



















Preview text:
THẢO LUẬN LUẬT MÔI TRƯỜNG STT MSSV Tên thành viên Nhiệm vụ Đánh giá mức độ hoàn thành 1
2053401020149 Lê Hoàng Minh Nhật 2
2053401020151 Dương Tuyết Nhi 3
2053401020152 Hà Thị Yến Nhi 4
2053401020153 Ngô Thị Mộng Nhi 5
2053401020167 Đoàn Thị Tuyết Phương 6
2053401020170 Phạm Ngọc Minh Phương 7
2053401020177 Phan Trần Trúc Quyên 8
2053401020208 Võ Thị Minh Thư 9
2053401020209 Nguyễn Hồng Thuận 1 0
2053401020221 Nguyễn Thị Kim Tiến
THẢO LUẬN MÔN LUẬT MÔI TRƯỜNG BUỔI 1 A. Câu lý thuyết
1 . Phân biệt Luật Môi trường và Luật BVMT? Nêu ý nghĩa của việc phân
biệt giữa định nghĩa môi trường theo nghĩa rộng và môi trường theo Luật BVMT
- Phân biệt Luật Môi trường và Luật BVMT:
Tiêu chí Luật Bảo vệ Môi trường Luật môi trường Tiêu chí LBVMTLBVMT LMTLMT Hình thức
Một đạo luật (VBPL) do Một lĩnh vực pháp luật lOMoARcPSD|610 649 76 QH ban hành theo trình tự, thủ tục luật định Nội dung
Điều chỉnh các quan hệ Điều chỉnh 2 nhóm xã hội quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực phát sinh trực tiếp bảo vệ trong: môi trường
– Lĩnh vực bảo vệ môi trường
– Lĩnh vực hoạt động quản lý, khai
thác và sử dụng các yếu tố môi trường Phạm vi
Là một nguồn của Luật Phạm vi rộng hơn Luật Môi BVMT vì trường điều chỉnh 2 nhóm quan hệ xã hội Vd: Luật Tài nguyên nước, Luật tài nguyên môi trường, Luật Di sản văn hóa,..
Nguyên tắc( nguồn luật)
-Ý nghĩa của việc phân biệt giữa định nghĩa môi trường theo nghĩa rộng và môi trường theo Luật BVMT:
+ Nhằm giới hạn phạm vi môi trường để có thể quản lý và kiểm soát tốt hơn.
+ Xác định rõ được các yếu tố môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội,
sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên.
2. Chứng minh biện pháp pháp lý là biện pháp bảo đảm thực hiện các biện
pháp bảo vệ môi trường khác. lOMoARcPSD|610 649 76
Biện pháp pháp lý là gì?
Các biện pháp khác?
Biện pháp pháp lý bảo đảm như nào? Chứng minh? HNHI
Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con
người sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi trường. Biện pháp pháp lý
bảo đảm thực hiện các biện pháp nói trên.
Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi khai thác và
sử dụng các yếu tố của môi trường.
Pháp luật quy định các chế tài buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các
đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường.
Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, của các tổ chức bảo vệ môi trường.
Biện pháp chính trị chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc sống bằng việc
thể chế hóa thành các quy phạm của pháp luật. những chủ trương đi đường
lối chính trị cần phải có chế tài thì các chủ trương đường lối về mặt chính trị
mới được thực thi. Nếu như không có biện pháp pháp lý thì những chủ trương
về đường lối chính trị sẽ không thể thực thi được.
Biện pháp tuyên truyền giáo dục muốn có hiệu quả tốt phải đi đôi với sự cưỡng
chế của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật. không có biện pháp
pháp lý thì biện pháp tuyên truyền giáo dục vẫn thực hiện được nhưng hiệu quả
không cao, vì không có chế tài thì rất ít người chịu thực hiện
Biện pháp kinh tế được cụ thể bằng việc ban hành các sắc thuế, khen thưởng,
xử phạt theo quy định của pháp luật. dùng lợi ích của kinh tế để định hướng .
nếu như không có biện pháp pháp lý thì biện pháp kinh tế có thể thực hiện lOMoARcPSD|610 649 76
được, cơ quan nhà nước có thể hứa hẹn cho lợi ích các doanh nghiệp( ưu đãi) nhưng không hiệu quả
Biện pháp KH-CN các doanh nghiệp muốn hoạt động và tồn tại phải áp dụng
các tiến bộ KH-CN để làm trong sạch môi trường do pháp luật quy định.
Không có pháp lý vẫn thực hiện được biện pháp KH-CN nhưng trong một số
trường hợp đối vưới các quốc gia đang pháp triển thì ...
=> Do đó, biện pháp pháp lý là biện pháp bảo đảm thực hiện các BVMT khác
Biện pháp pháp lý là cầu nối giữa các biện pháp khác
Tuy các biện pháp bảo vệ môi trường khác các tác động nhưng chắc chắn không phát huy
tác dụng nếu không có sự hỗ trợ của biện pháp pháp lý vì các biện pháp pháp lý có tính
bắt buộc và việc hủy hoại chủ yếu là do sự tàn phá của con người và đối tượng để thực
hiện việc BVMT cũng chính là con người. Vì vậy, muốn BVMT trước hết là tác động đến
hành vi con người. Mà các biện pháp pháp lý tác động vào hành vi của con người làm
cho con người có khuôn khổ cũng như quyền hạn tác động vào môi trường. Đơn cử như ở
TP.HCM đã có rất nhiều cuộc vận động “không xả rác” nhưng tình trạng xả rác bừa bãi
vẫn không giảm đi. Rõ ràng là nếu tuyên truyền giáo dục không đi đôi với cưỡng chế thì
sẽ không đem lại hiệu quả. Hành vi xả rác, phóng uế nơi công cộng nếu chỉ nhìn nhận và
đối xử như một hành vi vô văn hóa mà không nhìn nhận và xử lý như một hành vi vi
phạm pháp luật thì không thể thay đổi thói quen đã trở thành vô thức. Nếu hành vi đó
nhận lãnh bằng việc chế tài nghiêm khắc thì chắc tình trạng vệ sinh nơi công cộng sec được cải thiện.
