



















Preview text:
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỌC VIỆN TÒA ÁN BÀI TẬP NHÓM
MÔN LUẬT MÔI TRƯỜNG ĐỀ TÀI
Pháp luật về bảo vệ môi trường biển
ở Việt Nam hiện nay Nhóm 3 Lớp A – K9 Đại học HÀ NỘI - 2025
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM NHÓM 3 - LỚP A-K9
MÔN: LUẬT MÔI TRƯỜNG Stt Tên thành viên Đánh giá hoạt Điểm Xác nhận động số 1 Nguyễn Duy Thanh Tổng hợp nội A+ dung, thuyết trình 2 Hoàng Văn Gia Bảo Tổng hợp nội dung A+ 3 Trần Hữu Hải Đăng Tổng hợp nội dung A+ 4 Phạm Trương Hoài Nội dung A+ Phương 5 Lê Đức Nhân Tổng hợp nội dung A+ 6 Lê Khánh Vinh Làm slide A+ 7 Nguyễn Tuấn Dũng Làm slide A+ 8 Huỳnh Hạo Nam Thuyết trình A+ 9 Đỗ Hùng Anh Nội dung A+ 1 0 Lê Xuân Huy Nội dung A+ 1 1 Đỗ Việt Hưng Nội dung A+ 1 2 Trần Thanh Tú Nội dung A+ 1 1 3 Hoàng Vân Phong Nội dung A+ 1 4 Nguyễn Hoàng Phương Nội dung A+ 1 5 Trần Hiểu Nam Nội dung A+ 1 6 Đinh Đức Trần Nội dung A+ 1 7 Lương Thanh Sang Nội dung A+
Nhận xét chung
+ Tất cả các thành viên đều hoàn thành bài đúng hạn.
+ Chủ động, nhiệt tình trong quá trình làm bài.
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2025 NHÓM TRƯỞNG ( Đã kí) NGUYÊN DUY THANH 2 MỤC LỤC Trang
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM.............................................................................1
MỤC LỤC..................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................3
1 . Lí do chọn đề tài.................................................................................................................3
1 . Lý do chọn đề tài...........................................................................................................3
NỘI DUNG.................................................................................................................................5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG BIỂN.........................................................................................................................5
1 .1. Một số khái niệm.............................................................................................................5
1 .1.1. Môi trường biển........................................................................................................5
1 .1.2. Ô nhiễm môi trường biển..........................................................................................6
1 .1.3. Bảo vệ môi trường....................................................................................................7
1 .2. Nguồn gây ô nhiễm môi trường biển...............................................................................7
1 .3. Thực trạng ô nhiễm môi trường biển...............................................................................9
1 .3.1. Thực trạng ô nhiễm rác thải môi trường biển...........................................................9
1 .3.2. Thực trạng ô nhiễm dầu khí môi trường biển.........................................................10
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỞNG BIỂN Ở VIỆT NAM
...................................................................................................................................................11
2 .1. Sơ lược về quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường biển ở Việt
Nam...........................................................................................................................................11
2 .2. Nguyên tắc của pháp luật về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam................................12
2 .3. Những nội dung cơ bản về pháp luật bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam..............14
2 .3.1. Phân cấp vùng rủi ro, phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển..........................14
2 .3.2. Phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển......................................................14
2 .3.3. Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển.............................................................16
2 .3.4. Quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển...................................................17
2 .3.5. Quy định về đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển.......21
2 .3.6. Ứng phó sự cố tràn dầu trên biển............................................................................22
2 .3.7. Xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam............................23
Trách nhiệm hành chính.........................................................................................................23
Trách nhiệm dân sự.................................................................................................................24 3
Trách nhiệm hình sự...............................................................................................................25
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM
. ..................................................................................................................................................26
3 .1. Đánh giá pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển..............................................26
3 .1.1. Ưu điểm..................................................................................................................26
3 .1.2. Hạn chế...................................................................................................................26
3 .2. Một số khuyến nghị cụ thể.............................................................................................27
KẾT LUẬN...............................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................30 4 MỞ ĐẦU
1 . Lí do chọn đề tài
1 . Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm phía Tây Biển Đông, sở hữu đường bờ biển
dài khoảng 3.260 km, cùng hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, bao gồm hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Biển giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Với vị trí địa chiến
lược, vùng biển Việt Nam nằm trên các tuyến hàng hải quốc tế quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho giao thương và hội nhập kinh tế khu vực cũng như toàn
cầu. Bên cạnh đó, biển Việt Nam còn có nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh
vật phong phú, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế biển.
Theo thống kê, vùng biển nước ta hiện ghi nhận khoảng 11.000 loài sinh vật cư
trú trong hơn 20 hệ sinh thái đặc trưng và khoảng 1.300 loài sinh vật khác tại
khu vực hải đảo, mang lại nguồn lợi hải sản đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
Ngoài ra, biển Việt Nam có khoảng 35 loại khoáng sản khác nhau với quy mô
trữ lượng khai thác đa dạng, cùng tiềm năng lớn trong phát triển du lịch biển với
khoảng 125 bãi biển có giá trị khai thác. Những yếu tố này tạo nên vị thế và
tiềm năng to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế biển của đất nước.
