



















Preview text:
Trình bày KN, ĐĐ của quan hệ PL dân sự
Khái niệm: Quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ xã hội được các quy
phạm pháp luật dân sự điều chỉnh, trong đó các bên tham gia độc lập với nhau
về tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các bên
được Nhà nước đảm bảo thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế.
Đặc điểm: Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng quan hệ pháp luật vì nó
mang đầy đủ những đặc điểm chung của quan hệ pháp luật. Ngoài những đặc
điểm chung đó quan hệ pháp luật dân sự còn có những đặc điểm riêng xuất phát
từ đặc trưng riên của ngành luật độc lập, cụ thể:
– Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự độc lập với nhau về tổ chức và tài
sản, có quyền tự định đoạt các quan hệ pháp luật nhưng không trái pháp luật.
– Địa vị pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật dựa trên sự bình
đẳng tức là khi tham gia vào pháp luật dân sự các chủ thể không được ép buộc
lẫn nhau, mà phải dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên.
– Quan hệ pháp luật dân sự chủ yếu là các quan hệ tài sản và yếu tố tài
sản là cơ sở phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Các chủ thể có dùng tài sản của
mình để đảm bảo cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
– Các biện pháp cưỡng chế trong quan hệ pháp luật dân sự chủ yếu mang
tính chất tài sản như bắt bồi thường thiệt hại, bội ước, bắt trả lại tài sản bị xâm
hại…và các biện pháp cưỡng chế đó khônh chỉ có pháp luật quy định mà có thể
do các bên quy định để đảm bảo các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
2 . Trình bày các tiêu chí phân loại quan hệ PLDS
- Dựa vào khách thể của QHPLDS:
+ Quan hệ nhân thân: là những QHDS liên quan đến giá trị tinh thần của
chủ thể và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác (quyền đứng
tên tác giả các tác phẩm VH, khoa học, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín,...)
+ Quan hệ tài sản: là những QHDS luôn gắn với một tài sản nhất định
hoặc chuyển dịch tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (quan hệ sở hữu, quan
hệ hợp đồng hay thừa kế tài sản...)
- Dựa vào tính xác định của chủ thể của QHPLDS:
+ QHPLDS tuyệt đối: là quan hệ mà chủ thể quyền được xác định còn chủ
thể nghĩa vụ không được xác định cụ thể mà là tất cả những chủ thể khác (được
xác định bởi sự tách biệt tuyệt đối giữa chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ)
+ QHPSDS tương đối: là quan hệ mà trong đó chủ thể quyền và chủ thể
có nghĩa vụ đều được xác định trước và cụ thể; các chủ thể không chỉ có quyền
mà còn có nghĩa vụ phải thực hiện những điều được quy định trong quan hệ đó
- Dựa vào cách thức thực hiện quyền dân sự:
+ Quan hệ vật quyền: là những quan hệ mà quyền của chủ thể luôn gắn
với một tài sản nhất định, có tài sản mới có quyền
+ Quan hệ trái quyền: là QHPLDS mà trong đó quyền của chủ thể được
thực hiện thông qua việc yêu cầu chủ thể bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ
("trái quyền" là quyền của một người có được thoả mãn hay không phải phụ
thuộc vào việc người khác có thực hiện nghĩa vụ của họ hay không) Ví dụ:
QHPLDS tuyệt đối: quyền sở hữu 1 căn nhà của ông A, mng có trách
nhiệm tôn trọng và không được xâm phạm đến quyền ấy
QHPLDS tương đối: trong quan hệ hợp đồng, các bên đều có trách nhiệm
phải thực hiện những điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu một
bên không thực hiện nghĩa vụ của mình, bên kia có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại hoặc chấm dứt hợp đồng.
Quan hệ vật quyền: đồ vật của mình, mình muốn cho bán hay mượn cũng
là quyền của mình (mình có tác động trực tiếp đến quyền đó và đồ vật đó mang lại lợi ích cho mình)
Quan hệ trái quyền: cho mượn tiền thì phải trả đúng hạn (quyền của mình
có được thoả mãn hay không thì phụ thuộc vào đối phương có thực hiện nghĩa vụ hay không)
3 . Trình bày căn cứ làm phát sinh, chấm dứt các qh ds
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế mà đã
được pháp luật dự liệu các hậu quả pháp lý nhất định (có thể làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự).
