



















Preview text:
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Đề thi gồm 2 câu, câu 1 định nghĩa, câu 2 phân tích
1. Phân biệt khái niệm: văn hóa, văn minh, văn vật, văn hiến, bản sắc văn hóa. Nêu mối quan hệ
giữa con người với văn hóa. Nêu đặc trưng và chức năng của văn hóa. Nêu các cơ sở
định vị văn hóa Việt Nam.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía
cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như
nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Theo GS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là 1 hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với
Môi trường tự nhiên và Môi trường xã hội”. Khái niệm này đã nêu ra 4 đặc trưng cơ bản của văn
hóa là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.
Với Từ Chi, ông cho rằng “ Tất cả những gì không phải là tự nhiên đều là văn hóa”, tức nhấn mạnh
vào vai trò của con người đối với việc sáng tạo văn hóa.
Còn theo chủ tịch HCM, Người lại quan niệm:
” Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ
cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa”.
Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn. Suy cho cùng, mọi
hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, những
hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập
quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền
từ đời này qua đời khác thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà
thành di sản văn hóa của toàn nhân loại.
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự
nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con
người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Phân biệt văn hóa, văn hiến, văn minh, văn vật
Những khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật thường được sử dụng rất nhiều trong cuộc
sống nhưng với những ý nghĩa chưa thực sự chính xác. Vì thế, chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa
những phạm trù này là cần thiết cho các quá trình nhận thức và nghiên cứu. 3.1. Văn minh
Theo quan điểm của các nước thì văn minh được biết đến như sau -
Phương Đông: văn minh chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn hóa, nghệthuật -
Phương Tây: (civitas: đô thị, thành phố) văn minh chỉ xã hội đạt tới giai đoạn tổ chức đô thị vàchữ viết -
Văn minh chỉ trình độ văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho 1 khu vực rộng lớn,
1 thờiđại hoặc cả nhân loại. Văn minh có thể so sánh cao thấp, văn hóa chỉ là sự khác biệt.
Văn minh (civilization) gốc La tinh là “civitas”, nghĩa là “đô thị”, hàm ý một giai đoạn con người đã
thoát khỏi tình trạng cư trú tự nhiên sang cư trú có bố trí quy hoạch, mang nhiều yếu tố nhân tạo. -
Do vậy khái niệm văn minh chỉ khía cạnh vật chất, kĩ thuật. Văn minh là những thành tựu
đã đạtđược khi văn hóa phát triển đến một mức độ nhất định của một không gian xã hội nhất định.
Ví dụ: văn minh Ai Cập cổ đại, văn minh Địa Trung Hải, văn minh Hoa-Hạ, văn minh trống đồng,
văn minh cơ khí, văn minh châu Âu...
+ Văn hóa xuất hiện trước văn minh. Trước khi xuất hiện văn minh Văn Lang- Âu Lạc, Việt Nam đã
xuất hiện một số nền văn hóa như: văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn. 3.2. Văn hiến:
văn = vẻ đẹp, hiến = hiền tài. Văn hiến thiên về các giá trị tinh thần do hiền tài sáng tạo ra. VD:
chữ viết, thơ văn, phong tục tập quán.
3.3. Văn vật: văn = vẻ đẹp, vật = vật chất. Văn vật thiên về những giá trị văn hóa vật chất.
Biểu hiện ở những công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử. VD: Phở Hà
Nội, Cốm Làng Vòng, Gốm Bát Tràng Văn hiến, văn vật chỉ là 1 bộ phận của văn hóa.
Xét trong mối tương quan liên hệ với nhau, có thể thấy:
Về đối tượng, văn hóa bao gồm tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần, văn vật thiên về yếu tố vật chất
hơn, văn hiến chủ yếu tập trung về các yếu tố tinh thần con văn minh lại thiên về các yếu tố vật chất kĩ thuật.
Trong khi văn hóa, văn hiến, văn vật có tính lịch sử, tính dân tộc thì văn minh lại có tính quốc tế và
chỉ sự phát triển theo giai đoạn.
Cũng bởi những thuộc tính đó mà văn minh thường gắn với xã hội phương tây còn văn hóa ,văn
hiến văn vật lại thân thuộc hơn với xã hội phương Đông.
Kẻ bảng dễ quan sát hơn Văn hóa Văn hiến Văn vâṭ Văn minh
Vât cḥ ất và tinh Thiên về tinh Thiên về vâṭ
Thiên về yếu tố vât cḥ ất khoa Đối tượng thần thần chất học kĩ thuâṭ
Chỉ sự phát triển, mang tính giai Tính lịch sử đoạn Tính chất Tính dân tôc ̣ Tính quốc tế Kiểu xã hôị Phương Đông Phương Tây
4. Mối quan hệ chủ thể - Khách thể giữa con người và văn hóa
Một trong những khía cạnh cần xem xét trong vấn đề là về mối quan hệ giữa con người và văn hóa.
Mối quan hệ này được bộc lộ ra ở 3 khía cạnh quan trọng
Khi con người sáng tạo ra văn hóa thì khi đó con người đóng vai trò là chủ thể sáng tạo của văn hóa
VD: Bằng cách sử dụng cồng chiêng vào những dịp lễ hội, những sự kiện quan trọng của con người
và đưa cả vào hơi thở của cuộc sống thường ngày, người dân Tây Nguyên đã làm nên một kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể - không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Đồng thời, con người cũng là sản phẩm của văn hóa, con người là đại biểu mang những giá trị văn
hóa do mình sáng tạo ra, bị văn hóa tác động trở lại => khách thể
VD: Việt Nam trồng lúa, văn hóa lúa nươc 🡪 ăn cơm; Mĩ trồng lúa mì 🡪 ăn bánh mì
VD: Con người sáng tạo nên ngôn ngữ, vận dụng nó vào trong cuộc sống (chủ thể) nhưng những thế
hệ sau lại bị chính ngôn ngữ ấy quy định phương tiện giao tiếp (khách thể)
Đặc trưng của văn hóa 2.1. Văn hóa có tính hệ thống
Cần phải phân biệt rạch ròi giữa tính hệ thống với tính tập hợp. Tính hệ thống của văn hóa có “xương
sống” là mối liên hệ mật thiết giữa các thành tố với nhau, các thành tố có thể bao gồm hàng loạt các
sự kiện, nó kết nối những hiện tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình phát triển.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện được các chức năng của xã hội. Lý do là bởi văn
hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh vực. Từ đó có thể làm tăng độ ổn định của xã hội, cung
cấp và trang bị cho xã hội những phương tiện cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên.
Nói cách khác, văn hóa xây lên nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiến bộ của xã hội. Có lẽ chính
vì thế mà người ta thường gắn văn hóa với loại từ “nền” để tạo thành cụm từ thông dụng “nền văn hóa”.
2.2. Văn hóa có tính giá trị
Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa là tốt đẹp, là có giá trị. Người
có văn hóa cũng chính là một người có giá trị. Do đó mà văn hóa trở thành thước đo chuẩn mực cho con người và xã hội.
Văn hóa tự chính bản thân nó cũng mang trong mình những giá trị riêng bao gồm giá trị vật chất và
giá trị tinh thần. Xét về mặt ý nghĩa thì văn hóa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá
trị đạo đức. Đứng trên góc độ thời gian lại có thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.
Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác nhau ta lại có thể có cái nhìn
khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta có thể đánh giá văn hóa dưới những góc độ khách quan quan khác nhau.
2.3. Văn hóa có tính nhân sinh
Tính nhân sinh của văn hóa có nghĩa rằng văn hóa được coi như một hiện tượng xã hội. Hiện tượng
xã hội được hiểu là những hiện tượng do con người sáng tạo ra hay còn gọi là nhân tạo, khác với các
giá trị tự nhiên hay còn gọi là thiên tạo. Chính vì là một thực thể có tính nhân sinh nên văn hóa chịu
tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của con người.
Đồng thời, vì có tính nhân sinh nên văn hóa vô tình trở thành sợi dây liên kết giữa người với người,
vật với vật và cả vật với người. Đó chính là ý nghĩa nhân sinh sâu sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.
2.4. Văn hóa có tính lịch sử
Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một không gian và thời gian nhất định.
