



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
MÔN: LUẬT MÔI TRƯỜNG
PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ MÔI TRƯỜNG 1 lOMoARcPSD|610 649 76 MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................................3
1 . NHẬN DIỆN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐƯỢC ĐẶT RA TRONG CÁC BÀI
BÁO KHOA HỌC ........................................................................................................4
1 .1. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường ..........................................4
1 .2. Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố nước ngoài tại
tòa án theo pháp luật Việt Nam và các nước ..................................................................6
1 .3. Bồi thường thiệt hại về môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.........8
2 . PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ PHÁP
LÝ ĐẶT RA TRONG CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC TRÊN CƠ SỞ PHÁP LUẬT
MÔI TRƯỜNG HIỆN HÀNH...................................................................................10
2 .1. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường ........................................10
2 .2. Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố nước ngoài tại
tòa án theo pháp luật Việt Nam và các nước ................................................................13
2 .3. Bồi thường thiệt hại về môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.......17
3 . CÁC PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ KHÁC; CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ LIÊN
QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (NẾU CÓ). .................................................18
4 . KẾT LUẬN..............................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................26 2 lOMoARcPSD|610 649 76
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự BTTH Bồi thường thiệt hại CQNN Cơ quan nhà nước GQTC Giải quyết tranh chấp Luật BVMT
Luật Bảo vệ môi trường Luật TTTM
Luật Trọng tài thương mại ÔNMT Ô nhiễm môi trường STMT Suy thoái môi trường UBND Ủy ban nhân dân YTNN Yếu tố nước ngoài 3 lOMoARcPSD|610 649 76
PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ MÔI TRƯỜNG Tóm tắt
Tại Việt Nam, pháp luật về bồi thường thiệt hại môi trường đóng vai trò quan
trọng trong việc khôi phục chức năng môi trường và bảo vệ quyền lợi của các cá
nhân, tổ chức bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập và nhiều vấn đề pháp lý cần được giải quyết. Bài viết này tập trung
phân tích các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại về môi trường
thông qua 03 bài báo khoa học, qua đó làm rõ những vấn đề pháp lý phát sinh trong
quá trình thực hiện và xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể có liên quan.
Đồng thời, bài viết đánh giá tính khả thi của các quy định pháp luật hiện hành và đề
xuất giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
Từ khóa: Tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường, Luật Bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường.
1 . NHẬN DIỆN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐƯỢC ĐẶT RA TRONG CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC
1 .1. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường1
Vấn đề pháp lý chung được bài viết đề cập chính là xác định trách nhiệm và bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tuy nhiên, để có thể xác định được
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai (thông qua nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải trả tiền) một cách đầy đủ trên thực tế thì tác giả đã đưa ra các vấn đề cần pháp
luật môi trường quy định rõ hơn, cụ thể như sau:
Xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên. Theo đó, mặc dù
quan điểm của các nước về thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường là khác nhau
nhưng có thể phân chia thành 2 nhóm chính. Quan điểm thứ nhất là thiệt hại chỉ gồm
1 Vũ Thu Hạnh (2007), “Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 3 (40), tr. 30 – 38. 4 lOMoARcPSD|610 649 76
thiệt hại đối với các yếu tố môi trường tự nhiên, quan điểm thứ hai là thiệt hại không
chỉ bao gồm thiệt hại đối với chất lượng môi trường mà còn là thiệt hại về sức khỏe,
tài sản cá nhân do ô nhiễm môi trường gây nên. Tuy nhiên, dù quan điểm khác nhau
như thế nào thì cũng hướng tới mục tiêu là xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái
môi trường. Việc này không đơn giản nhưng là vấn đề cốt lõi là xác định để việc bồi
thường mang tính khả thi và nếu xác định không đúng thì chỉ làm gia tăng sự bất hợp
lý giữa lợi ích xã hội cần được bảo vệ với chi phí xã hội phải bỏ ra để bảo vệ lợi ích đó.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường: Đối với vấn đề này cũng phát
sinh thêm nhiều vấn đề pháp lý khác, cụ thể: đối với vấn đề về bồi thường sẽ luôn gắn
liền đến cách thức và phương thức bồi thường. Đối với các thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tỏ chức, cá nhân thì giữa bên gây
thiệt hại và bên bị thiệt hại có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức và phương
thức bồi thường. Tuy nhiên thiệt hại đối với môi trường tự nhiên thì người gây thiệt
hại chỉ được lựa chọn các mức, hình thức bồi thường và phương thước bồi thường
theo quy định của pháp luật. Hơn thế nữa, do quan hệ pháp luật trong lĩnh vực môi
trường có thể phát sinh giữa các chủ thể mà không cần cơ sở pháp lý để làm tiền đề,
nên bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Một số nội dung có liên quan đến quyền
và nghĩa vụ bảo vệ môi trường không làm ảnh hưởng đến căn cứ áp dụng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về môi trường theo luật định.
Ngoài ra, môi trường có thể bị xâm hại từ 2 nhóm nguyên nhân chính: nguyên
nhân khách quan tác động đến môi trường mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người như bão, lũ, động đất...Và loại thứ hai là từ các yếu tố chủ quan do hoạt
động của con người gây ra. Đối với trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về môi trường sẽ phát sinh khi có đủ các dấu hiệu cấu thành trách nhiệm pháp lý dân
sự, thậm chí phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi được quy định tại
Điều 602 BLDS 2015. Bên cạnh đó, trong trường hợp nhiều người cùng gây ô nhiễm
môi tường, bài viết cũng đã chỉ ra rằng vấn đề bồi thường trong trường hợp này để xác
định cho từng đối tượng là không đơn giản và vấn đề chứng minh sẽ thuộc về các đối 5 lOMoARcPSD|610 649 76
tượng gây thiệt hại để có thể đảm bảo sự công bằng. Tuy nhiên, trường hợp thiệt hại
môi trường là kết quả của hiện tượng tích tụ và cộng dồn các ảnh hưởng tới môi
trường, trong khi từng đối tượng lại tác động không quá mức giới hạn với môi trường
thì không áp dụng được trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các đối tượng.
