Đề cương ôn tập Chủ nghĩa xã hội khoa học | Trường đại học Bách Khoa Hà Nội
Đề cương ôn tập Chủ nghĩa xã hội khoa học | Trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Trường: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 1: hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Vào những năm 40 của thế kỉ 19, các cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở nước Anh và bắt dầu
chuyển sang Đức và Pháp. Từ đây làm xuất hiện 1 lực lượng sản xuất mới đó là nền đại công nghiệp. Nền
đại công nghiệp phát triển làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước tiến bộ vượt bậc. Từ
đó cũng làm cho mâu thuẫn của lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội và lực lượng sản xuất mang
tính chất chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt. Nền đại công nghiẹp phát triển cũng làm
xuất hiện 2 giai cấp có lợi ích đối lập nhau là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ đây các cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản ngày càng mạnh mẽ. Các
cuộc đấu tranh diễn ra mạnh mẽ và từng bước có hệ thống, trên quy mô rộng khắp. Sự phát triển của
các cuộc đấu tranh có tính chính trị của giai cấp công nhân là minh chứng, lần đầu tiên giai cấp công
nhân xuất hiện như 1 lực lượng chính trị có yêu sách kinh tế, chính trị riêng và hướng mũi nhọn các cuộc
đấu tranh vào kẻ thù của mình là gia cấp tư sản. Sự phatys triển mạnh mẽ của giai cấp công nhân đòi hỏi
cần phải có 1 hệ thống lý luận soi đường và 1 cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam mọi hành động. Điều
kiện kinh tế - xã hội không chỉ đặt ra yêu cầu cho các nhà tư tưởng của giai cấp công nhân mà còn là
mảnh đất hiện thực cho rời đời 1 lý luận mới tốt đẹp hơn.
2. Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận
Vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19, nhân loại đạt rất nhiều thành tựu to lớn về khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội, đặt nền móng cho mọi sự sáng tạo lý luận. Nhân loại đạt rất nhiều những thành tựu khoa học
tự nhiên vượt thời đại về vật lý học và sinh học trong đó có: học thuyết tiến hóa; học thuyết tế bào; định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Những phát minh này có vai trò làm tiền đề về khoa học cho sự
ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và là cơ sở phương pháp luận cho các
nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu lý luận chính trị - xã hội đương thời.
Bên cạnh những thành tựu của khoa học tự nhiên; khoa học xã hội cũng đạt nhiều thanh tựu to lớn ;
trong đó có: triết học cổ điển đức; kinh tế chính trị cổ điển Anh; chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê
phán. Những tư tưởng của xã hội chủ nghĩa không tưởng – phê phán Pháp đã đem đến nhiều giá trị: 1.
Trên tư tưởng phê phán và lên án chế độ quân chủ chuyên chế và tư bản chủ nghĩa đầy bất công, bóc lột
và đầy xung đột. 2. Nêu ra nhiều lý luận cho xã hội trong tương lai như: phân công lao động, phân phối
hàng hóa trong xã hội, tầm quan trong của khoa học kĩ thuật; giải phóng phụ nữ,....3. trên tư tưởng phê
phán, lên án kết hợp với sự dấn thân của các nhà tư tưởng vào thực tiễn, có chừng mực đã làm thức
tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột, áp bức của chế
độ quân chủ chuyên chế và tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy xã hội chủ nghĩa không tưởng – phê phán còn gặp
nhiều hạn chế hoặc là do điều kiện lịch sử hoặc là do sự hạn chế về tàm nhìn và thế giới quan của các
nhà tư tưởng. Chính những hạn chế này khiến chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán chỉ dừng lại là 1
học thuyết. Song vượt lên tất cả những thành tựu về khoa học và cống hiến của các nhà tư tưởng đã tạo
nên 1 tiền đề lý luận để C.Mac và Ph.Ăngghen kế thừa những “hạt nhân hợp lý”; loại bỏ những quan
điểm bất hợp lý để xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.
