
















Preview text:
Khái niệm Luật môi trường quốc tế? ...........................................................................................1
. Đối tượng điều chỉnh của Luật môi trường quốc tế? Nguồn của Luật môi trường quốc tế?........1
. Quá trình hình thành, phát triển của luật môi trường quốc tế? ......................................................3
. Các nguyên tắc của Luật môi trường quốc tế? ...............................................................................7
. Các Hiệp định đa phương về môi trường? .....................................................................................7
. Nội dung nguyên tắc Chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên? ...................................8
. Nội dung nguyên tắc Quyền phát triển? ..........................................................................................9
. Nội dung nguyên tắc Phát triển bền vững? ......................................................................................9
. Nội dung nguyên tắc Cấm gây hại xuyên biên giới? ......................................................................11
0. Nội dung nguyên tắc Công bằng giữa các thế hệ? ..........................................................................12
1. Nội dung nguyên tắc Trách nhiệm chung nhưng khác biệt?............................................................12
2. Nội dung nguyên tắc Nguyên tắc phòng ngừa? .............................................................................14
3. Nội dung nguyên tắc Người gây ô nhiễm phải trả tiền? ..................................................................13
4. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường biển? ...........................................................17
5. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ bầu khí quyển? ..............................................................22
6. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường không khí? ..................................................29
7. Quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường biển do rác thải? ..........................................39
8. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ động vật hoang dã?.....................44
9. Quy định của pháp luật quốc tế về phòng ngừa và ô nhiễm biển? .....................................................47
0. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển? Theo Anh/Chị chúng ta cần phải làm
gì để có thể bảo vệ môi trường biển được tốt hơn? ...........................................................................50
2 1. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường không khí? Theo Anh/Chị chúng ta cần phải
làm gì để có thể bảo vệ môi trường không khí được tốt hơn?.............................................................54
2 2. Tội phạm môi trường? đặc điểm, phân loại. (bên tự làm)
2 3. Quy định về IUU (Illegal, Unreported and Unregulated fishing) (bên tự làm)
2 4. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển do rác thải? Theo Anh/Chị chúng ta
cần phải làm gì để có thể bảo vệ môi trường biển do rác thải được hiệu quả hơn?...........................62
2 5. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng ngừa và ô nhiễm biển do dầu? Theo Anh/Chị chúng ta
cần phải làm gì để có thể bảo vệ môi trường biển do dầu được hiệu quả hơn?................................69
2 6. Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế? .........................................................72 lOMoARcPSD|610 649 76 Contents
1 . Luật MTQT là gì, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, Các loại nguồn của LMTQT.......................................3 .
2 Nguyên tắc Luật MTQT.........................................................................................................................................................3
a) Nguyên tắc chủ quyền quốc gia..........................................................................................................................................3
b) Nguyên tắc trách nghiệm không gây thiệt hại môi trường xuyên biên giới........................................................................3
c) Nguyên tắc phòng ngừa......................................................................................................................................................4
d) Nguyên tắc ngăn chặn (precaution)...................................................................................................................................5
e) Nguyên tắc hợp tác quốc tế.................................................................................................................................................5
f) Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền........................................................................................................................6
g) Nguyên tắc trách nhiệm chung nhưng khác biệt.................................................................................................................7
h) Nguyên tắc di sản chung của nhân loại...............................................................................................................................8
l) Nguyên tắc phát triển bền vững...........................................................................................................................................8
m) Nguyên tắc công bằng giữa các thế hệ/ đánh giá tác động môi trường..............................................................................8
n) Nguyên tắc quyền phát triển?.............................................................................................................................................8 .
3 Quy định của PLQT và PLVN về lĩnh vực và đưa ra giải pháp để khắc phục, hướng tới phát triển bền vững........................9
a) ÔNMT nước.......................................................................................................................................................................9
Câu 22. Tội phạm môi trường? đặc điểm, phân loại.................................................................................................................10
Câu 23. Quy định về IUU (Illegal, Unreported and Unregulated fishing).................................................................................12 lOMoARcPSD|610 649 76
1 . Luật MTQT là gì, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, Các loại nguồn của LMTQT
* Khái niệm Luật MTQT: tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật được các quốc gia và các chủ thể khác
của luật quốc tế thỏa thuận, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường. Luật môi trường quốc tế điều chỉnh các vấn đề như: đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, suy
giảm tầng ô zôn, các chất độc hại, sa mạc hóa, nguồn tài nguyên biển, cũng như chất lượng không khí, đất và nước vv...
* Đối tượng điều chỉnh
* Phương pháp điều chỉnh: trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận
* Các loại nguồn: Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế
Điều ước quốc tế chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận;
Tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như những quy phạm pháp luật
Án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tếcủa các quốc gia khác
nhau được coi là phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.
Các nguyên tắc được các QG công nhận
Soft law (chủ yếu trong LMT sử dụng)
Ngoài nguồn trên Luật môi trường quốc tế còn bao gồm pháp luật của các quốc gia có liên quan và các Nghị
quyết của các tổ chức quốc tế
2 . Nguyên tắc Luật MTQT
Các nguyên tắc cơ bản của IEL đóng vai trò quan trọng trong việc định hình hành vi của các quốc gia và thúc đẩy
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Việc hiểu rõ và tuân thủ các nguyên tắc này không chỉ giúp các
quốc gia thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
a) Nguyên tắc chủ quyền quốc gia
Theo luật quốc tế (International Law, IL), nguyên tắc chủ nguyền được dựa trên luật tập quán quốc tế (ICL).
Nguyên tắc chủ quyền đã được khẳng định trong Nguyên tắc 21 của Tuyên bố Stockholm năm 1972. Ngoài ra theo
Nguyên tắc 2 của Tuyên bố Rio năm 1992, trong đó nêu rõ: “Các quốc gia có quyền tối cao khai thác tài nguyên
của mình theo các chính sách phát triển và môi trường của riêng mình, và có trách nhiệm đảm bảo rằng các hoạt
động trong phạm vi quyền hạn hoặc quyền kiểm soát của mình không gây thiệt hại cho môi trường của các quốc
gia khác hoặc các khu vực nằm ngoài phạm vi quyền hạn quốc gia”.
Mỗi quốc gia đều có chủ quyền đối với lãnh thổ của mình, kể cả các nguồn tài nguyên trên và dưới phạm vi lãnh
thổ đó. Trong lĩnh vực môi trường, chủ quyền của quốc gia đối với các nguồntài nguyên thiên nhiên trong phạm vi
lãnh thổ là không thể bị ảnh hưởng. Các quốc gia phải tôn trọng quyền của các quốc gia khác được sống trong môi
trường trong lành. Việc khai thác tài nguyên phải được tiến hành theo những cách thức không gây hại về môi
trường cho quốc gia khác hay vùng lãnh thổ nằm ngoài phạm vi tài phán của mình. Các QG phải tôn trọng CQ của
QG khác trong việc khai thác và thăm dò tìm kiếm TNTN thuộc quyền tài phán của mình ảnh hưởng đến QG khác
b) Nguyên tắc trách nghiệm không gây thiệt hại môi trường xuyên biên giới
Quy tắc không gây hại là một nguyên tắc được công nhận rộng rãi của luật tập quán quốc tế, theo đó một Quốc gia
có nghĩa vụ ngăn chặn, giảm thiểu và kiểm soát nguy cơ gây hại cho môi trường đối với các quốc gia khác1.Tuy lOMoARcPSD|610 649 76
nhiên cần lưu ý rằng nguyên tắc không gây hại không có nghĩa là tuyệtđối không gây hại hay gây ra những rủi ro
nào mà là ngăn ngừa và làm giảm các tác động gây hại đáng kể hay gây ra rủi ro cho các quốc gia khác. Trong
trường hợp gây tổn hại đến môi trường của các quốc gia khác, quốc gia có hành vi vi phạm luật Môi trường Quốc
tế phải có nghĩa vụ chấm dứt ngay các hành vi gây hại và gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế về các hành vi đó.