Tuy nhiên, những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường biển và ven biển ở
Việt Nam đang diễn biến ngày càng phức tạp và đáng lo ngại. Các hoạt động
như xả thải công nghiệp, đô thị chưa qua xử lý; rác thải sinh hoạt, rác thải du
lịch; khai thác thủy sản bằng chất nổ, hóa chất; hay sự cố tràn dầu… đã gây nên
suy giảm chất lượng môi trường biển. Hậu quả là hệ sinh thái biển bị tổn
thương, đa dạng sinh học suy giảm, cảnh quan du lịch bị ảnh hưởng, đời sống
người dân ven biển bị tác động tiêu cực, đồng thời gây thiệt hại về kinh tế và cản
trở mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam. 5
Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ
môi trường biển, như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo, cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn, nhưng thực tế cho thấy
hiệu quả thực thi vẫn còn hạn chế, công tác quản lý còn thiếu đồng bộ, nhận
thức cộng đồng chưa cao, và chế tài xử lý vi phạm vẫn chưa đủ sức răn đe. Điều
này cho thấy nhu cầu cấp thiết phải đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành, chỉ
ra những bất cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường biển.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nêu trên, nhóm chúng em lựa chọn đề tài “Pháp
luật về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam hiện nay” với mong muốn nghiên
cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường biển, chỉ ra những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực thi và đề xuất các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật, góp phần bảo vệ môi trường biển và hướng tới phát triển bền vững. 6 NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN
1 .1. Một số khái niệm
1 .1.1. Môi trường biển
Diện tích biển nước ta rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, vì thế môi trường
biển đóng một vai trò rất quan trọng. Nước ta giáp với Biển Đông ở ba phía:
Đông, Nam và Tây Nam. Các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam là một phần
Biển Đông trải dọc theo bờ biển dài khoảng 3.260km, từ Quảng Ninh đến Kiên
Giang, với nhiều bãi biển đẹp như Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cam Ranh, Vũng Tàu…
Biển nước ta có chiều rộng khoảng 1tr km2.Theo Luật Biển Việt Nam năm
2 012 ban hành ngày 21 tháng 06 năm 2012 (sau đây gọi là Luật Biển Việt Nam
năm 2012), vùng biển Việt Nam bao gồm “nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982” (Khoản 1 Điều 3).
Trong đó, từ quy định của Luật Biển Việt Nam năm 2012, có thể xác định:
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và
là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.( Điều 9 Luật biển Việt Nam năm 2012)
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía
biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.(
Điều 11 Luật biển Việt Nam năm 2012)
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt
Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.( Điều 14 Luật biển Việt Nam năm 2012)
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt
Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ
đường cơ sở.(Điều 15 Luật biển Việt Nam năm 2012)
Thềm lục địa là “vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và
nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ
đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200
hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ
đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ 7
đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét”.
(Điều 17 Luật Biển Việt Nam năm 2012).
Theo Viện Nghiên cứu Quản lý biển và hải đảo, môi trường biển “bao
gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các
hành vi của con người và các sinh vật sống trong biển, bao gồm ánh sáng, không
khí trên biển, nước biển, đất tại đáy biển (trầm tích biển) và các cơ thể sống trong biển”.
Pháp luật Việt Nam chưa có một định nghĩa riêng về về khái niệm môi
trường biển mà khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2020 đưa ra định
nghĩa:” Môi trường bao gồm các yêu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã
hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên.” Các yếu tố vật
chất tạo thành môi trường là đất, nước, không khí,âm thanh, ánh sáng, sinh vật,
hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Như vậy môi trường biển được xem
xét trong một tổng thể môi trường chung.
1 .1.2. Ô nhiễm môi trường biển
Định nghĩa về ô nhiễm môi trường biển được quy định cụ thể tại Khoản 4
Điều 1 Công ước của Liên Hợp Quốc Luật biển 1982. Theo đó, “Ô nhiễm môi
trường biển (Pullution du milieu marin) là việc con người trực tiếp hoặc gián
tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các
cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại
đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm
cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh
bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất
lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”.
Pháp luật về môi trường biển ở Việt Nam chưa đưa ra một định nghĩa cụ
thể về môi trường biển bị ô nhiễm mà chỉ có khái niệm chung về ô nhiễm môi
trường tại Khoản 12 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 ban hành ngày
3 0 tháng 11 năm 2020 như sau: “Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi tính chất
vật lý, hóa học, sinh học của thành phần môi trường không phù hợp với quy
chuẩn kĩ thuật môi trường gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên.
Từ đó, có thể hiểu ô nhiễm môi trường biển là sự biến đổi của các thành
phần của môi trường biển gây ra do hoạt động của con người, kéo theo nhiều tác
động xấu đến hệ động thực vật biển, sinh vật biển và con người.
1 .1.3. Bảo vệ môi trường
Khi tình trạng biển đứng trước nguy cơ bị ô nhiễm ngày càng trầm trọng,
vấn đề bảo vệ môi trường biển được quan tâm hơn bao giờ hết.
Pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc định nghĩa bảo vệ môi trường
biển. Từ khái niệm bảo vệ môi trường tại Khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ môi 8
trường năm 2020, Ô nhiễm môi trường biển cũng như các loại ô nhiễm môi
trường khác cần phải được kiểm soát. Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là
tổng hợp tất cả các biện pháp, thể chế, chính sách, luật, kĩ thuật, công nghệ,
tuyên truyền, giáo dục... nhằm ngăn ngừa, khống chế không cho ô nhiễm môi
trường biển xảy ra, cũng như chủ động xử lý, đối phó làm giảm thiểu hậu quả
khi ô nhiễm xảy ra, tiến đến phục hồi và nâng cao chất lượng biển.