Chính vì thế mà văn hóa cũng gắn liền với chiều dài lịch sử, thậm chí là văn hóa hàm chứa lịch sử.
Tính lịch sử khiến cho văn hóa mang đặc trưng có bề dày, có chiều sâu, có hệ giá trị. Nhờ có tính lịch
sử mà văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách khác đó là biến văn hóa trở thành truyền thống văn hóa.
Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được tích lũy, được gìn giữ và không ngừng tái tạo, chắt lọc
những tinh hoa, không ngừng sản sinh và phát triển để hoàn thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, …
3. Chức năng của văn hóa là gì?
3.1. Chức năng tổ chức xã hội
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện chức năng tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội cho phép
con người tổ chức, tụ họp thành những đơn vị làng, xã, thành phố đến quốc gia, khu vực.
Cụ thể, văn hóa gia đình chính là yếu tố giúp con người hình thành nhận thức và hành động duy trì,
phát triển các mối quan hệ trong gia tộc, dòng họ. Chính sự duy trì và bảo tồn này cũng giúp lưu giữ
nguyên vẹn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp dẫu trải qua hàng ngàn năm đổi thay.
3.2. Chức năng điều chỉnh xã hội
Chức năng này xuất phát từ đặc trưng mang tính giá trị của văn hóa. Mỗi một nền văn hóa đều có
những giá trị riêng, những giá trị này được hình thành thông qua quá trình con người điều chỉnh thói
quen, nhận thức và hành động để có thể thích nghi với sự thay đổi từ môi trường.
Nhờ có chức năng này mà ta có thể thấy được sự đa dạng giữa các nền văn hóa với nhau, đồng thời
cũng có thể tìm thấy những nét tương đồng đáng ngạc nhiên giữa các nền văn hóa. Đó chính là mục
tiêu và động lực trong sự phát triển của nhân loại.
3.3. Chức năng giao tiếp
Tính nhân sinh của văn hóa tạo ra chức năng giao tiếp. Chính vì là một sợi dây vô hình kết nối con
người với con người nên văn hóa có khả năng “giao tiếp”. Đó là lý do mà văn hóa chỉ được dùng với
xã hội loài người, vì chỉ có con người mới có thể giao tiếp với nhau thông qua hệ thống ngôn ngữ và
ký hiệu. Trong đó, hệ thống ngôn ngữ và ký hiệu chính là các sản phẩm của văn hóa.
Nói cách khác, văn hóa tạo ra môi trường giao tiếp cho con người. Nhờ có văn hóa mà con người có
thể giao tiếp với nhau bằng lời nói, cử chỉ, hành động,… để truyền đạt thông tin cho nhau.
3.4. Chức năng giáo dục
Văn hóa có tính lịch sử, vì thế mà nó có chức năng giáo dục. Lý do là bởi văn hóa có năng lực thông
tin hoàn hảo. Sự truyền đạt thông tin này được thể hiện thông qua sự quan sát và bắt chước hành vi.
Thế hệ sau quan sát và bắt chước hành vi của thế hệ trước, sự tích lũy này diễn ra từng ngày, sự
chuyển giao cứ thế được thực hiện.
Chính vì thế mà văn hóa luôn gắn liền với những chuẩn mực đạo đức, người có văn hóa tức là người
được tiếp nhận giáo dục, biến những giá trị mình thu nạp trở thành giá trị của riêng bản thân, văn hóa
khi ấy được nâng cấp lên trở thành bản sắc của mỗi con người.
Cơ sở để định vị Văn hóa Việt Nam
- Địa lý - Văn hóa (Đào Duy Anh ủng hộ cơ sở này) *Yếu tố đặc thù:
- Nằm khu vực cư trú của người Indonesia lục địa, kết hợp cùng địa bàn của người Bách Việt,
từsông Dương Tử kéo dài đến đồng bằng sông Mekong.
- Khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm cao, có gió mùa. Trạng thái khí hậu đó ảnh hưởng tới tính chất thảomộc
và sự lao động của con người (cũng như tính cách của họ):
+ Trồng lúa nước vì đó là loại cây cần nắng và nước. Ở Nam Việt có 2 mùa rõ rệt, trồng lúa vào mùa
mưa tháng 1,2 hay tháng 10. Miền Bắc, Trung Việt có ruộng 2 mùa là tháng 10 và tháng 3.
+ Sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên
+ Đề cao vai trò của phụ nữ (đặc trưng của văn hóa thực vật, nơi chế độ mẫu hệ dựa trên kinh tế hái lượm, trồng trọt)
+ Sùng bái mùa màng, sinh nở (văn hóa phồn thực (phồn thực là tín ngưỡng thờ cơ quan sinh dục của
cả nam lẫn nữ hoặc thờ hành vi giao phối để nói về ước vọng phồn sinh), nông nghiệp). --> yếu tố địa
- văn hóa tạo ra các phẩm chất văn hóa độc đáo - bản sắc văn hóa Việt * Bản sắc văn hóa:
- Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao (ảnh hưởng môi trường nước) - Tính dung
chấp cao (ảnh hưởng của hoạt động giao thương giữa đường thủy, đường bộ với các nước trong khu vực)
- Không có các công trình kiến trúc đồ sộ (do vùng đất trẻ lấn dần ra biển, kết cấu không bềnvững,
cư dân thường xuyên sống chung với nước)
-Tồn tại nhiều loại hình nghệ thuật gắn với sông nước (chèo, rối nước, đua thuyền…) - Nhân học - Văn hóa
- Tôn giáo (Chức năng giao tiếp)
- Giao lưu tiếp biến văn hóa (Chức năng giáo dục)
Giao lưu văn hóa, tiếp biến với Ấn Độ:
Văn hóa Ấn Độ thẩm thấu rất sâu vào trong tâm thức người việt vì bản tính hòa
bình, giá trị nhân đạo và con đường du nhập tự nhiên, phi cưỡng chế của nền văn hóa này. Về Tôn giáo:
Tôn giáo ở Việt Nam được ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo của Ấn Độ. Sự du nhập của
Phật giáo vào phía bắc Việt Nam theo đường biển.Bằng chứng là sự hiện diện của Luy
Lâu ( Bắc Ninh) – một trung tâm phật giáo tồn tại vào khoảng thế kỉ thứ nhất sau công
nguyên. Cho đến nay, Phật giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất ở Việt Nam.
Từ tính ngưỡng thờ các hiện tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp tính ngưỡng phồn thực
của văn hóa bản địa người việt đã thâu phán những yếu tố của đạo phật và tạo nên một
dòng phật giáo dân gian thời tứ pháp hết sức đặc sắc….
Phật giáo ấn độ đến giao châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn là một
hiện tượng văn hóa. Cùng với đạo phật một tổng thể văn hóa ấn độ đã ảnh hưởng đến
việt nam ngay từ đầu công nguyên: ngon ngư, âm nhạc, vũ đạo, nghệ thuật…. Cũng đã
hình thành ở việt nam những công trình văn hóa, nghệ thuật có giá trị: hệ thống chùa, tháp
Nghệ thuật kiến trúc: Sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ trong các công trình có tính
chất tôn giáo như đền,tháp,điêu khắc trên phù điêu. Điển hình là Thánh Địa Mỹ Sơn
được xây dựng dựa trên kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của
phong cách Ấn Độ. Khu Thánh địa gồm nhiều cụm tháp, bố cục mỗi cụm tháp đều có
một tháp chính (Kalan) ở giữa và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Kalan
thường thờ Linga (sinh thực khí) hay linh tượng Shiva.
Văn hóa: ở thiên niên kỷ đầu công nguyên trên lãnh thổ việt nam hiện nay có ba nền
văn hóa: văn hóa cùng châu thổ bắc bộ, văn hóa chăm pa và văn hóa óc eo. ảnh
hưởng của văn hóa ấn độ khá toán diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa các
đạo sĩ bà la môn đến từ ấn độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình
của ấn độ ở tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hôi, đô thị, giao thông cùng
với việc truyền bá các thành tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo Văn hóa Ấn
độ có ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa của người Chăm Pa. Ảnh hưởng Ấn Độ đã
góp một phản cực kì quan trọng vào quá trình hình thành ra Vương Quốc Chămpa
cũng như một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đầu bản sắc văn hóa Chămpa . Có điều
ấy là kết quả của một quá trình giao lưu , tiếp xúc văn hóa giữa văn hòa Ấn Độ và văn hóa Chămpa.