Một vấn đề liên quan trực tiếp đến trách nhiệm BTTH về môi trường chính là
thời hạn áp dụng. Theo pháp luật về môi trường, thiệt hại phải được bồi thường toàn
bộ và kịp thời nhưng trong một số trường hợp thiệt hại về môi trường là rất lớn và khó
xác định vì vậy mà việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời
là điều khó có thể thực hiện được. Do vậy mà tác giả cũng cho rằng pháp luật cần có
các quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Bên cạnh với thời hạn, vấn
đề về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng cần cân nhắc, cụ thể theo
Bộ luật Dân sự thì thời hạn này là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm tuy nhiên trong lĩnh vực môi trường,
ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại không hoàn toàn trùng khít với ngày phát
sinh thiệt hại trên thực tế. Như vậy, tác giả cũng cho rằng thời hiệu khởi kiện nên gắn
với ngày mà thiệt hại thực tế xảy ra và cần có khoảng thời gian dài hơn hai năm.
1 .2. Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố nước
ngoài tại tòa án theo pháp luật Việt Nam và các nước2
Bài viết trên đã tiếp cận đến hai vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp bồi
thường thiệt hại là xác định thẩm quyền của tòa án và xác định luật áp dụng cho vấn đề trên.
Đối với vấn đề về xác định Tòa án có thẩm quyền, chúng tôi xác định được một
số vấn đề pháp lý như sau:
Khác với thiệt hại về dân sự, hình sự, thiệt hại về môi tường bao gồm hai loại:
thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường và thiệt hại về tình
mạng, sức khỏe, tài sản và lợi ích hợp pháp của con người người do môi trường gây
ra. Vì đặc điểm đặc biệt này nên chủ thể có quyền khởi kiện đòi BTTH cũng được
chia thành hai nhóm. Đối với tranh chấp liên quan đến việc suy giảm chức năng, tính
2 Phan Hoài Nam, Võ Trung Tín (2017), “Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố
nước ngoài tại tòa án theo pháp luật Việt Nam và các nước”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 09 (112), tr. 49 – 59. 6 lOMoARcPSD|610 649 76
hữu ích của môi trường, chủ thể có quyền khởi kiện là Nhà nước do các thành phần
chủ yếu của môi trường thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước là người đại diện chủ
sở hữu và chức năng. Tuy nhiên vẫn còn bất cập là pháp luật chưa xác định rõ trách
nhiệm cụ thể của cơ quan nào điều này làm cho quá trình giải quyết tranh chấp bồi
thường thiệt hại về môi trường có yếu tố Nhà nước tại Việt Nam khó khăn hơn. Đối
với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và lợi ích hợp pháp của con người
thì chủ thể có quyền khởi kiện là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Tuy nhiên, khác với các
loại tranh chấp dân sự, tranh chấp BTTH về môi trường có YTNN thường có quy mô
rộng và thiệt hại liên quan đến nhiều cá nhân vì vậy mà để việc giải quyết tranh chấp
trở nên dễ dàng hơn, bài viết cũng đã đề cập nên quy định vấn đề khởi kiện tập thể cho
loại tranh chấp có tính chất phức tạp này.
Đến với vấn đề xác định thẩm quyền: Pháp luật môi trường cũng căn cứ vào và
BLTTDS 2015 để xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong các tranh chấp
BTTH về môi trường tuy nhiên tại khoản 1 Điều 470 BLTTDS năm 2015 quy định về
thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam dựa trên sự thỏa thuận của các bên. Trong
trường hợp các bên lựa chọn Tòa án nước ngoài thì lúc này Tòa án Việt Nam không
có thẩm quyền. Với quy định về thẩm quyền riêng biệt nêu trên là chưa hợp lý do với
quy định này thì phán quyết của Tòa án nước ngoài sẽ không được công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam. Như vậy khi các bên lựa chọn Tòa án nước ngoài, điều này
cũng gây khó khăn vì sự kết nối giữa tranh chấp và các yếu tố lãnh thổ có thể không
có hoặc rất ít. Tác giả cũng đề cập nên ưu tiên hơn cho thẩm quyền của Tòa án Việt
Nam theo sự thỏa thuận lựa chọn tòa án hợp pháp của các bên trong tranh chấp hơn là
quy định để xác lập thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Việc sửa đổi quy
định như vậy sẽ phù hợp hơn với quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 là
“các tranh chấp môi trường trên lãnh thổ Việt Nam phải do Tòa án Việt Nam giải quyết”.
Vấn đề xác định luật áp dụng: tác giả đã xác định bất cập nổi cộm nhất là quy
định về mối quan hệ giữa luật chuyên ngành và luật chung, cụ thể trong trường hợp
này là vấn đề giải quyết thứ tự ưu tiên áp dụng các quy định có liên quan Luật BVMT
2 014, BLTTDS 2015 và BLDS 2015. Theo đó, nhóm tác giả cho rằng phạm vi điều 7 lOMoARcPSD|610 649 76
chỉnh của khoản 4 Điều 161 Luật BVMT 2014 chỉ liên quan đến vấn đề giải quyết
xung đột pháp luật mà không bao gồm xác định thẩm quyền (tức là luật áp dụng cho
việc giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố nước
ngoài). Ngoài ra, đối với việc xác định pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo các nguyên
tắc chung của Luật Bảo vệ môi trường và lợi ích của bên bị thiệt hại, nhóm tác giả
cũng cho rằng nên xác định luật áp dụng dựa vào: nơi phát sinh hậu quả gây thiệt hại,
nơi thực hiện hành vi gây thiệt hại.