1 .2. Nguồn gây ô nhiễm môi trường biển
Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền
Đất liền là nơi con người thực hiện phần lớn các hoạt động của mình. Tuy
nhiên, biển cả lại là bãi rác khổng lồ do thói quan xấu của con người tạo nên. Ô
nhiễm từ các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, chất thải từ các hoạt
động du lịch, nuôi trồng thủy sản, hoạt động phá rừng...đều gây ô nhiễm trầm
trọng đến môi trường. Các chất thải này đi theo các dòng sông, cửa sông, ống
dấn và các thiết bị thải ra biển. Tỉ lệ nguồn ô nhiễm biển xuất phát từ đất liền
chiếm tỉ lệ lớn nhất so với các nguồn ô nhiễm khác.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2017 có khoảng
7 0% - 80% lượng rác thải trên biển bắt nguồn từ đất liền do các nhà máy, xí
nghiệp, khu công nghiệp, cơ sở công nghiệp, khu dân cư xả nước thải, chất thải
rắn không qua xử lý ra các sông ở ven biển hoặc xả thẳng ra biển.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng khác đó là việc ô nhiễm các
dòng sông từ đất liền đổ ra biển. Hầu hết các con sông đều đổ ra biển, kéo theo
đó là nguồn ô nhiễm từ đất liền mang ra như chất thải công nghiệp, nông nghiệp,
hóa chất, rác, các loại phế thải, nước thải chưa được xử lý… một số vùng biển
có hàm lượng chất rắn lơ lửng cao. Điển hình như tại khu vực âu thuyền Thọ
Quang tại thành phố Đà Nẵng.
Ô nhiễm từ các họat động liên quan đến đáy biển
Đây là một trong các nguồn ô nhiễm chính đến môi trưởng biển. Các hoạt
động thăm dò, khai thác khoáng sản, đặc biệt là dầu khí, các hoạt động khoan,
đào xây dựng đường hầm, lắp đặt ống dẫn, dây cáp, xây dựng các đảo nhân
tạo...là nguy cơ tiềm tàng gây ô nhiễm môi trường biển. Quá trình tiến hành hoạt
động trên có thể gây ra sự cố rò rỉ, nổ dàn khoan, đâm va, tràn dầu, chất thải từ
các hoạt động đó đều ảnh hưởng tới chất lượng nước biển, làm hủy hoại các
giống loài sinh vật biển, giảm sự đa dạng sinh học và các giá trị khác của biển
Trong đó, sự cố tràn dầu ngày càng diễn ra với mức độ nghiêm trọng.
Việt Nam có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, ngoài
việc thải nước lẫn dầu khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này còn
phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trong đó 20 - 30% là chất thải nguy
hại chưa có bãi chứa và nơi xử lý. Bằng mắt thường, bạn có thể thấy, các vùng
nước ở Cảng tàu Du Lịch Bãi Cháy, Âu tàu Tuần Châu, các khu neo đâụtàu du
lịch ở các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long... thường xuyên có váng dầu thải
loang rôṇg trên măṭbiển gây hậu quả nghiêm trọng đối với hệ sinh thái biển. 9
Hàm lượng dầu 0,1 mg trong nước biển, đã làm chết các loài phù du làm giảm
nguồn thức ăn cho tôm cá, gây ảnh hưởng đến nhiều loài sinh vật biển. Dầu - mỡ
loang còn tạo màng trên bề mặt làm giảm lượng ôxi trong nước, hủy diệt các loài thủy sinh.
Ô nhiễm do sự nhận chìm, trút bỏ chất thải
Các chất thải đặc biệt là hóa chất và các chất thải nguy hại khác thải ra
biển từ các nhà máy, khu công nghiệp... có tác động xấu đến môi trường biển.
Các vụ tàu chuyên chở các chất thải nguy hại cũng là nguồn ô nhiễm do nhấn
chìm lớn. Chỉ cần một lượng nhỏ chất này, ví dụ như dioxin, các chất phóng xạ
đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường biển và đối với sức khỏe, tính mạng con người.
Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra
Do các hoạt động của tài thuyền như đốt cháy nhiên liệu, rửa tàu, rác và
nước thải sinh hoạt, tràn dầu và các chất độc hại do các sự cố tràn dầu trên biển
như đâm va, chìm đắm, nổ cháy, do sơ xuất trong quá tình bốc vác, vận chuyển.
Ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm do hoạt động của tàu thuyền có xu hướng gai
tăng, phức tạp hơn. Do số lượng gắn máy loại nhỏ, công xuất thấp, cũ kĩ lạc hậu
tăng, nên khả năng thải dầu và các chất thải khác vào môi trường biển nhiều hơn.
Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, trong 11 tháng
năm 2023, toàn quốc xảy ra 28 vụ an toàn giao thông đường thủy, làm 18 người
tử vong,7 người bị thương, làm hỏng hóc tàu thuyền gây thiệt hại về người và
của và nước ta đứng trước nguy cơ ô nhiễm biển do tràn dầu gây ra
Điển hình như vụ mới đây nhất năm 2023, tỉnh Quảng Ngãi đã họp khẩn
cùng các đơn vị có liên quan ứng phó với sự cố tràn dầu khi tàu Hoàng Gia 46
chở gạo va đập và đá ngầm và gãy đôi. Trên tàu có 8.000 lít dầu D.O nguy cơ
tràn dầu lớn. Lực lượng cứu hộ gặp khó khăn trong quá trình cứu hội do mưa
bão, đã có 3.500 lít dầu tràn ra biển khiến cho việc khắc phục sự cố trở nên khó khăn.
Ô nhiễm từ khí quyển
Đây là nguồn ô nhiễm biển riêng biệt, tự nó không làm ô nhiễm môi
trường biển mà bẩu khí quyển do các nguồn khác gây nên và qua đó trở thành
nguồn ô nhiễm môi trường biển. Bầu khí quyển bị ô nhiểm do các ngành công
nghiệp, đốt rác thải, từ hoạt động nông nghiệp, bụi từ đất, từ núi lửa, cháy
rừng... Các chất nhiễm bẩn được phát tán trong không khí làm bầu khí quyển bị
mô nhiễm. Cơn mưa tạo thành, những hạt mưa rơi xuống mang theo chất bẩn
hòa quyện vào biển, làm ô nhiễm môi trường biển
Để giảm thiểu được tình trạng ô nhiễm, cần hạn chế nguồn ô nhiễm.