Mối quan hệ Việt- Ấn xét từ góc độ tiếp biên văn hóa chủ yếu là thời cổ trung đại phần nào khẳng
định vị thế hay tầm quan trọng trong việc đối ngoại giữa hai quốc gia ngày nay. Sức mạnh tổng
hợp giữa Ấn Độ và Việt Nam đã đóng một vai trò thiết thực trong việc đưa hai nước lại gần nhau,
cùng nhau xây dựng nên mối quan hệ hợp tác và tin cậy lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử. oá
thường diễn ra theo hai hình thức:
+ Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du lịch, hôn
nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện. + Còn hình thức
cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược thôn tính đất đai và đồng
hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc gia khác. Tuy nhiên, trên thực tế,
các hình thức này lắm khi không thuần nhất. Có khi trong cái vẻ tự nguyện, có những
yếu tố mang tính cưỡng bức. Hoặc trong quá trình bị cưỡng bức văn hoá, vẫn có những
yếu tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.
VD:Phật giáo du nhập vào nước ta một cách tựnguyện theo hình thức di dân, truyền giáo
+ không tự nguyện(cưỡng bức): Dựa trên bạo lực và xâm chiếm lãnh thổ, “chủ thể mạnh”
buộc “chủ thểyếu” sửdụng văn hóa của họđểthay thếvăn hóa gốc, nhằm đi đến đồng hóa
văn hóa, thường xảy ra trong thời kì chiến tranh.
VD:Pháp thực hiện chính sách ngu dân, phá trường học, bắt dân ta học tiếng Pháp, học
trường Pháp, từbỏvăn hóa truyền thống dân tộc 2. Giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, văn hóa Việt Nam đã có những cuộc tiếp
xúc và giao lưu với các nền văn hóa phương Đông và phương Tây bằng những con
đường và hình thức khác nhau. Cùng với sự hình thành các yếu tố văn hóa bản địa, giao
lưu và tiếp biến với văn hóa Đông - Tây đã trở thành động lực to lớn cho sự biến đổi,
phát triển và làm nên những sắc thái riêng của nền văn hóa Việt Nam. b. Giao lưu và
tiếp biến với văn hóa Trung Hoa
Giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao lưu, tiếp
biến liên tục qua nhiều thời kỳ của lịch sử. Trung Hoa là một trong những trung tâm văn
hóa lớn ở phương Đông, có nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ. - Văn hóa Trung
Hoa là nền văn hóa nông nghiệp xuất phát từ nông nghiệp trồng khô (trồng kê và lúa
mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà. Do n văn hoá nhằm biến nước ta
trở thành một quận, huyện của Trung Hoa. Từ 1.407 đến 1.427 là giai đoạn nhà Minh
xâm lược Đại Việt. Trong số các kẻ thù từ phương Bắc, giặc Minh là kẻ thù tàn bạo nhất
đối với văn hóa Đại Việt. Minh Thành tổ ban lệnh cho viên tướng Trương Phụ chỉ huy
binh lính vào xâm lược Việt Nam: "Binh lính vào Việt Nam, trừ sách vở và bản in đạo
Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca
lý dân gian hay sách dạy trẻ nhỏ ... một mảnh, một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong
nước, phàm những bia do người Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn
thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn".
+ Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ hai của quan hệ giữa văn hóa
Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng diễn ra giao lưu tự nhiên giữa
tộc người Hán với cư dân Bách Việt. Nghiên cứu lịch sử uyển thế bị động thành thế chủ động
bằng cách bản địa hóa văn hóa Hán để tự làm giàu cho bản thân mình mà không bị đồng hóa về phương diện văn hóa.
- Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện giữa
văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động của văn hóa Việt
Nam trong diễn trình lịch sử. Người Việt luôn có ý thức vượt lên, thâu hóa những giá trị
văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa dân tộc và đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa.
+ Về văn hóa vật thể: Người Việt tiếp nhận một số kỹ thuật trong sản xuất như: kỹ
thuật rèn đúc sắt gang để làm ra công cụ sản xuất và sinh hoạt, kỹ thuật dùng phân bón
để tăng độ màu mỡ cho đất, kỹ thuật xây cất nơi ở bằng gạch ngói. Người Việt còn học
hỏi kinh nghiệm dùng đá đắp đê ngăn sóng biển, biết cải tiến kỹ thuật làm đồ gốm (gốm tráng men)…
+ Về văn hóa phi vật thể: Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người Trung Hoa (cả từ vựng và chữ
viết), tiếp thu hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại (Nho gia, Đạo gia) trên u vực Đông Nam Á và trên
nhiều bình diện có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình. Các thương
gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích thương mại, truyền bá, văn hóa, tôn giáo. -
Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, không gianvăn
hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên kỷ đầu Công nguyên,
trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu thổ Bắc bộ, văn
hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến ba vùng văn hóa
này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ khá toàn diện.
Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đạo sĩ Bà la môn đến từ Ấn Độ đã tổ chức,
xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở tất cả các mặt: tổ chức chính
trị, thiết chế xã hội, đô thị, giao thông cùng với việc truyền bá các thành tố văn hóa tinh
thần như chữ viết, tôn giáo .v.v.. -
Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương
quốcChăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Người Chăm đã tiếp nhận
mô hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và phát triển
các thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ để tạo dựng nên
nền văn hóa Chăm Pa với những sắc thái văn hóa đan xen giữa Ấn Độ, Đông Nam Á và
văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Điều này thể hiện trên các lĩnh vực, đặc biệt là chữ viết,
tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật. -
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt ở vùng châu thổ
Bắcbộ lại diễn ra trong đặc điểm hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc với văn
hóa Ấn Độ, văn hóa của người Việt đã định hình và phát triển. Dưới thời Bắc thuộc,
người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp qua các thương gia, các nhà sư từ Ấn
Độ sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những thế kỷ đầu Công nguyên, người Việt
tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất và phải đối mặt với văn
hóa Hán. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chỉ diễn ra trong tầng lớp dân chúng
nhưng lại có sức phát triển lớn. Vùng châu thổ Bắc Bộ trở thành địa bàn trung chuyển
văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo. Giao Châu trở thành trung tâm Phật giáo lớn ở
Đông Nam Á. Người Việt tiếp nhận Phật giáo một cách dung dị bởi đạo Phật ở một số
nội dung giáo lý phù hợp với tín ngưỡng bản địa Việt Nam.
***Nghiên cứu giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ cần chú
ý những đặc điểm sau:
+ Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần cơ bản
là hỗn dung tôn giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với tín ngưỡng
bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự
nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn hóa bản địa, người Việt
đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một dòng Phật giáo dân gian thờ Tứ
Pháp hết sức đặc sắc .v.v..
+ Phật giáo Ấn Độ đến Giao Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà còn là một
hiện tượng văn hóa. Cùng với đạo Phật, một tổng thể văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng đến
Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ đạo, nghệ thuật
.v.v..Cũng hình thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ thuật có giá trị: hệ thống chùa, tháp .v.v..
+ Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đối trọng với ảnh
hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn hoá của người Việt.
d. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây đặc biệt ở nửa sau của thế kỷ XIX đã tạo
bước chuyển có tính chất bước ngoặt trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam. -
Giao lưu với văn hóa phương Tây đã từng diễn ra rất sớm trong lịch sử.Nghiên cứu
văn hóa khảo cổ, người ta thấy trong văn hóa Óc Eo có nhiều di vật của các cư dân La Mã
cổ đại, chứng tỏ đã có những quan hệ thương mại quốc tế rộng rãi. Thế kỷ XVI, các linh
mục phương Tây đã vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay thuộc tỉnh Nam Định) và chúa
Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng như các chúa Nguyễn ở đây, không dùng hàng Tây... Tuy
nhiên, bằng thái độ mềm dẻo, cởi mở, dần dần họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa mới để
phát triển văn hóa dân tộc, sử dụng chúng trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. -
Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền vănhóa
trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn hóa Việt Nam. Lần đầu tiên
trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa phương Tây giai đoạn 1858 - 1945 đã
khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào vòng quay của văn minh công
nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi trên các phương diện: Thứ nhất là
chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một tôn giáo được dùng như chữ
viết của một nền văn hóa. Thứ hai là sự xuất hiện của các phương tiện văn hóa như nhà in,
máy in ở Việt Nam ...Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản. Thứ tư là sự xuất
hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu thuyết, thơ mới, điện ảnh, kịch nói, hội họa ...