Dựa vào hậu quả pháp lý:
+ Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự: là những sự
kiện thực tế do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm
phát sinh quan hệ pháp luật dân sự.
Ví dụ: A điều khiển xe ô tô gây tai nạn làm cho B bị thương. Hành vi gây
tai nạn đó làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của A đối với B.
+ Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật dân sự: là những sự kiện
thực tế do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm thay
đổi quan hệ pháp luật dân sự.
Ví dụ: A ký hợp đồng thuê nhà ở với thời hạn 2 năm với giá 1 triệu đồng.
1 năm sau, A và B thỏa thuận lại hợp đồng thuê nhà với giá 1 triệu rưỡi và thời
gian thuê thành 3 năm. Sự thỏa thuận lại giữa A và B là sự kiện pháp lý làm thay
đổi quan hệ pháp luật dân sự.
+ Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự: là những sự
kiện thực tế do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì làm
chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Dựa trên nguồn gốc phát sinh sự kiện pháp lý sự kiện pháp lý được
phân thành 4 loại: hành vi pháp lý, xử sự pháp lý, sự biến pháp lý và thời hạn.
+ Hành vi pháp lý là hành vi có ý thức của con người và được pháp luật
quy định hậu quả pháp lý. Hành vi pháp lý được chia thành hai loại..: .
Hành vi pháp lý hợp pháp: hành vi có ý thức của con người, diễn ra phù
hợp với quy định của pháp luật và được pháp luật quy định hậu quả pháp
lý. Ví dụ như hành vi thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng làm phát
sinh quan hệ pháp luật dân sự. .
Hành vi pháp lý bất hợp pháp: hành vi có ý thức của con người, diễn ra
trái với quy định của pháp luật và được pháp luật quy định hậu quả pháp
lý. Ví dụ như hành vi gây thiệt hại tới sức khỏe của cá nhân khác làm phát
sinh quan hệ pháp luật dân sự bồi thường thiệt hại.
+ Xử sự pháp lý được thực hiện bởi hành vi của con người nhưng hành vi
đó hướng tới một mục đích nhất định, tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì
có hậu quả pháp lý phát sinh. Hậu quả pháp lý này không nằm trong ý thức của
chủ thể. Ví dụ như: việc được lợi không có căn cứ pháp luật của chủ thể.
+ Sự biến pháp lý: sự xuất hiện và diễn biến của sự vật hiện tượng không
phụ thuộc vào ý thức của con người như mưa, bão, lũ, động đất, sóng thần…
+ Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến
thời điểm khác. Sau thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý nhất định. Ví dụ:
người bắt được gia súc đi lạc, sau khi đã thông báo công khai 6 tháng mà không
ai nhân lại thì người đó có quyền sở hữu gia súc đó.
4 . Trình bày các thành phần của QH PLDS (các yếu tố cấu thành)
Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành nên
quan hệ đó. Quan hệ pháp luật dân sự được cấu thành bởi các thành tố: Chủ
thể, khách thể và nội dung.
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những “người” tham gia vào các quan hệ đó.
Khách thể của quan hệ pháp luật là một phạm trù pháp lí, là bộ phận cấu
thành của quan hệ pháp luật. + Tài sản
+ Hành vi và các dịch vụ
+ Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo + Các giá trị nhân thân + Quyền sử dụng đất
Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia vào các quan hệ đó.
5 . Trình bày các phương thức bảo vệ quyền dân sự
Phương thức bảo vệ quyền dân sự là cách thức giúp cá nhân, pháp nhân
bảo vệ các quyền nhân thân, tài sản của mình được pháp luật dân sự ghi nhận
trước những những hành vi xâm phạm, các phương thức bảo vệ quyền dân sự
được quy định tại Điều 11 Bộ luật dân sự hiện hành như sau:
“ Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có
quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu
cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
1 . Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
2 . Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
3 . Buộc xin lỗi, cải chính công khai
4 . Buộc thực hiện nghĩa vụ;
5 . Buộc bồi thường thiệt hại;
6 . Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền; .