Câu 2: vai trò của C.Mac và Ph.Ăngghen trong sự ra đời của nghĩa xã hội khoa học
Để đi phân tích vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen trong sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, ta đi
phân tích qua sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị, 3 phát kiến vĩ đại và tuyên
ngôn của đảng cộng sản- mốc đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
1. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
Ban đầu lập trường tiết học của C.Mác và Ph.Ăngghen là lập trường triết học duy tâm do 2 ông chịu ảnh
hưởng của việc tham gia vào câu lạc bộ sinh hoạt triết học heghen trẻ. Bằng nhãn quan và sự hiểu biết
của mình rất nhanh 2 ông đã thấy được nhưng mặt hạn chế và bất hợp lý của triết học heghen, 2 ông đã
chuyển từ lập trường triết học duy tâm sang lập trường triết học duy vật.
Bên cạnh sự chuyển biết lập trường triết học, C.Mác và Ph.Ăngghen có sự chuyển biến về lập trường
chính trị. Do chịu ảnh hưởng của việc tham gia các phong trào cũng giai cấp công nhân, 2 ông đã thấy sự
thống khổ trong họ và quan trọng hơn 2 ông đã thấy được tinh thần cách mạng trong những người công
nhân đó. Vì vậy 2 ông đã chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường chủ nghĩa xã hội.
Trong 1 khoảng thời gian, gắn liền với nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khảng định 1 cách kiên định về lý luận này. Nếu không có sự chuyển biến này thì sẽ không có chủ nghĩa Mác sau này. 2. 3 phát kiến vĩ đại
Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng, xóa bỏ những quan điểm duy tâm thần
bí của triết học heghen, kế thừa những giá trị duy vật và loại bỏ những quan điểm siêu hình của triết học
phoiobac, kết hợp nghiên cứu khoa học tự nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Dựa trên phép duy vật biện chứng, 2 ông đi sâu vào nghiên cứu chủ nghĩa tư bản và cho ra
đời chủ nghĩa duy vật lịch sử- phát kiến vĩ đại thứ nhất của C.Mac và Ph.Ăngghen, lời khảng định sự diẹt
vong chủ chủ nghĩa tư bản về phương diện triết học là không thể tránh khỏi.
Trên cơ sở phát kiến vĩ đại thứ nhất: chủ nghĩa duy vật lịch sử, 2 ông đi sâu vào nghiên cứu nền sản xuất
công nghiệp và nền kinh tế tư bản chú nghĩa và cho ra đời bộ “tư bản”. Và giá trị to lớn nhất trong đó
chính là học thuyết giá trị thặng dư- phát kiến vĩ đại thứ 2 của C.Mác và Ph.Ăngghen là sự khẳng định sự
diệt vong của chủ nghĩa tư bản về mặt kinh tế là không thể tránh khỏi
Trên cơ sở 2 phát kiến vĩ đại trên, C.Mác và Ph.Ăngghe đã cho ra phát kiến vĩ đại thứ 3 đó là học thuyết
về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh thủ
tiêu giai cấp tư sản và xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Với phát kiến vĩ đại
thứ 3 này thì những mặt hạn chế có tính lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đã được
khắc phục 1 cách triệt ể
đ và đây cũng là lời khẳng định sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản về phương
diện chính trị - xã hội là không thể tránh khỏi.
3. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản
Dưới sự ủy nhiệm của người cộng sản và công nhân quốc tế, ngày 24/2/1848 Tuyên ngôn cảu Đảng Cộng
Sản được biên soạn bởi C.Mac và Ph.ăngghen được công bố trên toàn thế giới. Tác phẩm vĩ đại này cũng
đánh dấu sự hình thành cơ bản về lý luận của triết học Mác: triết học, kinh tế chính trị khoa học, chủ
nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản đã nêu và phân tích 1 cách có hệ thống lịch sử và
logic chặt chẽ về những vấn đề cơ bản nhất, súc tích nhất, đầy đủ nhất và gần như thâu tóm được toàn
bộ luận điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn của đảng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi hành
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân
lao dộng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp khỏi
sự bóc lột, áp bức và bảo đảm sự hòa bình tự do hạnh phúc. Phạm Văn Luân-20216559
Câu 3: Những điều kiện khách quan và chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân :
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nhiệp, mang tính xã hội hóa câo, là chủ thể trong
việc sản xuất vật chất cho xã hội. Giai cấp công nhân đại điện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng
sản xuất hiện đại. Trong xã hội nay, khi lao trộng trên phương pháp sản xuất công nghiệp hiện đại thì giai cấp
công nhân là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo sự phát triển của xã hội. Điều kiẹn khách
quan này là nhân tố kinh tế quy định giai cấp công nhân là lực lượng phá vỡ mối quan hệ trong tư bản chủ
nghĩa, giành lại chính quyền về tay mình, chuyển từ gia cấp “tự nó” thanh giai cấp “vì nó”. Giai cấp công nhân
trở thành đại biểu cho sự phát triến tất yếu của lịch sử và là giai cấp duy nhất có đủ điều kiện để xây dựng nền
móng cho chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định:
Giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất chủ yếu của cải vật chất cho xã hội tuy nhiên trong tư bản chủ nghĩa
giai cấp công nhân không có quyền sở hữu tư liệu lao động mà học chỉ có thể bán sức lao động của mình và
chịu sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản vì vậy lợi ích của họ đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản và thống
nhất với hầu hết lợi ích của tầng lớp nhân dân lao động.
Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân cũng có những phẩm chất của 1 giai cấp
cách mạng và giai cấp tiên tiến: có tổ chức và kỉ luật, tự giác và đoàn kết trong các phong trào đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Các phẩm chất ấy của giai cấp công nhân được hình thành từ những điều
kiện khách quan, được quy định từ địa vị kinh tế và quy định về địa vị chính trị xã hội của nó trong nền sản
xuất vật chất hiện đại. Giai cấp công nhân được trang bị lý luận chính trị tiên tiến là chủ nghĩa Mác- Lênin và
đội tiền phong là Đảng Cộng Sản dẫn dắt.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thực hiện sở dĩ giai cấp công nhân là 1 giai cấp cách cách
mạng, là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, lực lượng sản xuất hiện đại để thay thế cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đầy bất công. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai và
đảm bảo cho sự phát triển liên tục của xã hội
1. Những điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sự phát triển của bản thân của giai cấp công nhân về cả số lượng và chất lượng. Thông qua sự phát triển đó
ta có thể thấy được sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng quy mô sản xuất vật chất hiện đại trên cơ sở
sản xuất công nghiệp, công nghệ, khoa học - kĩ thuật. Sự phát triển về số lượng của giai cấp công nhân phải đi
đôi với sự phát triển về chất lượng để đảm bảo giai cấp công nhân có thể thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Chất lượng của giai cấp công nhân thể hiện qua trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của 1 giai cấp cách
mạng. Tức là giai cấp công nhân phải tự giác thấy được vai trò và trách nhiệm của giai cấp mình đối với lịch
sử. Do vậy giai cấp công nhân cần phải được giác ngộ lý luận khoa học và cách mạng chủ nghĩa Mác – Lênin.
Là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng của giai cấp công nhân được thể hiện ở
trình độ, năng lực làm chủ khoa học – kĩ thuật và máy móc tiên tiến nhất là trong thời kì ngày nay. Để đảm bảo
sự phát triển của giai cấp công nhân về cả số lượng và chất lượng, Mác – Lênin đã chỉ ra 2 biện pháp cơ bản:
1. Phát triển công nghiệp , 2. Sự trưởng thành của Đảng Cộng Sản- hạt nhân chính trị quan trọng của giai cấp
công nhân. Chỉ với sự phát triển về số lượng và chất lượng nhất là về chất lượng mới đảm bảo việc giai cấp
công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng Cộng Sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất ể
đ giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch
sử của mình. Đảng cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo các
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân: thể hiện sự phát triển vượt bậc của giai cấp công nhân với tư
cách là 1 giai cấp cách mạng. Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản là sự kết hợp của
chủ nghĩa xã hội khoa học, tức là chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trao công nhân. Giai cấp công nhân là cơ
sở của xã hội, là nguồn bổ sung nhân lực quan trọng nhất của Đảng, làm cho đảng mang bản chất của giai
cấp công nhân, trở thành đội tiên phong và bộ tham mưu chiên đấu của giai cấp. Đảng là đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, dân tộc, xã hội.