Nguồn ô nhiễm biển rất nhiều dạng. Trong đó ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền
là nguồn ô nhiễm chính và chủ yếu. Vì thế cần quan tâm hơn đến vấn đề ô 1 0
nhiễm môi trường biển, nhằm tìm ra nguyên nhân và từ đó đưa ra được biện
pháp phù hợp nhằm bảo vệ môi trường biển xanh, sạch, đẹp.
1 .3. Thực trạng ô nhiễm môi trường biển
1 .3.1. Thực trạng ô nhiễm rác thải môi trường biển
Hiện nay, Việt Nam đang xếp thứ tư trên thế giới về vấn đề ô nhiễm rác
thải biển, đặc biệt là rác thải nhựa. Một số khu vực biển ven bờ và cửa sông
đang phải đối mặt với ô nhiễm dầu và chất hữu cơ liên quan đến chất thải sinh
hoạt. Tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa đặc biệt nghiêm trọng. Có những khu vực
rừng ngập mặn bị tràn ngập bởi túi rác thải nilon. Ngoài ra, lượng chất thải rắn
sinh hoạt từ 28 tỉnh ven biển của Việt Nam là khoảng 14,03 triệu tấn mỗi năm
(tương đương khoảng 38.500 tấn mỗi ngày).
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, mỗi năm Việt Nam thải ra biển
khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa, đứng thứ 4 thế giới về lượng rác thải nhựa ra
biển. Các nghiên cứu cũng cho thấy mức độ ô nhiễm kim loại nặng và các chất
độc hại khác đang ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường và sức khỏe cộng đồng.
Theo số liệu thống kê từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm tại Việt
Nam có 0,28 triệu đến 0,73 triệu tấn trong số đó bị thải ra biển( chiếm gần 6%
tổng lượng rác thải nhựa xả ra biển của thế giới) nhưng chỉ 27% trong số đó
được tái chế, tận dụng bởi các cơ sở, doanh nghiệp.
Đối với các nguồn thải trên biển, nguồn thải từ hoạt động nuôi trồng thủy
hải sản và hoạt động từ du lịch biển là nguồn thải có mức độ tác động lớn nhất
và là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường cục bộ tại một số vịnh, đầm
phá ven biển. Hoạt động nuôi trồng thủy sản bất hợp lý cũng là nguyên nhân dẫn
đến ô nhiễm môi trường biển. Trong quá trình nuôi trồng thủy sản, một lượng
chất thải rắn được xả trực tiếp ra biển, chủ yếu là các loại phân bón, thức ăn nhân tạo.
Theo số liệu công bố ngày 16/2 từ Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch,
trước Covid -19 năm 2019, 85 triệu khách nội địa xả ra gần 61.000 tấn rác thải
nhựa, 18 triệu lượt khách quốc tế thải hơn 55.200 tấn. Tổng lượng rác thải nhựa
phát sinh từ khách du lịch năm 2019 là 116.000 tấn. Ước tính con số này vào
năm 2030 gần 340.000 tấn.
Phân loại, thu hồi, tái chế và xử lý rác thải nhựa còn hạn chế. Lượng chất
thải nhựa và túi nilon ở Việt Nam, chiếm khoảng 8-12% chất thải rắn sinh hoạt.
Nhưng chỉ có khoảng 11-12 % số lượng chất thải nhựa, túi nilon được xử lý, tái
chế, số còn lại chủ yếu là chôn lấp, đốt và thải ra ngoài môi trường. Đây có thể
dẫn đến thảm họa môi trường, đặc biệt ô nhiễm đại dương. Đặc biệt, trong rác
thải y tế có khoảng 5% là rác thải nhựa. Mỗi ngày, có khoảng 22 tấn chất thải
nhựa được thải ra từ các hoạt động y tế, trong số đó lẫn với rác thải nguy hại
(thuốc, hóa chất..). Thu gom, tái chế và chôn lấp loại rác thải nhựa này đều ảnh
hưởng tới sức khỏe cộng đồng và ô nhiễm môi trường. 11
1 .3.2. Thực trạng ô nhiễm dầu khí môi trường biển
Tình trạng môi trường biển Việt Nam hiện nay xuất hiện tình trạng ô
nhiễm dầu, chủ yếu là do các vụ tràn dầu từ tàu chở dầu gây ra. Tính từ năm 9
1 92 đến nay, Việt Nam có đến hơn 190 vụ tràn dầu gây ra những tổn thất
nghiêm trọng cho hệ sinh thái và nguồn tài nguyên biển. Điều này ảnh hưởng tới
sự phát triển của kinh tế biển, kinh tế - xã hội của đất nước.
Theo đó, tại các vùng biển quần đảo Trường Sa và các khu vực biển có
tuyến hàng hải quốc tế, qua ảnh chụp vệ tinh cho thấy tại những khu vực đó hàm
lượng dầu trong nước chiếm tỷ lệ cao. Xuất hiện nhiều vệt dầu loang trên các
tuyến hàng hải quốc tế dọc theo hải phận của Việt Nam.
Hoạt động dầu khí, vận tải biển, với quy mô khoảng 340 giếng khoan
thăm dò và khai thác dầu khí và 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng
công suất trên 550 triệu tấn/năm, nhiều năm qua có đóng góp lớn cho nền kinh
tế. Ngoài nước thải lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động
này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15 nghìn tấn dầu mỡ trôi
nổi, trong đó 23 - 30% là chất thải rắn nguy hại chưa xử lý (Các năm 2006 -
2 007 có khoảng 21.600 - 51.800 tấn dầu trôi nổi gây ô nhiễm biển Việt Nam từ
Bắc đến Nam, trong đó chỉ có 20 tỉnh, thành ven biển đã vớt và xử lý 1.721 tấn,
số còn lại khuyếch tán, lan rộng, gây hậu quả cho thực vật và sinh vật biển)...
