả nghìn năm, Nho giáo vẫn 
không thâm nhập được vào văn hóa Việt - Mường. Cư dân Việt - Mường vẫn bảo 
tồn được văn hóa tộc người, ý thức tộc người, ý chí quật cường và nhu cầu đấu 
tranh vì độc lập tự do.   
Phải đến thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ XI trở đi, Nho giáo mới được Nhà nước phong 
kiến chú trọng đề cao. Để xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước, giai cấp phong 
kiến đã tìm thấy ở Nho giáo những lợi khí mà Phật giáo và Đạo giáo đương thời 
không có: sự thần bí hóa vương quyền, sự thiêng liêng hóa quan hệ quân thần, 
những chuẩn mực và nội dung đào tạo quan lại thích hợp để nối dài cánh tay quyền 
lực của nhà vua. Đến thời Hậu Lê, Nho giáo vươn lên chiếm địa vị độc tôn trong 
văn hóa cung đình, đẩy Phật giáo và Đạo giáo xuống hàng tôn giáo dân gian. 
Nhưng Nho giáo có vị trí hàng “Quốc giáo” thật sự ở triều Nguyễn, một triều đại 
tập quyền tuyệt đối và triệt để khai thác đạo lý tam cương, ngũ luân của Nho giáo 
để bảo vệ tôn ti quân thần và quyền thống trị vĩnh viễn của tông tộc nhà vua. Trên 
đỉnh cao quyền lực, Nho giáo đã phát tác tối đa sức mạnh kìm hãm của nó, trở 
thành nguyên nhân sâu xa của tình trạng loạn lạc và trì trệ kéo dài suốt thế kỷ XIX 
cho đến khi mất nước về tay Pháp. Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự suy tàn của nhà 
nước phong kiến và giai cấp phong kiến, Nho giáo đã không còn là ý thức hệ chính 
thống và cũng không còn đóng vai trò một tôn giáo chính thống điều chỉnh hành vi 
và đạo đức như trước nữa. Sự đột khởi của phong trào Duy Tân - Đông Du (1905 - 
1908) đã đóng cây đinh cuối cùng vào nắp quan tài của Nho giáo ở Việt Nam.   
Điểm sơ qua như vậy, có thể thấy rằng, giai cấp phong kiến Việt Nam thượng tôn 
Nho giáo không chỉ do nhu cầu xây dựng quốc gia, mà còn vì và chủ yếu là vì Nho 
giáo có ích đối với việc cai trị nhân dân. Vì vậy, tuy có lúc thăng lúc trầm, nhưng 
bao giờ Nho giáo cũng là chiếc phao chống đắm của các triều đại phong kiến Việt      lOMoAR cPSD| 36844358
Nam, kể từ khi vua Lý Thánh Tông dựng Văn Miếu ở Thăng Long năm 1070, cho 
đến khi triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi (năm 1883) giao chủ quyền quốc gia  cho Pháp.   
Do sự truyền bá chủ động và kiên trì của giai cấp phong kiến, trong thời trung đại, 
Nho giáo đã thẩm thấu vào một một bộ phận của chủ thể văn hóa Việt Nam là giai 
cấp quý tộc, quan lại và tầng lớp nho sĩ, quan viên. Nho giáo cũng bén rễ vào một 
bộ phận văn hóa tinh thần của xã hội, làm hình thành dòng văn hóa quan phương 
chính thống bên cạnh các hoạt động văn hóa tinh thần của dân gian. Bằng cách đó, 
văn hóa tinh thần của Việt Nam đã bị Hán hóa một phần. Cũng bằng cách đó, Nho 
giáo đã được Việt hóa một phần trong quá trình thâm nhập vào văn hóa Việt Nam.   
Do tác động từ Nho giáo nên sự phân hóa xã hội ở Việt Nam thêm sâu sắc, chủ thể 
văn hóa Việt Nam bị chia đôi; hình thành tầng lớp nho sĩ, giai cấp quý tộc, quan lại 
theo hình mẫu Nho giáo, tồn tại bên cạnh các giai cấp, tầng lớp sẵn có của xã hội 
Việt Nam xưa (nông dân, thợ thủ công, thương nhân). Tầng lớp nho sĩ và quan lại 
ấy có trách nhiệm kinh bang tế thế, trị quốc an dân, và tùy theo thời thế mà chọn 
lựa cách ứng xử, xuất và xử, hành và tàng. Còn các giai cấp, tầng lớp lao động thì 
có trách nhiệm bảo đảm nhu cầu vật chất cho các giai cấp, tầng lớp bên trên và cho  bản thân mình.   
Lịch sử Việt Nam có rất nhiều nhà nho có phẩm hạnh, khí tiết cao cả, như Mạc 
Đĩnh Chi, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trường Toản, Ngô 
Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh, Nguyễn Công Trứ, 
Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, 
Nguyễn Huy Đức, Nguyễn Thức Tự, Khiếu Năng Tĩnh, Trần Đình Phong, Lương 
Văn Can, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Phan Châu Trinh, 
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,... Những nhà nho này, dù lúc bình thời hay khi 
vận nước gian nan, vẫn tỏ rõ khí tiết và phẩm hạnh, đồng thời có thái độ và hành 
động vì nước, vì dân.   
Trong các hoạt động văn hóa, Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt động văn 
hóa tinh thần. Trong văn hóa tổ chức cộng đồng, ở cấp độ gia đình, Nho giáo phối      lOMoAR cPSD| 36844358
hợp với văn hóa Hán làm hình thành chế độ gia đình phụ hệ đi đôi với nam quyền 
cực đoan, tồn tại song hành với truyền thống trọng nam đi đôi với trọng nữ của văn 
hóa dân gian. Trong gia đình, gia tộc, quốc gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành 
chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai trưởng chính dòng, song 
hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai út của dân gian. Trên 
bình diện quốc gia, Nho giáo là cơ sở làm hình thành tổ chức nhà nước của Đại 
Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ chức quân sự, quan chế, lương bổng... mô 
phỏng Trung Hoa, tồn tại song hành với tổ chức cộng đồng cấp làng quê ra đời từ  thời Văn Lang - u Lạc.   
Về tín ngưỡng, nhà nho Việt Nam coi Nho giáo như là tôn giáo; gạt bỏ, bài xích 
các tôn giáo khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến 
khích, như lòng tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ tiên... Vì vậy, trong 
Nho giáo là tôn giáo của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho các 
bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu...   
Về phong tục, sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần 
các phong tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong 
thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán 
làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách 
mô tả các phong tục và nghi thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể 
chúng là bản sao của phong tục Trung Hoa trung đại! Thật ra, bên cạnh các phong 
tục hôn nhân, phong tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán 
trước đây, người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở Việt Nam đều 
có cách thức riêng để thực hiện các phong tục ấy.   
Trong giáo dục, Nho giáo là cơ sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của 
Việt Nam trung đại ở bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo - phủ - huyện/châu, và chế độ thi 
tuyển gồm bốn cấp khảo hạch - thi Hương - thi Hội - thi Đình, để đào tạo ra quan 
lại nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống giáo dục chính thống này tồn tại song 
hành với mạng lưới giáo dục dân gian trong gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm 
giáo dục cách ứng xử với gia đình, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, họ hàng, làng xóm, thần 
linh... Trong lịch sử 844 năm khoa cử Hán học ở Việt Nam (1075 - 1919), nền giáo