Viêc ̣áp dụng nguyên tắc này bắt nguồn từ vụ Trail smelter 1941, Tòa trọng tài nhận thấy rằng "theo các nguyên
tắc của Luật pháp quốc tế, cũng như Luật pháp Hoa Kỳ, không một quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép
sử dụng lãnh thổ của mình theo cách gây ra thiệt hại do khói trong hoặc đối với lãnh thổ của quốc gia khác hoặc
tài sản hoặc người dân ở đó, khi vụ việc có hậu quả nghiêm trọng và thiệt hại được xác lập bằng chứng cứ rõ ràng
và thuyết phục". Trong thập kỷ sau khi Nghị quyết 1803 (XVII) của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc 1962 được
thông qua, nguyên tắc không gây hại được coi là hệ quả tất yếu của nguyên tắc chủ quyền vĩnh viễn đối với tài
nguyên thiên nhiên. Nguyên tắc 21 của Tuyên bố Stockholm 1972 đã liên kết cụ thể ‘quyền chủ quyền’ của một
Quốc gia trong việc khai thác các nguồn tài nguyên của mình với trách nhiệm không gây ra thiệt hại về môi trường.
=> Như vậy, Nguyên tắc không gây hại được xem là hệ quả của nguyên tắc chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra Nguyên tắc trách nhiệm không gây tác hại dược phát biểu trong Nguyên tắc 2 của Tuyên bố Rio năm
1 992, trong đó nêu rõ: “Các quốc gia có quyền tối cao khai thác tài nguyên của mình theo các chính sách phát
triển và môi trường của riêng mình, và có trách nhiệm đảm bảo rằng các hoạt động trong phạm vi quyền hạn hoặc
quyền kiểm soát của mình không gây thiệt hại cho môi trường của các quốc gia khác hoặc các khu vực nằm ngoài
phạm vi quyền hạn quốc gia”.
Nguyên tắc 7 của Tuyên bố Stockholm cũng nhắc nhở: “Các quốc gia cầntiến hành các bước đi có thể để ngǎn
chặn ô nhiễm biển do các chất có thể tạo rađộc hại cho sức khỏe con người, tác hại tới các tài nguyên sinh vật và
đời sống biển, làm tổn hại các giá trị mỹ cảm hoặc can thiệp tới các quyền sử dụng biển hợp phápkhác”. Nguyên
tắc này được nhắc đến trong Công ước về di sản thế giới nǎm 1972(Điều 6.3), UNCLOS 1982 (Điều 193-194),
Công ước Basel về vận chuyển xuyênbiên giới các chất thải nguy hại và phân hủy chúng năm 1989, Công ước về
đa dạngsinh học (Ðiều 3), lời nói đầu của Công ước về biến đổi khí hậu năm 1992 vànguyên tắc 14 của Tuyên bố
Rio: "Các quốc gia nên hợp tác một cách có hiệu quàđể ngǎn cản sự đặt lại và chuyển giao cho các quốc gia khác
bất cứ một hoạt độngnào và một chất nào gây sự thoái hoá môi trường nghiêm trọng hoặc xét thấy có hạicho sức
khỏe con người”.
c) Nguyên tắc phòng ngưa
Điều 3 của Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hâu ̣(UNFCC) nêu rõ: “Các Bên nên thực hiện các
biện pháp đề phòng để dự đoán, ngăn ngừa hoặc giảm thiểu các nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu và giảm
thiểu các tác động bất lợi của nó. Khi có mối đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc không thể đảo ngược,
không nên sử dụng việc thiếu sự chắc chắn khoa học đầy đủ làm lý do để hoãn các biện pháp đó, có tính đến việc
các chính sách và biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu phải hiệu quả về mặt chi phí để đảm bảo lợi ích toàn
cầu với chi phí thấp nhất có thể ”. Tương tự, Nguyên tắc 15 của tuyên bố Rio 1992 và Công ước về Đa dạng Sinh
học 1992 (CBD) cũng đề câp ̣tới nguyên tắc đề phòng như môt ̣phương pháp quan trọng để bảo vê ̣môi trường và
đa dạng sinh học. Mặc dù, nguyên tắc đề phòng không phải nguyên tắc bắt buôc ̣theo luật TQQT (ICL), nhưng nó
ngày càng được áp dụng phổ biến trong các thỏa thuân ̣và án lệquốc tế
Khác với nguyên tắc ngăn ngừa, nguyên tắc đề phòng chỉ áp dụng khi không có bẳng chứng khoa học chắc chắn vê
nguy cơ gây hại cho môi trường, cho phep hoăc ̣yêu cầu những biên ̣pháp bảo vê ̣mà không cần đợi đến khi thiêt ̣ lOMoARcPSD|610 649 76
hại thực sự xảy ra (nguyên tắc dự đoán nhằm tìm cách phòng tránh những rủi ro có thể thấy trước). Nguyên tắc này
được thể hiện như sau:
Để bảo vệ môi trường, các quốc gia cần áp dụng rộng rãi phương pháp tiếp cận ngăn ngừa tuỳ theo khả năng từng
quốc gia, ở chỗ nào có nguy cơ tác hại nghiêm trọng hay không thể sửa được, thì không thể nêu lý do là thiếu sự
chắc chắn khoa học hoàn toàn để trì hoãn áp dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự thoái hoá môi trường
Bản chất của nguyên tắc phòng ngừa thể hiện mục tiêu mà nó hướng tới là sự ngăn chặn kịp thời các tác tố tác
động xấu đến môi trường. Cần ghi nhớ là ngay cả việc chưa có các bằng chứng khoa học về tác động tiêu cực đến
môi trường cũng không là lý do cho việc cản trở hay trìhoãn các hành động bảo vệ môi trường trước những tổn hại
hoặc tổn hại tiềm năng.
- Việc áp dụng nguyên tắc phòng ngừa có những lợi thế nhất định. Thứ nhất, tạo được căn cứ hợp pháp để hành
động trong các rủi ro môi trường khi chưa xác định được quan hệ nhân quả. Thứ hai, tạo nền tảng cho việc xây
dựng chính sách và pháp luật về đánh giá tác động môi trường.
d) Nguyên tắc ngăn chặn (precaution)
Nguyên tắc ngăn ngừa, măc ̣dù có mối liên hê ̣chăt ̣che với Nguyên tắc 21 của Tuyên bố Stockholm và Nguyên tắc
2 của Tuyên bố Rio, nhưng có thể phân biêt ̣theo hai cách cơ bản.
Thứ nhất, nguyên tắc này hướng tới viêc ̣giảm thiểu thiêt ̣hại môi trường như môt ̣mục tiêu tự thân, trong
khi nguyên tắc chủ quyền tâp ̣trung vào tôn trọng chủ quyền quốc gia trong viêc ̣quản lý tài nguyên của mình.
Thứ hai, nguyên tắc ngăn ngừa yêu cầu hành đôn ̣g ngăn ngừa thiêt ̣hại không chỉ trong phạm vi quốc gia
mà còn xuyên biên giới, với các biên ̣pháp pháp lý, hành chính và những phương thức khác.
Nguyên tắc ngăn ngừa được ghi nhận trong Công ước Liên hợp quốc về Luât ̣Biển 1982 (UNCLOS): “Các quốc
gia phải thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển”.
Ngoài ra, Công ước Espoo năm 1991 tâp ̣trung vào đánh giá tác đôn ̣g môi trường (EIA) cũng nhấn mạnh viêc ̣ngăn
ngừa thiêt ̣hại xuyên biên giới từ các dự án lớn, trong đó nêu rõ: “Các Bên tham gia Công ước này cam kết thực
hiện mọi biện pháp thích hợp để ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát các tác động môi trường bất lợi đáng kể từ
các hoạt động được đề xuất có khả năng gây ra tác động xuyên biên giới”.