7 Yêu cầu khác theo quy định của luật”.
6. Trình bày năng lực chủ thể của cá nhân
Khái niệm: Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng đề cá nhân có thể
tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể và tự mình thực hiện
các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ mối quan hệ pháp luật đã tham gia.
Cấu thành bởi hai yếu tố:
- Khả năng do pháp luật quy định (năng lực pháp luật dân sự) là khả năng
xem xét chủ thể nào là cá nhân, chủ thể nào không được thừa nhận trong từng
quan hệ pháp luật cụ thể
- Khả năng tự có của chủ thể: căn cứ vào độ tuổi, mức độ nhận thức của
cá nhân xem xét khả năng tham gia các quan hệ pháp luật nào.
7. Trình bày các điều kiện để cá nhân trở thành chủ thể
Những điều kiện mà cá nhân hay tổ chức nhất định phải đáp ứng được để
trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật được gọi là năng lực chủ thể.
Năng lực chủ thể được xác định trên 2 phương diện: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Năng lực pháp luật: là khả năng của cá nhân hoặc tổ chức được nhà
nước thừa nhận theo đó họ có thể tham gia quan hệ pháp luật để được hưởng
quyền hoặc phải mang nghĩa vụ pháp lý nhất định.
- Năng lực hành vi: là khả năng của cá nhân hoặc tổ chức được nhà nước
thừa nhận theo đó các chủ thể này được tham gia vào quan hệ pháp luật nhằm
xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý bằng chính hành vi của mình trong quan hệ đó.
8 . Trình bày nội dung PL DS của cá nhân
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền
dân sự và có nghĩa vụ dân sự
Điều 17, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân, những quyền dân sự cụ thể của cá nhân được ghi nhận trong
tất cả các phần của Bộ luật dân sự. Có thể chia quyền dân sự của cá nhân thành ba nhóm chính:
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài
sản. Đặc điểm quan trọng nhất ttong các quy định về quyền nhân thân trong Bộ
luật dân sự năm 2015 là xác nhận lại các quyền nhân thân đã được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật trước đó (quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín,
quyền xác định lại giới tính, quyền hiến, nhận mô bộ phận cơ thể và hiến, lấy
xác...) và các quyền nhân thân lần đầu tiên được ghi nhận (quyền về đòi sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, chuyển đổi giới tính, quyền nhân thân
trong hôn nhân và gia đình...). Ngoài ra, bảo vệ, tôn trọng quyền nhân thân còn
được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng của Bộ luật dân sự.
- Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, quyền thừa kế. Cụ thể
hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định
tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị, bao gồm
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt,
vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Cá nhân chỉ bị hạn chế quyền
sở hữu đối với các tài sản mà pháp luật quy định không thuộc quyền sở hữu tư nhân.
Công dân có quyền hưởng di sản thừa kể, để lại di sản thừa kế theo di
chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
- Quyền tham gia vào quan hệ dân sự và có các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ đó.
Tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch dân sự (hành vi
pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng) là biện pháp quan trọng và thông dụng nhất
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền này được thể hiện trong
các nguyên tắc của luật dân sự “tự do, tự nguyện cam kết” (Điều 3 Bộ luật dân
sự) và được thể hiện cụ thể, chi tiết trong Phần thứ ba của Bộ luật dân sự. Ngoài
ra, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể còn phát sinh từ các căn cứ khác (bồi thường
thiệt hại, thực hiện công việc không có uỷ quyền...).
9 . Trình bày KN và đặc điểm hành vi dân sự của cá nhân
Khái niệm: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự Đặc điểm:
- Khả năng xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự
- Khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản về hành vi của mình
- NLHVDS có tính liên tục, không phải cá nhân nào cũng có khả năng
thực hiện, xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự giống nhau, phụ thuộc vào khả năng của mỗi cá nhân
- NLHVDS phải đáp ứng các điều kiện luật định và có thể bị thay đổi: bị
mất đi, bị hạn chế và có thể được khôi phục 10.