1 .3. Bồi thường thiệt hại về môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường năm 20203
Bài viết đề cập đến Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều điểm mới tiến bộ
trong việc tiếp cận và giải quyết vấn đề BTTH về môi trường so với Luật Bảo vệ môi
trường 2014. Thứ nhất, Luật BVMT 2020 đã thống nhất cơ chế chung để giải quyết
tranh chấp BTTH cho cả hai loại thiệt hại về môi trường thay vì giữ nguyên 2 phương
thức như Luật BVMT 2014. Việc thống nhất cơ chế chung quy định tại Điều 133 Luật
BVMT 2020 tạo sự thuận lợi tiết kiệm thời gian, công sức cho cơ quan giải quyết
tranh chấp, đặc biệt là Tòa án. Thứ hai, việc quy định thương lượng trở thành thủ tục
tiền tố tụng trong giải quyết tranh chấp BTTH về môi trường. Tác giả cho rằng việc
Luật BVMT năm 2020 quy định BTTH về môi trường phải được giải quyết trước
bằng con đường thương lượng, khi nào không thương lượng được thì các bên mới lựa
chọn giải quyết thông qua các hình thức khác như hòa giải, tòa án hoặc trọng tài cũng
là hợp lý và phù hợp với đặc điểm tính cách của người dân Việt Nam là “dĩ hòa vi
quý”, tôn trọng sự thiện chí và chủ động khắc phục hậu quả, BTTH của người gây ra ô
nhiễm, suy thoái môi trường. Thứ ba, Luật BVMT 2020 đã tái xác lập thẩm quyền của
trọng tài trong giải quyết tranh chấp BTTH đối với cả hai loại thiệt hại về môi trường.
Và với quy định mới này, các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài
sản và lợi ích hợp pháp do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường sẽ có thêm sự lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (ngoài
Tòa án) với những ưu điểm như: đảm bảo được tính bảo mật thông tin (vì trọng tài
không xét xử công khai như Tòa án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác), rút
ngắn được thời gian tham gia tố tụng do phán quyết của trọng tài là chung thẩm chứ
3 Nguyễn Thị Ngọc Lan (2022), “Bồi thường thiệt hại về môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020”,
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, Số 07 (155), tr. 62 – 75. 8 lOMoARcPSD|610 649 76
không áp dụng chế độ 2 cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) như Tòa án. Thứ tư, khoản
2 Điều 133 Luật BVMT năm 2020 quy định: “Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và thiệt hại xảy ra thuộc trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân vi phạm, gây ô nhiễm về môi trường”. Như vậy, bằng quy định
này Luật BVMT năm 2020 đã hoán đổi nghĩa vụ chứng minh từ người bị thiệt hại
sang phía người gây ra thiệt hại. Lý do các nhà làm luật đưa ra quy định này là vì tính
chất của các vụ việc gây ÔNMT, STMT ngày càng phức tạp, hành vi vi phạm pháp
luật diễn ra khá tinh vi, nhiều trường hợp thiệt hại diễn ra âm thầm và từ từ, sau một
thời gian dài thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp của người dân
mới biểu hiện ra bên ngoài nên việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái luật và thiệt hại thực tế lại càng khó khăn. Và gánh nặng chứng minh này chính là
yếu tố cản trở, làm khó người bị thiệt hại trong hành trình đòi lại công bằng cho quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Thứ năm, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại được phép ủy
quyền cho cơ quan Nhà nước xác định thiệt hại và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điểm
mới này là tiến bộ và phù hợp với tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp BTTH về
môi trường ở Việt Nam, bởi phần lớn các vụ tranh chấp BTTH về môi trường ở Việt
Nam có số lượng người bị thiệt hại rất đông và việc tự xác định thiệt hại là một vấn đề
rất khó khăn đối với người bị thiệt hại – phần lớn là những đối tượng yếu thế trong xã
hội như nông dân, ngư dân. Cuối cùng, để khắc phục sự khó khăn khi xác định thời
điểm tính thời hiệu khởi kiện về môi trường theo quy định tại Điều 588 BLDS 2015
và không ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của người bị thiệt hại, khoản 3 Điều 162
Luật BVMT 2020 quy định: “thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện về môi trường là
ngày tổ chức, cá nhân bị thiệt hại có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp luật về môi trường của tổ chức, cá nhân khác”. Nghĩa là theo
quy định này thì không cần biết thời điểm xảy ra hành vi trái luật là khi nào, thời hiệu
khởi kiện về môi trường chỉ được bắt đầu tính kể từ ngày người bị thiệt hại biết hoặc
phải biết thiệt hại xảy ra đối với mình. Tuy nhiên, với cách quy định như vậy thì
khoản 3 Điều 162 Luật BVMT 2020 không thể áp dụng cho trường hợp thiệt hại về
môi trường xảy ra do sự cố môi trường gây ra, mà chỉ áp dụng được cho trường hợp
thiệt hại môi trường xảy ra do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. 9 lOMoARcPSD|610 649 76
Sự đổi mới này đặt ra kỳ vọng tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác
BVMT, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc bảo vệ quyền được sống
trong một môi trường trong lành cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản
thân khi bị thiệt hại do ÔNMT, STMT gây ra. Đồng thời, để đảm bảo sự thống nhất
giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp BTTH về môi trường,
cũng như phát huy hiệu quả của những điểm mới được quy định trong Luật BVMT
năm 2020, tác giả đã đưa ra những gợi ý sau:
1 . Chỉnh sửa, bổ sung một số quy định pháp luật có liên quan, như: (i) ghi nhận
việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra thuộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, STMT vào Bộ luật
TTDS và Luật Trọng tài thương mại; (ii) bổ sung cụm từ “suy thoái môi
trường” vào Điều 602 Bộ luật Dân sự năm 2015;
2 . Cần bổ sung quy định trường hợp loại trừ về giới hạn mức BTTH tại khoản 2
Điều 130 LBVMT 2020, do các công ước quốc tế như CLC 92 hay pháp luật
trong nước như Luật Năng lượng nguyên tử 2008 có đặt ra giới hạn về BTTH.