Như vậy, với lối ứng xử thông minh, mềm dẻo, qua mỗi chặng đường thử thách, văn hóa
dân tộc lại trưởng thành và phát triển lên một bước mới. Cuộc hội nhập lần thứ nhất,
tiếp biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán đã làm giàu cho văn hóa Việt Nam, khiến
cho dân tộc đủ mạnh, tạo cơ sở cho sự phát triển trong kỷ nguyên Đại Việt. Hội nhập lần
thứ hai, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã góp phần hiện đại hóa văn hóa dân tộc trên mọi phương diện.
e. Giao lưu và tiếp biến trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập lần thứ ba, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền
văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" tinh hoa văn hoá thế giới dưới mọi hình thức, vừa kiên
quyết chống văn hoá độc hại. Đồng thời ra sức gìn gữ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. - Những khó khăn
+ Việc tiếp thu những giá trị văn hoá tiên tiến của thế giới với mục đích: Đưa nước ta
ngày càng phát triển, nhất là hạ tầng cơ sở vật chất và khoa học công nghệ, song một
vấn đề lớn đặt ra và ngày càng trở lên gay gắt là sự mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển.
+ Tiếp thu khoa học công nghệ cũng đồng nghĩa với việc tiếp thu lối sống, tác phong
công nghiệp => nếp nghĩ, lối sống, đến cả không gian thôn dã của một nền văn hoá
nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.
+ Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong mỹ tục, với các giá trị đạo
đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nhập vào đời sống văn hoá của nhân dân ta.
+ Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo lối sống hưởng thụ,
trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm màu thương mại, tiếp thu
văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận các giá trị truyền thống. + Một số cấp
lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của văn hoá đối với đời sống xã hội
+ Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhiều phương diện: +
Giao lưu TBVH trong thời đại tin học, kinh tế tri thức=> GLTBVH trở lên đa
dang và phức tạp cả về nội dung, loại hình lẫn phương thức
+ Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách chống phá chúng ta về
mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá, nhằm từng bước chuyển hoá
về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của nhân dân ta
Bài học rút ra từ quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa với Ấn Độ, Trung
Quốc và phương Tây
Quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với Ấn Độ, Trung Quốc, và phương Tây đã để
lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hóa, xã hội và lịch sử của Việt Nam. Từ đó,
có thể rút ra nhiều bài học quan trọng về cách thức tiếp nhận, bảo tồn và phát triển văn
hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
1. Bài học từ giao lưu văn hóa với Ấn Độ
1.1. Tiếp thu có chọn lọc •
Việt Nam đã tiếp nhận các yếu tố văn hóa Ấn Độ như Phật giáo, Ấn Độ giáo, chữ viết (chữ
Phạn), và nghệ thuật điêu khắc, nhưng chỉ chọn lọc những yếu tố phù hợp với văn hóa bản địa. •
Bài học: Tiếp thu văn hóa phải phù hợp với truyền thống và điều kiện xã hội, không rập
khuôn hay sao chép toàn bộ.
1.2. Sáng tạo trong tiếp biến •
Phật giáo và Ấn Độ giáo khi du nhập vào Việt Nam đã được bản địa hóa, hòa quyện với tín
ngưỡng dân gian như thờ Mẫu hay tín ngưỡng thờ thần linh. •
Bài học: Sáng tạo trong tiếp biến văn hóa giúp tạo nên bản sắc riêng, tránh sự đồng hóa hoặc
làm mất đi tính độc đáo của văn hóa dân tộc.
2. Bài học từ giao lưu văn hóa với Trung Quốc
2.1. Tiếp nhận nền tảng tri thức và tư tưởng •
Việt Nam tiếp thu các yếu tố của Nho giáo, Đạo giáo, và kỹ thuật canh tác nông nghiệp từ Trung
Quốc, giúp xây dựng nền văn minh lúa nước và hệ thống quản lý nhà nước. •
Bài học: Văn hóa ngoại lai có thể là nguồn lực để phát triển tư duy và xã hội, nhưng cần áp
dụng linh hoạt, tránh lệ thuộc.
2.2. Giữ gìn bản sắc dân tộc •
Dù chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc, Việt Nam vẫn bảo tồn được các phong tục, ngôn
ngữ, và tín ngưỡng bản địa như lễ hội dân gian, tục thờ Hùng Vương. •
Bài học: Bản sắc dân tộc là cốt lõi, cần được bảo vệ và phát huy trong quá trình hội nhập văn hóa.
2.3. Khả năng tự chủ và sáng tạo •
Việt Nam đã biến đổi các yếu tố Nho giáo và Đạo giáo để phù hợp với điều kiện địa phương,
chẳng hạn như các nghi lễ thờ cúng tổ tiên và mô hình làng xã. •
Bài học: Tự chủ trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai giúp tạo ra sự hòa hợp và bền vững.
3. Bài học từ giao lưu văn hóa với phương Tây
3.1. Tiếp cận khoa học và công nghệ •
Văn hóa phương Tây mang đến nhiều tiến bộ trong khoa học, công nghệ, giáo dục, và tư tưởng,
góp phần hiện đại hóa xã hội Việt Nam. •
Bài học: Giao lưu văn hóa cần chú trọng đến các giá trị tiến bộ, góp phần nâng cao năng
lực phát triển quốc gia.
3.2. Học hỏi tư tưởng tự do và dân chủ •
Tư tưởng tự do, dân chủ, bình đẳng từ phương Tây đã thúc đẩy những thay đổi lớn trong nhận
thức của người Việt, đặc biệt trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. •
Bài học: Giao lưu văn hóa không chỉ dừng ở vật chất mà còn cần học hỏi các giá trị tinh
thần mang tính phổ quát.
3.3. Cẩn trọng với nguy cơ xung đột văn hóa •
Sự du nhập của văn hóa phương Tây đôi khi gây xung đột với các giá trị truyền thống, đòi hỏi
sự điều chỉnh để tránh "Tây hóa" cực đoan. •
Bài học: Tiếp biến văn hóa cần cân bằng giữa hội nhập và bảo tồn, tránh xung đột làm mai
một văn hóa dân tộc.
4. Bài học chung từ quá trình giao lưu và tiếp biến
4.1. Tôn trọng đa dạng văn hóa •
Sự đa dạng văn hóa là tài sản quý giá, cần được tôn trọng và gìn giữ trong quá trình giao lưu quốc tế. •
Đoàn kết trong sự khác biệt là chìa khóa để thúc đẩy sự hòa hợp giữa các nền văn hóa.
4.2. Văn hóa bản địa là nền tảng •
Dù giao lưu với nhiều nền văn hóa, văn hóa bản địa vẫn là trụ cột của bản sắc dân tộc, giúp định
hình sự khác biệt và độc đáo. •
Giữ vững nền tảng văn hóa bản địa là cách duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững.
4.3. Linh hoạt và sáng tạo trong tiếp nhận •
Việc tiếp biến văn hóa không nên là quá trình thụ động mà cần sự sáng tạo và điều chỉnh để phù
hợp với bối cảnh địa phương. •
Linh hoạt trong tiếp thu giúp biến văn hóa ngoại lai thành tài sản của chính mình.
4.4. Học hỏi không ngừng •
Giao lưu văn hóa không chỉ là một chiều tiếp thu mà còn là cơ hội để học hỏi và chia sẻ, làm
giàu thêm cho văn hóa dân tộc. •
Học hỏi có chọn lọc giúp nâng cao giá trị văn hóa mà không làm mất đi tính tự tôn dân tộc. 5. Kết luận
Từ quá trình giao lưu văn hóa với Ấn Độ, Trung Quốc và phương Tây, Việt Nam đã rút
ra được nhiều bài học quý giá về cách tiếp nhận, bảo tồn và phát triển văn hóa trong bối
cảnh toàn cầu hóa. Những bài học này không chỉ giúp chúng ta giữ vững bản sắc dân
tộc mà còn tạo tiền đề để hội nhập sâu rộng hơn với thế giới trong tương lai. 2.