Trình bày các mức độ hành vi DS của cá nhân
Mức độ thứ nhất là những người không có năng lực hành vi dân sự.
Pháp luật đã quy định rất rõ là người chưa thành niên là những người có
độ tuổi dưới 18 và hiện nay các giao dịch dân sự nhất là người không có năng
lực hành vi dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi đều do người đại diện xác lập
thay người chưa thành niên thực hiện và chịu trách nhiệm trách pháp luật khi có
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.
Mức độ thứ hai là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
Những người từ đủ từ mười tám tuổi trở lên đều là những người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, nếu không thuộc các trường hợp của pháp luật quy
định khi có quyết định của tòa án về việc họ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc mất năng lực hành vi dân sự mà tự mình không thể thực hiện giao dịch dân sự.
Mức độ thứ ba là những người có năng lực hành vi dân sự một phần
Những người thuộc độ tuổi từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi đã
bắt đầu có một phần năng lực hành vi dân sự. Những người này đã có thể bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trong một
số trường hợp như việc mua các đồ dùng học tập, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày
vở viết, đồ ăn vặt không có giá trị lớn như kẹo bánh, sách vở, bút viết và những
giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc trong
những trường hợp khác do pháp luật quy định thì những người này có thể tự
mình xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình. Tuy nhiên, trong những trường
hợp còn lại, họ chưa được quyền tự mình tham gia. Về cơ bản, hầu hết các giao
dịch dân sự của những người này đều phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Mức độ thứ tư là những người mất năng lực hành vi dân sự
Sau khi một người có các dấu hiệu rối loạn về nhận thức và không thể
điều khiển các hành vi của mình gây ra có thể ảnh hưởng đến các hành vi, suy
nghĩ của cá nhân này có thể gây ra các thiệt hại lớn về tài sản, sức khỏe, tính
mạng gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, phát triển kinh tế thì theo yêu cầu của
người đại diện hoặc những người có quyền và lợi ích liên quan thì sau khi có kết
luận của cơ quan giám định pháp y tâm thần mà trên cơ sở đó thì tòa án sẽ ra
quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự. Sau khi
người này bị tòa án tuyên là người đó bị mất năng lực hành vi dân sự thì họ
không thể xác lập thực hiện các giao dịch dân sự của mình phải thông qua người
đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật thực hiện thay.
Nếu những người này đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì có thể yêu
cầu tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định trước đó đã tuyên là người đó bị mất
năng lực hành vi dân sự khi không còn căn cứ nào nữa để tuyên người đó bị mất
năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Mức độ thứ năm là những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Thông thường những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những
người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng họ tự hạn chế năng lực hành vi
dân sự của mình như là do họ nghiện ma túy đá, thuốc lắc, heroin, nghiện các
chất kích thích như rượu, bia…dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự sau khi có đơn yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự của những người có quyền và lợi ích có liên quan, người đại diện hợp pháp
của họ đối với những người nghiện các chất ma túy, các chất kích thích không
thể làm chủ và điều khiển được hành vi của mình dẫn đến việc gây ra các thiệt
hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác do những người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự gây ra.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ tự hạn chế năng
lực hành vi dân sự của mình mà họ không bị mất hết năng lực hành vi dân sự
nên họ vẫn có thể tự mình tham gia được một số giao dịch dân sự nhằm phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt của họ như mua quần áo, mua đồ ăn…
Đa số các giao dịch dân sự do người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
xác lập có liên quan đến các tài sản, bất động sản phải thông qua người đại diện
theo pháp luật người đó xác lập đồng ý thực hiện trừ các trường hợp mà pháp
luật cho phép họ tự thực hiện giao dịch.