Ngoài hai nhân tố chủ quan đã được nêu trên, Mác – Lênin đã khẳng định :” để cuộc cách mạng thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới thẳng lợi, cần phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao dộng khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Đây cũng là 1 điều kiện chủ quan không thể thiếu cho sự thắng lợi của giai cấp công nhân
Câu 4: Tính khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định:”Lịch sử xã hội loài người
trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội đó là: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa cộng sản.” Trong các hình thái kinh tế trên thì hình thái kinh tế chủ nghĩa cộng sản có
sự khác biệt về chất, trong đó không có giai cấp đối kháng và con người dần trở lên tự do,... theo các
nhà chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản nhất thiết phải trải
qua thời kì quá độ chính trị.
Mong muốn có 1 xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp để thay thế cho xã hội tư bản chủ nghĩa đày bất công và
áp bức bóc lột là một mong muốn chính đáng. Song các nhà kinh điển cho rằng mong muốn ấy không
thể cầu được ước thấy bởi lẻ giai cấp công nhân cần phải có thời gian cải tạo xã hội cũ và xây dựng nền
móng lâu dài cho chủ nghĩa xã hội.
Thấy được sự cần thiết của thời kì quá độ, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phân quá độ ra
làm 2 loại đó là: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. 1. Quá độ trực tiếp là thời kì quá độ từ chủ nghĩa
tư bản nên chủ nghĩa cộng sản dành cho những nước đã từng trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy
nhiên từ trước đến nay chưa có quốc gia nào từng trải qua thời kì quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản. 2. Quá độ gián tiếp: là thời kì quá độ dành cho những nước chưa từng trải qua
thời kì chủ nghĩa tư bản phát triển.
Phát triển từ 1 ý kiến cho rằng :” chủ nghĩa cộng sản không phải là 1 trạng thái cần sáng tạo ra cũng
không phải là 1 lý tưởng cần phải tuân theo mà nó là kết quả của các phong trào hiện thực”. Các nhà xã
hội khoa học cho rằng : các nước lạc hậu dưới sự giúp đỡ của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi
có thể rút ngắn dược thời gian phát triển.
Vận dụng và phát triển từ những quan điểm của C.Mac và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, sau cách
mạng tháng 10 Nga V.I.Lênin đã khẳng định:” Dưới sự giúp đỡ của giai cấp công nhân của các nước tiên
tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô viết, thông qua 1 số giai đoạn phát triển nhất định, tiến
tới chủ nghĩa cộng sản mà không cần trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Quán triệt, vận dụng,phát triển sáng tạo những quan điểm của Mac – Lênin trong thời đại ngày này,
trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản diễn ra trong phạm vi toàn cầu, ta có thể
khẳng định: trong thời kì toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các nước lạc hậu sau khi
giành lại được chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản có thể tiến tới chủ nghĩa cộng sản mà
không cần trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Phạm Văn Luân-20216559
Câu 5: Dân tộc và cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa mac-lênin
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin : Dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người , trải
qua các hình thái cộng đồng từ thấp tới cao : thị tộc, bộ tộc, bộ lạc, dân tộc. Sự chuyển biến phương
thức sản xuất là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin :”Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền
tự quyết, liên hiệp công nhân giữa các dân tộc”.
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: đây là quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc, không phân biệt
dân tộc lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, mọi dân tộc đều có quyền và nghĩa vụ như
nhau trong các lĩnh vực của đời sống. Không 1 dân tộc nào được giữ đặc quyền về kinh tế, chính
trị, xã hội. Trong mọi mối quan hệ xã hội cũng như mối quan hệ quốc tế, không 1 dân tộc nào có
quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác. Trong 1 quốc gia đa dân tộc, để thực hiện sự bình đẳng
giữa các dân tộc đầu tiên phải thể hiện qua cơ sở pháp lý và quan trọng phải được thể hiện qua
thực tế. Để thực hiện quyền bình đẳng, trước hết cần phải xóa bỏ được sự áp bức bóc lột, từ đó
xóa bỏ sự áp bức giai cấp, đứng lên đấu tranh chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và dân
tộc cực đoan. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và liên hiệp công nhân các dân tộc.