Nguyên tắc ngăn ngừa nhấn mạnh việc áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tránh gây ra thiệt hại môi trường,
thay vì chỉ tập trung vào việc khắc phục hậu quả sau khi thiệt hại đã xảy ra. Cơ sở áp dụng nguyên tắc trên là các
thiệt hại về môi trường, biện pháp bồi thường liên quan thường không thể đánh giá và ước tính một cách chính xác,
cũng như khả năng sửa chữa và khôi phục thiệt hại về môi trường thường thấp. Như vây,̣ nguyên tắc ngăn ngừa
yêu cầu các quốc gia chủ động thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn các hoạt động trong phạm vi lãnh
thổ của mình gây thiệt hại đến môi trường của các quốc gia khác hoặc các khu vực nằm ngoài phạm vi quyền tài
phán quốc gia, đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường.
e) Nguyên tắc hợp tác quốc tê
Ô nhiễm môi trường không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà còn có thể ảnh đến các quốc gia khác. Một
quốc gia không thể giải quyết được, cần phải có sự hợp tác quốc tế. Chính vì thế, hợp tác được coi là nguyên tắc
quan trọng của Pháp luật môi trường quốc tế. lOMoARcPSD|610 649 76
tắc của Luât ̣pháp quốc tế liên quan đến Quan hê ̣hữu nghị và Hợp tác giữa các quốc gia” và Nguyên tắc 24 của
Tuyên bố Stockholm 1972, Nguyên tắc 9 – 10 của Tuyên bố Rio 1992. Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn là nguồn
gốc của các nghĩa vụ trong nhiều công ước như UNCLOS 1982 (Điều 197), Công ước Basel năm 1989, UNFCCC năm 1992.
Nguyên tắc này nêu rõ các vấn đề quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường cần được xử lýtrên tinh thần hợp tác bởi
tất cả các quốc gia dù lớn nhỏ trên nền tảng bình đẳng. Hợp tác quốc tế cũng là cần thiết để nâng cao nguồn lực để
hỗ trợ các nước đang phát triểntrong việc thực hiện trách nhiệm của mình trong lĩnh vực này. Một loạt các vấn đề
môi trường ngày càng gia tăng, bởi vì chúng có tính chất khu vực hoặc toàn cầu về phạm vi, hoặc vì chúng ảnh
hưởng chung đến cộng đồng quốc tế, nên yêu cầu sự hợp tác sâu rộng giữa các quốc gia và hành động của các tổ
chức quốc tế vì lợi ích chung.
Trong bối cảnh hiêṇnay, viêc̣thành lâp̣nhiều tổ chức quốc tế cũng tương ứng với nhu cầu hợp tác về măṭthể chế
trong bảo vê ̣môi trường và chính các công ước hoăc ̣điều ước quốc tế đó cấu thành công cụ hiêụquả nhất cho
hợp tác quốc tế. Ngoài ra, viêc̣hợp tác quốc tế trong bảo vê ̣môi trường toàn cầu bao gôm nhiều hình thức khác
nhau, từ cung cấp các nguôn lực và công nghệ cần thiết, tổ chức các khóa đào tạo đến trao đổi thông tin, cũng
như tham vấn và giúp đỡ trong các trường hợp khẩn cấp về môi trường. Có thể thấy rằng, viêc̣giải quyết các vấn
đề môi trường vượt quá khả năng của môt ̣hoăc ̣nhiều quốc gia, nó đòi hỏi cần có sự hợp tác quốc tế để ngăn
ngừa, giảm thiểu và loại bỏ những tác động có hại đến môi trường.
f) Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
Nguyên tắc yêu cầu các quốc gia, khi thực hiện các hoạt động có thể gây ô nhiễm xuyên biên giới, phải thực hiện
biện pháp giảm thiểu và trả phí cho các biện pháp phòng ngừa hoặc xử lý ô nhiễm. Nguyên tắc này được đề câp̣
trong Tuyên bố Stockholm 1972 (Nguyên tắc 21) và Tuyên bố Rio 1992 (Nguyên tắc 13). Dù thế, những tuyên bố
này không trực tiếp áp dụng nguyên tắc cho quốc gia gây ô nhiễm mà chỉ yêu cầu các quốc gia áp dụng các biện
pháp hợp lý và có trách nhiệm bảo vệ môi trường và chống lại ô nhiễm, đông thời duy trì hợp tác quốc tế trong
bảo vệ môi trường. Nguyên tắc này cũng được qui định trong Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí
hậu UNFCCC và nhiều các văn bản pháp luật môi trường quốc tế khác như Nghị định thư Montreal, Nghị định thư
Kyoto. Nguyên tắc này được qui định tại Khoản 6 Điều 4, Luật bảo vệ môi trường năm 2020 của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong phạm vi quốc tế, nguyên tắc "polluter pays" đã được ghi nhận nhưng chủ yếu liên quan đến việc các quốc
gia phải chịu trách nhiệm khi hoạt động của họ gây ô nhiễm xuyên biên giới. Việc áp dụng nguyên tắc này trong
LMTQT chưa được thống nhất. Nguyên tắc này chủ yếu được áp dụng trong các công ước quốc tế như Công ước
Basel 1989, nơi các quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với việc vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới.
Bản chất của nguyên tắc này là chuyển chi phí xã hội cho việc bảo vệ môi trường, khắc phục tìnhtrạng ô nhiễm,
suy thoái môi trường cho chính những cá nhân, tổ chức có những hoạt động gây hại đến môi trường.
Tác dụng của việc áp dụng nguyên tắc này thể hiện ở các khía cạnh chính sau:
buộc các cá nhân, tổ chức khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hay bất cứ hoạtđộng nào đều
tính đến hậu quả đối với môi trường. Cá nhân, tổ chức phải cân nhắc để chọn giảipháp tối ưu nhằm hạn chế
chi phí phát sinh do phải trả tiền cho hoạt động gây tổn hại cho môitrường. Đối với doanh nghiệp, việc tăng
chi phí se giảm tính cạnh tranh và đây là điều mà các doanh nghiệp buộc phải chú ý.
Cá nhân, tổ chức phải đối mặt cả với những chi phí do bồi thường thiệt hại cho những thiệthại về sức khỏe,
tính mạng và tài sản gây ra với cá nhân và tổ chức khác. lOMoARcPSD|610 649 76
Xã hội giải phóng được một nguồn lực công luôn dành cho việc bảo vệ môi trường, hỗ trợnhững người bị
thiệt hại trong các sự cố hoặc thảm họa môi trường do con người gây ra
Tuy nhiên, một số quốc gia vẫn tranh luận rằng không thể áp dụng nguyên tắc này một cách "một chiều", vì những
quốc gia đang phát triển có thể gặp khó khăn trong việc chi trả cho các biện pháp phòng ngừa và xử lý ô nhiễm.
Hiện nay, vẫn còn tranh cãi xoay quanh việc "polluter pays" trở thành một nguyên tắc phổ biến trong IL.Môt ̣số
quan điểm cho rằng “polluter pays” đã trở thành nguyên tắc của IL khi nguyên tắc này được thể hiện rõ trong
Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu 2015 (Paris Agreement on Climate Change), nơi các quốc gia cam kết giảm
phát thải khí nhà kính và các quốc gia phát thải cao sẽ chịu trách nhiệm tài chính cho tác động môi trường. Hiệp
định này thúc đẩy nguyên tắc "polluter pays" trong việc phân bổ trách nhiệm tài chính giữa các quốc gia. Ngược
lại, một số quan điểm cho rằng “polluter pays” chưa phải nguyên tắc của IL. Do nguyên tắc "polluter pays" không
được áp dụng một cách nhất quán trong các hiệp định quốc tế. Mặc dù có sự xuất hiện trong một số hiệp định môi
trường, nhưng không phải tất cả các quốc gia đều thực thi nguyên tắc này một cách nghiêm ngặt. Có thể thấy,
nguyên tắc "polluter pays" vẫn đang phát triển và chưa được thống nhất trong IL. Tuyên bố quốc tế yêu cầu các
quốc gia thực hiện các biện pháp hợp lý để giảm thiểu ô nhiễm, nhưng nguyên tắc này không đông nghĩa với việc
các quốc gia phải chịu trách nhiệm đầy đủ về tất cả các thiệt hại môi trường mà họ gây ra.
g) Nguyên tắc trách nhiệm chung nhưng khác biệt
Nguyên tắc trách nhiệm chung nhưng khác biệt bao gồm hai yếu tố:
Một là, liên quan đến trách nhiệm chung của các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường hoặc một phần của
nó ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Hai là, liên quan đến sự cần thiết phải tính đến các khía cạnh khác nhau trong đời sống kinh tế, xã hội của
mỗi quốc gia, hoàn cảnh lịch sử và nhất là vai trò của mỗi quốc gia trong việc phát sinh các rủi ro môi
trường, khả năng ngăn chặn, giảm thiểu rủi ro đó.