Khi những người này đã khôi phục được năng lực hành vi dân sự đầy đủ
thì có thể yêu cầu tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định trước đó đã tuyên là
người đó bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nếu không còn căn cứ nào nữa để
tuyên người đó bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Mức độ thứ sáu là những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Thông thường những người đã thành niên do tình trạng thể chất như là
những người cao tuổi hoặc về mặt tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức và
điều khiển để làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức trầm trọng như bị hạn chế
hoặc mất năng lực hành vi dân sự ví dụ như những người bị mắc rối loạn tâm
thần nhẹ, bệnh đao, bệnh tơcnơ…thì sau khi những người đại điện hợp pháp
hoặc những người có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu đưa những người này đi
giám định pháp y tâm thần đưa ra tòa án để ra quyết định tuyên bố những người
này là người có khó khăn trong nhận thức không, làm chủ được hành vi và xác
định, chỉ định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ để xác lập
các giao dịch dân sự có liên quan đến những người này.
Những người sau khi bị tòa án tuyên bố họ là những người có khó khăn
về nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì theo yêu cầu của chính họ hoặc
những người có liên quan có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật.
Việc pháp luật quy định về năng lực hành vi dân sự sẽ giúp những cơ
quan, tổ chức, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của những người mà pháp luật
quy định phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của họ gây ra. Vì vậy, sẽ
tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi cho các cá nhân có liên quan đến
những người bị mất hoặc hạn chế năng lưcụ hành vi dân sự nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích của các bên có liên quan.
11. Trình bày nơi cư trú của cá nhân
Nơi cư trú của cá nhân được quy định như sau:
1 . Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.
2 . Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định
tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống.
3 . Trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới.
1 2. Nêu ý nghĩa của việc xác định nơi cư trú của cá nhân
Thông thường, nhiều người suy nghĩ nơi cư trú chỉ đơn giản là nơi ở của
mình, tuy nhiên, trong quan hệ pháp luật, nơi cư trú có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Có thể kể đến:
– Là nơi cá nhân được bảo vệ các quyền công dân theo quy định của pháp luật.
– Là nơi cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước
trong quan hệ hành chính như xác nhận sơ yếu lý lịch, tình trạng hôn nhân,
tiền án, tiền sự…
– Là nơi công dân có thể xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân
sự như là mở thừa kế, xác định cá nhân mất tích hoặc đã chết, lựa chọn Tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ án, vụ việc…
Do đó, việc xác định không đúng nơi cư trú của một cá nhân chắc chắn sẽ
đem đến một hậu quả pháp lý bất lợi cho cá nhân và những người liên quan khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Nơi cư trú của cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong các quan hệ dân sự
giữa các cá nhân với nhau, cũng như trong các quan hệ giữa cá nhân với cơ quan nhà nước.
Ví dụ: nơi cư trú của cá nhân mang quyền trong quan hệ nghĩa vụ là nơi
thực hiện nghĩa vụ nếu đối tượng của nghĩa vụ là động sản và các bên không có
thỏa thuận khác; nơi cư trú của cá nhân cũng chính là địa điểm mở thừa kế của
cá nhân khi cá nhân chết.
Điều 40 đưa ra cách xác định nơi cư trú của cá nhân là nơi cá nhân đó
thường xuyên sinh sống. Cá nhân có thời gian sống tại một địa điểm kéo dài,
liên tục, về nguyên tắc, sẽ là cơ sở xác định địa điểm đó là nơi cư trú của họ.
Ví dụ: C mua nhà, làm việc, sinh sống tại Hà Nội trong 10 năm, kể từ sau
khi tốt nghiệp đại học. Như vậy, Hà Nội là nơi C thường xuyên sinh sống và là nơi cư trú của C.
Nếu không thể xác định nơi cư trú của cá nhân theo điều kiện thường
xuyên sinh sống”, ví dụ như trường hợp cá nhân không thường xuyên sống tại
địa điểm nào cố định, thì nơi cư trú của cá nhân chính là nơi cá nhân đó đang sống.
Trường hợp này, nơi cư trú của cá nhân xác định theo sự có mặt trên thực
tế của cá nhân, thay cho tính chất liên tục, kéo dài về thời gian của cá nhân tại
địa điểm được xác định là nơi cư trú.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của nơi cư trú đối với quan hệ dân sự của
cá nhân, trong trường hợp nơi cư trú của cá nhân gắn với việc thực hiện quyền
hoặc nghĩa vụ trong quan hệ dân sự thì khi thay đổi nơi cư trú, cá nhân phải
thông báo cho bên kia trong quan hệ nghĩa vụ biết về nơi cư trú mới của mình.
