Đề cương ôn tập các câu hỏi tự luận Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Bách Khoa Hà Nội
Đề cương ôn tập các câu hỏi tự luận Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Trường: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi Mục lục
Câu 1:Định nghĩa CNXHKH? Phân tích điều kiện KT-XH cho sự ra đời CNXHKH 2
Câu 2: Phân tích tiền đề của khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận
cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học 3
Câu 3: Phân tích vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội khoa học 4
Câu 4: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN 5
Câu 5: Phân tích điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 6
Câu 6: Phân tích điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện
sứ mệnh lịch sử của mình 7
Câu 7: Trình bày nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin 8
Câu 8: Nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và phân
tích tính chất của tôn giáo 9
Câu 9: Những đặc trưng cơ bản của CNXH theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Phân tích quan điểm 3 (CNXH có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất chủ yếu) 10
Câu 10: Nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và phân
bố nguồn gốc của tôn giáo 11 Hoàng lộc, Trần Hiếu 1
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 1:Định nghĩa CNXHKH? Phân tích điều kiện KT- XH cho sự ra đời CNXHKH a, Khái niệm
- Theo nghĩa rộng: CNXHKH còn gọi là tư tưởng khoa học theo nghĩa rộng là CN
Mác-Lênin, nó luận giải trên các góc độ triết học - kinh tế - chính trị - xã hội về sự
chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ CNTB sang CNXH và CNCS.
- Theo nghĩa hẹp: CNKHXH là một môn khoa học xã hội nhân văn, là 1 trong 3 bộ
phận hợp thành CN Mác-Lênin. Nó gắn kết một cách hữu cơ và là sự tiếp tục một cách
logic của triết học, kinh tế chính trị học Mác-Lênin, cùng triết học và kinh tế chính trị
học Mácxít trở thành 1 học thuyết hoàn chỉnh, thống nhất, phản ánh hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân - hệ tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại ngày nay. b, Điều kiện KT-XH
Sự ra đời của CN Mác nói chung và sự ra đời của CNXHKH nói riêng là sự phát triển của phương thức TBCN.
- Vào những năm 40 của thế kỉ XIX, phương thức TBCN đã phát triển mạnh mẽ với sự
ra đời của nền CN lớn.
- Cùng với sự phát triển của giai cấp Tư sản, giai cấp Công nhân có sự gia tăng nhanh
chóng về số lượng và có sự chuyển đổi về cơ cấu: Tỷ trọng CNCN tăng đáng kể và trở
thành bộ phận hạt nhân của giai cấp CN. Đây là lực lượng công nhân lao động trong
khu vực sản xuất then chốt có trình độ CN-KT hiện đại nhất.
- Sự phát triển của phong trào đấu tranh của giai cấp Công nhân ở Châu Âu và Bắc
Mỹ vào nửa đầu thế kỷ XIX bắt nguồn từ mâu thuẫn kinh tế trong lòng xã hội tư bản.
- Cuộc đấu tranh của GCCN chống lại sự thống trị áp bức của GCTS ngày càng quyết
liệt. Nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức và trên quy
mô rộng khắp nhưu phong trào Cần Vương, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu,...
⇒ Điều kiện KT-XH đòi phải phải có lý luận tiên phong dẫn đường, điều mà CNXH
không tưởng trước đó 1 vài thập kỷ đã không đảm nhận được. Nó đòi hỏi phải có 1 hệ
thống lý luận khoa học dẫn đường, chỉ lối cho phong trào CN, cho sự ra đời của lý luận
mới tiến bộ soi sáng sự vận động đi lên của lịch sử. Hoàng lộc, Trần Hiếu 2
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 2: Phân tích tiền đề của khoa học tự nhiên và tư
tưởng lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
– Tiền đề khoa học tự nhiên:
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển
mới, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho
những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng lượng trong quá trình
biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất
của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển
các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm mới này đóng vai trò là những bằng
chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên. – Tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn
là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất
là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L. Phoiơbắc đã ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong
phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông cũng
khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm
trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của Phoiơbắc. Trên cơ
sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó
vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển
xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa
tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu
lớn của nó (A. Xmít và Đ. Ricácđô), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những quan điểm
hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: quan điểm duy vật trong nghiên cứu
lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời các ông
cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động
và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên
cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những đại
biểu lớn của nó là H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen, c. Mác và Ph. Ăngghen đã
kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng
này đối với những hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và
vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất không tưởng trong
các học thuyết ấy. Từ đó các ông xây dựng nên một lý luận mói – lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội. Hoàng lộc, Trần Hiếu 3
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 3: Phân tích vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối
với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Các Mác (1818–1883): C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông
là lãnh tụ và người thầy của giai cấp vô sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895): Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người
thầy của giai cấp công nhân hiện đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ đại
đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến ấy,
chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không phải
do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo theo
sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” – một tổ chức công nhân quốc tế,
đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt tác
của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào công
nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một cách rõ ràng
và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, theo V.I.
Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế giới, là “cuốn
sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít – lêninnít lấy tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng Sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối chiến lược và sách
lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Hoàng lộc, Trần Hiếu 4
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 4: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản
xuất tương lai. Do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp bức
bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong
tác phẩm Chống Đuyring, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ "... phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị bụộc phải
hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong"và "Thực hiện sự nghiệp
giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại". C.Mác và
Ph.Angghen đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành
được sứ mệnh lịch sử của mình. V.I.Lênin cho rằng: "Điểm chủ yếu trong học thuyết
Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa". Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất
"... giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị" và "Giai cấp vô sản chiếm lại chinh
quyền nhà nước". Bước thứ hai: "... giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng
bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công
cụ sản xuất vào trong tay nhà nước" tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội
chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện
được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai là
quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để hoàn
thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải tập hợp được
các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, biến hành cuộc đấu tranh cách mạng
xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, và văn hóa, tư
tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn. Hoàng lộc, Trần Hiếu 5
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 5: Phân tích điều kiện khách quan quy định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C. Mác và Ph.Ăng ghen
trình bày sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này các ông
đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
– Do địa vị kinh tế – xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng
sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy, nó là lực lượng
quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai
cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh
đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn luyện
trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng
xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp
đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất
chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của
họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi
chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích
và được cả thế giới về mình.
Địa vị kinh tế – xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả
năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của
khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng
đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi đầu
trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị
áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C.Mác, Ph.ăngghen và V.I.Lênin về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một
cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của
sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân, lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị
những tiền đề khách quan cho thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có trải qua những
bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan
của lịch sử. Đúng là ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không
nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ phận công
nhân ở các nước trên đã có mức sống “trung lưu hóa”, song điều đó không có nghĩa là
công nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Một thực
tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát triển, đó là sự bất
công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai cấp tư sản với giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm cách “thích nghi” và mọi biện pháp
xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản. Thực tế, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn diễn ra ở các nước
tư bản chủ nghĩa dưới nhiều hình thức phong phú, với những nội dung khác nhau. Hoàng lộc, Trần Hiếu 6
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 6: Phân tích điều kiện chủ quan để giai cấp công
nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
- Thứ nhất: là sự phát triển của giai cấp công nhân, là kết quả của quá trình phát triển
tự thân , tự giác , chủ động. Với tư cách là chủ thế thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự phát
triển giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan quy định chất lượng và quy mô, tốc độ
của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được thể hiện ở sự phát triển về
lượng và phát triển về chất. Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự tăng
trưởng về số lượng cũng như tỷ lệ lao động công nghiệp trong nền kinh tế. Sự phát triển
về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực làm chủ công nghệ hiện đại và
ý thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc.
- Thứ hai: là có Đảng cộng sản , nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản là hạt nhân
chính trị của mình và sự ra đời của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai
cấp. Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định việc giai cấp công nhân có tổ chức được chính
đảng trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp
tự giác và đủ năng lực để thực hiện sứ mệnh lịch sử. Đảng coi giai cấp công nhân là cơ
sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là
quan hệ “máu thịt”. Tính chất tiền phong thực tiến và lý luận, tính tổ chức khoa học và
chặc chẽ xác định Đảng là người lãnh đạo, là hạt nhân của giai cấp công nhân. Đảng
cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân . không có lý luận thì phong trào
công nhân không đi được xa. Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân.