Các quốc gia se hợp tác trên tinh thần đối tác toàn cầu để bảo tồn, bảo vệ và khôi phục sức khỏe và tính toàn vẹn
của hệ sinh thái trên Trái đất. Dựa vào mức độ gây suy thoái môi trường toàn cầu khác nhau, các quốc gia có trách
nhiệm chung nhưng phân biệt. Các nước phát triển thừa nhận trách nhiệm mà họ phải gánh chịu trong quá trình
theo đuổi phát triển bền vững toàn cầu mà áp lực xã hội ở những nước này đặt ra đối với môi trường toàn cầu và
nguồn lực công nghệ và tài chính mà họ nắm giữ
Nguyên tắc trách nhiệm chung nhưng khác biệt (CBDR) là một trong những nguyên tắc quan trọng của IEL được
quy định trong Nguyên tắc 7 của Tuyên bố Rio, trong đó nêu rằng: “Các quốc gia sẽ hợp tác theo tinh thần hợp
tác toàn cầu để bảo tôn, bảo vệ và khôi phục sức khỏe và tính toàn vẹn của hệ sinh thái Trái đất. Theo quan điểm
về những đóng góp khác nhau vào sự suy thoái môi trường toàn cầu, các quốc gia có trách nhiệm chung nhưng
khác biệt. Các quốc gia phát triển thừa nhận trách nhiệm mà họ phải gánh chịu trong việc theo đuổi quốc tế phát
triển bền vững trước áp lực mà xã hội của họ đặt lên môi trường toàn cầu và các công nghệ và nguôn tài chính mà
họ kiểm soát”. Hay trong phần mở đầu, Công ước UNFCCC nhấn mạnh: "Các bên nên bảo vệ hệ thống khí hậu vì
lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai, trên cơ sở công bằng và phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có sự
phân biệt và khả năng tương ứng của họ”.
Nhìn chung, nguyên tắc này thừa nhận rằng mặc dù tất cả các quốc gia đều có trách nhiệm bảo vệ môi trường toàn
cầu, nhưng mức độ trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể có thể khác nhau dựa trên sự đóng góp lịch sử vào biến đổi khí
hậu toàn cầu, điều kiện kinh tế, xã hội và mức độ phát triển của từng quốc gia. Do đó, các nước phát triển nên hỗ
trợ các nước đang phát triển chuyển giao công nghê ̣mới và hỗ trợ về mătṭài chính trong các vấn đề môi trường. lOMoARcPSD|610 649 76
Như vây ̣nguyên tắc này cung cấp một con đường để cân bằng trách nhiệm chung của tất cả các quốc gia trong việc
giải quyết các vấn đề môi trường với sự công nhận về cam kết và năng lực lịch sử.
h) Nguyên tắc di sản chung của nhân loại
Nguyên tắc di sản chung của nhân loại được hiểu là một số vùng hoặc một yếu tố môi trường được coi là di sản của
nhân loại dù chúng nằm trong quyền tài phán của bất cứ quốc gia nào và phải được ủy thác để gìn giữ cho cho các
thế hệ tương lai, chống lại bất cứ sự khai thác của quốc gia, doanh nghiệp thâm chí Nhà nước. Nhiều di sản nhân
loại đã được công nhận và được bảo vệ theo những yêu cầu và tiêu chuẩn quốc tế. Di sản chung của nhân loại bao
gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên. (gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể)
Các di sản thiên nhiên có vai trò đặc biệt và được điều chỉnh bởi nhiều công ước quốc tế. Đáy đại dương, không
gian, vùng nước quốc tế, bề mặt đáy biến quốc tế, lòng đất đáy biển quốc tế nằm ngoài phạm vi tài phán của quốc
gia là những di sản chung của nhân loại. Việc xác định di sản chung của nhân loại về cơ bản được xác định dựa
trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia và vai trò của di sản chung đối với sự phát triển của nhân loại.
l) Nguyên tắc phát triển bền vững
Phát triển bền vững trở thành một nguyên tắc của Luật môi trường quốc tế và được qui định trong Tuyên bố Rio
1 992, Tuyên bố Rio+20, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu
Trên cơ sở lấy con người làm trung tâm, các văn bản pháp luật quốc tế về môi trường đều khiđiều chỉnh các vấn đề
môi trường quốc tế đều gắn với việc bảo vệ quyền con người. Hiến pháp và luật của nhiều quốc gia đều qui định
con người có quyền sống trong môi trườngtrong lành và mọi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đảm bảo quyền này
Nguyên tắc phát triển bền vững đòi hỏi môi trường phải được coi như một phần của mọi chính sách hoặc hoạt
động, kể cả các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội: “Phát triển bền vững là sự phát triển có thể
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại màkhông làm phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”
Nguyên tắc 8 của Tuyên bố Rio 1992 nhấn mạnh: Để đạt được sự phát triển bền vững và chất lượng cuộc sống cao
hơn cho tất cả mọi người, các quốc gia cần giảm thiểu và tiến xóa bỏ các phương thức sản xuất và tiêu dùng
không bền vững và thúc đẩy sự chính sách dân cư phù hợp
m) Nguyên tắc công bằng giữa các thê hệ/ đánh giá tác động môi trường
T uyên bố Rio 1992 theo đó đánh giá tác động môi trường, với tư cách là công cụ quốc gia se được thực hiện đối
với các hoạt động có khả năng hiện hữu tác động xấu đến môi trường và phảiđược cơ quan có thẩm quyền của
quốc gia quyết định. Mục đích của nguyên tắc đánh giá tác động môi trường là giảm thiểu tối đa các dự án, chương
trình phát triển có ảnh hưởng xấu đến môi trường trong mỗi quốc giá. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng giá trị của
đánh giá tác động môi trường phụ thuộc rất nhiều vào tính minh bạch của quátrình đánh giá tác động, sự giám sát của người dân
n) Nguyên tắc quyền phát triển?
Quyền phát triển được Liên Hợp Quốc chính thức công nhận tại Tuyên bố về Quyền phát triển. Theo đó, tại Điều 1
Tuyên bố về quyền phát triển 1986 (Được Đại Hội đông Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết 41/128) quy định:
1 . Quyền phát triển là một quyền con người không thể chia cắt, xuất phát từ ý nghĩa của quyền đó, mọi người và
mọi dân tộc đều có quyền được tham gia vào, đóng góp cho và hưởng thụ thành quả từ sự phát triển về kinh tế, xã lOMoARcPSD|610 649 76
hội, văn hóa và chính trị, trong đó mọi quyền con người và các tự do cơ bản cần phải được thực hiện một cách đầy đủ.
2 . Quyền con người được phát triển cũng nhắc tới việc thực hiện một cách đầy đủ quyền tự quyết của các dân tộc,
theo các điều khoản có liên quan của cả hai Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người bao gồm việc thực hiện
chủ quyền đầy đủ và không thể chia cắt của họ đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình.
Tiếp đó, tại Hội nghị Trái đất Rio de Janeiro năm 1992, Nguyên tắc 3 của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát
triển một lần nữa khẳng định: “Quá trình phát triển và môi trường phải song hành, bảo vệ môi trường là thành tố
không thể tách rời trong việc thực hiện quyền được phát triển.”