Phân tích đặc trưng của làng xã Việt Nam truyền thống. Nhận xét về
sự biến đổi của văn hoá làng xã trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.
- Đặc trưng thứ nhất: chủ nghĩa tập thể
Có thể nhận thấy rằng truyền thông cộng đồng VN, ít thấy những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với
các cộng đồng lớn mà thường là quan hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Một gia đình hay rộng
ra là một gia tộc có trách nhiệm với làng xóm, làng có trách nhiệm với nước và ngược lại. Bởi thế,
một cá nhân bình thường chỉ có vai trò trong khuôn khổ gia đình họ mà thôi, còn ra đến cộng đồng
lớn, cá nhân luôn bị tan biến trong đó. Để duy trì những quan hệ cộng đồng, cá nhân phải hòa mình
vào tập thể và ngược lại cơ chế quản lý làng xã được tổ chức sao cho đảm bảo được quyền bình đẳng
giữa các thành viên. Biểu hiện rõ nét nhất của truyền thống này là quyền được tham gia bầu chọn ra
người đại diện, tham gia vào quản lí làng xã.
- Đặc trưng thứ hai; thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới và không có năng lực tự biếnđổi
trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội.
Cái được gọi là truyền thống dân chủ làng xã, về thực chất, là tính chất công xã - thị tộc còn được lưu
tồn từ thời nguyên thủy: và cũng chỉ tồn tại ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành làng xã: sau đó,
làng xã vận hành theo những nguyên tắc mặc định và cứng nhắc.
- Đặc trưng thứ ba: tính tự quản:
Tính tự quản được thể hiện ở việc các thành viên giám sát lẫn nhau trở thành một yêu cầu tự nhiên và
là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ cương. Có thể thấy tính tự quản này vận hành như thế nào thông
qua kết cấu quản trị của làng xã. Bộ máy quản trị làng xã gồm hai cơ quan: cơ quan quyết nghi và cơ
quan chấp hành. Cơ quan quyết định được gọi là hội đồng kỳ mục có nơi gọi là hội đồng kỳ hào, hội
đồng làng, hội đồng xã.. Đây là một tập thể không hạn định về mặt số lượng các thân hào danh tiếng
trong xã đã từng đỗ đạt như cử nhân, tú tài, tiến sĩ đã làm quan hoặc đang làm quan.
Hương ước được xem như bộ luật của làng xã. Nó xuất hiện vào tk XV, khi triều Lê muốn xây dựng
một nhà nước tập quyền chặt chẽ, và muốn cột chặt làng xã vào chính quyền trung ương. Nội dung
của hương ước bao gồm tất cả các quy tắc liên quan đến đời sống làng xã.
Tính tự quản của làng xã còn thể hiện rõ thông qua mối quan hệ giữa làng xã với chính quyền trung ương.
- Đặc trưng thứ tư: chủ nghĩa cục bộ địa phương
Đặc trưng này làm cho sự tiếp nhận các quy định chung của nhà nước, trở nên bê trễ, hoặc chỉ mang
tính hình thức, hoặc bị áp dụng và giải thích sai lệch về nội dung, tóm lại là bị “uốn nắn” theo quan
điểm địa phương chủ nghĩa: Phép vua thua lệ làng. Trong không gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống
hàng thứ yếu , và mọi vấn đề phát sinh đều có thể bị quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ”.
Biến đổi không gian và tính ổn định của làng
Do sức ép của sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự thu hẹp đáng kể diện tích đất nông nghiệp
đã làm cho không gian cảnh quan ở các làng quê biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không gian cư trú truyền thống được định vị theo
các xóm là những hình thức tập trung dân cư mới như khu di dân, khu tái định cư, xóm mới v.v. làm cho không gian làng được mở rộng hơn.
Biến đổi sự liên kết giữa gia đình - dòng tộc - láng giềng
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề
nghiệp, việc làm khiến cho nhiều thành viên trong gia đình trở nên bận rộn hơn.
Trước đây, hoạt động nghề nghiệp chủ yếu tập trung vào nông nghiệp nên mọi
người có thể làm việc cùng nhau, giờ đây, cơ hội nghề nghiệp và việc làm được
mở rộng thì các thành viên trong gia đình không làm chung một công việc mà
mỗi người lựa chọn những công việc riêng. Các thành viên ít có thời gian dành
cho nhau như trước kia, sợi dây gắn kết giữa các thế hệ, thành viên trong gia đình
nông thôn hiện nay tuy vẫn được duy trì nhưng đang có chiều hướng suy giảm.
Biến đổi của các thiết chế văn hoá làng xã
Đời sống kinh tế - xã hội phát triển đã làm cho các thiết chế văn hoá làng truyền
thống như đình, chùa, chợ, cổng làng đều có những sự thay đổi nhất định. Điều dễ
nhận thấy là các làng đã xây dựng cổng làng/cổng chào ngay đầu làng; chùa làng
được xây dựng khang trang hơn; chợ làng đã có nhiều sản phẩm hàng hoá hơn chứ
không đơn thuần chỉ là sự trao đổi, mua bán sản phẩm tự làm ra trong nội bộ làng...
Các làng đều quan tâm trùng tu, xây dựng đình làng, nhà thờ họ, miếu xóm đã tạo
nên một diện mạo mới trong các thiết chế văn hoá làng xã.
Biến đổi trong đời sống tinh thần
Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội của người dân các làng
quê là tiền đề đưa tới những thay đổi trong đời sống văn hoá tinh thần của cộng
đồng làng. Điều này thể hiện ở mức thu nhập và mức sống của người nông dân
được nâng lên, đi cùng với điều kiện cơ sở hạ tầng được xây dựng đã phá vỡ tính
khép kín của làng, đồng thời thúc đẩy sự giao lưu, tiếp biến văn hoá. Các làng
quan tâm hơn đến việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá cũng như phục
dựng lại các Lễ hội của làng. Các lễ hội, trò vui truyền thống cũng được bổ sung
nhiều hoạt động mang hơi thở cuộc sống đương đại được tổ chức thường niên
trong các dịp lễ, thu hút đông đảo người dân của làng về tham gia. Nhiều di tích
đã được đầu tư trùng tu, tôn tạo phục vụ lại đời sống tâm linh của cộng đồng.Các
phong tục tập quán, lối sống của người dân làng quê có sự biến đổi rõ nét khi tỷ lệ lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm và cùng với đó là xu hướng đa dạng
hoá trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. 3.
Phân tích ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo đến tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên trong bối cảnh giao lưu tiếp biến văn hoá của Việt Nam hiện nay.
1. Ảnh hưởng của Nho giáo
Nho giáo, với tư tưởng trọng đạo đức, gia đình và lễ nghĩa, có tác động sâu sắc đến tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Đề cao đạo hiếu:
o Nho giáo coi trọng chữ "hiếu" (孝), xem việc thờ cúng tổ tiên là cách bày tỏ lòng biết
ơn và kính trọng với cha mẹ và tổ tiên.
o Người Việt thường tổ chức các nghi lễ giỗ chạp, cúng bái với quy mô lớn, tuân theo
các nguyên tắc lễ nghi chặt chẽ, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng Nho giáo.
Tính gia trưởng và hệ thống tôn ti trật tự:
o Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt được tổ chức theo dòng tộc, nhấn mạnh vai
trò của trưởng tộc và thứ bậc trong gia đình, phù hợp với tư tưởng gia trưởng của Nho giáo.
o Các nghi lễ thường được người nam đứng đầu dòng họ chủ trì, thể hiện tính tôn ti.
Lễ nghi và quy củ:
o Nho giáo nhấn mạnh các nghi lễ trang trọng, đúng chuẩn mực. Điều này thể hiện trong
các nghi thức thờ cúng tổ tiên như việc chuẩn bị bàn thờ, chọn ngày cúng, và cách hành lễ.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo
Phật giáo, đặc biệt là dưới hình thức Phật giáo Đại thừa, đã dung hợp và bổ sung tính
chất linh thiêng và nhân văn cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Niềm tin vào luân hồi và nhân quả:
o Phật giáo truyền bá niềm tin vào sự tiếp nối giữa các kiếp sống, từ đó gắn bó chặt chẽ
với quan niệm tổ tiên tiếp tục tồn tại và cần được con cháu tưởng nhớ, phụng dưỡng.
o Lễ cầu siêu cho tổ tiên và người đã khuất là một nghi thức chịu ảnh hưởng từ Phật
giáo, nhằm giúp linh hồn được siêu thoát.