3. Phân tích nguyên tắc phát triển bền vững và cho ý kiến bình luận về sự
thể hiện của nguyên tắc này trong các quy định của pháp luật Việt Nam. QUYÊN
Phân tích nguyên tắc phát triển bền vững
- Phát triển bền vững là một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành,
thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét.
Phát triển bền vững, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp của quá trình phát triển.
- Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong tiến trình phát
triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc mang
tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên
nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được lOMoARcPSD|610 649 76
càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá
vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
- Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã
hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm
quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết
những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và
Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình
nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là:
“Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại
đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.
- Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện
phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định,
văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững.
Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao
gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.
- Tiêu chí của phát triển bền vững
+ Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng.
Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó
cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và
quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế
được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh
vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho
một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm
những quyền cơ bản của con người.
+ Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI,
hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ
văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có
sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch
giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là
tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người;
trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
+ Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn
mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, lOMoARcPSD|610 649 76
điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó,
chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự
trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của
các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định
theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
Bình luận về sự thể hiện của nguyên tắc này trong các quy định của pháp luật Việt Nam:
Hệ thống pháp luật Việt Nam với chiến lược phát triển bền vững:
1. Về phát triển kinh tế
- Chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam dựa trên nguyên lý phát triển bền vững
Sự nghiệp đổi mới kinh tế của Việt Nam được khởi xướng từ năm 1986; với việc kiên trì
thực hiện các chính sách chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tiền đề có lợi do thời đại mới
mang lại, những tiềm năng của một dân tộc có truyền thống cần cù, thông minh, đã được
vận dụng một cách đầy đủ cho mục tiêu đó. Một hệ thống thể chế, chính sách tạo hành
lang pháp lý cho công cuộc đổi mới được ban hành để đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Mặc dù tình hình kinh tế-xã hội trên thế giới và trong khu vực có những diễn biến theo
chiều hướng xấu đi trong giai đoạn 1998-2000, đặc biệt cuộc khủng hoảng kinh tế ở
Đông Nam á trong mấy năm qua cũng có những ảnh hưởng lớn, song kinh tế Việt Nam
vẫn có mức tăng trưởng khá, đạt từ 6,9% năm 1999 đến 7% năm 2001 và có xu hướng
tăng nhanh trong năm 2002. Như vậy, liên tục trong 10 năm qua, Việt Nam thuộc vào n-
ước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh trên thế giới.
Cũng trong 10 năm qua, cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang có xu thế chuyển dịch mạnh
mẽ từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.
Từ năm 1990, các khoản đầu tư nước ngoài, dưới dạng đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ
phát triển (ODA) ngày càng tăng trong nền kinh tế Việt Nam. Hơn 14 tỷ USD vốn FDI
được giải ngân tại Việt Nam trong 10 năm qua. Khoảng 50% tổng số vốn đầu tư của Việt
Nam được cung cấp từ nước ngoài, tạo ra 9% GDP. Xu thế nguồn vốn FDI đã có dấu
hiệu tăng nhờ chính sách tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn của Việt Nam, nhờ sự
ổn định chính trị và đảm bảo an ninh.
Các doanh nghiệp Nhà nước đã được sắp xếp lại theo hướng tạo ra các tập đoàn kinh tế
Nhà nước mạnh, làm xương sống cho toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp tư nhân
được khuyến khích phát triển, tạo ra nhiều cơ hội việc làm, đa dạng hoá nguồn hàng hoá
cho thị trường trong nước và xuất khẩu. lOMoARcPSD|610 649 76
Các thể chế, chính sách đảm bảo tính bền vững của sự phát triển ở Việt Nam đã phát huy
tác dụng, làm cho quá trình phát triển kinh tế diễn ra nhanh, tốc độ tăng trưởng cao, thời
gian duy trì tăng trưởng cao kéo dài, đồng bộ với sự phát triển bền vững về môi trường,
dấu hiệu suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên bước đầu được ngăn chặn.
Nguyên lý không phải sản xuất ít đi để đảm bảo bền vững, mà sản xuất khác đi để vừa
đảm bảo tăng trưởng, vừa để đảm bảo tính bền vững của quá trình phát triển đã được
kiểm nghiệm trong thực tiễn ở Việt Nam.
- Những thách thức đối với Việt Nam
Việt Nam cũng đã nhận thức một cách rất sâu sắc những thách thức to lớn đang đặt ra cho
đất nước mình trên con đường đi tới ở phía trước, đó là:
● Hiện tại nước ta vẫn còn là một nước nghèo, bình quân thu nhập năm 2000
chỉ vào khoảng 400 USD/người. Tuy tăng trưởng với tốc độ cao và liên tục
trong 10 năm qua, nhưng với điểm xuất phát rất thấp, do đó, Việt Nam còn
gặp rất nhiều khó khăn để tạo lập những đột phá mạnh trong phát triển kinh tế.