Nguyên tắc “quyền được phát triển” (right to development) trong luật môi trường quốc tế nhấn mạnh rằng mọi dân
tộc và quốc gia đều có quyền thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mình, đồng thời phải bảo đảm việc
bảo vệ môi trường tự nhiên không bị xâm hại quá mức. Về nội dung, nguyên tắc này đòi hỏi hai khía cạnh chính:
thứ nhất, phát triển phải toàn diện – bao gồm cả kinh tế, xã hội và môi trường; thứ hai, quá trình phát triển phải
công bằng giữa các quốc gia và giữa các thế hệ, tức là phải đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn
hại khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai. Từ góc độ pháp lý, việc thực thi quyền phát triển gắn liền
với nghĩa vụ chung nhưng khác nhau của các quốc gia: các nước phát triển hỗ trợ chuyển giao công nghệ, tài chính
cho các nước đang phát triển, đồng thời các nước đang phát triển có nghĩa vụ xây dựng chính sách phát triển bền
vững, đưa yếu tố môi trường vào mọi quyết sách kinh tế – xã hội.
Nguyên tắc quyền được phát triển đóng vai trò cầu nối giữa mục tiêu bảo vệ môi trường và nhu cầu nâng cao đời
sống con người. Nó thúc đẩy sự hợp tác quốc tế thông qua chuyển giao công nghệ sạch, tài chính xanh, và trao đổi
kinh nghiệm quản lý môi trường. Đồng thời, nguyên tắc này đặt ra yêu cầu về công bằng toàn cầu: các quốc gia
giàu có và phát triển đạt mức sống cao hơn cần chia sẻ trách nhiệm giảm thiểu phát thải, hỗ trợ các nước đang phát
triển cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Điều đó không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác
song phương, đa phương mà còn là kim chỉ nam cho các chính sách phát triển bền vững trên bình diện khu vực và toàn cầu.
3 . Quy định của PLQT và PLVN về lĩnh vực và đưa ra giải pháp để khắc phục, hướng tới phát triển bền vững a) ÔNMT nước * Quy định - PLQT ĐƯQT toàn cầu:
Công ước Liên hợp quốc về Luật Sử dụng các Nguồn nước Quốc tế vào Mục đích phi giao thông (công ước UNWC 1997)
Hiệp định và cơ chế hợp tác cấp khu vực:
Hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công 1995
Công ước về Bảo vệ và sử dụng các nguồn nước xuyên biên giới và các hồ quốc tế (Công ước Helsinki 1 992)
Chỉ thị Khung về Nước của EU 2000/60/EC Án lệ: lOMoARcPSD|610 649 76
Tranh tụng Hồ Lanoux (Pháp v. TBN, 1957)
Vụ án Gabčíkovo–Nagymaros (Hungary v. Slovakia, ICJ 1997) - PLVN Luật bảo vệ MT 2020
Luật Tài nguyên nước 2023
Nghị định số 43/2015/NĐ-CP Quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước;
Nghị định số 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch;
Thông tư số 41/2018/TT-BYT về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng
nước sạch dùng cho mục đích sinh hoạt.
Nghị định 45/2022/NĐ-CP QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Câu 22. Tội phạm môi trường? đặc điểm, phân loại. * Khái niệm
TP MT có nhiều cách tiếp cận khác nhau về định nghĩa vì mỗi QG phụ thuộc vào phong tục tập quán, trình độ hiểu
biết, văn hóa nên có tiếp cận khác nhau. Hiện nay không có định nghĩa pháp lý thống nhất về tội phạm môi trường
bởi vì các hành vi có hại đối với môi trường không được nhìn nhận với cùng một ác cảm về mặt đạo đức như các
hành vi phạm tội nhằm vào con người hoặc tài sản.
- BLHS (Điều 8, Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi 2017): Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự
- Tội phạm môi trường là "một hành động bất hợp pháp hoặc sự bỏ qua mà vi phạm pháp luật và do đó có thế bị
truy cứu trách nhiệm hình sự và xử phạt hình sự. Hành vi vi phạm này gây tổn hại hoặc gây nguy hiểm đến an toàn
thể chất hoặc sức khỏe của con người cũng như chính môi trường. Hành vi này phục vụ lợi ích của các tổ chức -
thường là các công ty -hoặc các cá nhân". (Situ và Emmons, 2000).
- Chương trình MT LHQ (UNEP) và INTERPOL đã công nhận TP MT là “một thuật ngữ chung để mô tả các hoạt
động bất hợp pháp gây hại cho MT và nhằm mục đích hưởng lợi cho các cá nhân hoặc nhóm hoặc công ty từ việc
khai thác, phá hoại, buôn bán hoặc trộm cắp tài nguyên thiên nhiên, bao gôm nhưng không giới hạn ở các tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia". Các hoạt động bất hợp pháp này chủ yếu bao gồm các
tội phạm về động vật hoang dã, tội phạm ô nhiễm, buôn bán hóa chất bị cấm, đánh bắt cá bất hợp pháp, khai thác
gỗ bất hợp pháp và khai thác mỏ bất hợp pháp. (trộm cắp Tài nguyên TN, v.v.)
* Đặc điểm
- Thứ nhất, tội phạm môi trường có tính chất xuyên biên giới là hành vi bất hợp pháp xâm hại đến các nhóm đối
tượng đặc thù gôm có yếu tố môi trường tự nhiên và nhân tạo, xâm hại đến an ninh sinh thái và môi trường sống
cũng như sức khỏe tính mạng của con người. lOMoARcPSD|610 649 76
Tội phạm môi trường (TPMT) bao gồm những hành vi vi phạm luật pháp làm tổn hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến
các yếu tố của hệ sinh thái—cả yếu tố tự nhiên (khí hậu, đất đai, nguồn nước, đa dạng sinh học) và yếu tố nhân tạo
(hạ tầng đô thị, hệ thống xử lý chất thải).
Tội phạm về môi trường có thể tác động tới không chỉ ở khu vực nhất định mà còn có thể trải rộng trên nhiều vùng
lãnh thổ, quốc gia có tính chất liên vùng, liên quốc gia và tác động đến một nhưng cũng có thể là rat nhiều người
hay một khu vực dân cư. Như vật, TPMT có ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội, đó có thể là hậu quả bất lợi cho kinh
tế và an ninh quốc gia, đối với xã hội, đó là sức khỏe cộng đồng, sinh kế và suy giảm giá trị tài sản. Từ đó, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự sống hiện tại của con người, tự nhiên và thế hệ tương lai.
Quyền con người được sống trong moi truờng trong lanh la nguyen tắc tru cot, la quyền tự nhiên của con người,
được cộng đông quốc tế ghi nhận, liên quan trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. Tuyên bố Stockholm 1972, nêu rõ:
"Con người có quyền cơ bản được sống trong môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi
mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau". Tương tự, trong tuyên
bố Rio de janeiro 1992 cũng khẳng định: “Con người là trung tâm của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài.
Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên".
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nhiều nội dung mới về vấn đề bảo vệ môi trường cho thấy có sự chuyển đổi và
quan tâm mạnh mẽ đến môi trường khi có đen 10 lần đề cập về môi trường. Chính vì lẽ đó, để cụ thể hóa bảo vệ
quyền con người được sống trong môi trường trong lành bằng việc ghi nhận các chế tài bảo vệ môi trường trong
pháp luật hình sự thông qua các lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự là cần thiết. Ngoài ra, trước yêu cầu đổi mới về
nhận thức liên quan đến quyền con người được sống trong moi trường an toan va lanh mạnh, việc xay dựng cac
quy định của luat hình sự điều chỉnh tội phạm môi trường chính là đảm bảo quyền cơ bản này của conngười.