Ví dụ: Theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán, nơi cư trú của A là nơi B
giao hàng cho A. Nếu A thay đổi nơi cư trú phải thông báo cho B biết. Trong
trường hợp A không thông báo, B mang hàng đến địa điểm là nơi cư trú cũ của
A, đã được xác định trong hợp đồng, việc hoàn thành nghĩa vụ của B và phát
sinh trách nhiệm của A có thể thực hiện theo Mục 4 Phần thứ ba của BLDS năm 2015.
Điều 40 BLDS năm 2015 kế thừa nội dung quy định tại Điều 52 BLDS
năm 2005 và có bổ sung thêm khoản 3.
Quy định về xác định nơi cư trú của cá nhân theo Điều 40 BLDS năm
2 015 và Điều 52 BLDS năm 2005 đều vẫn chưa giải quyết được một số bất cập hiện còn tồn tại.
Thứ nhất: Điều luật chưa có bất kỳ giải thích về điều kiện gì được xác
định là “thường xuyên” và như thế nào là “sinh sống”. Nói cách khác, thời hạn
bao lâu, có thể gián đoạn thời gian hay phải liên tục, nếu chỉ là địa điểm sống
còn địa điểm làm việc ở nơi khác hoặc ngược lại… để xác định đáp ứng yếu tố
thường xuyên sinh sống là các hướng dẫn hiện còn bỏ ngỏ và khó xác định khi áp dụng điều luật.
Thứ hai: “đang sống” cũng là một tiêu chí không rõ ràng để xác định. Ví
dụ, như một cá nhân đến công tác tại một địa phương trong thời gian nửa tháng,
cá nhân phải thuê một phòng tại khách sạn để ăn nghỉ ngủ thì địa điểm đó có
được xác định là nơi cá nhân đang sống để xác định địa điểm cư trú của cá nhân
hay không. Ngoài ra, các điều kiện để chứng minh như giấy tờ xác nhận hoặc
thời gian sinh sống cũng không được đề cập tới tại căn cứ xác định nơi cư trú này.
Có thể nói, Điều 40 của BLDS năm 2015 rất không đủ cụ thể để áp dụng
trong việc xác định nơi cư trú của cá nhân. Do đó, điều luật này cần được bổ
sung chi tiết các điều kiện để xác định về nơi thường xuyên sinh sống hoặc nơi đang sống của cá nhân.
1 3. Trình bày nơi cư trú của người chưa thành niên, người được
giám hộ, của vợ chồng, của quân nhân, của người làm nghề lưu động theo
quy định của BLDS hiện hành
Điều 41. Nơi cư trú của người chưa thành niên
1 . Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu
cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi
cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống.
2 . Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha,
mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
Điều 42. Nơi cư trú của người được giám hộ
1 . Nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ.
2 . Người được giám hộ có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của người
giám hộ nếu được người giám hộ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
Điều 43. Nơi cư trú của vợ, chồng
1 . Nơi cư trú của vợ, chồng là nơi vợ, chồng thường xuyên chung sống.
2 . Vợ, chồng có thể có nơi cư trú khác nhau nếu có thỏa thuận.
Điều 44. Nơi cư trú của quân nhân .
1 Nơi cư trú của quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị
của quân nhân đó đóng quân.
2 . Nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân,
viên chức quốc phòng là nơi đơn vị của người đó đóng quân, trừ trường hợp họ
có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Ðiều 40 của Bộ luật này.
Điều 45. Nơi cư trú của người làm nghề lưu động
Nơi cư trú của người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền, phương tiện
hành nghề lưu động khác là nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện đó, trừ trường
hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Ðiều 40 của Bộ luật này.
1 4. Trình bày KN giám hộ, nêu các loại hình giám hộ
Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được cử, chỉ định hoặc do người
được giám hộ lựa chọn để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Các loại hình giám hộ:
Luật dân sự quy định có hai hình thức giám hộ đó là giám hộ đương nhiên và giám hộ được cử.
+ Giám hộ đương nhiên: là hình thức do pháp luật quy định, người giám
hộ đương nhiên chỉ có thể là cá nhân. Người giám hộ đương nhiên đối với người
được giám hộ là những người thân thiết, gần gũi nhất đối với người được giám
hộ, được xác định theo quan hệ hôn nhân hoặc tùy trường hợp cụ thể. Đối với
giám hộ đương nhiên pháp luật đã quy định trước ai sẽ thuộc đối tượng có quyền giám hộ.
+ Giám hộ cử: là hình thức giám hộ theo trình tự do pháp luật quy định.
Nếu không có người giám hộ đương nhiên thì UBND xã, phường, thị trấn nơi cư
trú của người giám hộ có trách nhiệm đề nghị một cá nhân của tổ chức làm giám
hộ đều có thể trở thành người giám hộ cử. Việc cử người giám hộ được thực
hiện theo 2 trường hợp cụ thể: không có người giám hộ đương nhiên theo quy
định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật Dân sự 2015.
1 5. Điều kiện để 1 cá nhân được làm người giám hộ
Điều 49. Điều kiện của cá nhân làm người giám hộ Cá nhân có đủ các
điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
1 . Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền,
nghĩa vụ của người giám hộ.
3 . Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người
bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
4 . Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
1 6. Điều kiện để pháp nhân trở thành chủ thể giám hộ
Điều 50. Điều kiện của pháp nhân làm người giám hộ Pháp nhân có đủ
các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
1 . Có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ.
2 . Có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
1 7. Khi nào 1 cá nhân cần được giám hộ
Điều 47. Người được giám hộ
1 . Người được giám hộ bao gồm:
a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực
hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha,
mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn
chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con
và có yêu cầu người giám hộ;
c) Người mất năng lực hành vi dân sự; d) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
2 . Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ
cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. 18.
Trình bày những người giám hộ là những người chưa thành niên
Theo Bộ luật Dân sự 2015, thông thường người giám hộ là những người
trưởng thành, đủ năng lực hành vi dân sự. Họ có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp đặc biệt, pháp luật cũng thừa nhận khả năng một người chưa thành
niên có thể trở thành người giám hộ. Bộ luật Dân sự 2015 không quy định cụ thể
trường hợp người chưa thành niên được làm người giám hộ. Tuy nhiên, dựa trên
các quy định chung về giám hộ và nguyên tắc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho người
được giám hộ, có thể suy ra rằng:
- Trong trường hợp đặc biệt, khi không có người lớn nào đủ điều kiện làm
người giám hộ: Nếu cha mẹ, ông bà, anh chị em của người được giám hộ đều
không đủ điều kiện làm người giám hộ (ví dụ: mất năng lực hành vi dân sự,
không đủ tuổi,...), và người chưa thành niên có mối quan hệ gần gũi với người
được giám hộ, đồng thời thể hiện được khả năng chăm sóc, bảo vệ thì có thể
được xem xét để trở thành người giám hộ.
- Quyết định cuối cùng thuộc về Tòa án: việc một người chưa thành niên
có được phép làm người giám hộ hay không sẽ do Tòa án quyết định, sau khi
xem xét kỹ lưỡng các yếu tố liên quan, bao gồm:
+ Mối quan hệ giữa người chưa thành niên và người được giám hộ; + Khả
năng chăm sóc, bảo vệ của người chưa thành niên;
+ Ý kiến của người được giám hộ (nếu người được giám hộ đủ tuổi và
nhận thức để bày tỏ ý kiến);
+ Ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan. 19.
Trình bày quyền và nghĩa vụ của người giám hộ
Điều 58. Quyền của người giám hộ
1 . Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự có các quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho
những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2 . Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1
Điều này. Nghĩa vụ của người giám hộ Điều 55. Nghĩa vụ của người giám hộ
đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi
1 . Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ.
2 . Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ
trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự.
3 . Quản lý tài sản của người được giám hộ.