● Năng lực hoạch định chính sách và đặc biệt là khả năng phối hợp giữa các
ngành, các cấp để thực hiện một cách hoàn hảo các chương trình phát triển
quy mô lớn của Việt Nam chưa đạt được trình độ cao. Cơ chế điều hành của
bộ máy hành chính còn kém hiệu quả.
● Trình độ dân trí, khả năng nhận thức về phát triển bền vững của nhân dân
chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời đại. Nguyên tắc phát triển bền vững
chưa thực sự trở thành lẽ sống, nếp văn hoá của mỗi người dân.
● Trình độ khoa học, công nghệ của Việt Nam còn ở mức trung bình; việc
hiện đại hoá chỉ mới tiến hành trong một số ngành, một số lĩnh vực. Trong
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, sự thiếu hụt công nghệ hiện đại là
một thách thức lớn cần phải vượt qua, để khỏi bị tụt hậu ngày càng xa.
● Sự biến đổi theo chiều hướng xấu của nhiều yếu tố môi trường (đất, rừng,
nước, không khí) đồng hành với quá trình phát triển cũng đang đặt ra cho
Việt Nam nhiệm vụ tập trung nguồn lực để ứng phó, chặn đứng quá trình
suy thoái, từng bước cải thiện môi trường.
● Xu hướng toàn cầu hoá một cách toàn diện, trong đó có tự do hoá thương
mại đã, đang và sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam trước một cuộc cạnh tranh.
Tuy nhiên, với một nền kinh tế còn nhiều điểm yếu, cạnh tranh thắng lợi là không dễ dàng.
● Bối cảnh quốc tế và khu vực trong thời gian gần đây có nhiều biến đổi
không thuận lợi; nền kinh tế thế giới có xu hướng suy thoái, nền an ninh, lOMoARcPSD|610 649 76
chính trị thế giới có nhiều biến động. Tất cả những điều đó ít nhiều gây ảnh
hưởng tiêu cực cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam.
Từ đó, Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 10 năm của Việt Nam đã khẳng định phát
triển bền vững là nền tảng cơ bản cho phát triển ở Việt Nam.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển
Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), Luật công ty, Luật doanh
nghiệp tư nhân (1990) là bước khởi động mạnh mẽ, mang tính đột phá, nhằm thể chế hoá
chính sách mới. Các văn bản này, về mặt pháp lý đã có những nội dung mới so với các
quy định của pháp luật hiện hành. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho phép huy
động nguồn vốn từ nước ngoài vào kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu
tư… Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty quy định quyền sở hữu tư liệu sản xuất,
quyền thừa kế vốn, tài sản, các lợi ích hợp pháp khác của các chủ doanh nghiệp; thừa
nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp tư nhân. Điều này không chỉ có
ý nghĩa thực tiễn mà còn cho thấy vai trò của pháp luật trong phản ánh thực tiễn khách
quan, thúc đẩy sự hình thành các quan hệ kinh tế mới, phù hợp với xu thế phát triển chung.
Tuy nhiên, phải đến khi Hiến pháp 1992 ra đời, thì việc ban hành văn bản pháp luật về
kinh tế mới bước vào giai đoạn sôi động. Với việc khẳng định ‘‘Nhà nước phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa… phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: Kinh
tế quốc dân, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân… công dân có
quyền tự do kinh doanh theo pháp luật… có quyền sở hữu tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất… ‘‘ Hiến pháp 1992 đã thực sự đặt nền tảng pháp lý cho sự ra đời của hệ thống pháp luật kinh tế mới.
Theo số liệu thống kê, kể từ sau Hiến pháp 1992 đến nay, Quốc hội đã ban hành nhiều
luật và pháp lệnh điều chỉnh các quan hệ xã hội trên lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực liên
quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế như lao động, đất đai. Chỉ xét về số lượng các luật
kinh tế đã chiếm khoảng 60%, pháp lệnh chiếm khoảng 30% tổng số luật, pháp lệnh được
ban hành trong thời gian qua. Đây là tỷ lệ lớn, thể hiện sự ưu tiên nhiệm vụ trọng tâm của công tác lập pháp.
Các văn bản được ban hành, trên diện rộng đã tạo hành lang pháp lý tương đối toàn diện
cho các thành phần kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất, thu hút đầu tư nước ngoài,
mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại, khuyến khích đầu tư trong nước, chuyển mạnh sang
quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật. Có thể đánh giá một cách khái quát rằng,
trong vòng 10 năm qua (từ 1992 - đến nay) chúng ta đã xây dựng được một hệ thống văn
bản pháp luật về kinh tế tương đối đầy đủ. Mặc dù còn nhiều khiếm khuyết nhưng về cơ
bản đã tích cực cho việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, lOMoARcPSD|610 649 76
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực, tạo tích lũy nguồn vốn cho đầu tư
phát triển và nâng cao mức sống của nhân dân.