- Thứ hai, TPMT là một trong năm ngành kinh doanh bất hợp pháp có lợi nhuận cao nhất trên thế giới
Theo các báo cáo của Liên hiệp quốc và các tổ chức chống tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán động thực vật
hoang dã, khai thác gỗ trái phep, vận chuyển chất thải độc hại… đều sinh lợi nhuận khổng lồ, chỉ đứng sau ma túy,
vũ khí, buôn người và tội phạm công nghệ cao. Lợi nhuận cao xuất phát từ tiềm năng khai thác tài nguyên dồi dào,
nhu cầu thị trường lớn và giá trị “ngầm” của các mặt hàng môi trường, trong khi chi phí đầu tư ban đầu và rủi ro
pháp lý lại tương đối thấp do khó phát hiện.
- Thứ ba, hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội phạm MT rất đa dạng, khó xác định
Tính nguy hiểm cho XH của các TPMT không chỉ thể hiện ở mức độ quan trọng của khách thể bị xâm phạm, mà
còn thể hiện ở chính xác dạng hành vi mà các chủ thể đã thực hiện nhưng khó xác định trong thực tế bởi tính đa
dạng của hành vi và hầu hết buộc phải có sự tác động bởi KH, KT để chứng minh
- Thứ tư, thiệt hại của TPMT khó định lượng, khó xác định và có ảnh hưởng tiêu cực trong thời gian dài
Những thiệt hại về MT là không thể đảo ngược, tức là sự suy thoai của môi trường do những hành vi hủy hoại môi
trường gây ra là vô cùng lớn. Dù có khắc phục thiệt hại như thế nào, thì tự nhiên cũng không thể hoàn toàn quay
trở về tình trạng ban đầu. Nếu tự nhiên bị hủy diệt, thì nó không thể tự chữa lành và cuối cùng cuộc sống của con
người cũng như các thực vật động vật khác có thể bị ảnh hưởng vĩnh viễn.
Những tác động xấu của TPMT không biểu hiện ngay sau khi chúng được thực hiện. Việc khó định lượng thiệt hại
cũng như khó xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại do hành vi gây ra được quyết định bởi đặc
trưng về thười gian biểu hiện (thường là rất chậm) của những tác động xấu của TPMT.
- Thứ năm, chủ thể của TPMT có thể là pháp nhân hoặc thể nhân
Theo quan điểm luật hình sự truyền thống, chủ thể chịu trách nhiệm hình sự chỉ là thể nhân – con người tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tiễn các QG đang bắt đầu nhìn nhận lại và xây dựng quy định về trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân và các QG cũng xác định pháp nhân là tội phạm chỉ trong một số lĩnh vực nhất định trong đó có tội lOMoARcPSD|610 649 76
phạm MT bởi các pháp nhân thường bị hấp dẫn bởi các khoản lợi nhuận do đó có thể phạm tội để đạt được lợi nhuân.
- Thứ sáu, TPMT thường là tội phạm có cấu thành hình thức
Đa số các TPMT có cấu thành hình thức. Điều đó có nghĩa là hành vi cấu thành TPMT (cụ thể) và hoàn thành ngay
khi chủ thể thực hiện no, không cần tính đến dấu hiệu hậu quả nguy hiểm mà hành vi đó gây ra cho xã hội. Bởi đa
số các tội phạm môi trường có tính ẩn và biểu hiện lâu dài, nên nếu lấy hậu quả nguy hiểm cho xã hội để đo lường
hành vi phạm tội thì lúc đó, hậu quả đã rất khó khắc phục và không phân định được trách nhiệm cụ thể. * Phân loại
TP MT có tổ chức xuyên biên QG liên quan chủ yếu đến 5 lĩnh vực chính
[ 1].Khai thác gỗ và phá rừng bất hợp pháp
[ 2].Đánh bắt cá bất hợp pháp
[ 3].Khai thác và buôn bán khoáng sản bất hợp pháp gồm cả kim cương xung đột
[ 4].Đổ rác bất hợp pháp và buôn bán chất thải nguy hại và độc hại (bao gồm cả tích trữ - lốp xe ô tô)
[ 5].Buôn bán và săn động vật hoang dã và thực vật bất hợp pháp
Trung Quốc: Các TPMT trong BLHS TQ được phân loại thành nhiều nhóm như:
Nhóm 1: TPMT có cấu thành hình thức
Nhóm 2: TPMT cần chứng minh được hậu quả thiệt hại mới cấu thành TP
Nhóm 3: TPMT được quy định là TP rất nghiêm trọng
Việt Nam: Có thể chia các nhóm tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
Nhóm 1: Các hành vi gây ô nhiễm môi trường (các Điều 235, 236, 237 và 239 BLHS)
Nhóm 2: Các hành vi làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người và động vật (Điều 240 và Điều 241);
Nhóm 3: Các hành vi hủy hoại tài nguyên môi trường (Điều 242 và Điều 243);
Nhóm 4: Các hành vi xâm phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối tượng môi trường (Điều 238, Điều 244, Điều 245 và Điều 246).
Câu 23. Quy định về IUU (Illegal, Unreported and Unregulated fishing)
IUU là viết tắt của Illegal, Unrepoted and Unregulated Fishing, có nghĩa là khai thác hải sản bất hợp pháp, không
khai báo và không theo quy định. Đây là hoạt động đánh bắt cá trái với các biện pháp bảo tồn và quản lí ở khắp nơi
trên thế giới. Quy định IUU là Quy định nhằm phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không tuân thủ quy định.
Thuật ngữ IUU được sử dụng tại Điều 7(6) của Luật thủy sản năm 2017 quy định về hoạt động thuỷ sản bị cấm là
“khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (sau đây gọi là khai thác thủy sản bất hợp pháp)”.
Theo Hội đồng Liên minh CÂ (EC), hoạt động đánh bắt cá IUU là mối đe dọa lớn nhất đến việc duy trì, bảo tồn
các nguồn lợi thuỷ sản và đa dạng sinh thái biển, gây ra những tác động nghiêm trọng về môi trường cũng như kinh
tế - xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Ước tính hoạt động đánh bắt cá IUU chiếm tới 19% tổng sản lượng cá đánh
bắt trên thế giới hàng năm. lOMoARcPSD|610 649 76
Đây là quy định được triển khai từ năm 2007 khi Ủy ban Châu Âu (EC) bắt đầu thực hiện quá trình tham vấn về
Quy định chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định. Văn bản đề xuất đầu tiên
của quy định này được thông qua vào tháng 10/2007. Ngày 24/6/2008, văn bản đã đạt được sự đồng thuận trong
Liên minh Châu Âu (EU), sau đó được EC chính thức thông qua bằng Quyết định số 1005/2008, ngày 29/9/2008.
Quy định có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, qua đó chính thức thiết lập một hệ thống trên toàn EU nhằm ngăn chặn và
loại bỏ việc nhập khẩu các sản phẩm hải sản bị khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định vào
thị trường Châu Âu, đồng thời thể hiện trách nhiệm của EC đối với cộng đồng quốc tế trong ngăn chặn hoạt động khai thác IUU.
Các hành vi khai thác vi phạm quy định IUU của Ủy ban Châu âu gồm:
1 ) Đánh bắt mà không có giấy phep hợp lệ, không được quốc gia tàu treo cờ hay quốc gia ven biển có liên quan cấp phep hay cho phep.
(2) Không hoàn thành nghĩa vụ lưu và báo cáo dữ liệu liên quan, bao gồm dữ liệu được truyền bởi hệ thống
giám sát tàu qua vệ tinh, hoặc thông báo trước theo quy định.
(3) Đánh bắt trong khu vực khep kín, vào thời điểm mùa vụ đã kết thúc, không được cấp hoặc sau thời hạn
được cấp hạn ngạch, đánh bắt quá độ sâu cho phep.
(4) Đánh bắt loài được tạm dừng đánh bắt hoặc loài cấm đánh bắt.
(5) Sử dụng công cụ đánh bắt bị cấm hoặc không đúng quy định.
(6) Làm giả hay che dấu dấu vết, danh tính hay đăng kiểm.
(7) Che dấu, giả mạo hay hủy chứng cứ liên quan đến một công tác điều tra.
(8) Cản trở công việc của lực lượng chức năng thực hiện nhiệm vụ giám sát, kiểm tra sự tuân thủ đối với các
biện pháp bảo tồn và quản lý hay cản trở công việc của quan sát viên thực hiện nhiệm vụ theo quy định.