Ngoài ra, sự cố tràn dầu cũng là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến môi trường biển.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong giai đoạn 1992 -
2 015 đã có 54 vụ tràn dầu nghiêm trọng xảy ra tại vùng biển Việt Nam (Từ năm
2 010 đến 2017, có đến trên 100 vụ việc tràn dầu từ tàu biển lớn nhỏ, nhiều vụ rò
rỉ khối lượng lớn: tàu chở hàng Onnekas One (quốc tịch Malaysia) gặp nạn trên
khu vực biển tỉnh Thừa Thiên Huế (ngày 23/12/2012); sự cố sà lan AZ Beijing
chìm tại Kiên Giang năm 2012; sự cố 10 tàu hàng gặp nạn do bão số 12 tại vùng
biển Quy Nhơn trong tháng 11/2017
Trong đó, một số những tai nạn gây tràn dầu ô nhiễm môi trường biển nổi bật như:
Tháng 9 - 2001, tàu Formosa (Liberia) đâm vào tàu Petrolimex 01
(Việt Nam) đã làm tràn 1000 lít dầu, gây nên ô nhiễm môi trường biển tại vịnh
Gành Rỏi thuộc Vũng Tàu.
Năm 2003, tàu Hồng Anh của Việt Nam trên đường từ Cát Lái đi
đến Vũng Tàu chở 600 tấn dầu bị sóng đánh chìm gây tràn dầu làm ô nhiễm vùng biển Cần Giờ.
Năm 2007, ở vùng biển Tuy An thuộc Phú Yên, tàu New Oriental
bị đắm tạo ra dầu loang trên biển lên đến 25ha.
Năm 2017, do ảnh hưởng của cơn bão số 12, 9 tàu chở hàng va đập
và chìm khiến tình trạng dầu loang rộng trên vùng biển Quy Nhơn. 1 2
Các sự cố môi trường do tràn dầu, hóa chất, xói lở bờ biển… ngày càng
gia tăng. Gần đây nhất, điển hình là sự cố ô nhiễm môi trường biển do việc xả
thải từ Khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa trong năm
2 016. Theo báo cáo của Chính phủ công bố, những thiệt hại về kinh tế và xã hội
là rất lớn. Về kinh tế, riêng số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100
tấn. Lâu dài, do các rạn san hô, phù du sinh vật cũng chết, khiến suy giảm đa
dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản khu vực. Ảnh hưởng đến sinh kế lâu dài của
người dân vùng ven biển: hơn 17.600 tàu cá và gần 41.000 người đã bị ảnh
hưởng trực tiếp; hơn 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng. Sản lượng khai
thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng. Hoạt động nuôi trồng thủy sản: có
khoảng 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại.
Ngoài ra, sự cố cũng gây ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động du lịch biển ở các
địa phương này. Về xã hội, sự việc gây ô nhiễm môi trường biển Formosa đã
khiến giảm lòng tin của người dân vào Chính phủ và các cơ quan liên quan.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỞNG BIỂN Ở VIỆT NAM
2 .1. Sơ lược về quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bảo vệ môi
trường biển ở Việt Nam
Ngày 05 tháng 06 năm 1993, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 03-NQ/TW
về một số nhiệm vụ phát triển trong những năm trước mắt: “Chúng ta phải đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền
và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển”. Để thực
hiện Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ thị triển khai như Chỉ
thị 399 ngày 05 tháng 08 năm 1993 về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt và Chỉ thị 171/TTg năm 1995 triển khai Nghị quyết 0 3- NQ/TW.
Lần đầu tiên, văn kiện của Đảng đã ghi nhận bảo vệ môi trường biển là
một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách biển. Điều này đã đánh dấu
một bước tiến mới trong việc nhận thức tầm quan trọng của môi trường biển.
Ngày 22 tháng 09 năm 1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xác
định: “Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế biển hướng mạnh vào
xuất khẩu, dựa trên những tiến bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc
đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài
nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực”; “tăng cường đầu tư cho
nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm thăm dò dầu khí, khoáng sản biển, nguồn
lợi hải sản và năng lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển, tiếp tục
hiện đại hoá khí tượng- thuỷ văn”. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, một loạt
1 7 kế hoạch về phát triển kinh tế biển đã được thông qua như: Chiến lược phát
triển thuỷ sản 2010; Chiến lược phát triển du lịch 2010; Chiến lược phát triển
giao thông vận tải 2010… 1 3
Để tiếp tục phát huy tiềm năng của biển, ngày 09 tháng 02 năm 2007, Ban
Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó khẳng định bảo vệ môi trường biển
là một trong những định hướng chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, có một số văn bản luật đã được ban hành để đảm bảo công tác bảo vệ
môi trường biển được thực hiện có hiệu quả. Đó là: Bộ luật Hàng hải năm 2015,
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, Luật Thủy sản năm 2017,… Trước đây, các
quy định về bảo vệ môi trường biển nằm rải rác trong nhiều văn bản luật, gây
khó khăn cho việc thống nhất áp dụng. Năm 2015, các quy định đã được tập hợp
đầy đủ hơn trong Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 ban
hành ngày 25 tháng 06 năm 2015 (sau đây gọi là Luật tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo năm 2015), từ đó đã khắc phục được những bất cập nảy sinh
trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển; giúp cơ
quan nhà nước quản lý tổng hợp hiệu quả.
2 .2. Nguyên tắc của pháp luật về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam
Ngành luật nào cũng được xây dựng dựa trên những nguyên tắc nhất định.