Việc bổ sung này nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa Luật BVMT với các luật chuyên ngành khác;
3 . Điều chỉnh khoản 2 Điều 133, khoản 3 Điều 162 Luật BVMT năm 2020;
4 . Ban hành quy định hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện việc thương lượng;
5 . Bổ sung quy định về địa vị pháp lý cho CQNN được ủy quyền tham gia tố tụng
để thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu BTTH cho người dân.
2 . PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ PHÁP
LÝ ĐẶT RA TRONG CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC TRÊN CƠ SỞ PHÁP LUẬT
MÔI TRƯỜNG HIỆN HÀNH.
2 .1. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
Về vấn đề xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên. Theo
Điều 130 Luật Bảo vệ Môi trường 2020, thiệt hại môi trường bao gồm thiệt hại đối với
môi trường tự nhiên cũng như sức khỏe, tài sản của cá nhân và tổ chức bị ảnh hưởng
bởi ô nhiễm. Theo khoản 1 Điều 132 Luật BVMT quy định các nội dung trong quá
trình xác định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường bao gồm: 1 0 lOMoARcPSD|610 649 76
Xác định phạm vi, diện tích, khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái; Xác định số
lượng thành phần môi trường bị suy giảm, các loại hình hệ sinh thái, các loài bị thiệt
hại; c) Xác định mức độ thiệt hại của từng thành phần môi trường, hệ sinh thái, các
loài. Về việc xác định thiệt hại đối với sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường gây ra được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Nhìn chung, vấn
đề này đã được pháp luật bảo vệ môi trường và pháp luật dân sự ở thời điểm hiện tại
đã được giải quyết khá rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên, việc xác định mức độ thiệt hại về
môi trường tự nhiên, nhất là các yếu tố phi vật chất và thiệt hại tích lũy theo thời gian,
đặc biệt là với những thiệt hại lâu dài như suy thoái môi trường nước, không khí, đất
đai vẫn còn gặp khó khăn trên thực tế. Pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết và
phương pháp đánh giá chuẩn xác để lượng hóa các thiệt hại này. Do đó, vẫn cần các
văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nhằm quy định các tiêu chuẩn cụ thể và phương
pháp khoa học để đánh giá thiệt hại một cách chính xác.
Về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về môi trường là một dạng trách nhiệm ngoài hợp đồng, được quy
định trong Điều 602 BLDS 2015 và Điều 130 Luật BVMT 2020. Các trường hợp gây
thiệt hại do vi phạm quy định bảo vệ môi trường đều bị áp dụng chế tài. Điều 130 Luật
BVMT quy định về bồi thường thiệt hại về môi trường, trong đó xác định rõ nguyên
tắc bồi thường thiệt hại là phải đảm bảo cho việc khắc phục tình trạng môi trường bị
suy thoái, ô nhiễm hoặc phục hồi môi trường. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 602
BLDS 2015 cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có
thiệt hại do hành vi vi phạm môi trường, theo đó chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại theo quy định của pháp luật, kể cả
trường hợp chủ thể đó không có lỗi. Vấn đề này đã được giải quyết một phần khi Luật
BVMT 2020 quy định rõ về việc bồi thường thiệt hại cả đối với các yếu tố môi trường
tự nhiên và thiệt hại sức khỏe, tài sản con người. Hơn thế nữa, pháp luật đã quy định
rõ ràng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
môi trường tại khoản 2 Điều 130 Luật BVMT 2020. Pháp luật dân sự hiện nay cũng
đã xác định rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường là trách nhiệm ngoài
hợp đồng, cho phép xử lý các vi phạm môi trường ngay cả khi người gây thiệt hại 1 1 lOMoARcPSD|610 649 76
không có lỗi. Tuy nhiên, mặc dù tại khoản 3 Điều 130 Luật BVMT 2020 có quy định
về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp có từ 02 tổ chức, cá nhân trở lên gây
thiệt hại về môi trường nhưng pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định rõ ràng về
việc phân chia trách nhiệm bồi thường giữa các bên mà chỉ nói khá chung chung. Điều
này dẫn đến khó khăn trong việc xác định người chịu trách nhiệm chính hoặc mức độ
bồi thường tương ứng cho mỗi bên. Ngoài ra, vấn đề pháp lý liên quan đến việc xác
định mức độ bồi thường vẫn chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt là đối với thiệt hại
môi trường tự nhiên. Việc xác định giá trị thiệt hại môi trường và hình thức bồi
thường vẫn còn gặp nhiều trở ngại trong thực tế áp dụng. Việc thỏa thuận giữa các bên
trong bồi thường thiệt hại vẫn chỉ áp dụng cho thiệt hại cá nhân, trong khi thiệt hại về
môi trường tự nhiên phải tuân theo các quy định của pháp luật mà chưa có đủ linh
hoạt để xử lý đa dạng các trường hợp.
Về vấn đề nguyên nhân gây ô nhiễm và trách nhiệm bồi thường. Nguyên nhân
gây ô nhiễm môi trường bao gồm 02 nguyên nhân chính: nguyên nhân khách quan tác
động đến môi trường mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người như
bão, lũ, động đất... và nguyên nhân chủ quan là do hậu quả của những hoạt động mà
con người gây ra. Trong quy định của Điều 602 BLDS 2015 quy định rằng thiệt hại
môi trường phát sinh từ hành vi của con người phải chịu trách nhiệm bồi thường, ngay
cả khi không có lỗi và bồi thường thiệt hại về môi trường là một dạng bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 về căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người gây thiệt hại không
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự
kiện bất khả kháng. Vậy nên có thể hiểu trong trường hợp xảy ra thiên tai, tức do là
nguyên nhân khách quan thì sẽ không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Đối với vấn
đề này thì pháp luật đã rõ ràng trong việc phân biệt trách nhiệm giữa nguyên nhân
khách quan (thiên tai) và nguyên nhân chủ quan (do hành vi con người). Đối với hành
vi con người, pháp luật đã quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường kể cả trong
trường hợp không có lỗi. Mặc dù pháp luật đã quy định việc chịu trách nhiệm bồi
thường ngay cả khi không có lỗi, nhưng việc xác định mức độ trách nhiệm và bồi
thường cho từng cá nhân hoặc tổ chức trong trường hợp có nhiều đối tượng gây ô
nhiễm vẫn còn mơ hồ và việc áp dụng thực tiễn đối với các thiệt hại cộng dồn từ nhiều 1 2 lOMoARcPSD|610 649 76
nguồn gây ô nhiễm nhỏ vẫn gặp khó khăn. Điều này đặc biệt khó khi các ảnh hưởng
đến môi trường tích tụ theo thời gian và không thể quy trách nhiệm cho một đối tượng cụ thể.