2. Các dân tộc được quyền tự quyết: các dân tộc được quyền tự quyết vận mệnh của dân tọc mình.
Các dân tộc có quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc. Quyền tự
quyết bao gồm :phân lập thành 1 quốc gia dân tộc độc lập và kết hợp với các dân tộc khác trên
cơ sở bình đẳng, tuy nhiên việc thực hiện quyền dân tộc cần phải gắn liền với thực tiễn – cụ thể
và phải đứng vững trên lợi ích của giai cấp công nhân sao cho phải cân bằng giữa lợi ích của giai
cấp công nhân và lợi ích của dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với “quyền” của
các tộc người thiểu số trong 1 quốc gia đa tộc người nhất là phân lập thành 1 quốc gia độc lập.
Kiên quyết đứng lên đấu tranh chống lại các thành phần cực đoan lợi dụng chiêu trò dân tộc tự quyết ể
đ xen vào vấn đề nội bộ của quốc gia và kích động đòi li khai dân tộc.
3. Liên hiệp công nhân các dân tộc
Việc liên hiệp công nhân các dân tộc thể hiện sự thống nhất của giải phóng giai cấp và giải phóng
dân tộc, phản ánh rõ ràng chặt chẽ tinh thần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân
chính. Việc đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở để đoàn kết các tầng lớp nhân
nhân lao động trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì tự do dân tộc và xã hội tiến bộ.
Vì vậy nội dung này không chỉ là nội dung cơ bản mà còn là giải pháp quan trọng gắn liền các
thành phần thành 1 cương lĩnh dân tộc hoàn chỉnh.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-lênin là cơ sở lý luận quan trọng giúp Đảng Cộng Sản thực hiện
các chính sách về dân tộc trong thời kì giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phạm Văn Luân-20216559 Câu 6: 1. Bản chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin : Tôn giáo là 1 hình thái ý thức – xã hội phản ánh sự hư ảo
của hiện thực khách quan. Từ sự phản ánh đó những lực lượng tự nhiên xã hội trở thành siêu nhiên thần
bí. Để làm rõ hơn về vấn đề của tôn giáo, Mác – Lênin đã chỉ rõ: tôn giáo là 1 hiện tượng văn hóa – giáo
dục do con người sáng tạo lên. Con người sáng tạo ra văn hóa nhằm đáp ứng những mục đích và lợi ích
của họ. Tuy nhiên khi sáng tạo ra tôn giáo con người lại phụ thuộc vào tôn giáo và phục tùng tôn giáo 1
cách vô điều kiện. Về phương diện thế giới quan, tôn giáo mang bản chất cuả thế giới quan duy tâm trái
ngược lại với thế giới quan duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất nhưng có sự giao thoa nhất định. Tín ngưỡng là những niềm
tin, sự ngưỡng mộ, cách thể hiện niềm tin của con người vào những thế lực thần bí, siêu nhiên để cầu
mong được giúp đỡ và che chở. Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông vào những hiện tượng siêu nhiên
mà không dựa trên bất cứ c
ơ sở khoa học nào. Mê tín dị đoạn là niềm tin của con người vào những thế
lực thần bí, siêu nhiên 1 cách cuồng tín và có những hành động cực đoan, sai lệch quá mức về chuẩn
mực đạo đức con người, quy định, pháp luật của nhà nước gây tông hại đến cá nhân, xã hội và cộng đồng. 2. Nguồn gốc
Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do lực lượng sản xuất chưa phát triển,
dưới sự chi phối và tác động của thiên nhiên hùng vĩ thì con người cảm thấy yếu ớt và nhỏ bé vô cùng. Vì
vậy con người đã gắn cho tự nhiên sức mạnh và quyền lực thần bí. Trong xã hội tồn tại giai cấp đối
kháng và có sự ấp bức bóc lột, do không giải thích được nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa giai cấp và
sự bóc lột, áp bức,..... cộng với việc lo sợ sự thống trị của lực lượng xã hội,con người trông chờ vào sự
giải phóng của thế lực siêu nhiên thần bí tồn tại ngoài trần thế.
Nguồn gốc nhận thức: Trong giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội
và chính bản thân mình còn gặp nhiều hạn chế. Khoảng cách giữa “biết” và “không biết” vẫn tồn tại,
những hiện tượng nào mà khoa học chưa giải thích được thì thường được giải thích dưới lăng kính của
tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh nhưng do trình độ dân trí thấp và sự
chưa nhận thức được đầy đủ cũng là mảnh đất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo. Nguồn
gốc của tôn giáo là sự tuyệt đối hóa nhận thức của con người biến những hiện thực khách quan thành thần bí, siêu nhiên. Nguồn gốc về tâm lý:
Sự sợ hãi trước tự nhiên, khi con người ốm đau bênh tật, khi thử may rủi hoặc tâm lý muốn được sau
khi vừa thực hiện 1 việc lớn, con người cũng dễ tìm đến tôn giáo ( cúng thổ địa, ma chay,.....) . Ngay cả
khi những niềm tin tích cực như tình yêu, sự biết ơn với những anh hùng có công với đất nước,... con
người vẫn dễ tìm đến tôn giáo ( thờ các anh hùng liệt sĩ,....).
3. Nguyên tắc giải quyết các vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ
Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân dân : Tôn giáo và tín
ngưỡng là niềm tin của quần chúng nhân dân vào đáng tối cao, đấng thiêng liêng mà họ tôn thờ, đây là
yếu tố ý thức tâm lý. Vì vậy việc tư do tín ngưỡng hay tự do không tín ngưỡng phụ thuộc vào quyền tự
do tư tưởng của nhân dân. Những hành vi ngăn cấm, cấm đoán nhân dân theo đạo, bỏ đạo, chuyển đạo
hay ép buộc, đe dọa nhân dân theo đạo đều vi phạm đến quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Việc tôn
trọng quyền tự do tư tưởng của nhân dân thể hiện sự tôn trọng với quyền của con người đồng thời thể
hiện bản chất ưu việt của xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chủ nghĩa xã hội không can thiệp cũng không cho
phép 1 ai can thiệp vào quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với cải tạo xã hội cụ và xây dụng xã
hội mới: Nguyên tắc này thể hiện việc chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ tập trung vào việc khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo đến với đời sống xã hội chứ không tham gia vào hoạt dodongj nội bộ của
tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định để thay đổi ý thức xã hội thì phải thay đổi bản thân tồn
tại trong xã hội, để xóa bỏ những ảo tưởng trong tư tưởng nhân dân thì phải đi xóa bỏ nguyên nhân gây
ra những ảo tưởng đó. Để thực hiện được điều này đàu tiên cần phải xóa bỏ sự áp bức bóc lột,... Đây là
1 quá trình dài và đòi hỏi cần phải có sự thống nhất giữa cải tạo xã hội cũ và xây dụng xã hội mới.
Phân biệt 2 mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết các vấn đề của tôn giáo : Trong xã hội cộng
sản nguyên thủy, tôn giáo và tín ngưỡng được biểu hiện thuần túy về tư t ởn
ư g. Nhưng trong xã hội có
giai cấp thì dấu ấn giai cấp – chính trị ít nhiều cũng in sâu vào các tôn giáo. 2 mặt chính trị và tư tưởng
thường xuyên thể hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề của tôn giáo.
Quan điểm lịch sử cụ thể để giải quyết các vấn đề của dân tộc: Tôn giáo không phải là 1 hiện tượng bất
biến, mà nó luôn vận động và biến đổi không ngừng tùy theo điều kiện kinh tế, văn hóa, lịch sử. Mỗi tôn
giáo có lịch sử hình thành, quá trình tồn tại và phát triển khác nhau. Ở mỗi điều kiện lịch sử khác nhau
thì tác động và vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Vì vậy cần có quan điểm
lịch sử cụ thể để giải quyết các vấn đề của dân tộc.
Câu 7: những chức năng cơ bản của gia đình
1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng cơ bản nhất cũng là chức năng đặc thù nhất của gia đình mà không một tổ chức cộng
đồng nào có được. Thực hiện chức năng này đáp ứng thỏa mãn tâm sinh lý, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi
giống của gia đình và dòng họ, đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động xã hội để duy trì sự trường tồn cho
xã hội. Chức năng này được thực hiện ở mỗi gia đình nhưng đây không phải là vấn đề riêng của gia đình
mà nó còn là vấn đề của xã hội. Bỏi lẽ việc tái sản xuất ra con người ảnh hưởng đến mật ộ đ dân số,
nguồn lao động xã hội cho quốc gia, quốc tế - yếu tố cấu thành xã hội. Tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội
của từng quốc gia, có những quốc gia họ sẽ khuyến khích có những quốc gia họ sẽ hạn chế chức năng này.
2. Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái
Đây là chức năng cơ bản của gia đình. Thực hiện chức năng này cha mẹ thể hiện tình yêu thiêng liêng đối
với con cái, trách nhiệm của gia đình đối với xã hội. Việc giáo dục của gia đình đối với con cái sẽ ảnh
hưởng lớn đến việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của con sau này. Khi thực hiện chức năng
nuôi dưỡng và giáo dục, mỗi gia đình như 1 môi trường văn hóa – giáo dục, mỗi thành viên trong gia
đình như 1 chủ thể sáng tạo văn hóa giáo dục, là những người được thụ hưởng những giá trị về văn hóa
và là chủ thể khách quan chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình. Việc giáo dục của gia
đình ảnh hưởng lâu dài đến cuộc sống mỗi con người. Mặc dù trong xã hội có rất nhiều cộng đồng thực
hiện chức năng giáo dục như : trường học,..... nhưng không thể thay thế cho giáo dục gia đình. Thực
hiện chức năng này gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ - thế hệ tương
lai cho xã hội, nâng cao chất lượng nguồn lao động cho sự trường tồn của xã hội, mỗi con người đều
được xã hội hóa. Vì thế giáo dục gia đình phải gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu tách rời giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội thì con người sẽ không bắt kịp được xã hội và ngược lại.
3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Cũng giống như các đơn vị kinh tế khác, gia đình là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và
tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Nhưng 1 đặc thù của gia đình mà không 1 cộng đồng
xã hội nào có được là gia đình là chủ thể tham gia trực tiếp vào qua trình sản xuất và tái sản xuất sức lao
động cho xã hội. Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất và
sức lao động mà gia đình còn thực hiện chức năng tiêu dùng cho xã hội. Gia đình thực hiện chức năng
tiêu dùng vào việc duy trì đời sống gia đình về lao động lẫn trong sinh hoạt. Đó là việc sử dụng các nguồn
thu hợp lý vào việc đáp ứng đủ như cầu về vật chất và tinh thần cho sự phát triển của các thành viên
trong gia đình. Không chỉ vậy gia đình còn tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất của cải, vật chất làm
giàu cho xã hội. Nếu tận dụng được các nguồn vốn, nguồn đầu tư, tận dụng thực hiện triệt để chức này
này thì gia đình không những tạo được cơ sở tốt để phát triển gia đình, nuôi dạy con cái mà còn làm phát triển cho xã hội.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý và duy trì hạnh phúc gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình nhằm thỏa mãn như cầu về tình cảm, văn hóa, tinh thần, sự
quan tâm chăm sóc lẫn nhau của các thành viên trong gia đình. Việc quan tâm chăm sóc lẫn nhau của
các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu về tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm mỗi con
người. Vì thế gia đình không chỉ là chỗ dựa vững chắc về mặt vật chất mà còn là chõ dựa về mặt tinh
thần. Việc duy trì tình cảm trong gia đình cũng giúp đảm bảo sự ổn định và phát triển cho xã hội, khi các
mối quan hệ trong gia đình bị rạn nứt thì các mối quan hệ tình cảm trong xã hội cũng tan vỡ.
Về văn hóa gia đình đóng vai trò là nơi lưu giữ và truyền bá văn hóa của mỗi tộc người. Gia đình không
chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo ra văn hóa. Về chính trị, mỗi gia đình là 1 tổ chức chính trị xã hội
thực hiện các quy định, pháp luạt của nhà nước, quy định của làng thôn và cũng là chủ thể được thụ
hưởng trực tiếp từ những quy định này.