(9) Đưa lên khoang, vận chuyển cá nhỏ quá cỡ, trái với điều luật hiện đang có hiệu lực.
(10) Vận chuyển hoặc cùng tham gia hoạt động đánh bắt, hỗ trợ hay tiếp ứng cho các tàu đánh bắt đã được xác
định có thực hiện hành vi khai thác IUU, đặc biệt là các tàu đã bị đưa vào danh sách tàu đánh bắt bất hợp pháp,
không báo cáo và không theo quy định của EU hoặc của một tổ chức quản lý nghề cá khu vực.
(11) Thực hiện hoạt động đánh bắt trong khu vực quản lý của một tổ chức quản lý nghề cá khu vực theo cách
thức không phù hợp hoặc trái với các biện pháp bảo tồn và quản lý của tổ chức; treo cờ của quốc gia không
phải là thành viên của tổ chức; không hợp tác với tổ chức theo đúng quy định.
(12) Tàu không mang quốc tịch và do vậy là tàu không có quốc gia chủ quyền theo Luật Quốc tế.
Trên cơ sở các quy định của EC, IUU đề cập đến các hoạt động khai thác không tuân thủ các biện pháp bảo tồn
hoặc quản lý thủy sản của khu vực, quốc gia hay quốc tế. Cụ thể như sau:
Khai thác bất hợp pháp
là các hành vi đánh bắt không được cấp phep, cũng như các hành vi đánh bắt đi ngược lại các điều kiện được cho
phep, xảy ra ở trong vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia và vùng biển cả. Đó là sự vi phạm luật pháp quốc gia
và quốc tế và hành vi đó thường xuyên không được ngăn chặn do thiếu ý chí hoặc thiếu khả năng của các quốc gia
trong việc thực thi luật pháp hiện hành. Đánh cá Bất hợp pháp se khiến cho quy mô các đàn cá giảm mạnh, làm suy
giảm lợi ích kinh tế của các cư dân và các quốc gia bị chịu tác động của việc đánh cá bất hợp pháp.
Do công dân hay tàu thuyền nước ngoài thực hiện trong vùng biển thuộc quyền tài phán của một quốc gia
mà không có giấy phép của quốc gia đó, hoặc trái với các quy định và pháp luật của quốc gia đó; lOMoARcPSD|610 649 76
Do tàu thuyền mang cờ của các quốc gia là thành viên của một tổ chức quản lý nghề cá khu vực (regional
fisheries management organization – RFMO) nhưng hoạt động trái với các biện pháp quản lý và bảo tôn
của tổ chức đó và các biện pháp mà quốc gia mà tàu mang cờ có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc trái với các
quy định có liên quan của luật quốc tế; hoặc
Vi phạm pháp luật quốc gia hay các nghĩa vụ quốc tế, bao gôm các nghĩa vụ mà các quốc gia liên quan cam kết với RFMO.
Có thể thấy tính chất bất hợp pháp của hoạt động đánh bắt cá là do vi phạm quy định pháp lý của: (1) pháp luật
quốc gia, hoặc/và (2) luật quốc tế nói chung hay của RFMO mà quốc gia mà tàu mang cờ là thành viên.
Khai thác không theo quy định
là hoạt động đánh bắt cá trong các vùng không có cơ chế quản lý hoặc đánh bắt không tuân thủ theo các công cụ
pháp lý về quản lý nghề cá quốc tế. Đánh bắt không theo quy định keo theo hậu quả là sự cạn kiệt các đàn cá.
Trong khu vực thuộc phạm vi của RFMO, do một tàu không quốc tịch, hoặc tàu mang cờ của một quốc gia
không là thành viên của tổ chức đó, hoặc do một tổ chức đánh bắt cá theo cách thức trái với biện pháp bảo
tôn và quản lý của RFMO đó; hoặc
Trong khu vực hoặc đối với nguôn cá không được điều chỉnh bởi bất kỳ biện pháp bảo tôn hay quản lý nào
và trong khu vực mà hoạt động khai thác được tiến hành theo cách thức trái với trách nhiệm của một quốc
gia trong việc bảo tôn tài nguyên sinh vật theo luật quốc tế.
FAO lưu ý rằng một số các hoạt động unregulated fishing không vi phạm pháp luật quốc tế và cũng không cần
thiết áp dụng các biện pháp theo khuyến nghị trong văn kiện này
Khai thác không báo cáo
là hoạt động đánh bắt cá mà không thực hiện việc báo cáo hoặc báo cáo sai về hoạt động đánh cá khiến cho việc
đánh giá sản lượng đàn cá không chính xác, từ đó, các quốc gia ấn định TAC không hợp lý. Khai thác không báo
cáo thường liên quan đến việc thu thập, cung cấp dữ liệu kem hoặc quản lý nghề cá yếu. Thiếu sót trong báo cáo
cũng có thể là sự che giấu hoạt động bất hợp pháp.
Mà các cơ quan có thẩm quyền không được báo cáo hoặc được báo cáo không chính xác trái với quy định
của pháp luật quốc gia liên quan; hoặc
Được tiến hành trong khu vực thuộc phạm vi quản lý của RFMO mà tổ chức này không được báo cáo hay
bị báo cáo sai trái với quy định về báo cáo của tổ chức đó.
Nguyên nhân dẫn tới việc EC rút thẻ vàng IUU đối với ngành Hải sản Việt Nam, đó là:
Việt Nam còn thiếu một hệ thống các thể chế, quy định đầy đủ, hoàn thiện và thống nhất để quản lý hoạt
động khai thác, đánh bắt hải sản trên biển hiện nay.
Đội tàu khai thác trên biển của Việt Nam chưa phù hợp với các tiêu chuẩn, đảm bảo điều kiện tham gia khai
thác trên biển như sự không phù hợp giữa kích cỡ tàu với nguồn lợi thực tế trên biển khai thác.
Hệ thống kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác trên biển đối với các tàu cá còn thiếu quá nhiều và hoạt động chưa hiệu quả.
Thiếu hệ thống xác nhận nguồn gốc thủy hải sản khai thác trên biển, dẫn tới đa số hải sản do ngư dân khai
thác được là không rõ nguồn gốc. lOMoARcPSD|610 649 76
Còn xảy ra tình trạng ngư dân Việt Nam khai thác và đánh bắt trộm hải sản trên các vùng biển của quốc gia khác..
Những tác động của thẻ vàng IUU đối với ngành Thủy sản Việt Nam
Việc EC rút thẻ vàng vì các hoạt động vi phạm IUU đã gây ra nhiều tổn thất và hệ lụy cho không chỉ đối với ngành
Hải sản Việt Nam, mà còn gây ra những thiệt hại và tổn thất khác khó đo đếm bằng giá trị vật chất.
Thứ nhất, thiệt hại về xuất khẩu và tài chính.
Hoạt động xuất khẩu hải sản là lĩnh vực bị tác động trực tiếp và gần như lập tức từ thẻ vàng của IUU. Cho dù đến
thời điểm này, hoạt động xuất hải sản của Việt Nam vào EU chưa bị dừng hẳn, nhưng đang có dấu hiệu giảm khá
rõ. Trước khi thẻ vàng IUU được áp dụng, EU là thị trường xuất khẩu hải sản lớn thứ hai của Việt Nam với giá trị
nhập khẩu khoảng 450 triệu USD. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm EC áp dụng thẻ vàng, kim ngạch xuất khẩu cũng liên
tiếp giảm theo. Hiện nay, mỗi năm, chúng ta chỉ xuất được khoảng 300 đến 350 triệu USD hải sản vào EU, và EU
chỉ còn là thị trường đứng thứ 5 trong các thị trường xuất khẩu hải sản của Việt Nam[2]. Và nếu thẻ vàng không
được gỡ, giá trị xuất khẩu có nguy cơ còn giảm tiếp, do các biện pháp kiểm tra ngày càng nghiêm ngặt hơn. Cùng
với đó là việc các nhà nhập khẩu EU cũng không muốn tiếp tục nhập khẩu hàng từ Việt Nam do lo ngại về uy tín,
cũng như các rắc rối pháp lý có thể vướng phải từ hàng nhập khẩu có nguồn gốc ở Việt Nam. Còn nếu trong tình
huống xấu nhất vào tháng 6/2020 mà EC áp dụng thẻ đỏ, mọi hoạt động xuất khẩu hải sản của Việt Nam vào EU se
bị cấm và thị trường EU se đóng cửa với hàng hải sản Việt Nam.
Thứ hai, ảnh hưởng tới hoạt động khai thác của ngư dân.
Hoạt động xuất khẩu hải sản giảm đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động khai thác và đánh bắt của các đội tàu,
nhất là các đội tàu đánh bắt xa bờ, vì sản phẩm từ hoạt động này chủ yếu là xuất khẩu, trong đó có thị trường EU.
Tính đến năm 2017, tổng số tàu cá trên toàn quốc là 110.950 tàu; trong đó tàu khai thác có 108.619 chiếc (chiếm
9 7,89%), tàu dịch vụ hậu cần 2.331 (chiếm 2,11%); có 30.500 tàu đánh bắt xa bờ (trong tổng số 96.600 tàu đánh
bắt), đạt sản lượng 3,6 triệu tấn, mang lại giá trị xuất khẩu 2,5 tỷ USD[3]. Cùng với đó là hàng trăm nghàn lao
động chính thức và phi chính thức tham gia các hoạt động khai thác, chế biến hải sản. Do hoạt động xuất khẩu gặp
khó khăn, nên đời sống kinh tế của ngư dân và các lao động phụ thuộc cũng gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược đảm bảo và thực thi chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang có những mâu thuẫn tranh chấp chủ quyền trên biển với các quốc gia khác. Để
thực thi yêu sách và cụ thể hóa tuyên bố về chủ quyền của quốc gia đối với các vùng biển, nhất là các vùng biển xa
bờ, vai trò của ngư dân là vô cùng quan trọng. Các hoạt động khai thác đánh bắt của ngư dân Việt Nam trên các
vùng biển chính là minh chứng cho hoạt động thực thi yêu sách và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương.
Nếu vì hải sản xuất khẩu không được, ngư dân se không vươn khơi đánh bắt nữa, se tác động không tốt tới chiến
lược của quốc gia trong vấn đề thực thi chính sách về biển.
Tích cực thực hiện các biện pháp về khai thác trên biển để EC gỡ thẻ vàng đối với Việt Nam lOMoARcPSD|610 649 76
Sau hơn 2 năm bị áp dụng thẻ vàng, chính phủ Việt Nam và các địa phương đã và đang tích cực hành động một
cách quyết liệt về khai thác thủy sản trên cơ sở các khuyến cáo của EC, nhằm đạt yêu cầu của EC, qua đó mong
muốn EC gỡ thẻ vàng với Việt Nam.
Về mặt pháp lý, Việt Nam đã ban hành Luật Thủy sản năm 2017 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành, trong
đó chú trọng đến các quy định về hoạt động khai thác trên biển của ngư dân.
Về lắp đặt các thiết bị giám sát tàu cá (MCS), tất cả các địa phương (28 tỉnh và thành phố) đã tiến hành rà
soát và lắp đặt các thiết bị giám sát tàu cá. Tuy nhiên, theo báo cáo và thực tế kiểm tra thì tốc độ lắp đặt ở các địa
phương là không đồng đều, có nhiều địa phương chưa hoàn thành theo quy định.
Về hoạt động đánh bắt trái phep (đánh bắt trộm) trên vùng biển của quốc gia khác đã giảm một cách đáng kể
theo thống kê, tuy nhiên vẫn còn. Cụ thể năm 2019, số lượng tàu của Việt Nam bị bắt giữ hoặc ghi nhận đánh bắt
trái phep ở vùng biển nước ngoài là 200 tàu.
Về hoạt động kê khai xác định nguồn gốc hải sản đánh bắt, Việt Nam đã triển khai ở tất cả các địa phương
để tiến hành hoạt động kê khai và truy xuất nguồn gốc hải sản đánh bắt. Tuy nhiên vẫn còn vướng mắc trọng hoạt
động này, như: các mẫu kê khai chưa phù hợp với quy định của EU, thực tế giám sát và kê khai có những nơi còn làm hình thức,…
Sau lần kiểm tra năm 2018 và lần kiểm tra từ ngày 5 đến 14/11/2019, Đoàn thanh tra của EC tại Việt Nam
kết luận rằng, Việt Nam đã có thiện chí và thực hiện nghiêm túc nhiều giải pháp nhằm chống lại các hành vi IUU.
Thẻ vàng se được EU gia hạn thêm và đoàn se quay lại kiểm tra vào tháng 5 hoặc tháng 6 năm 2020.
Một số kiến nghị, đề xuất
Sau 2 lần kiểm tra không đạt, đợt kiểm tra tiếp theo EC se thực hiện tới đây là cơ hội cuối cùng để Việt Nam
có thể chứng minh cho EC thấy thiện chí của mình.
Thứ nhất, đối với các giải pháp pháp lý, mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật Thủy sản 2017 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, trong đó có Nghị định số 42/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thủy sản, theo đánh giá của tác giả thì mức xử phạt hành chính với các hành vi vi phạm trong Nghị định vẫn
còn nhẹ so với các nước trong khu vực cũng như so với hướng dẫn của EC về các biện pháp chống IUU. Do vậy,
chúng ta cần phải nâng mức xử phạt lên cho phù hợp với quy định của EC.
Thứ hai, đối với họat động lắp đặt thiết bị giám sát (MCS), thiết bị này có giá thành tương đối cao (khoảng
hơn 1000 USD một bộ). Đây là khoản đầu tư lớn đối với nhiều ngư dân. Vì vậy, Chính phủ có thể tạm ứng chi phí
cho ngư dân để lắp đặt cho các tàu đánh bắt trên biển, rồi sau đó ngư dân có thể hoàn trả sau. Cùng với lắp đặt thiết
bị giám sát, chúng ta cần thành lập trung tâm giám sát các hoạt động của tàu cá chung trên biển. Tất cả tàu cá ra
khơi đánh bắt ở đâu trung tâm này đều nắm bắt và giám sát được. Nếu như các các tàu cá nào có biểu hiện đi ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam, thông qua thiết bị liên lạc hoặc điện thoại thông minh để đưa ra cảnh báo và nhắc nhở tàu
cá. Việc quản lý tàu cá không giao cho các địa phương như hiện nay nữa vì hiệu quả chưa cao.
Thứ ba, đối với hoạt động chống đánh bắt trái phep, đây là vi phạm chính trong các vi phạm IUU và là lý do
cơ bản để EC gỡ hay không gỡ thẻ vàng với. Do vậy, một mặt Việt Nam cần phải tăng cường tuyên truyền và phổ
biến cho ngư dân biết về hậu quả của hành vi đánh bắt thủy sản trái phep để ngư dân không vi phạm. Bên cạnh đó,
chúng ta phải có chế tài mạnh hơn đối với các hoạt động này, thậm chí là áp dụng các biện pháp hình sự đối với
những người vi phạm để đảm bảo không còn hoạt động đánh bắt trái phep nữa. lOMoARcPSD|610 649 76
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tham vấn, đối thoại với các phái đoàn kiểm tra, giám sát,… của EC, qua
đó tiếp nhận lời khuyên, đóng góp ý kiến từ phía họ để Việt Nam có giải pháp kịp thời và phù hợp.
Thứ năm, Việt Nam có 28 tỉnh và thành phố giáp biển và có hoạt động khai thác trên biển hiện nay. Mặc dù
mỗi lần kiểm tra, phái đoàn của EC chỉ kiểm tra 1 vài địa phương nhất định chứ không thể kiểm tra hết được hoạt
động tại 28 địa phương nhưng tất cả các địa phương đều phải nghiêm túc thực hiện tránh tình trạng chủ quan.