Các nguyên tắc giống như xương sống, làm giá đỡ cho toàn bộ hệ thống pháp
luật. Trong pháp luật bảo vệ môi trường biển, nguyên tắc bảo vệ môi trường biển
chính là những tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động xây dựng, thực hiện
pháp luật của Nhà nước và công dân, hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường
biển. Nguyên tắc bảo vệ môi trường được cụ thể hóa trong Điều 4 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2020 đồng thời cũng chính là các nguyên tắc chủ đạo trong bảo
vệ môi trường biển ở Việt Nam. Các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ
quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân.Ngay từ thời xa xưa,
ông cha ta đã ý thức rất rõ về vai trò của biển trong đời sống con người. Biển
không chỉ mang lại nguồn lợi hải sản; cung cấp nguồn tài nguyên dồi dào, phong
phú; giúp cho cuộc sống của nhiều ngư dân trở nên thuận lợi hơn mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong phát triển du lịch, khai thác dầu mỏ,… Biển tác động
trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế và mang lại giá trị quan trọng đối với
an ninh- quốc phòng của mỗi quốc gia ven biển. Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận:
trong 14 cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù đối với nước ta, thì có 10 cuộc
bắt đầu từ hướng biển. Có thể nói, biển và môi trường biển có một vai trò hết
sức to lớn. Chính vì vậy, môi trường biển cần được bảo vệ để có thể đảm bảo
cho cuộc sống của người dân cũng như lợi ích quốc gia. Trách nhiệm này không
thuộc về bất kỳ tổ chức, cá nhân hay cơ quan nhà nước nào hết mà là trách
nhiệm của toàn xã hội.
Thứ hai, Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên
quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Hoạt động bảo vệ môi trường
phải gắn kết với phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên và được xem xét, đánh giá
trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển.Muốn phát triển kinh tế bễn 1 4
vững thì phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Bảo vệ được môi trường giúp ổn
định xã hội yên tâm phát triển kinh tế.
Thứ ba, bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với an sinh xã hội, quyền trẻ em,
bình đẳng giới, bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong
lành. Ngày nay, tình trạng ô nhiễm ở mức đáng báo động không chỉ đối với
không khí, đất hay nước mà biển cũng đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ đến
từ việc phát triển kinh tế không chú trọng bảo vệ môi trường. Đảng và Chính
phủ cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng của phát triển kinh tế bền vững. Bên
cạnh đó, sống trong môi trường trong lành chính là quyền chính đáng của con
người, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế. Công ước Luật biển 1982
cũng khẳng định việc ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển chính là để
giữ cho môi trường biển luôn trong lành. Ngay trong Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013 (sau đây gọi là Hiến pháp năm
2 013) cũng chỉ ra rằng: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong
lành” (Điều 43). Đồng thời, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 của Việt Nam đã
nêu rõ: bảo vệ môi trường để con người sống trong môi trường trong lành.
Thứ tư, hoạt động bảo vệ môi trường phải được tiến hành thường xuyên,
công khai, minh bạch; ưu tiên dự báo, phòng ngừa ô nhiễm, sự cố,
suy thoái môi trường, quản lý rủi ro về môi trường, giảm thiểu phát sinh chất
thải, tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải để khai thác giá trị tài nguyên
của chất thải.Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên môi trường sẽ được bảo
vệ tốt nhất thông qua nhiều biện pháp phòng ngừa thiệt hại hơn là thông qua
những nỗ lực hoặc đền bù sau khi gây tổn hại cho môi trường. Các biện pháp
phòng ngừa sẽ trở nên hữu hiệu hơn khi mục đích của việc thực hiện là giảm
thiểu các nguồn tổn hại cho môi trường biển thay vì giải quyết những hậu quả đã
bị gây ra. Do đó, bảo vệ môi trường biển không phải là việc chỉ làm trong một
thời gian rồi để đó mà cần được tiến hành thường xuyên, có như vậy thì mới hạn
chế được những sự cố môi trường xảy ra
Thứ năm, bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên,
văn hóa, lịch sử, cơ chế thị trường, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy
phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.Con người không thể tạo
ra biển mà biển được hình thành từ tự nhiên sau quá trình dài hàng ngàn năm, do
đó, bảo vệ môi trường biển phải gắn liền với các quy luật tự nhiên. Mỗi quốc gia
sẽ có một cơ chế khác nhau để bảo vệ môi trường, tùy thuộc vào tình hình xã
hội, kinh tế, lịch sử của họ
Thứ sáu, cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được
hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ
môi trường; gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi
thường thiệt hại, khắc phục, xử lý và chịu trách nhiệm khác theo quy định của
pháp luật.Bất kỳ ai được hưởng lợi từ môi trường biển nên có nghĩa vụ đóng
góp tài chính để hạn chế các tác động do hành vi khai thác của mình gây ra. “Có
qua có lại” là nguyên tắc hoàn toàn có thể thực hiện được.Cuối cùng đó là khi cá
nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường thì phải có biện pháp khắc phục, giảm 1 5
thiểu tối đa tác động do hành vi của mình gây ra. Hiến pháp năm 2013 đã chỉ ra
rằng: “Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên
nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm
khắc phục, bồi thường thiệt hại” (Khoản 3 Điều 63 Hiến Pháp 2013)
Thứ bảy, hoạt động bảo vệ môi trường bảo đảm không gây phương hại chủ
quyền, an ninh và lợi ích quốc gia, gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
2 .3. Những nội dung cơ bản về pháp luật bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam
2 .3.1. Phân cấp vùng rủi ro, phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển
Nguy cơ biển bị ô nhiễm là luôn luôn tồn tại nhưng khó có thể ngăn ngừa
rủi ro tốt nếu như không phân vùng, phân cấp rõ ràng vùng rủi ro ô nhiễm môi
trường biển vì biển trải dài trên diện tích lớn và không phải vùng biển nào cũng
có đặc trưng tương tự nhau. Trước hết, cần hiểu chính xác về khái niệm rủi ro ô
nhiễm môi trường biển.