Bằng hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Đảng cộng sản định ra cương lĩnh ,
đường lối, chiến lược, chính sách đấu tranh. Đảng cũng là người tổ chức, động viên các
sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong ttraof công nhân. Đảng cộng sản là
đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Đây là
sự nghiệp cách mạng vĩ đại của những người lao động bị áp bức, bóc lột đứng lên giải
phóng bản thân và thoát khỏi áp bức giai cấp. Để làm tròn nhiệm vụ trên Đảng của giai
cấp công nhân cần phải: nắm vững và trung thành với chủ nghĩa Mac lenin; giữ vững
và không ngững tăng cường tính chất giai cấp công nhân; giữ vững quyền lãnh đạo của
Đảng , xây dựng Đảng mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức.
- Thứ ba: là phải có sự thống nhất của phong trào công nhân (phong trào công nhân
trong từng nước với phong trào công nhân quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế. Hoàng lộc, Trần Hiếu 7
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 7: Trình bày nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
- Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin:
Dựa trên thực tiễn tình hình các dân tộc trên thế giới, mối quan hệ dân tộc trên thế
giới và dựa trên thực tiễn tình hình dân tộc ở nước Nga lúc bấy giờ, Lenin đã nêu ra
Cương lĩnh dân tộc bao gồm các nguyên tắc để giải quyết vấn đề dân tộc theo cả góc
độ mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc cũng như theo cả góc
độ mối quan hệ dân tộc quốc tế.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân
tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc dù lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và
chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau,
không dân tộc nào có đặc quyền đặc lợi và đi áp bức các dân tộc khác. Trong quốc gia
có nhiều dân tộc, pháp luật phải bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước
khắc phục sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Trên phạm vi
giữa các quốc gia, dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đấu tranh xây dựng
một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển với
các nước chậm phát triển.
- Các dân tộc có quyền tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân
tộc mình, quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc
gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
- Liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại:
Đây là tư tưởng cơ bản và quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, nó phản ánh
bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự nghiệp giải phóng dân tộc với
sự nghiệp giải phóng giai cấp, nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng
lợi. Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để chống
chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dụng liên hiệp giai
cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương
lĩnh thành một chỉnh thể. Hoàng lộc, Trần Hiếu 8
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 8: Nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản
chất và phân tích tính chất của tôn giáo
- KN tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hôi, phản ánh hiện thực khách quan
theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lý, hành vi của con người
- Trong đời sống xã hội, tôn giáo là 1 cộng đồng xã hội, với các yếu tố hệ thống giáo lý
tôn giáo, nghi lễ tôn giáo.
- Cần phần biệt tôn giáo với mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là những hiện tượng (ý
thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ phải hành vi đạo
đức, văn hóa cộng đồng, gây hậu quả trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của cá
nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực phải kiên quyết bài trừ,
nhằm làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần xã hội.
- Bản chất của tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời rất sớm trong
lịch sử, nó là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những sức mạnh bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ. Sự phản ánh mà các lực lượng ở thế gian mang màu sắc siêu thế gian.
- Tính chất của tôn giáo:
– Tính lịch sử: Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù nó còn tồn tại lâu dài, nhưng nó
chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng một lúc với con người.
Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới mức độ
nhất định. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn của lịch sử, tôn giáo
có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay
đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến 1 giai đoạn lịch sử nhất định,
khi con người nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người
làm chủ được tự nhiên, xã hội, làm chủ được bản thân mình, và xây dựng được niềm
tin cho mỗi con người thì tôn giáo sẽ không còn.
– Tính quần chúng: Tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một số bộ phần
quần chúng, nhân dân lao động. Hiện nay số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỉ lệ
khá cao trong dân số thế giới. Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư hảo, song nó phản
ánh khát vọng của những con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.
Bởi vì tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo, hướng thiện. Vì vậy còn nhiều người
ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
– Tính chính trị của tôn giáo: Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, các giai cấp chính trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của
mình. Trong nội bộ các tôn giáo cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái nhiều khi cũng
mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường là một
bộ phận của đấu tranh giai cấp. Hoàng lộc, Trần Hiếu 9
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 9: Những đặc trưng cơ bản của CNXH theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Phân tích quan điểm
3 (CNXH có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu)
CNXH là giai đoạn thấp của hình thái KT-XH CSCN. Dựa trên cơ sở lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng CNXH, đặc trưng cơ bản của CNXH:
- ĐT 1: Cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH là nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Chỉ
rõ nền sản xuất CN hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều
của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa
của nhân dân, nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền CN hiện đại dựa trên LLSX đã phát triển cao.