Để góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, chúng ta phải sớm có được một
chiến lược lập pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống luật kinh
tế nói riêng, mà trước mắt là chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trong nhiệm kỳ Quốc
hội khoá XI nhằm cụ thể hoá những bước đi theo sát mục tiêu ‘‘tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả cao và bền vững; đi đôi với việc giải quyết những vấn đề bức xúc về xã
hội… cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề
vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau’‘. 2. Môi trường
- Pháp luật về bảo vệ môi trường Việt Nam
Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể
trong lĩnh vực cải cách chính sách và phát triển các cơ quan BVMT. Báo cáo của Việt
Nam tại Hội nghị môi trường và Phát triển ở Rio, năm 1992, đã liệt kê những mong muốn
của đất nước. Năm năm sau, Báo cáo của Việt Nam tại hội nghị quốc tế tiếp theo tại New
York, nhằm kiểm điểm các tiến bộ đạt được trong thực hiện Chương trình Nghị sự 21, đã
trình bày danh sách những cải cách chính sách được thực thi.
Ngay từ năm 1986, Chiến lược bảo tồn quốc gia được soạn thảo và 5 năm sau, vào năm
1 991 Việt Nam đã thông qua Kế hoạch Hành động Quốc gia về Môi trường và Phát triển
bền vững (NPESD), ngay trước khi Hội nghị Rio diễn ra. Bốn năm tiếp theo, hai kế
hoạch được soạn thảo, đó là Kế hoạch Hành động Môi trường Quốc gia, đón trước các
yêu cầu bắt buộc của Ngân hàng Thế giới (WB); và Kế hoạch Hành động Đa dạng sinh
học (BAP) sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Đa dạng Sinh học, năm 1993. Ngoài
ra, nhiều chương trình cải cách luật pháp và thể chế về môi trường đã được thực hiện.
Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường. Mặc dù còn cha đồng bộ, nhưng các văn bản này đã góp phần
tích cực vào hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường.
Luật BVMT có hiệu lực từ ngày 10/1/1994. Có thể nói đây là thời điểm mà công tác
BVMT của Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, phát triển cả về chất và lượng.
Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản có liên quan tới bảo vệ môi trường đã được định
nghĩa, được xác định một cách chuẩn xác làm cơ sở cho việc vận dụng vào hoạt động
quản lý môi trường; các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà
nước, cá nhân và các tổ chức được ràng buộc bằng pháp lý.
Cùng với Luật bảo vệ môi trường, và một loạt các văn bản pháp luật quan trọng đã được
ban hành từ trước 1990 như: Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1989), Pháp lệnh về thu
thuế tài nguyên (1989), Pháp lệnh Bảo vệ đê điều (1989), Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi lOMoARcPSD|610 649 76
thuỷ sản (1989); từ năm 1991 đến nay Nhà nước Việt Nam đã ban hành thêm nhiều bộ
luật, pháp lệnh khác có liên quan đến công tác BVMT, đó là:
- Hiến pháp sửa đổi (2001)
- Bộ Luật Hình sự sửa đổi (1999)
- Luật Khoa học và Công nghệ
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng (1991) - Luật Đất đai (1993) - Luật Dầu khí (1993) - Luật Khoáng sản (1996)
- Luật Tài nguyên nước (1998)
- Luật Đầu tư nước ngoài (1997)
- Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1999) - Pháp lệnh Thú y (1993)
- Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật (1993)
- Pháp lệnh An toàn và kiểm soát bức xạ (1996)
- Pháp lệnh Phí và lệ phí (2001)
Để thúc đẩy quá trình pháp chế hoá công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững,
sau Luật BVMT, hàng loạt các Nghị định, Chỉ thị, Thông tư cấp Bộ và liên Bộ, và các
Quyết định liên quan, đã được ban hành, tạo thành một hệ thống các quy định dưới luật,
phục vụ việc thực hiện Luật BVMT.
- Một số hạn chế đối với pháp luật bảo vệ môi trường và hướng hoàn thiện
PPháp luật về bảo vệ môi trường còn một số hạn chế sau đây:
- Thiếu các quy định khuyến khích phòng ngừa ô nhiễm môi trường, thiếu quy định
khuyến khích sử dụng vật liệu tái sinh, các quy định về nghĩa vụ làm sạch nước, khí trước
khi thải vào nguồn nước, vào không khí. Thiếu các quy định về giới hạn được phép thải
các chất khí, chất lỏng và chất rắn có hại vào không khí, nước và đất và sự công bố công
khai nhưng giới hạn này cũng như về trạng thái môi trường trong từng khu vực và vào
những thời điểm nhất định.
- Chưa có cơ quan giám sát tác động môi trường từ hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh
doanh với tính chất là một cơ quan độc lập. Chưa có các quy định về các tổ chức kiểm
toán môi trường hoạt động độc lập, có chức năng đánh giá tác động môi trường.
- Chưa cụ thể hoá quy định về nghĩa vụ đóng góp của các tổ chức, cá nhân có sử dụng bộ
phận cấu thành của môi trường.
- Các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia chưa được nội hoá, chuyển tải thành pháp
luật trong nước và chưa được hướng dẫn thi hành.
Định hướng hoàn thiện lOMoARcPSD|610 649 76
- Khuyến khích áp dụng các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm và sử dụng công nghệ không gây ô nhiễm.
- Quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trách nhiệm phục hồi môi trường trong
trường hợp gây ô nhiễm, làm thiệt hại tới môi trường, quy định các hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và hình phạt đối với từng loại hành vi vi phạm.
- Quy định tổ chức, chức năng, quyền hạn của cơ quan giám sát tác động môi trường, cho
phép ra đời các tổ chức đánh giá tác động môi trường độc lập.