Tư tưởng từ bi và lòng biết ơn:
o Phật giáo khuyến khích lòng từ bi và sự biết ơn đối với tổ tiên, góp phần làm sâu sắc
thêm ý nghĩa nhân văn trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
o Nhiều gia đình Việt tổ chức cúng rằm, lễ Vu Lan để tưởng nhớ công ơn cha mẹ, ông bà. Tính dung hòa:
o Phật giáo không áp đặt lễ nghi cứng nhắc, tạo điều kiện cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
phát triển một cách linh hoạt và phù hợp với từng gia đình, dòng họ.
3. Ảnh hưởng của Lão giáo
Lão giáo, với triết lý hòa hợp thiên-nhân và sự trường tồn của linh hồn, cũng để lại
những dấu ấn đáng kể trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Quan niệm về sự hòa hợp giữa con người và vũ trụ:
o Lão giáo nhấn mạnh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và tổ tiên, góp phần
tạo nên niềm tin rằng linh hồn tổ tiên không chỉ tồn tại mà còn có thể phù hộ cho con cháu.
o Bàn thờ tổ tiên thường được đặt ở vị trí trung tâm trong nhà, phản ánh sự hòa hợp giữa
không gian sống và tâm linh.
Thực hành tâm linh:
o Các yếu tố như việc xem ngày lành tháng tốt, chọn hướng đặt bàn thờ, và các nghi thức
thờ cúng tổ tiên chịu ảnh hưởng từ tín ngưỡng dân gian kết hợp với triết lý Lão giáo.
Tư tưởng về sự bất tử của linh hồn:
o Lão giáo góp phần củng cố niềm tin rằng tổ tiên không thực sự mất đi mà vẫn luôn
hiện diện trong thế giới tâm linh, giúp duy trì ý thức thờ cúng lâu dài trong đời sống người Việt.
4. Sự dung hợp và đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam Dung hợp tam giáo:
o Người Việt không phân biệt rõ ràng giữa Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Thay vào
đó, các tư tưởng được dung hợp, tạo nên một tín ngưỡng đặc sắc, vừa có tính lễ nghi
của Nho giáo, vừa giàu tính nhân văn của Phật giáo, và vừa mang yếu tố tâm linh của Lão giáo.
Tính bản địa hóa:
o Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt không chỉ tiếp thu các yếu tố từ tam giáo
mà còn kết hợp với tín ngưỡng dân gian, như thờ thần linh, thổ địa.
Ảnh hưởng đến đời sống xã hội:
o Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ là một thực hành tâm linh mà còn là phương
tiện gắn kết các thành viên trong gia đình, dòng họ, và cộng đồng, đồng thời đóng vai
trò quan trọng trong việc duy trì đạo lý và truyền thống văn hóa. Kết luận
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là một biểu hiện rõ ràng của sự dung hợp
văn hóa. Nho giáo mang lại tính kỷ luật và lễ nghi; Phật giáo mang đến lòng từ bi và
niềm tin nhân quả; trong khi Lão giáo đóng góp yếu tố tâm linh và sự hòa hợp. Sự kết
hợp này không chỉ làm phong phú thêm đời sống tâm linh của người Việt mà còn giúp
duy trì và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống qua nhiều thế hệ.
Từ sau Đổi mới, đời sống văn hóa xã hội của người Việt đã có không ít sự thay đổi, nhiều
phong tục tập quán bị biến đổi theo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng không ngoại lệ.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt từ lâu đã trở thành chỗ dựa vững chắc có khả
năng “đề kháng” trước sự xâm nhập ồ ạt và đe dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc của
nhiều nền văn hóa từ bên ngoài. Mặc dù đã ít nhiều bị biến đổi cho phù hợp với xã hội
hiện đại, nhưng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã được người Việt bảo tồn như một nét văn
hóa truyền thống độc đáo.
Thờ cú ng tổ tiên là mộ t tí n ngưỡ ng truyề n thố ng, là sự kết tinh phát triển các giá trị
đạo đức, văn hóa đặc sắc của người Việt. Dù đã có những thay đổi để phù hợp với xã hội
hiện đại nhưng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn mang những giá trị truyền thống nhất
định trong đời sống của người Việt, đó là:
1. Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc •
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một biểu tượng của lòng hiếu thảo và truyền thống "uống nước
nhớ nguồn" của người Việt, giúp giữ gìn bản sắc văn hóa trước sự xâm nhập của các giá trị ngoại lai. •
Những nghi lễ thờ cúng vào dịp Tết, giỗ tổ hay Vu Lan không chỉ là hoạt động tâm linh mà còn
là dịp để các thế hệ trong gia đình quây quần, củng cố tình đoàn kết.
2. Gắn kết cộng đồng và gia đình •
Trong thời kỳ hiện đại hóa và đô thị hóa, sự gắn kết gia đình và cộng đồng có xu hướng suy
giảm. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đóng vai trò như một sợi dây kết nối các thành viên trong gia đình, dòng họ. •
Các nghi lễ thờ cúng không chỉ mang tính cá nhân mà còn thể hiện trách nhiệm của mỗi người
đối với tổ tiên và cộng đồng.
3. Sự dung hợp và hiện đại hóa tín ngưỡng •
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã dung hòa các yếu tố hiện đại, chẳng hạn các nghi lễ được tổ
chức đơn giản hơn để phù hợp với cuộc sống bận rộn ngày nay, nhưng vẫn giữ được giá trị cốt lõi. •
Sự phát triển của công nghệ, như việc tổ chức lễ cúng trực tuyến hoặc lưu trữ gia phả trên nền
tảng số, giúp thế hệ trẻ dễ dàng tiếp cận và duy trì truyền thống.
6. Phân tích ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo đến tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một nét đặc trưng văn hóa sâu sắc, phản ánh
mối quan hệ gia đình, dòng tộc và lòng hiếu kính. Truyền thống này chịu ảnh hưởng lớn
từ ba hệ tư tưởng: Nho giáo, Phật giáo, và Lão giáo, mỗi hệ tư tưởng đóng góp các giá
trị và quan niệm riêng biệt.
1. Ảnh hưởng của Nho giáo
Nho giáo có tác động mạnh mẽ đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đặc biệt trong việc
định hình hệ thống gia đình và lễ nghi.
Đề cao đạo hiếu:
o Nho giáo coi chữ "hiếu" là giá trị cốt lõi. Thờ cúng tổ tiên là biểu hiện của lòng hiếu
thảo, sự biết ơn và kính trọng đối với ông bà, cha mẹ.
o Người Việt tiếp nhận tư tưởng này qua việc tổ chức giỗ chạp, lập gia phả và duy trì mộ phần tổ tiên.
Lễ nghi và trật tự:
o Nho giáo nhấn mạnh lễ nghi và tính tôn ti trật tự trong gia đình. Trưởng tộc thường
đảm nhận vai trò chủ trì các nghi lễ thờ cúng.
o Các nghi thức như cúng giỗ, lễ Tết được thực hiện đúng quy chuẩn để đảm bảo sự trang nghiêm và tôn kính.
Gắn bó gia đình và dòng tộc:
o Tư tưởng gia trưởng và trọng truyền thống của Nho giáo giúp củng cố mối liên kết
dòng tộc qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo
Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa, mang đến tính nhân văn và linh thiêng cho tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Niềm tin vào luân hồi và nhân quả:
o Phật giáo đề cao quan niệm về sự tiếp nối giữa các thế hệ qua vòng luân hồi, giúp củng
cố niềm tin vào sự hiện diện của tổ tiên trong thế giới tâm linh.
o Lễ cầu siêu, lễ Vu Lan báo hiếu trở thành một phần quan trọng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Từ bi và sự giải thoát:
o Phật giáo khuyến khích lòng từ bi và biết ơn, làm sâu sắc thêm ý nghĩa tâm linh trong việc thờ cúng.
o Các nghi thức thờ cúng thường được thực hiện với mong muốn tổ tiên được siêu thoát
và con cháu được bình an.