- ĐT 2: CNXH đã xóa bỏ tư hữu tư bản CN, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu (xóa bỏ chế độ tư huux TBCN). CNXH được hình thành dựa trên cơ sở
từng bước thiết lập chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất, sở hữu toàn dân và sỡ
hữu tập thể - nó được củng cố, hoàn thiện, đảm bảo thích ứng với tính chất và trình
độ phát triển của LLSX, mở đường cho LLSX phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn
đối kháng trong xã hội, gắn bó các thành viên vì lợi ích căn bản.
- ĐT 3: CNXH tạo ra các tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới. Quá trình xây dựng
CNXH và bảo vệ TQ XHCN là 1 quá trình hoạt động tự giác của đại đa số NDLĐ, vì
lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đính đó, cần phải tổ chức lao động
và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc
phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
- ĐT 4: CNXH thực hiện nguyên tắc phân bố theo lao động - nguyên tắc phân phối cơ
bản nhất. CNXH đảm bảo cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động sáng tạo
và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo
nguyên tắc “ Làm theo năng lực, hưởng theo lao động ”. Đó là 1 trong những cơ sở của
công bằng xã hội ở giai đoạn này.
- ĐT 5: CNXH có Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất
GCCN, tính ND rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
- ĐT 6: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng,
bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo nhiều điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
⇒ Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của CNXH, nói lên tính ưu việt của CNXH.
Và do đó, CNXH là xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc
trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng CNXH
cần phải quan tâm đầy đủ các đặc trưng này. Hoàng lộc, Trần Hiếu 10
Tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo, không chịu trách nhiệm nếu bị mang làm phao thi
Câu 10: Nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
bản chất và phân bố nguồn gốc của tôn giáo • Khái niệm tôn giáo
- KN tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hôi, phản ánh hiện thực khách quan
theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lý, hành vi của con người
- Trong đời sống xã hội, tôn giáo là 1 cộng đồng xã hội, với các yếu tố hệ thống giáo lý
tôn giáo, nghi lễ tôn giáo.
- Cần phần biệt tôn giáo với mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là những hiện tượng (ý
thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ phải hành vi đạo
đức, văn hóa cộng đồng, gây hậu quả trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của cá
nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực phải kiên quyết bài trừ,
nhằm làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần xã hội.
• Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử, nó là sự phản ánh
hư ảo vào đầu óc con người những sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ. Sự phản ánh mà các lực lượng ở thế gian mang màu sắc siêu thế gian.
• Nguồn gốc của tôn giáo
- Nguồn gốc nhận thức Do khả năng nhận thức của con người đối với mọi hiện tượng
TN và XH rất hạn chế nên họ phản ánh sai lạc bản chất các hiện tượng đó, đi đến thần thánh hóa nó.
- Nguồn gốc xã hội: Đó là do tính tự phát của các mối quan hệ xã hội của con người và
chế độ áp bức bóc lộc. Tôn giáo ra đời còn có nguồn gốc tâm lý sợ sệt, yếu đuối, thiếu
sức mạnh của ý chí tạo những cảm xúc tiêu cực, tạo điều kiện nảy sinh ý thức tôn giáo. - Nguồn gốc KT-XH:
- Trong xã hội nguyên thủy do trình độ LLSX thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối,
lệ thuộc vào TN → họ đã gán cho TN những lực lượng siêu TN có sức mạnh, quyền lực
to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.
- Khi xã hội có giai cấp đối kháng, áp bức, bóc lột, bất công của giai cấp thống trị đối
với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. Lênin đã viết:“ Sự bất lực của
giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhân đẻ ra lòng tin vào
1 cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia ”.
- Hiện nay con người vẫn chưa làm chủ được TN và XH; các cuộc xung đột giai cấp,
dân tộc, thiên tai, bệnh tật, ... vẫn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Tôn giáo bắt nguồn từ nhận thức hạn hẹp và mơ
hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống số phận con người. Trong quá trình
nhận thức, con người có thể nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tượng xa với với hiện thực khách quan.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo: Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu buồn chán, tuyệt
vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được bản thân là cơ sở tâm
lý để hình thành tôn giáo. Lòng biết ơn, sự tôn kính đối với những người có công khai
phá tự nhiên và chống lại thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lý con người cũng là cơ
sở để tôn giáo nảy sinh. Hoàng lộc, Trần Hiếu 11