- Ban hành, công bố công khai và cập nhật thường xuyên các giới hạn các chất thải được
phép thải vào môi trường.
- Chuyển hoá các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam đã ký kết thành
luật trong nước. Nghiên cứu các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam cần tiếp tục ký kết.
3. Xoá đói giảm nghèo
- Chính sách pháp luật của Việt Nam đối với việc xóa đói giảm nghèo
Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam là một thành tựu lớn trong việc hỗ trợ cho xóa đói giảm
nghèo. Trong những năm qua, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm từng
bước giải quyết hiệu quả vấn đề này, như:
Luật đất đai ban hành năm 1993 đã nêu rõ nông dân có quyền được sử dụng đất được cấp
trong 20 năm và sau đó quyền sử dụng đất này có thể sẽ được kéo dài thêm. Nông dân có
quyền được chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
Luật hợp tác xã 1996 tạo cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ xã viên xóa đói giảm nghèo. Luật
quy định chính sách của Nhà nước thông qua hợp tác xã để thực hiện các chính sách giúp
đỡ, hỗ trợ xã viên xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội.
Chính sách phát triển bền vững của chúng ta đã đề cập tới 3 mảng hoạt động cấp bách để
chống lại nghèo đói: Trước hết, phải mở ra những cơ hội tạo việc làm và nâng cao năng
suất lao động để từ đó góp phần tăng thu nhập và giúp người nghèo vượt ra khỏi nghèo
đói; Thứ hai, có các biện pháp để đảm bảo ích lợi của tăng trưởng và khả năng tiếp cận
các dịch vụ một cách khách quan và công bằng; nhờ vậy, mọi công dân đều được hưởng
những thành quả do sự phát triển mang lại; Thứ ba, đặc biệt chú ý giảm bớt nguy cơ dễ bị
tổn thương của người nghèo trước những bất trắc trong đời sống (ốm đau, mùa màng thất bát...)
4.Vấn đề giới và phát triển bền vững
Vấn đề giới có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển hiệu quả và bền vững đối với mỗi
dân tộc và quốc gia. Ngày nay, việc phát triển giới quan tâm nhiều đến các vấn đề xã hội
như sức khỏe sinh sản, điều kiện sống… và mối liên hệ giữa các mục tiêu kinh tế và mục
tiêu xã hội như vấn đề việc làm của phụ nữ… Các mục tiêu phát triển giới được Nhà n-
ước đảm bảo thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. lOMoARcPSD|610 649 76
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em (Điều 3): ‘‘Nhà
nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao
quý của người mẹ’‘.
Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989, Điều 6 có quy định việc tuyên truyền, giáo dục cho
phụ nữ những kiến thức y học, vệ sinh thai nghén và nuôi dạy con…
Bộ luật Lao động 1994 chương 10 bao gồm những quy định riêng về lao động nữ, trong
đó quy định quyền làm việc bình đẳng của phụ nữ với nam giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, có những chính sách
ưu đãi trong đào tạo, tuyển dụng và bố trí việc làm giúp cho người phụ nữ có thể kết hợp
hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Bên cạnh đó, Bộ luật còn có những
quy định chặt chẽ về những quyền lợi đặc biệt mà người lao động nữ được hưởng để giúp
cho họ có thể bảo vệ được sức khoẻ và có điều kiện tái tạo sức lao động: quyền nghỉ chế
độ thai sản, điều kiện nơi làm việc của lao động nữ, cấm việc sử dụng lao động động nữ
vào những công việc nặng nhọc, không phù hợp với sức khỏe phụ nữ…
Ngoài ra, các văn bản dưới luật còn có những quy định cụ thể nhằm hiện thực hoá những
chính sách của Nhà nước ta trong việc tạo điều kiện cho phụ nữ vươn lên có vị trí xứng
đáng trong xã hội và cải thiện cuộc sống: quy định về ưu đãi vay vốn cho phụ nữ nghèo,
quy định về chế độ đối với các cán bộ khoa học nữ…
Có thể nói, vấn đề giới là một lĩnh vực được pháp luật Việt Nam quan tâm và có những
quy định điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, văn hoá của đất nước ta. Mục
đích của các quy định này là tạo ra một khung pháp lý giúp cho phụ nữ có điều kiện phát
triển và góp phần vào sự phát triển bền vững chung của xã hội.
Cam kết của Việt Nam trong việc tạo ra bình đẳng giới (được ghi nhận tại Báo cáo ‘‘Sự
khác biệt về giới trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam’‘ - công bố ngày 26/8/2002 do
Uỷ ban vì sự tiến bộ của PNVN, UNDP và FAO thực hiện. Quan trọng hơn cả là các
quyền của phụ nữ và vấn đề bình đẳng được đưa vào các chính sách, vào Hiến pháp, các
đạo luật khác của Việt Nam.
Những bất bình đẳng: phụ nữ làm công ăn lương ít hơn nam giới, mức lương thấp hơn
ngay cả trong cùng ngành nghề phụ nữ chỉ nhận lương trung bình bằng 78% so với nam
giới. Trong một số lĩnh vực, phụ nữ được trả lương thấp hơn nam giới đối với cùng một
công việc. Phụ nữ chủ yếu tập trung trong các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng ở mức độ thấp
hơn và cơ hội phụ nữ được bố trí vào các vị trí quản lý ở cấp cao ít hơn so với nam giới.