4 . Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Điều 56. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
1 . Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ
trường hợp pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2 . Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3 . Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Điều 57. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1 . Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;
2 . . Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này.
2 0. Trình bày KN pháp nhân và các điều kiện để 1 tổ chức được thừa nhận là pháp nhân
Khái niệm: Pháp nhân là một tổ chức đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Điều 74. Pháp nhân .
1 Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. .
2 Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường
hợp luật có quy định khác.
2 1. Trình bày năng lực PL và năng lực hành vi của PN .
1 Khái niệm năng lực pháp luật
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có
các quyền, nghĩa vụ dân sự. Pháp nhân có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát sinh. 2 . Đặc điểm:
Thứ nhất, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được Nhà nước ghi
nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế – xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.
Thứ hai, mọi pháp nhân đều bình đẳng về quan hệ pháp luật dân sự, đều
có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của pháp
nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào. Mọi pháp nhân đều có khả năng
hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.
Thứ ba, năng lực pháp luật của pháp nhân không thể bị hạn chế, trừ
trường hợp do pháp luật quy định.
Thứ tư, Nhà nước tạo điều kiện để đảm bảo năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân được thực hiện qua các chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội. 3 . Thời điểm:
Thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, Bộ luật Dân
sự 2015 quy định rõ những thời điểm pháp nhân bắt đầu có năng lực pháp luật
dân sự như sau: Thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập; Đối với pháp nhân phải đăng
ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm
ghi vào sổ đăng ký. Từ thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự, pháp nhân
có các quyền và nghĩa vụ dân sự có thể tham gia vào các quan hệ dân sự nói
chung và giao dịch dân sự nói riêng.
Thời điểm kết thúc năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, khi pháp
nhân giải thể, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì chấm dứt tư cách chủ thể
trong các quan hệ pháp luật, cho nên năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
chấm dứt kể từ thời điểm pháp nhân chấm dứt hoạt động.
4 . Khái niệm năng lực hành vi
Năng lực hành vi của pháp nhân nhưng được hiểu là năng lực hành vi của
pháp nhân do người đại diện thực hiện phát sinh, chấm dứt cùng thời điểm phát
sinh, chấm dứt năng lực pháp luật, tức là năng lực hành vi tồn tại tương ứng với năng lực pháp luật.
- Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về pháp nhân như sau:
1 . Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây: a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2 . Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường
hợp luật có quy định khác.
=> Năng lực hành vi của pháp nhân được được thể hiện thông qua hành vi
của người đại diện. Bộ luật dân sự chỉ quy định về người đại diện theo pháp luật
và người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan
hệ dân sự. Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi của
cá nhân là người đại diện của pháp nhân.
2 2. Trình bày nội dung năng lực PL của pháp nhân
Điều 86. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân .
1 Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có
các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị
hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2 . Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp
nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát
sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
3 . Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
2 3. Trình bày trách nhiệm dân sự của PN
Điều 87. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
1 . Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân
chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập
viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2 . Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu
trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của
pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3 . Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.
2 4. Trình bày các hình thức cải tổ, thành lập, chấm dứt PN
Cải tổ, thành lập pháp nhân gồm có:
- Điều 88. Hợp nhất pháp nhân
1 . Các pháp nhân có thể hợp nhất thành một pháp nhân mới.
2 . Sau khi hợp nhất, các pháp nhân cũ chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm
pháp nhân mới được thành lập; quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân cũ
được chuyển giao cho pháp nhân mới.
- Điều 89. Sáp nhập pháp nhân
1. Một pháp nhân có thể được sáp nhập (sau đây gọi là pháp nhân được
sáp nhập) vào một pháp nhân khác (sau đây gọi là pháp nhân sáp nhập).
2. Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và
nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập.
- Điều 90. Chia pháp nhân
1 . Một pháp nhân có thể chia thành nhiều pháp nhân.
2 . Sau khi chia, pháp nhân bị chia chấm dứt tồn tại; quyền, nghĩa vụ dân
sự của pháp nhân bị chia được chuyển giao cho các pháp nhân mới.
- Điều 91. Tách pháp nhân (không bị mất đi)