Theo Khoản 11 Điều 3 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm
2 015 thì rủi ro ô nhiễm môi trường biển là “khả năng xảy ra ô nhiễm và thiệt hại
về người, tài sản, tài nguyên, điều kiện sống và hoạt động kinh tế - xã hội do ô
nhiễm môi trường biển” gây ra.
2 .3.2. Phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển Vi
ệc phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển cần tuân theo
nguyên tắc được quy định ở Điều 3 Thông tư số 26/2016/TT-BTNMT của Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 29 tháng 09 năm 2016 quy định chi
tiết tiêu chí phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo và hướng
dẫn phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo (sau đây gọi là
Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).
Thứ nhất, vùng biển Việt Nam được phân chia thành các ô bờ, ô ven bờ
và ô biển; các ô có hình chữ nhật. Việc xác định ô bờ phải căn cứ vào “đặc
điểm, điều kiện tự nhiên, địa chất của đường bờ, các hệ sinh thái vùng đất ven
biển, các hoạt động kinh tế- xã hội ở vùng đất ven biển; chiều dài cạnh lớn của
ô không lớn hơn khoảng cách từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều
năm đến đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm”. Việc
xác định ô ven bờ phải căn cứ vào “chế độ động lực, các hệ sinh thái vùng
biển ven bờ, các hoạt động kinh tế- xã hội ở vùng bờ; chiều dài cạnh lớn của ô
không lớn hơn 06 hải lý”. Xác định ô biển phải căn cứ vào “đặc điểm, tính
chất về chế độ hải văn, các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển; chiều
dài cạnh lớn của ô không lớn hơn 12 hải lý”. (Điều 4 Thông tư 26/2016/TT- BTNMT).
Thứ hai, phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển phải “căn cứ
vào các thông tin, số liệu đo đạc, quan trắc các thành phần môi trường và sử
dụng các công cụ tính toán, mô phỏng quá trình phát thải, lan truyền, biến đổi, 1 6
chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển”.
Cuối cùng, phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển phải căn cứ
vào “kết quả tính toán, xác định giá trị của các chỉ số tương ứng với các tiêu
chí phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển đối với từng ô và được thể
hiện trên bản đồ theo quy định của pháp luật về thành lập bản đồ chuyên đề”.
Tiêu chí phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển sẽ được Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định; sau đó Bộ Tài nguyên và Môi
trường sẽ phối hợp cùng các Bộ, cơ quan ngang bộ, các tỉnh và thành phố để
lập bản đồ phân vùng cho khu vực; cuối cùng trình lên Thủ tướng Chính phủ.
Cấp rủi ro được xác định trên cơ sở giá trị chỉ số phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm
môi trường biển và hải đảo của mỗi ô đó.
Các tiêu chí phân cấp vùng rủi ro (Điều 5 Thông tư 26/2016/TT- BTNMT) bao gồm:
Thứ nhất, mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ ô nhiễm môi trường biển.
Chỉ số mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ ô nhiễm môi trường biển được
chia thành bốn mức cụ thể: thấp, trung bình, cao và rất cao. Chỉ số này căn cứ
vào chỉ số rủi ro môi trường trung bình của các ô (Điều 6 Thông tư 2 6/2016/TT- BTNMT).
Thứ hai, về phạm vi ảnh hưởng. Chỉ số của phạm vi ảnh hưởng “căn cứ
vào mức độ ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường của ô tính toán đối với các ô
liền kề trên cơ sở áp dụng mô hình mô phỏng quá trình phát thải, lan truyền,
biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển”. Phạm vi ảnh
hưởng cũng được chia thành bốn mức độ là: thấp, trung bình, cao và rất cao.
(Điều 7 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).
Thứ ba, đó là tiêu chí về chỉ số mức độ nhạy cảm môi trường và khả
năng gây thiệt hại đến sức khỏe con người, các hệ sinh thái biển, các hoạt
động khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Các chỉ số này đều được căn cứ vào
các chỉ số của các tiêu chí thành phần đối với ô tính toán (ô bờ, ô ven bờ và ô
biển). (Điều 8 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).
Trong đó, mức độ nhạy cảm với môi trường sẽ căn cứ vào loại hình, tính
chất đường bờ của các ô bờ; mức độ phát tán, trao đổi vật chất gây ô nhiễm
của ô tính toán đối với môi trường xung quanh của những ô ven bờ và các ô
biển. (Khoản 2 Điều 8 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).
Khả năng gây thiệt hại tới sức khỏe con người được căn cứ tùy theo khu
vực, loại hình hoạt động có khả năng gây ra ô nhiễm môi trường như: Khu vực
có hoạt động du lịch, thể thao, giải trí; Khu vực có các hoạt động khai thác, sử
dụng tài nguyên biển có nguy cơ gây ra sự cố tràn dầu, hóa chất độc; khu vực
có hoạt động nhận chìm các chất thải từ thủy sản hoặc các chất thải phát sinh
từ hoạt động chế biến thủy sản.
Xác định khả năng gây thiệt hại đến các hệ sinh thái biển, hải đảo dựa 1 7
vào đặc điểm các hệ sinh thái, chức năng dịch vụ hệ sinh thái như: Khu vực
có hệ sinh thái vùng triều, hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái thảm cỏ
biển; khu bảo tồn biển, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc
gia; vùng đất ngập nước có hệ sinh thái đặc thù, đa dạng sinh học cao, có chức
năng duy trì nguồn nước và cân bằng sinh thái, có tầm quan trọng quốc tế,
quốc gia; khu vực có rừng đặc dụng; khu vực có giá trị đặc biệt cho nghiên cứu khoa học.