Ngoài ra, phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại hơn nam giới trong việc tiếp cận với các nguồn
tín dụng, chủ yếu vì phụ nữ thường không có tài sản thế chấp như đất đai. Mặc dù Luật
Đất đai ở Việt Nam không phân biệt đối xử với phụ nữ, song những tập quán phổ biến
làm cho họ bị yếu thế hơn, bởi quyền sử dụng đất thường chỉ đứng tên người chồng. lOMoARcPSD|610 649 76
Bất bình đẳng giới còn là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, ngay cả trong lĩnh vực giáo
dục ở bậc trên tiểu học sự khác biệt về giới lại tái hiện. ở cấp trung học phổ thông mức
chênh lệch về tỉ lệ nhập học giữa học sinh nam và học sinh nữ đã giảm từ 15% xuống còn
1 1%. Điều kiện dinh dưỡng của phụ nữ cũng kém hơn so với nam giới, đặc biệt là phụ
nữ, trẻ em gái ở các vùng nông thôn, các dân tộc thiểu số. M PHƯƠNG 4.
Phân tích yêu cầu của nguyên tắc môi trường là thể thống nhất và bình luận
về sự thể hiện của nó trong phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam T PHƯƠNG
Yêu cầu của nguyên tắc:
- Việc bảo vệ môi trường không bị chia cắt bởi biên giới quốc gia, địa giới hành
chính. Điều này có nghĩa là trên phạm vi toàn cầu các quốc gia cần phải có sự hợp
tác để bảo vệ môi trường chung. Trong phạm vi quốc gia, việc khai thác, bảo vệ
môi trường phải đặt dưới sự quản lý thống nhất của trung ương theo hướng hình
thành cơ chế mang tính liên vùng, đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa các địa phương.
- Cần phải bảo đảm có mối quan hệ tương tác giữa các ngành, các văn bản quy
phạm pháp luật trong việc quản lý, điều chỉnh các hoạt động khai thác và bảo vệ
môi trường phù hợp với bản chất của đối tượng khai thác, bảo vệ. Cụ thể: i) Các
văn bản quy phạm pháp luật về môi trường như Luật bảo vệ môi trường, Luật Lâm
nghiệp, Luật tài nguyên nước, Luật thuỷ sản… phải đặt trong một chỉnh thể thống
nhất; và ii) Trong phân công trách nhiệm quản lý nhà nước giữa các ngành, lĩnh
vực phải đảm bảo phù hợp với tính thống nhất của môi trường theo hướng quy
hoạt động quản lý nhà nước về môi trường chung một đầu mối dưới sự quản lý
thống nhất của Chính phủ.
Phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam:
- Các chính sách cũng như các quy định pháp luật về môi trường phải được ban
hành với sự cân nhắc toàn diện đến các yếu tố khác nhau của môi trường để việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này không bị phân tán và thiếu đồng
bộ. Trong thực tế, có không ít các chính sách các quy định của pháp luật được ban
hành chỉ nhằm giải quyết một hiện tượng cụ thể trước mắt mà không tính đến ảnh
hưởng dây chuyền của văn bản đó đối với các hiện tượng xã hội khác.
- Việc quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được thực hiện dưới sự điều hành của
một cơ quan thống nhất. Đòi hỏi này trên thực tế đã được đáp ứng khá đầy đủ ở
Việt Nam. Hệ thống cơ quan quản lý môi trường ở nước ta đã được xây dựng và lOMoARcPSD|610 649 76
hoàn thiện đáng kể trong 10 năm gần đây. Vai trò, chức năng và quyền hạn của hệ
thống cơ quan này đã được xác định và phân công đối tượng hợp lý.
- Các tiêu chuẩn môi trường, các quy trình đánh giá tác động môi trường cũng như
thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường với tư cách là những công cụ kỹ
thuật quan trọng của quản lý môi trường cần được xây dựng và áp dụng một cách
thống nhất trong phạm vi cả nước. THUẬN
Như đã phân tích ở trên, môi trường là một thể thống nhất của nhiều yếu tố vật chất khác
nhau. Vì vậy, trong việc quản lí và bào vệ môi trường cần sự thống nhất và điều này được
coi như là một nguyên tắc của luật môi trường. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất trong
quản lí môi trường có một sô đòi hỏi sau đây:
- Các chính sách cũng như các quy định pháp luật về môi trường phải được ban hành với
sự cân nhắc toàn diện đến các yếu tố khác nhau của môi trường để việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong trong lĩnh vực này không bị phân tán và thiếu đồng bộ. Trong thực
tế, có không ít các chính sách, các quy định của pháp luật được ban hành chỉ nhằm giải
quyết một hiện tượng cụ thể trước mắt mà không tính đến ảnh hưởng dây chuyền của văn
bản đó đối với các hiện tượng xã hội khác.
- Việc quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường được thực hiện dưới sự điều hành của một
cơ quan thống nhất. Theo đó, “Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về bảo vệ môi
trường trong phạm vi cả nước” (Điều 140 Luật bảo vệ môi trường năm 2014); “Bộ
trưởng Bộ tài nguyên và môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống
nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường” (Điều 141 Luật bảo vệ môi trường năm 2 014).
Đòi hỏi này trên thực tế đã được đáp ứng khá đầy đủ ở Việt Nam. Hệ thống cơ quan quản
lý môi trường ở nước ta đã được xây dựng và hoàn thiện đáng kể trong 10 năm gần đây. lOMoARcPSD|610 649 76
Vai trò, chức năng và quyền hạn của hệ thống cơ quan này đã được xác định và phân
công tương đối hợp lý.