Về vấn đề thời hạn áp dụng trách nhiệm BTTH về môi trường. Thời hiệu yêu
cầu bồi thường thiệt hại về môi trường theo Điều 588 BLDS 2015 là ba năm kể từ
ngày quyền lợi bị xâm phạm. Trong khi đó, Điều 130 Luật Bảo vệ Môi trường 2020
yêu cầu bồi thường thiệt hại phải được thực hiện “toàn bộ và kịp thời”. Có thể thấy,
trong pháp luật dân sự và pháp luật môi trường đã có quy định về thời hiệu khởi kiện
và thời hạn bồi thường một cách rõ ràng, tạo điều kiện cho bên bị thiệt hại có thể yêu
cầu bồi thường trong một khoảng thời gian nhất định. Pháp luật dân sự đã có quy định
về thời hiệu khởi kiện, nhưng quy định này chưa phù hợp với đặc thù của thiệt hại môi
trường, do thiệt hại môi trường thường có tính tích lũy và phát sinh theo thời gian dài,
khó xác định chính xác thời điểm xảy ra thiệt hại. Do đó, pháp luật cần có quy định
linh hoạt hơn về thời hạn và thời hiệu khởi kiện, bao gồm việc kéo dài thời hạn yêu
cầu bồi thường đối với những thiệt hại môi trường mà hậu quả phát sinh chậm hoặc
cần thời gian dài để phát hiện. Theo đó, thời hiệu ba năm có thể chưa phù hợp trong
lĩnh vực môi trường, vì thiệt hại thực tế có thể chỉ phát sinh sau một thời gian dài từ
khi quyền lợi bị xâm phạm. Pháp luật hiện hành chưa thực sự linh hoạt để áp dụng
trong những trường hợp này, và cần kéo dài thời hiệu khởi kiện hoặc tính từ thời điểm
thiệt hại thực tế xảy ra.
2 .2. Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố nước
ngoài tại tòa án theo pháp luật Việt Nam và các nước
Về vấn đề xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp bồi thường
thiệt hại. Trước tiên, nói về vấn đề phân biệt loại thiệt hại trong tranh chấp môi
trường. Như đã được đề cập phía trên, thiệt hại môi trường có thể chia ra làm 02 loại
bao gồm: (i) Thiệt hại suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Đối với loại
thiệt hại này thì chủ thể có quyền khởi kiện thường là Nhà nước, do các thành phần
môi trường là sở hữu toàn dân và Nhà nước đóng vai trò đại diện. (ii) Thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng, tài sản của cá nhân hoặc tổ chức. Với loại thiệt hại thứ hai này thì
các cá nhân và tổ chức bị thiệt hại là chủ thể khởi kiện. Vì đặc điểm đặc biệt này nên 1 3 lOMoARcPSD|610 649 76
chủ thể có quyền khởi kiện đòi BTTH cũng được chia thành hai nhóm. Tuy nhiên,
pháp luật Việt Nam đối với là chủ thể có quyền khởi kiện đòi BTTH vẫn còn tồn tại
những bất cập. Cụ thể, thứ nhất là đối với việc xác định cơ quan Nhà nước đại diện
khởi kiện. Hiện tại chưa có quy định cụ thể và rõ ràng về cơ quan Nhà nước nào chịu
trách nhiệm khởi kiện trong trường hợp thiệt hại liên quan đến chức năng môi trường.
Điều này gây khó khăn trong việc thực thi và phối hợp giữa các cơ quan có liên quan.
Thứ hai là đối với trường hợp có nhiều cá nhân, tổ chức bị xâm phạm về quyền lợi
hợp pháp thì những chủ thể này có thể xem xét tới hình thức kiện tập thể. Tuy nhiên vì
hình thức này thường được áp dụng khi xảy ra thiệt hại quy mô lớn và liên quan đến
nhiều cá nhân nên việc thiếu cơ chế khởi kiện tập thể đang tạo ra rào cản trong việc
tiếp cận công lý. Pháp luật Việt Nam, trước hết là Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đã
đưa ra những quy định mới về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc xác định
thiệt hại và trách nhiệm yêu cầu BTTH về môi trường tại Điều 131 như xác định trách
nhiệm của UBND các cấp và Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng vẫn cần quy định
cụ thể hơn về cơ chế phân công cơ quan đại diện khởi kiện. Tiếp theo là mặc dù
BLTTDS 2015 đã thừa nhận một số hình thức khởi kiện tập thể, nhưng việc áp dụng
vào các tranh chấp môi trường vẫn gặp nhiều hạn chế vì quy trình chưa được hướng
dẫn chi tiết. BLTTDS mới chỉ có quy định về giải quyết tranh chấp tập thể trong lĩnh
vực lao động, mà chưa mở rộng ra những lĩnh vực khác như môi trường. Điều 42
BLTTDS 2015 có quy định về nhập vụ án. Tuy nhiên, việc nhiều vụ án có được nhập
vào với nhau hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án, chứ
không dựa trên nhu cầu của người khởi kiện. Sự kéo dài về thời gian và tốn kém về
chi phí với thủ tục rắc rối như vậy khiến những người chịu thiệt hại thường ít khi chọn
cách giải quyết này để tranh chấp. Vậy nên, pháp luật Việt Nam hiện nay rất cần có
một cơ chế cụ thể để giải quyết tranh chấp tập thể. Cơ chế này đem lại rất nhiều mặt
lợi. Thứ nhất, khi nhận một đơn khởi kiện trong lĩnh vực môi trường, tòa án sẽ phải
phát một thông báo rộng rãi về việc này. Điều này giúp cho những người bị thiệt hại
tương tự biết đến vụ việc và có thể đăng ký tham gia làm bên nguyên đơn. Thứ hai,
người chịu thiệt hại không cần chuẩn bị toàn bộ hồ sơ khởi kiện mà chỉ cần khai một
mẫu đăng ký có sẵn và tài liệu chứng minh mình cũng thuộc phạm vi chịu thiệt hại từ
vụ việc. Thứ ba, tập thể bên nguyên đơn sẽ chọn ra người đại diện cho mình, và người 1 4 lOMoARcPSD|610 649 76
này sẽ đại diện cho tất cả những người đã chịu thiệt hại từ vụ việc.4 Nhìn chung, việc
đưa ra những cơ chế mới phù hợp sẽ giúp quá trình giải quyết những tranh chấp về
môi trường dễ dàng hơn.