Khả năng gây thiệt hại đến các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên
biển và hải đảo được xác định tùy theo mức độ của khu vực dễ bị tổn thương
do thiên tai, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
2 .3.3. Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển
Bên cạnh những quy định về phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường
biển,Thông tư 26/2016/TT-BTNMT cũng quy định việc phân vùng rủi ro ô
nhiễm môi trường biển.
Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển (Điều 48 Luật Tài nguyên
môi trường biển và hải đảo năm 2015) cho phép xác định khả năng xảy ra ô
nhiễm môi trường biển, mức độ thiệt hại do ô nhiễm môi trường biển gây ra để
làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật và chuẩn bị nguồn lực
ứng phó, ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại môi trường do ô nhiễm biển gây ra,
tức là giảm rủi ro ô nhiễm môi trường biển tới mức thấp nhất.
Vùng rủi ro được chia thành bốn cấp lần lượt là: vùng rủi ro ô nhiễm
thấp, ô nhiễm trung bình, ô nhiễm cao và ô nhiễm rất cao. Việc phân cấp rõ
ràng như vậy sẽ giúp cho cơ quan nhà nước, người dân có những biện pháp
ứng phó thích hợp khi sự cố môi trường xảy ra. Tùy từng cấp sẽ áp dụng
phương thức khác nhau cho thích hợp.
Việc phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển được thực hiện theo các
bước quy định ở Điều 9 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT, bao gồm: “Tính toán,
xác định giá trị chỉ số phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải
đảo; đánh giá, xác định cấp rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; lập bản
đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo”.
Sau khi đã tính toán, xác định giá trị chỉ số phân cấp vùng rủi ro ô
nhiễm môi trường biển cũng như chỉ số về mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ
ô nhiễm môi trường biển, cần phải áp dụng mô hình mô phỏng quá trình phát
thải, lan truyền, biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển
và hải đảo. Trình tự áp dụng mô hình từ quy định của Khoản 2 Điều 12 Thông
tư 26/2016/TT-BTNMT như sau:
Chuẩn bị thông tin, dữ liệu phục vụ tính toán;
Xử lý tài liệu địa hình để thiết lập mô hình;
Xây dựng miền tính, lưới tính;
Thiết lập các điều kiện biên;
Thiết lập các điều kiện ban đầu; 1 8
Thiết lập các thông số mô hình cơ bản;
Kết nối các mô hình động thủy lực với mô hình mô phỏng quá trình lan
truyền, biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển và hải đảo;
Hiệu chỉnh và xác định bộ thông số cho mô hình;
Kiểm định và đánh giá mức độ tin cậy của các kết quả mô hình;
Tính toán, mô phỏng các kịch bản;
Lập báo cáo kết quả tính toán.
Việc đánh giá mức độ chính xác, phù hợp của mô hình phải được tiến
hành khi hiệu chỉnh và xác định bộ thông số cho mô hình; việc kiểm định và
đánh giá độ tin cậy của các kết quả mô hình được thực hiện theo trình tự sau
đây: đầu tiên, “đánh giá trực quan thông qua việc so sánh chuỗi số liệu thực
đo và chuỗi số liệu tính toán, mô phỏng theo mô hình; so sánh sự đồng bộ giữa
hai chuỗi số liệu”, sau đó “tính toán, xác định mức độ tương quan giữa chuỗi
số liệu thực đo và chuỗi số liệu tính toán, mô phỏng theo mô hình” và cuối
cùng là “tính toán hệ số hiệu quả mô hình theo công thức”. (Khoản 3 Điều 12
Thông tư 26/2016/TT- BTNMT).
Sau khi tính toán, áp dụng mô hình phù hợp thì bước cuối cùng trong
phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển đó là lập bản đồ phân vùng rủi ro ô
nhiễm môi trường biển và hải đảo.
2 .3.4. Quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển
Phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là hoạt động quan trọng
trong bảo vệ môi trường biển. Pháp luật Việt Nam chưa đưa ra một định nghĩa
chính thức, cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển.
Bảo vệ môi trường không phải là trách nhiệm của cá nhân, hay của bất kì
một cơ quan nào mà nó đòi hỏi sự chung tay góp sức từ cộng đồng, quy định tại
Điều 43:Hiến pháp 2013: "Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường". Quy định
này cho thấy bảo vệ môi trường không chỉ riêng một cá nhân hay tổ chức cụ thể
nào mà là nghĩa vụ của mọi người. Việc giám sát, quản lý của cơ quan nhà nước
mang tính tương đối nên nếu chỉ mỗi cơ quan nhà nước bảo vệ môi trường biển
trong khi chính mỗi người là những chủ thể trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm
thì khó có thể đảm bảo môi trường trong sạch. Ngược lại, chỉ có cá nhân, tổ
chức tham gia bảo vệ thì khó có thể thực hiện tốt được vì không có định hướng,
chỉ đạo của nhà nước. Do vậy, bảo vệ môi trường biển chỉ có thể được thực hiện
tốt nếu như cả cơ quan nhà nước và người dân cùng nỗ lực chung tay hành động.
Việc kiểm soát môi trường phải tuân theo những nguyên tắc nhất định,
quy định tại điều Điều 42 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015:
“Nguyên tắc kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo”.
Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo phải được thực hiện thường
xuyên, ưu tiên công tác phòng ngừa; kịp thời xử lý, khắc phục có hiệu quả tình
trạng ô nhiễm, sự cố môi trường biển, suy thoái môi trường biển và hải đảo. 1 9