- Các tiêu chuẩn môi trường, các quy trình đánh giá tác động môi trường cũng như thẩm
định báo cáo đánh giá tác động môi trường với tư cách là những công cụ kĩ thuật quan
trọng của quản lí môi trường cần được xây dựng và áp dụng một cách thống nhất ưong phạm vi cả nước.
- Việc bảo vệ môi trường phải được coi là sự nghiệp của toàn dân. Mọi công dân, mọi tổ
chức đều phải tham gia bảo vệ môi trường thông qua việc tuân thủ các quy định của pháp
luật môi trường, thực hiện các hành động chung của cộng động nhằm bảo vệ môi trường.
- Việc bảo vệ môi trường phải được coi là sự nghiệp của toàn dân. Mọi công dân, mọi tổ
chức đều phải tham gia bảo vệ môi trường thông qua việc tuân thủ các quy định của pháp
luật môi trường, thực hiện các hành động chung của cộng động nhằm bảo vệ môi trường. 5.
Hiện nay người dân có thể thực hiện quyền được sống trong một môi
trường trong lành thông qua những quyền cụ thể nào? Hãy đánh giá việc
thực hiện các quyền này trên thực tế? THƯ
Thế nào là quyền được sống trong môi trường trong lành?
Nêu ra các quyền cơ bản: quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền được khiếu
nại tố cáo, quyền đươc,..
Người dân có thể thực hiện quyền được sống trong một môi trường trong lành thông qua
những quyền cụ thể như:
Tuyên bố Stockholm 1972, nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được sống trong môi
trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách lOMoARcPSD|610 649 76
nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”. Tương tự, trong
tuyên bố Rio de janeiro 1992 cũng khẳng định: “Con người là trung tâm của các mối
quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu
ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”.
Việc thực hiện các quyền này trên thực tế:
Thực tế, trong hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã manh nha hình
thành cơ chế bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành từ những năm 1990
khi yêu cầu này xuất hiện và được thể hiện trong đạo luật đầu tiên về bảo vệ môi trường ở
nước ta vào năm 1993. Tiếp đó, tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền được sống trong
môi trường trong lành đã được xác định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, trong
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đặc
biệt là trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Đối chiếu những quy định đó trong thực
tiễn áp dụng chúng ta sẽ thấy được những kết quả đã đạt được đồng thời còn tìm ra nhiều
điểm bất cập cần được khắc phục, giải quyết TIẾN
Hiện nay người dân có thể thực hiện quyền được sống trong một môi trường trong
lành thông qua những quyền cụ thể như:
Tuyên bố Stockholm 1972, nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được sống trong
môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có
trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”. Tương tự, trong
tuyên bố Rio de janeiro 1992 cũng khẳng định: “Con người là trung tâm của các mối
quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu
ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”.
Nhu cầu cơ bản của con người là được sống trong môi trường trong lành vốn được coi là
món quà của tự nhiên, cần thiết cho mọi sinh vật. Quyền sống là quyền cơ bản nhất trong
số các quyền và cũng là quyền cốt lõi của nhân loại, nó có nghĩa là một yêu cầu bảo đảm
rằng sự tồn tại này không gây nguy hiểm cho sự tồn tại của những người khác. Thực tế:
Ở Việt Nam, pháp luật và các yếu tố tác động đến hiệu quả của pháp luật bảo đảm
quyền được sống trong môi trường trong lành đang trong tình trạng vừa thừa, vừa thiếu
và có không ít tình huống mâu thuẫn, chồng chéo. Việc ô nhiễm môi trường diễn ra trên
diện rộng đã ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố cơ bản của quyền được sống trong môi
trường trong lành của người dân, cho thấy các quy định của Luật Bảo vệ môi trường chưa lOMoARcPSD|610 649 76
được thực thi hiệu quả. Những năm qua, nhiều hành vi xâm hại môi trường gây tổn hại
nghiêm trọng đến quyền này của cộng đồng dân cư ở hầu khắp các địa phương Việt Nam
vẫn diễn ra, điển hình như:
Công ty Vedan "giết" sông Thị Vải: "Thành công" suốt 14 năm. Việc Công ty
Vedan xả chất độc hại với khối lượng lớn xuống sông Thị Vải trong một thời gian dài,
gây ô nhiễm nghiêm trọng dòng sông nhưng không được phát hiện kịp thời và xử lý dứt
điểm dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tình trạng này xảy ra do chưa có chế tài
nghiêm khắc để răn đe chủ thể kinh doanh, cơ quan thực thi chưa đồng bộ,. Ngoài ra, chủ
trương ưu tiên phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài cũng tác động không nhỏ đến
việc coi thường trách nhiệm bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, nhà đầu tư.
6. Hãy phân biệt nguyên tắc phòng ngừa và nguyên tắc thận trọng? Cho ví dụ để
làm rõ sự khác nhau này. NHẬT
- Nguyên tắc phòng ngừa: phòng ngừa đối với những rủi ro mà con người đã lường trước
được. Những rủi ro đã được chứng minh về mặt khoa học và thực tiễn (những rủi ro chắc chắn xảy ra).