Tính linh hoạt và dung hòa:
o Không giống Nho giáo với nhiều quy tắc cứng nhắc, Phật giáo giúp tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên thích nghi dễ dàng hơn với điều kiện của từng gia đình.
3. Ảnh hưởng của Lão giáo
Lão giáo đóng góp các yếu tố tâm linh và triết lý về sự hòa hợp giữa con người và vũ
trụ vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Quan niệm về sự trường tồn của linh hồn:
o Lão giáo cho rằng linh hồn tổ tiên không mất đi mà luôn tồn tại trong mối liên kết với
con cháu, tác động đến cuộc sống hiện tại.
o Điều này giúp duy trì niềm tin rằng tổ tiên có thể phù hộ hoặc cần được cúng tế để yên nghỉ.
Hòa hợp thiên-nhân:
o Triết lý Lão giáo nhấn mạnh mối quan hệ hài hòa giữa con người, thiên nhiên và tổ
tiên. Bàn thờ tổ tiên thường được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà, thể hiện
sự kết nối giữa không gian sống và tâm linh.
Thực hành tâm linh dân gian:
o Các nghi lễ xem ngày lành tháng tốt, chọn vị trí đặt bàn thờ hay lễ vật cúng bái thường
mang đậm màu sắc của Lão giáo kết hợp với tín ngưỡng dân gian.
Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong bối cảnh giao lưu tiếp biến
văn hóa của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự giao thoa văn hóa ngày càng mạnh mẽ, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1. Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc •
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một biểu tượng của lòng hiếu thảo và truyền thống "uống nước
nhớ nguồn" của người Việt, giúp giữ gìn bản sắc văn hóa trước sự xâm nhập của các giá trị ngoại lai. •
Những nghi lễ thờ cúng vào dịp Tết, giỗ tổ hay Vu Lan không chỉ là hoạt động tâm linh mà còn
là dịp để các thế hệ trong gia đình quây quần, củng cố tình đoàn kết.
2. Gắn kết cộng đồng và gia đình •
Trong thời kỳ hiện đại hóa và đô thị hóa, sự gắn kết gia đình và cộng đồng có xu hướng suy
giảm. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đóng vai trò như một sợi dây kết nối các thành viên trong gia đình, dòng họ. •
Các nghi lễ thờ cúng không chỉ mang tính cá nhân mà còn thể hiện trách nhiệm của mỗi người
đối với tổ tiên và cộng đồng.
3. Sự dung hợp và hiện đại hóa tín ngưỡng •
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã dung hòa các yếu tố hiện đại, chẳng hạn các nghi lễ được tổ
chức đơn giản hơn để phù hợp với cuộc sống bận rộn ngày nay, nhưng vẫn giữ được giá trị cốt lõi. •
Sự phát triển của công nghệ, như việc tổ chức lễ cúng trực tuyến hoặc lưu trữ gia phả trên nền
tảng số, giúp thế hệ trẻ dễ dàng tiếp cận và duy trì truyền thống.
4. Đối thoại văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa •
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một minh chứng cho sự giao thoa nhưng không hòa tan trong quá
trình hội nhập. Việt Nam tiếp nhận các giá trị văn hóa quốc tế nhưng vẫn giữ vững truyền thống cốt lõi của dân tộc. •
Việc quảng bá tín ngưỡng này ra thế giới thông qua du lịch văn hóa và các ngày lễ truyền thống
giúp người nước ngoài hiểu thêm về bản sắc Việt Nam.
Những giá trị ấy đã góp phần bồi dưỡng lòng yêu thương giống nòi, đạo lý uống nước
nhớ nguồn, gắn kết các thành viên trong gia đình dòng tộc, những người có cùng chung
huyết thống. Trải qua thời gian, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không ngừng biến đổi, nhưng
đây vẫn là một nét đẹp văn hóa của người Việt cần được trân trọng và bảo tồn.
4. Phân tích quá trình du nhập, đặc điểm, vai trò của một tôn giáo ở Việt Nam.
Nhận xét về sự biến đổi của tôn giáo ấy trong trong bối cảnh giao lưu
tiếp biến văn hoá ở Việt Nam hiện nay.
- Sự du nhập của Phật giáo
Phật giáo được truyền vào VN từ rất sớm và bằng nhiều con đường khác nhau. Từ đầu
thế kỉ I, Phật giáo đã du nhập vào miền bắc VN theo con đường hàng hải và vào phía
nam theo đường bộ. Luy Lâu (Bắc Ninh) thuộc Giao Chỉ đã sớm trở thành một trung tâm
Phật giáo quan trọng. Vào thời điểm đó, Phật giáo vẫn còn mang sắc thái nguyên thủy,
tức là theo tiểu thừa (Nam Tông).
Thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo được truyền vào Việt Nam cùng với sự cai trị của các triều
đại phong kiến Trung Hoa. Trong lòng nền văn hóa Trung Hoa, Phật giáo đã bị biến đổi
một cách căn bản - trở nên thực dụng và mang tính chất siêu hình hơn, gần gũi và rộng
mở hơn với đời sống trần tục. Đó chính là Phật giáo Đại Thừa (Bắc tông), mà cốt lõi của
nó là Thiền tông và Tịnh Độ tông.
Trong thời kỳ dựng nước và mở mang bờ cõi về phía Nam, Phật giáo lại có cơ hội được
củng cố, bởi đại bộ phận cư dân ở khu vực này (người Khơ me ở Nam bộ) đã là tín đồ
của dòng Tiểu thừa từ trước đó.
- Đặc trung của Phật giáo ở Việt Nam
+ Phật giáo Việt NAm gắn bó với dân tộc Việt NAm trong cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước, bởi vậy, thấm đượm chủ nghĩa yêu nước của người Việt.
Nhằm chống lại sự đồng hóa của một nền văn hóa lớn hơn mình, người Việt đã sử dụng
một nền văn hóa có đủ tầm vóc để đối trọng lại - đó là văn hóa Ấn Độ, mà đối với Việt
Nam, Phật giáo là đại diện.
+ Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, Phật giáo đã từng là cơ sở của khối đại đoàn
kết các dân tộc trên lãnh thổ VN.
+ Phật giáo VN có tính tổng hợp (các pháp tu Thiền - Mật - Tịnh Độ - Thiên Thai trộn lẫn)
+ Phật giáo VN mang tính dung chấp cao (chấp nhận các tín ngưỡng bản địa và chung
sống hòa thuận với các tôn giáo khác) + Phật giáo VN thiên về xu hướng nhập thế.
+ Phật giáo VN là phương tiện để biểu đạt chủ nghĩa nhân đạo và tính vị tha của dân tộc VN.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có những đóng góp quan trọng trong việc
hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ vững vai trò và vị thế
không thể thiếu của Đạo Phật trong đời sống xã hội ở nước ta ngày nay.
- Vai trò của Phật giáo đối với đạo đức:
Vào thời xa xưa, Phật giáo trong thời Lý, thời Trần ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tu
dưỡng đạo đức của nhiều tầng lớp trong xã hội, từ vua quan cho tới nhân dân. Các
vua quan luôn có ý thức trau dồi đạo đức. Nhiều người chọn sống đời đạo hạnh, yêu
nước, thương dân sâu sắc, thể hiện đạo hiếu sinh và triết lý từ bi của nhà Phật. Phật
giáo coi thiền định như một phương pháp tu luyện giúp làm con người vượt qua
những nỗi tức giận, những trạng thái tinh thần bất an để đạt đến sự thanh thản, an
nhiên. Không chỉ có vậy, Phật giáo khuyên răn con người tu nhân tích đức, hướng
tới cái thiện, tránh xa điều ác... Với những tư tưởng hết sức sâu sắc, Phật giáo đã
phần nào đáp ứng nhu cầu về tâm linh của người dân Việt và bổ sung những giá trị
đạo đức mới, phù hợp với tâm lý nhân dân, đồng thời làm phong phú thêm giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Nhiều người dân không am hiểu tường tận các triết lý cao siêu của Phật giáo nhưng
họ vẫn tự coi mình là tín đồ nhà Phật. Mỗi năm, cứ đến tuần rằm, mồng một, họ lại
ăn chay, niệm Phật xám hối, đến chùa cầu bình an cho người thân Người Việt tìm
đến với Đạo Phật không chỉ vì nhu cầu tâm linh mà còn vì vô vàn triết lý đạo đức xã
hội được ẩn chứa trong giáo lý: tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, cứu khổ cứu
nạn,.... Giáo lý từ bi của nhà Phật kết hợp với tinh thần yêu nước, lòng trắc ẩn, nhân
ái, lá lành đùm lá rách đã góp phần tạo dựng nên một giá trị đạo đức, một phong
cách sống quan trọng trong đời sống nhân dân ta. Phật giáo giúp con người tin vào
nghiệp báo luân hồi để từ đó tự giác hướng thiện. Những tư tưởng Phật giáo đều có
giá trị giáo dục đạo đức rất lớn. Đây là điều mà bất kì xã hội nào cũng hướng tới.