Tiếp theo, nói về vấn đề thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong tranh chấp
BTTH có yếu tố nước ngoài (YTNN) đã được nêu ra trong bài báo khoa học tính tới
thời điểm hiện tại vẫn chưa được giải quyết. Theo đó, BLTTDS 2015 quy định về
thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam tại Điều 470, nhưng vẫn cho phép các bên
được thỏa thuận lựa chọn tòa án nước ngoài để giải quyết tranh chấp. Quy định cho
phép các bên được tự do thỏa thuận này dẫn đến 02 vấn đề. Thứ nhất là vấn đề khó
khăn khi thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài tại Việt Nam. Một điều hiển nhiên
là các phán quyết từ tòa án nước ngoài có thể không được công nhận và thi hành tại
Việt Nam, đặc biệt nếu không có hiệp định tương trợ tư pháp giữa các quốc gia liên
quan. Thứ hai là thiếu sự kết nối giữa tranh chấp và lãnh thổ. Khi các bên chọn tòa án
nước ngoài, vấn đề lãnh thổ và bằng chứng liên quan đến môi trường tại Việt Nam có
thể bị xem nhẹ, gây khó khăn cho quá trình giải quyết. Để có thể giải quyết những vấn
đề nêu trên, ta có thể sửa đổi quy định sao cho thẩm quyền của Tòa án Việt Nam được
ưu tiên trong các tranh chấp về môi trường có yếu tố nước ngoài. Trong những tranh
chấp môi trường có YTNN thì tòa án Việt Nam nên được quy định theo hướng ưu tiên
để phù hợp với tinh thần của khoản 4 Điều 162 Luật Bảo vệ Môi trường 2020, vốn
yêu cầu mọi tranh chấp môi trường trên lãnh thổ Việt Nam phải do Tòa án Việt Nam
giải quyết. Hơn thế nữa, do pháp luật hiện hành vẫn chưa điều chỉnh vấn đề này một
cách triệt để, nên cần có sự sửa đổi trong BLTTDS để có quy định rõ ràng hơn nhằm
đảm bảo việc kết nối và thi hành phán quyết được thuận lợi, đồng thời phù hợp với
pháp luật quốc tế và cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại và môi trường.
Về vấn đề xác định luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt
hại. Theo Điều 687 BLDS năm 2015, trong tranh chấp BTTH ngoài hợp đồng, nếu
không có thỏa thuận chọn luật, pháp luật áp dụng là luật nơi xảy ra thiệt hại (lex loci
damni). Nếu bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cùng cư trú hoặc cùng nơi thành lập,
4 Nguyễn Minh Đức, "Đã đến lúc phải có khởi kiện tập thể", URL: https://thanhnien.vn/da-den-luc-phai-co-
khoi-kien-tap-the-185893351.htm, truy cập: 13/10/2024. 1 5 lOMoARcPSD|610 649 76
pháp luật của quốc gia đó được áp dụng. Điều này có nghĩa là, nếu thiệt hại xảy ra ở
nhiều quốc gia, luật của từng quốc gia sẽ được xem xét. Ngoài ra, thẩm quyền của Tòa
án Việt Nam không bị giới hạn chỉ bởi thiệt hại xảy ra tại Việt Nam. Quy định tại
khoản 4 Điều 161 Luật BVMT năm 2014 có thể bị coi là tạo nên sự “độc quyền” của
pháp luật Việt Nam khi giải quyết tranh chấp BTTH về môi trường có YTNN. Bên
cạnh đó, khoản 4 Điều 161 Luật BVMT năm 2014 cũng dễ bị coi là trái với nguyên
tắc áp dụng BLDS và có thể bị loại bỏ không áp dụng, như khoản 2 Điều 4 BLDS năm
2 015 nhấn mạnh “Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh
vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc có bản của pháp luật dân sự quy định
tại Điều 3 của Bộ luật này” và khoản 3 khẳng định “Trường hợp luật khác có liên
quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định
của Bộ luật này được áp dụng”.
Khoản 4 Điều 162 Luật BVMT 2020 quy định “Tranh chấp về môi trường trên
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà một hoặc các bên là tổ chức,
cá nhân nước ngoài được giải quyết theo pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác.”. Có thể thấy, quy định về xác định luật áp
dụng trong giải quyết tranh chấp BTTH có YTNN tại khoản 4 Điều 162 Luật BVMT
2 020 không có sự thay đổi quá khác biệt so với khoản 4 Điều 161 Luật BVMT 2014
được đề cập trong bài viết. Với quy định này, có thể hiểu rằng pháp luật Việt Nam sẽ
được ưu tiên áp dụng để giải quyết tranh chấp BTTH về môi trường có YTNN, sẽ chỉ
áp dụng các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về
GQTC môi trường nếu nội dung của điều ước quốc tế đó có quy định khác với pháp
luật Việt Nam, nếu không sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam cho việc GQTC.
Vấn đề giải quyết tranh chấp BTTH về môi trường có YTNN tại Việt Nam vẫn
còn nhiều khó khăn và bất cập. Các quy định về xác định luật áp dụng vẫn chưa thật
sự phù hợp với thực tế của loại hình tranh chấp này. Điều này xuất phát từ tính chất
phức tạp, quy mô và tính liên kết giữa tranh chấp với hơn hai hoặc nhiều quốc gia
khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của EU, Hoa Kỳ và Trung 1 6 lOMoARcPSD|610 649 76
Quốc đóng vai trò quan trọng vì cung cấp một cách tiếp cận khách quan trong việc sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam.
2 .3. Bồi thường thiệt hại về môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020
Bên cạnh những điểm mới tiến bộ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về giải
quyết tranh chấp BTTH về môi trường, có thể thấy một số vấn đề được đề cập trong
các bài báo khoa học vẫn chưa được giải quyết.
Về vấn đề chỉnh sửa, bổ sung khoản 2 Điều 133 Luật BVMT 2020. Căn cứ
theo khoản 12 và khoản 13 Điều 3 Luật BVMT 2020, ô nhiễm môi trường là sự biến
đổi tính chất vật lý, hoá học, sinh học của thành phần môi trường không phù hợp với
quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường, suy thoái môi trường là sự suy
giảm về chất lượng, số lượng của thành phần môi trường, và điểm chung của hai hiện
tượng trên đều gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, sinh vật và tự nhiên. Tuy
nhiên, khoản 2 Điều 133 Luật này không đề cập đến trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
vi phạm gây suy thoái môi trường. Vì vậy, cần phải bổ sung cụm từ “suy thoái môi
trường” vào khoản 2 Điều 133 Luật BVMT 2020 và Điều 602 BLDS 2015.
Về vấn đề giải quyết tranh chấp bằng thương lượng. Cần có quy định về nghĩa
vụ đưa ra đề nghị thương lượng của bên bị thiệt hại, thời hạn trả lời đề nghị thương
lượng của bên gây thiệt hại, thời hạn thủ tục thương lượng, giá trị pháp lý và hiệu lực
thi hành của văn bản thể hiện kết quả thương lượng thành công nhằm tránh tình trạng
sau khi thương lượng thành công các bên lại đổi ý, không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng và đầy đủ, kịp thời hoặc các bên lợi dụng quy định về thương lượng để
trốn tránh nghĩa vụ BTTH, gây khó dễ cho bên bị thiệt hại.
Về vấn đề uỷ quyền cho CQNN tham gia tố tụng. Cần phải hiểu rõ rằng việc
CQNN nhận uỷ quyền là hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ người dân, trong trường hợp này,
người dân không cần phải làm thủ tục rườm rà mà chỉ thể hiện dưới hình thức văn bản
dưới dạng Giấy uỷ quyền. Đồng thời, các CQNN tránh việc uỷ quyền lại, đùn đẩy
trách nhiệm để đảm bảo quá trình giải quyết tranh chấp cho người dân. Và chỉ có
người dân mới có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng uỷ quyền trong trường hợp
CQNN thực hiện không tốt công việc được uỷ quyền. Ngoài ra, bổ sung những quy
định trong BLTTDS 2015 và Luật TTTM 2010 để đảm bảo địa vị pháp lý của CQNN 1 7 lOMoARcPSD|610 649 76
được uỷ quyền trong quá trình tố tụng để thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu BTTH
cho người dân là một vấn đề quan trọng và cần thiết, bởi hiện tại trong quy định của
BLTTDS 2015 và Luật TTTM 2010 chưa có các quy định điều chỉnh vấn đề này.
Về việc xác định thời điểm tính thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực môi trường.
Khoản 3 Điều 162 Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) năm 2020 cần được điều chỉnh
để bao gồm cả các trường hợp thiệt hại môi trường do sự cố. Bởi lẽ, thiệt hại môi
trường từ hành vi vi phạm pháp luật hay sự cố đều khó nhận biết và xác định như
nhau. Luật BVMT 2020 không quy định rõ thời hiệu khởi kiện, do đó, theo BLDS
2 015, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại môi trường là 3 năm. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng đối với các vụ khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại hạt nhân,
không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo BLDS 2015 hay cách xác định thời điểm theo
Luật BVMT năm 2020. Cụ thể, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài
sản và môi trường là 10 năm, tính từ ngày xảy ra sự cố hạt nhân, và thời hiệu khởi
kiện đối với thiệt hại về con người là 30 năm kể từ thời điểm xảy ra sự cố.
3 . CÁC PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ KHÁC; CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ LIÊN
QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (NẾU CÓ).
Ngoài các vấn đề đã được phát hiện cũng như các đề xuất, kiến nghị đã được
đưa ra trong 03 bài báo khoa học thì trong phạm vi chủ đề về tranh chấp BTTH về môi
trường, nhóm cũng phát hiện và đề xuất một số vấn đề khác liên quan đến vấn đề này.
Bên cạnh đó, nhóm cũng phát triển thêm các đề xuất, kiến nghị đã được đưa ra trong 0 3 bài báo khoa học.
Đối với các tranh chấp BTTH về môi trường, hiện nay LBVMT 2020 đã cho
phép tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi
ích hợp pháp do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường được ủy quyền cho
cơ quan nhà nước (CQNN), tổ chức, cá nhân khác xác định thiệt hại và yêu cầu
BTTH. Tuy nhiên, việc chỉ cho phép tổ chức, cá nhân bị thiệt hại được “ủy quyền”
chứ không phải “yêu cầu” CQNN, tổ chức khác xác định thiệt hại và yêu cầu BTTH
dẫn đến việc về căn bản vẫn là tồn tại một hợp đồng ủy quyền mang tính dịch vụ.
Điều này kéo theo một vấn đề là liệu toàn bộ các chi phí liên quan đến việc xác định
thiệt hại cũng như các chi phí liên quan đến việc yêu cầu BTTH vẫn thuộc về chủ thể 1 8 lOMoARcPSD|610 649 76
bị thiệt hại hay thuộc về CQNN, tổ chức, cá nhân được ủy quyền. Tuy nhiên, có thể
nhận thấy toàn bộ chi phí sẽ nghiêng về chủ thể bị thiệt hại phải chi trả toàn bộ và nếu
đúng theo hướng này thì chủ thể bị thiệt hại muốn yêu cầu BTTH, đặc biệt là cá nhân
sẽ khó có khả năng chi trả cho các khoản chi phí này do đặc thù các tranh chấp về môi
trường có nhiều vấn đề cần xác minh, thẩm định. Như vậy, việc cho phép tổ chức, cá
nhân được phép “ủy quyền” cho CQNN, tổ chức, cá nhân khác xác định thiệt hại và
yêu cầu BTTH vẫn chưa giải quyết triệt để được trở ngại về kinh tế cho tổ chức, cá
nhân bị thiệt hại khi tham gia vào một tranh chấp BTTH về môi trường.
Tại khoản 3 Điều 131 LBVMT 2020 cho phép tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp do suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường được ủy quyền cho CQNN yêu cầu BTTH và trong
phạm vi được ủy quyền có thể có quyền được khởi kiện bởi theo khoản 2 Điều 68 và
khoản 4 Điều 187 BLTTDS 2015 thì cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có quyền khởi kiện, tức có thể là nguyên đơn trong một vụ tranh chấp.
Đây là một điểm mới của LBVMT 2020, tuy nhiên các tranh chấp về môi trường
thường có số lượng người bị thiệt hại lớn, vậy thì việc cho phép các tổ chức, cá nhân
được ủy quyền cho CQNN được xem là hình thức ủy quyền nào? Bên cạnh đó, với số
lượng người ủy quyền lớn như vậy thì đây có được xem là trường hợp khởi kiện tập
thể hay không? Và nếu đây là khởi kiện tập thể thì mô hình này cụ thể như thế nào thì
hiện nay điều này vẫn còn bị bỏ ngỏ. Từ đây, nhóm kiến nghị cần có các quy định cụ
thể hơn hướng dẫn cũng như xác định mô hình, hình thức và thủ tục ủy quyền. Đồng
thời pháp luật về môi trường cũng cần xác định cụ thể rằng liệu có cho phép áp dụng
mô hình khởi kiện tập thể hay không và nếu có thì cách thức tiến hành sẽ như thế nào.
Việc LBVMT 2020 có quy định về ủy quyền đã dẫn đến một vấn đề nữa, đó là
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền giữa người ủy quyền và người được ủy
quyền. Về cơ bản, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người,
tài sản và lợi ích hợp pháp do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường khi ủy
quyền cho CQNN yêu cầu BTTH sẽ phải thông qua một hợp đồng ủy quyền. Khi đã
có tồn tại một hợp đồng tức sẽ có cả quyền và nghĩa vụ tồn tại cho mỗi bên tham gia
và sẽ đặt ra vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền. Theo quan điểm của 1 9 lOMoARcPSD|610 649 76
nhóm, pháp luật về môi trường nên có quy định cụ thể về trường hợp đơn phương
chấm dứt hợp đồng ủy quyền bởi vẫn có khả năng khi được ủy quyền, CQNN không
thực hiện tốt các nghĩa vụ mà mình được ủy quyền hay tổ chức, cá nhân bị thiêt hại
tùy tiện đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền. Theo đó, đối với tổ chức, cá nhân
bị thiệt hại ủy quyền thì nên quy định các trường hợp cụ thể nào mà các chủ thể này
được đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền tránh trường hợp đơn phương chấm
dứt hợp đồng ủy quyền một cách tùy ý, gây khó khăn cho CQNN được ủy quyền. Đối
với CQNN được ủy quyền thì theo quan điểm của nhóm, không nên cho phép CQNN
được đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền, bởi lẽ CQNN là của dân, do dân và vì
dân nên nếu cho phép CQNN được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng ủy quyền sẽ tạo ra hình ảnh nhà nước không thực sự phục vụ người dân. Mặc dù
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng có được quy định trong Điều 428 BLDS 2015,
tuy nhiên, do tính chất đặc thù của tranh chấp BTTH về môi trường nên việc ủy quyền
cũng mang những đặc thù nhất định, vì vậy việc có văn bản cụ thể quy định, hướng
dẫn cho việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền liên quan đến tranh chấp
BTTH về môi trường là rất cần thiết.
Theo Điều 257 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền hưởng dụng là “quyền
của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định” và chiếu theo quy định
của Bộ luật dân sự 2015, pháp luật về môi trường có trường hợp Nhà nước trao quyền
hưởng dụng đối với thành phần môi trường cho một số chủ thể, cụ thể, theo khoản 2
Điều 73 Luật Lâm nghiệp 2017, chủ rừng được quyền hưởng lâm sản tăng thêm từ
rừng do tự đầu tư vào rừng tự nhiên, rừng trồng là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Vấn
đề được đặt ra là trường hợp thành phần môi trường này bị ô nhiễm thì chủ thể nào có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, là Bộ Tài nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân
các cấp, tổ chức, cá nhân hay chủ thể được hưởng dụng. Như vậy, đối với chủ thể có
quyền hưởng dụng thì hiện nay LBVMT 2020 cũng như pháp luật môi trường nói
chung chưa quy định cụ thể về quyền yêu cầu BTTH mặc dù đây cũng là một trường
hợp có khả năng xảy ra trên thực tiễn. Theo đó, nhóm kiến nghị i) Bổ sung chủ thể
được hưởng dụng có quyền được yêu cầu BTTH khi bị thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp do suy giảm chức năng, tính hữu ích 2 0 )