- Nguyên tắc thận trọng: thận trọng đối với những rủi ro con người có thể lường trước
được. Những rủi ro chưa được chứng minh về mặt khoa học và thực tiễn (những rủi ro
không thể chắc chắn hoặc không chắc chắn xảy ra). Ví dụ: D NHI
7 . Phân biệt hành vi trả tiền theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
với tiền phải trả do xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường? M NHI HNHI Tiêu chí
Tiền trả theo nguyên tắc Tiền phải trả do xử
người gây ô nhiễm phải phạt vi phạm hành trả tiền chính trong lĩnh vực lOMoARcPSD|610 649 76 môi trường Hành vi
Trả tiền cho hành vi hợpTiền trả cho hành vi vi
pháp gây tác động tiêu cựcphạm pháp luật về môi
đến môi trường. (tức hànhtrường
vi còn trong giới hạn cho phép của pháp luật) Hậu quả
Có hậu quả gây tác độngKhông xét đến hậu quả. xấu đến môi trường. Dù gây ra hậu quả hay không miễn có hành vi vi phạm pháp luật về môi
trường là phải chịu phạt. Ví dụ:
- Nguyên tắc phòng ngừa: các cánh rừng nguyên sinh khi bị tàn phá thì sẽ rất khó
khôi phục (thực trạng rừng tại Việt Nam) mất rất nhiều năm nếu cánh rừng đó có điều
kiện thuận lợi phát triển. Do đó cần hạn chế các hành vi khai thác trái phép nhằm bảo vệ nó.
- Nguyên tắc thận trọng: Các doanh nghiệp nước ngoài, đầu tư vào nước ta cam kết
sử dụng công nghệ mới nhất để hạn chế tối đa ô nhiễm nguồn nước, không khí. Trên cơ
sở nghiên cứu khoa học đến thời điểm đó chưa đưa ra những kết luận bất lợi đối với môi
trường của công nghệ này, trên thực tiễn thì chưa được chứng minh. Như vậy, mặc dù
chưa được chứng minh về khoa học và thực tiễn, nhưng chính quyền địa phương vẫn phải
tuân thủ nguyên tắc thận trọng trong việc chấp nhận dự án đầu tư này.
8 . Trong những trường hợp sau, trường hợp nào được xem và trường hợp nào
không được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc
Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP)? Giải thích tại sao?
- Thuế bảo vệ môi trường: QUYÊN
Trường hợp này được xem là phải trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm môi trường. Vì
trong trường hợp này người gây ô nhiễm buộc phải trả tiền cho sự ô nhiễm mà họ
gây ra, vì thế họ sẽ có động lực kinh tế để điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm. Để điều
chỉnh hành vi ô nhiễm, người gây ô nhiễm sẽ phải thực hiện các biện pháp ngăn
ngừa và kiểm soát ô nhiễm; nói cách khác, họ phải chi trả chi phí ngăn ngừa và
kiểm soát ô nhiễm. Như vậy, có thể hiểu là thông qua cơ quan quản lý nhà nước,
người gây ô nhiễm có chi trả khắc phục các thiệt hại do ô nhiễm mà họ gây ra. lOMoARcPSD|610 649 76
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải: M PHƯƠNG
Trường hợp này được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). Vì trường hợp này là tiền phải trả cho hành vi gây
tác động xấu đến môi trường Thuộc nguyên tắc PPP. -
Phạt vi phạm hành chính về môi trường: T PHƯƠNG
Trả lời: Trường hợp này không được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo
nguyên tắc Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). Vì: phạt vi phạm hành chính về môi
trường- tức là đã có hành vi vi phạm pháp luật nên không thuộc nguyên tắc này. ·
Thuế tài nguyên: THUẬN
Trường hợp này được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc
Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Vì đây là loại thuế đánh vào việc khai thác tài nguyên trên lãnh thổ Việt Nam của các cá
nhân, tổ chức. Hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên có thể là hành vi trực tiếp gây ra
ô nhiễm môi trường hoặc cũng có thể là hành vi gián tiếp gây ra ô nhiễm môi trường.
Mục đích của thuế này là áp đặt lên một nghĩa vụ tài chính đối với các cá nhân, tổ chức
thì mới được thực hiện hành vi khai thác tài nguyên, từ đó nhằm hạn chế việc khai thác
tài nguyên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. ·
Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra: THƯ
Trả lời: Trường hợp này không được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo
nguyên tắc Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). Vì điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gồm:
+ Có thiệt hại xảy ra trên thực tế.
+ Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường.
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.
→ Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra được xác định như là một trường
hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự (Điều 602 BLDS 015). 2
Trong khi đó theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền thì không cần có
thiệt hại thực tế xảy ra thì người gây ô nhiễm đều phải trả tiền cho hành vi của mình. ·
Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản: TIẾN lOMoARcPSD|610 649 76
Trường hợp này được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc
Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). Vì người phải trả tiền theo nguyên tắc này là
người gây ô nhiễm bao gồm: người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, người có
hành vi xả thải vào môi trường, người có những hành vi khác gây tác động xấu tới môi
trường theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, cấp quyền khai thác khoáng
sản là để thực hiện hành vi khai thác, hưởng lợi từ thiên nhiên. ·
Lệ phí cấp giấy phép khai thác khoáng sản: NHẬT
Trường hợp này được xem là tiền phải trả cho hành vi gây ô nhiễm theo nguyên tắc
Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). Vì khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu
hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt
động khác có liên quan. Các hoạt động nêu trên đều gây hại đến môi trường và việc đóng
lệ phí là nhằm để thực hiện các hoạt động đó một cách hợp pháp.