Tình thương và lòng nhân ái sẽ giúp ta từ bỏ dần sự vị kỷ, thói tham lam, sân si, đó
chính là cội rễ nảy sinh mọi xung đột, bất hòa, khổ đau trên thế giới. Ngày nay, Phật
giáo đã và đang hướng con người biết sống tự lập, làm chủ cuộc sống của mình,
điều vô cùng cần thiết trong xã hội. Không chỉ có vậy, Đạo Phật còn đề cao trí tuệ
và khuyến khích ý chí phấn đấu vươn lên của mỗi con người. Những giá trị đạo đức
phát khởi từ tinh thần đại bi đó đã tác dụng tích cực và làm đẹp đẽ hơn đời sống đạo
đức, đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam.
- Về đời sống văn hóa:
Qua hơn hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo đã trở thành một thành tố không thể chia
cắt trong đời sống văn hóa - xã hội của người dân nước Việt Nam: Một là, đề cao
giá trị con người, hướng thiện, xây dựng xã hội thanh bình. Phật giáo Việt Nam luôn
khẳng định vị trí tối cao của con người cũng như khả năng tư duy độc lập của mỗi
chúng ta, nhằm dạy mỗi người biết lựa chọn sống đúng lẽ phải, phân biệt giữa thiện
và ác, biết cần phải làm gì trong cuộc sống vốn luôn đầy sóng gió, thử thách và góp
phần dựng xây một xã hội thanh bình. Hai là, duy trì, phát huy truyền thống đoàn
kết dân tộc, hòa đồng với cộng đồng. Thông qua những hoạt động xã hội, Phật giáo
Việt Nam cho thấy tinh thần nhân văn, hướng thiện, tăng cường kết nối tình đoàn
kết giữa Đạo với Đời, giữa các tầng lớp nhân dân, góp phần khuyến khích người
Việt phát huy tinh thần cộng đồng và tình đoàn kết tập thể đúng như truyền thống
văn hóa dân tộc ta. Ba là, chung tay xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Phật giáo đang góp phần cùng với các tổ chức xã hội và
nhân dân thực hiện ngày càng tốt hơn những chủ trương, quyết sách của Đảng, Nhà
nước, đặc biệt là các công tác nhân đạo, hạn chế những tiêu cực trong xã hội hiện
đại... thông qua vô số hoạt động tôn vinh giá trị tốt đẹp của nền văn hóa truyền
thống với đa dạng các hình thức giáo dục, khơi dậy những giá trị quý giá lâu đời của
văn hóa tâm linh đồng thời giáo dục sự từ bi, hướng thiện của con người.
- Về chính trị - xã hội
Trong lịch sử, Phật giáo là tôn giáo của hòa bình, luôn thích nghi và hòa hợp với
từng hoàn cảnh của cư dân từng quốc gia, vùng miền để phát triển. Trong thời kỳ
hiện nay, Phật giáo đã thích ứng với truyền thống văn hóa, đời sống tinh thần và tâm
linh của người dân từng khu vực, từng tộc người. Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã
hội là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và của mọi công dân không phân biệt
sắc tộc, tôn giáo. Tuy nhiên, Phật giáo là tôn giáo ngay từ xa xưa đã đồng hành cùng
lịch sử phát triển của dân tộc, nên như một lẽ tự nhiên, Phật giáo có mặt ở đâu thì
vùng đó có sự thanh bình, người dân thấm nhuần tinh thần yêu nước bởi lẽ vì đạo
Phật luôn đề cao tinh thần phụng sự quốc gia dân tộc.
Mặc dù còn những hạn chế trong phương châm hành động và triết lý nhưng Phật
giáo đã có những đóng góp vô cùng thiết thực vào quá trình phát triển của xã hội.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đất nước ta đang có những bước
tiến mạnh mẽ trong quá trình hội nhập và phát triển, để thúc đẩy sự tiến bộ mạnh mẽ
trong công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách
nhằm phát huy, xây dựng các nguồn lực phục vụ cho quá trình phát triển quốc gia.
Trong số đó, có nhiều chính sách đúng đắn về Phật giáo, coi đây là một trong những
nhân tố quan trọng để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần giúp xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5. Chọn một tín ngưỡng trong đời sống văn hóa người Việt để phân tích sự hỗn
dung tín ngưỡng này trong trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa.
Nhận xét về sự biến đổi của tín ngưỡng này trong bối cảnh giao lưu tiếp
biến văn hoá của Việt Nam hiện nay.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một hiện tượng tôn giáo dân gian đặc trưng của người Việt, tôn
vinh các nữ thần và Mẫu thần đại diện cho quyền lực tối cao của tự nhiên, đời sống, và
nhân sinh. Trong bối cảnh giao lưu và tiếp biến văn hóa, tín ngưỡng thờ Mẫu đã không
ngừng tiếp nhận, dung hòa, và biến đổi để thích ứng với các yếu tố mới, đồng thời duy
trì bản sắc riêng. Quá trình này tạo ra sự hỗn dung độc đáo, làm phong phú thêm hệ
thống tín ngưỡng và văn hóa Việt Nam.
1. Bản chất hỗn dung của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã mang tính chất hỗn dung ngay từ khi hình thành, vì nó kế thừa
và hòa trộn nhiều yếu tố từ các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau. Một số đặc điểm chính:
1.1. Sự đa dạng của hệ thống thần linh
Các vị Mẫu Tam phủ, Tứ phủ:
o Mẫu Thượng Thiên (trời), Mẫu Thượng Ngàn (rừng núi), Mẫu Thoải (nước), và Mẫu
Địa (đất) đại diện cho sự thống trị của con người đối với tự nhiên.
o Những vị thần này không chỉ là biểu tượng của sức mạnh tự nhiên mà còn là hiện thân
của lòng từ bi và che chở.
Sự tích hợp các thần địa phương:
o Tín ngưỡng thờ Mẫu kết hợp thờ các nữ thần bản địa, thần linh làng xã, và các anh
hùng dân tộc được thần thánh hóa.
1.2. Kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và tôn giáo du nhập •
Tín ngưỡng bản địa:
o Dựa trên niềm tin vào sức mạnh huyền bí của tự nhiên và vai trò của người phụ nữ trong duy trì sự sống. •
Ảnh hưởng của Đạo giáo và Lão giáo:
o Các nghi thức cúng lễ, triệu thỉnh thần linh, và hệ thống Tứ phủ chịu ảnh hưởng sâu sắc
từ tư tưởng Đạo giáo. •
Ảnh hưởng của Phật giáo:
o Tín ngưỡng thờ Mẫu dung hòa hình ảnh của Mẫu với các biểu tượng từ bi, cứu khổ của
Phật giáo, như Mẫu Liễu Hạnh được tôn là "Bà Chúa Liễu" và là một vị Bồ Tát trong lòng dân gian.
1.3. Hòa quyện giữa lễ nghi và nghệ thuật
Các nghi lễ trong thờ Mẫu, đặc biệt là hầu đồng và hát chầu văn, kết hợp giữa tôn giáo và nghệ
thuật biểu diễn, tạo nên không gian văn hóa vừa linh thiêng vừa giải trí.
2. Ảnh hưởng của quá trình giao lưu văn hóa đến tín ngưỡng thờ Mẫu
Quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa đã mang lại nhiều thay đổi đáng chú ý trong tín ngưỡng thờ Mẫu: