Đề cương ôn tập cuối kỳ Triết học Mac-Lenin | Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Đề cương ôn tập cuối kỳ Triết học Mac-Lenin | Đại học Khoa học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mac-Lenin (KHTN)
Trường: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
I.
Câu 1: Van de co ban cua triet hoc. Chu nghia duy vat va chu nghia
duy tam , triet hoc nhi nguyen . Cac hinh thuc co ban cua chu nggia
duy vat va chu nghia duy tam trong lich su triet hoc.
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Mác - Ăngghen:“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”
Vấn đề này gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất ( tư duy
và tồn tại) thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai (nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận
thức thế giới chung quanh hay không?
Thực chất vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức. Bởi vì:
- Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người
- Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập
trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học.
2. Các trường phái triết học
a. Chủ nghĩa duy tâm:
- Những người cho rằng: bản chất thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất,
vật chất là tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất, dược gọi là các nhà duy tâm;
học thuyết của họ hợp thành những môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
- Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội: sự xem xét phiến diện, tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và
thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
- Có 2 hình thức cơ bản: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ
nhất của ý thức con người; phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực; khẳng
định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác” của cá nhân. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh
thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có
trước và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người.
b. Chủ nghĩa duy vật:
- Những người cho rằng: bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tình thứ
nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, được gọi
là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
- Nguồn gốc: từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường
gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
- Nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hóa những tri thức của nhân
loại về nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm lý luận chung, đồng
thời định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình.
- Trên cơ sở phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã phát
triển qua các hình thức lịch sử của nó, trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng là
hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử
II. Câu 2:Quan niem cua triet hoc Mac – Lenin ve vat chat. Phuong thuc
va hinh thuc ton tai cua vat chat. Y nghia phuong phap luan cua moi quan he
bay trong nhan thuc va hoat dong thuc tien
- Định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” - Phân tích:
- Thứ nhất: phân biệt “vật chất “ với tư cách là phạm trù triết học vs khái niệm
“vật chất” dc dùng trong các khoa học chuyên ngành
- Thứ 2: thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc
tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, ko phụ thuộc ý
thức con ng, dù con ng có nhận thức dc nó hay ko
- Thứ 3: vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm
giác của con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan của
con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất; vật chất là
cái được ý thức phản ánh. - Ý nghĩa:
- 1 là:khẳng định nền tảng của chủ nghĩa duy vật: vật chất có trc
- 2 là: cho chúng ta cơ sở để chống lại chủ nghĩa duy tâm khách quan, chủ
quan và thuyết không thể biết.
- 3 là: khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật trc mắt
- 4 là: định nghĩa cho khoa học phát triển
- 5 là: cho phép xác định cái j là vật chất trong lĩnh vực xã hội
- Phương thức tồn tại của vật chất chính là vận động. Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
+ vận động là sự biến đổi nói chung
+ vật chất vận động: do cấu trúc của bản thân sự vật
+ đứng im là tg đối, vận động là tuyệt đối
+ các hình thức vận động: cơ học => vật lý => hóa học => sinh học => xã hội
- Hình thức tồn tại của vật chất là ko gian và tgian:
+Mỗi sự vật lại tồn tại trog 1 vị trí tươg quan nhất định. Đó là ko gian
+ quá trình biến đổi nhanh hay chậm, kế tiếp hay chuyển hóa của hiện tượng, sự vật là thời gian.
CÂU 3: Quan niệm của triết học Mác– Lenin về nguồn gốc, bản chất của ý
thức. Mối quan hệ giữa vật chất vàý thức.Ý nghĩa phương pháp luận của mối
liên hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
1. Nguồn gốc của ý thức
- CNDT cho rằng: ý thức là do lực lượng tinh thần, thượng đế. Họ không cho
rằng ý thức phản ánh thế giới
- CNDV siêu hình: ý thức la do vật chất sinh ra giống như là gan tiết ra nước
mật nhưng họ không thấy được vai trò của ý thức. Họ không phân biệt được vật chất và ý thức
- CNDVBC: theo quan điểm DVBC ý thức có 2 nguồn gốc: tự nhiên và xã hội
+ Nguồn gốc tự nhiên: ý thức là ý thức của con người, là thuộc tính phản ánh
của một dạng vật chất có tổ chức cao tinh vi hoàn thiện đó là óc người. Thực vậy:
Trong giải phẫu óc người: người ta cũng thấy nó là một dạng vật chất
trong đó bao gồm đồng, chì, sắt, kẽm, nước …
Óc người là cơ quan sản sinh ra ý thức
Nó là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là óc người
Có 4 trình độ phản ánh: phản ánh của chất vô cơ, phản ánh kích thích
của sinh vật, hung phấn kích thích, phản ánh ý thức mang tính chất tích cực, sáng tạo
+ Nguồn gốc xã hội: lao động và ngôn ngữ
Con người tác động vào TGKQ, làm cho nó bộc lộ các thuộc tính thành
những hiện tượng-> tác động vào bộ óc người-> khả năng hình thành tru
thức nói chung và ý thức nói riêng
Ngôn ngữ:con người khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh
nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác
2. Bản chất của ý thức:
-Ý thức là sự phản ánh năng động , sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức phản ánh thế giới
khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới.Theo C.Mác thì ý
thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong óc của con người và
được cải biến đi ở trong nó
+ Tính sáng tạo của ý thức: Ý thức có thể tạo ra tri thức mới của sự vật, có
thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo
tương lai (phản ánh vượt trước), có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại,
những giả thuyết, lý thuyết khoa học…Ở một số người có khả năng đặc biệt như
tiên tri, thôi miên, ngại cảm… đó là phản ánh thể hiện khả năng hoạt động tâm sinh
lý của con người, tiếp nhận thông tin, xử lý và lưu giữ thông tin từ đó hình thành những thông tin mới.
+ Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người trong
quá trình cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau:
Sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh mang
tính chất 2 chiều, có định hownsg và chọn lọc thông tin cần thiết.
Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần
Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan. Tức là cải
biến quan niệm thành cái thực tại thông qua hoạt động thực tiễn.
- Ý thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phán
ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc
- Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh quan hệ xã hội khách quan.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a, Vật chất quyết định ý thức
- Vật chất quyết định ý thức ở nguồn gốc, bản chất, nội dung, sự biến đổi của ý thức
+ Nguồn gốc: ý thức sinh ra từ vật chất chứ không phải do một đấng thần linh
+ Bản chất: ý thức là hiện thực khách quan được di chuyển vào óc người
nhưng sự phản ánh này mang tính chủ động sang tạo. Là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, là sự phản ánh hiện thựckhách quan.
+ Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức vù ý thức là cái phản ánh do
đó khi vật chất biến đổi thì ý thức cũng phải biến đổi theo
b, Vai trò của ý thức đối với vật chất
- Ý thức quyết định hướng cho hoạt động của con người, tác động và thế giới
vật chất và cải tạo thế giới vật chất theo nhu cầu của con người.
- Ý thức do đi sâu vào bản chất của sự vật nên nó tìm ra được xu hướng phát
triển. Từ đó chủ động cho hoạt động của con người, đón sẵn những xu
hướng phát triển, nếu như những xu hướng tích cực thì phát huy và những
xu hướng tiêu cực thì gạt bỏ
- Nếu ý thức tiến bộ thì thúc đẩy hoạt động của con người, cải tạo thế giới vật
chất phát triển theo xu hướng tích cực nếu ý thức lạc hậu thì nó sẽ cản trở
- Ý thức tang sức mạnh cho con người (bởi nếu con người nhận thức được ý
nghĩa côn việc mình làm nó sẽ tạo động lực, thôi thúc con người hoạt động
mạnh hn rất nhiều lần trong quá trình cải tạo thế giới vật chất)
c, Sự phân biệt đối lập giữa ý thức và vật chất
- Sự đối lập mang tuyệt đối: trong lĩnh vực nhận thức luận
- Sự đối lập mang tính tương đối
4. Ý nghĩa phương pháp luận trong việc sử dụng mối quan hệ này trong thực tiễn
- Vật chất quyết định ý thức, do đó mọi suy nghĩ và hành động đều phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, chống chủ nghĩa duy ý chí
- Vì ý có vai trò tác động mạnh mẽ đối với vật chất cho nên trong nhận thức và
hành động chúng ta phải biết phát huy tính năng động chủ quan
- Trong cuộc sống phải biết kết hợp 2 yếu tố:
+ Nếu tuyệt đối hóa hoạt động vật chất, kinh tế, coi nhẹ vai trò của ý thức thì
trở thành chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí
+ Ngược lại nếu tuyệt đối hóa mặt ý thức sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí
CÂU 4: Nội dung vàý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mốilien hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển
1.Mối liên hệ phổ biến
a, Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
b, Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích về sự vật phải đặt nó
trong mối quan hệ với sự vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu tất cả những mặt,
những yếu tố, những mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác định những mối
liên hệ bên trong, bản chất...để từ đó nắm được bản chất, quy luật của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi nghiên cứu sự vật phải thấy sự tồn tại
vận động và phát triển của bản thân các sự vật và hiện tượng là 1 quá trình có tính
giai đoạn, tính lịch sử cụ thể. Cho nên khi phân tích tính toàn diện về các mối liên
hệ của sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch sử cụ
thể của các mối quan hệ đó.
2. Nguyên lý về sự phát triển a, Nội dung
- Phát triểnlà một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là mâu thuẫn
trong bản thân sự vật. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định
sự vận động, phát triển của sự vật.
- Phát triển là 1 trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát
triển sẽ nảy sinh tính quy định mới cao hơn về chất. Nhờ vậy làm tăng khả năng
hoàn thiện về : cơ cấu tổ chức; về phương thức tồn tại và vận động; về chức năng vốn có của sự vật.
- Phát triển là quá trình vận động phức tạp, quanh co, bao gồm cả sự thụt lùi
tương đối, nhưng xu hướng chung là vận động đi lên.
- Phát triển diễn ra theo xu hướng đường xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình
phát triển dường như có sự quay lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn. Phát
triển diễn ra theo cách thức đứt đoạn trong liên tục, nghĩa là từ sự tích lũy về lượng
dẫn tới thay đổi về chất, rồi từ sự thay đổi về chất tác động trở lại sự thay đổi về
lượng. Cứ như vậy, phát triển diễn ra 1 cách khách quan, tự thân, vốn có của sự vật.
- Tính chất của sự phát triển: + Tính khách quan + Tính phổ biến
+ Tính đa dạng, phong phú
b, Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát triển,
phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng.
- Phát triển đồi hỏi phải nắm vững các nguyên tắc tích lũy về lượng để thay
đổi về chất, giải quyết triệt để bên trong; đồng thời phải kế thừa, chọn lọc cái cũ,
ủng hộ cho sự ra đời cái mới non nớt, nhỏ bé.
Câu 5: Nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm chất, lượng
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
Trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
chất, lượng cũng như quan hệ giữa chúng. Những quan điểm đó phụ thuộc, trước
hết và chủ yếu vào thế giới quan và phương pháp luận của các nhà triết học hay
của các trường phái triết học. Phép biện chứng duy vật đem lại quan điểm đúng
đắn về khái niệm chất, lượng và quan hệ qua lại giữa chúng, từ đó khái quát thành
quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. - Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ
không phải là cái khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên
chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu
thành sự vật,... Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc
được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc
tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại
với các sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể biết nhiệt độ cao hay thấp của
không khí thông qua sự tác động qua lại của nó với cơ quan xúc giác của chúng ta.
Chất của một người cụ thể chỉ được bộc lộ thông qua quan hệ của người đó với
những người khác, với môi trường xung quanh, thông qua lời nói và việc làm của
người ấy. Như vậy, muốn nhận thức đúng đắn về những thuộc tính của sự vật,
chúng ta phải thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta
hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ qua lại của nó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của
sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt
chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật
không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không
phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có
thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng
hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và
sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự
vật khác. Bởi vậy, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này, thuộc
tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, trong mối liên hệ cụ thể khác
sẽ có thêm thuộc tính khác hay thuộc tính khác là thuộc tính cơ bản. Trong mối
quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có tư
duy là thuộc tính cơ bản của con người còn những thuộc tính khác không là thuộc
tính cơ bản. Song trong quan hệ giữa những con người cụ thể với nhau thì những
thuộc tính của con người về nhân dạng, về dấu vân tay,... lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết
cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau,
song chất của chúng lại khác. Ví dụ, kim cương và than chì đều có cùng thành
phần hóa học do các nguyên tố các bon tạo nên, nhưng do phương thức liên kết
giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác
nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì lại mềm. Trong một tập thể nhất định nếu
phương thức liên kết giữa các cá nhân biến đổi thì tập thể đó có thể trở nên vững
mạnh, hoặc sẽ trở thành yếu kém, nghĩa là chất của tập thể biến đổi. Từ đó có thể
thấy sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu
thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy. - Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật.
Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật là nó, chưa
làm cho nó khác với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và
cũng có tính khách quan như chất của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít,
quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,... Trong
thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể
như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây, một phân tử nước bao
gồm hai nguyên tử hyđrô liên kết với một nguyên tử ôxy,... bên cạnh đó có những
lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ tri thức
khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,...
trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật
bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa. Có những lượng biểu thị yếu tố quy
định kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa
học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội), có những lượng vạch ra yếu tố
quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những
tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ
khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn, số lượng sinh viên học
giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng
có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng
có tính quy định về chất của sự vật.
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
- Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt
lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không
bao giờ tồn tại, nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và
phát triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ
không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi
về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi
về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự
thay đổi về chất của sự vật. ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi,
nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung một thỏi thép
đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên
tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng
thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định, thì chất
cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khoảng giới hạn đó gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi
về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất
giữa lượng và chất của sự vật. Trong độ, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành
cái khác. Dưới áp suất bình thường (atmotphe) của không khí, sự tăng hoặc sự
giảm nhiệt độ trong khoảng giới hạn từ 00C đến 1000C, nước nguyên chất vẫn ở
trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của nước đó giảm xuống dưới 0oC nước thể lỏng
chuyển thành thể rắn và duy trì nhiệt độ đó, từ 100oC trở lên, nước nguyên chất thể
lỏng chuyển dần sang trạng thái hơi. Đó là sự thay đổi về chất trong hình thức vận
động vật lý của nước.
Điểm giới hạn như 0oC và 100oC ở thí dụ trên, gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự
vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi
đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động
và phát triển liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự
gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy :
Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú
với những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết định
bởi bản thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất
ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235 (Ur 235) được tăng đến khối lượng tới
hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng
cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Chẳng hạn, quá trình chuyển hóa từ vượn thành người diễn ra rất lâu dài,
hàng vạn năm. Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài, qua nhiều bước nhảy dần dần.
Quá trình thực hiện bước nhảy dần dần của sự vật là một quá trình phức tạp, trong
đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
Song cần lưu ý rằng, bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần về
lượng của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa dần dần từ chất này sang
chất khác, còn sự thay đổi dần dần về lượng là sự tích luỹ liên tục về lượng để đến
một giới hạn nhất định sẽ chuyển hóa về chất.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ
các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi
chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực
hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra những bước nhảy cục bộ để thực hiện
bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh
vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi
đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân chia sự thay
đổi đó thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa.
Cách mạng là sự thay đổi trong đó chất của sự vật biến đổi căn bản, không
phụ thuộc vào hình thức biến đổi của nó. Tiến hóa là sự thay đổi về lượng với
những biến đổi nhất định về chất không cơ bản của sự vật. Song cần lưu ý rằng, chỉ
có sự thay đổi căn bản về chất mang tính tiến bộ mới là cách mạng. Nếu sự thay
đổi cơ bản về chất làm cho xã hội thụt lùi thì lại là phản cách mạng.
Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra nội dung của quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại như sau:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng
tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất
mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn...
Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song
điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi. Sự thay đổi
ấy do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động
ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển của sự vật. Chẳng hạn, khi sinh viên vượt qua điểm nút
là kỳ thi tốt nghiệp, tức cũng là thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng
cử nhân. Trình độ văn hóa của sinh viên cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ
thay đổi kết cấu, quy mô và trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống như vậy, khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của
các phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của
nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hoà tan một số chất tan của
nó cũng sẽ khác đi, v.v..
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích
luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển
về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải
biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt
động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như "tích tiểu thành
đại", "năng nhặt, chặt bị", "góp gió thành bão",... Những việc làm vĩ đại của con
người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người
đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nôn nóng, "đốt cháy giai đoạn" muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
- Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song
quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được
thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ
về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những
sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính
chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới
khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu khuynh" thường được biểu hiện ở
chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
- Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức
của bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều
kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng
điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất
đa dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước
nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về
chất của từng yếu tố.
- Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác
động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ
bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn
về gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo
thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và
quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có
thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.
Câu 6: Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Ý nghĩa
phương pháp luận.
1. Khái niệm và tính chất chung a. Khái niệm
Mặt đối lập là những mặt có đặc điểm, thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khác quan trong tự nhiên xã hội và tư duy.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập:
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không
tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của
mặt kia làm tiền đề. Sự thống nhất của hai mặt đối lập còn được hiểu là tính không
thể tách rời của hai mặt đó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời tương đối, nghĩa là nó chỉ tồn
tại trong một thời gian nhất định, đó chính là trạng thái đứng im, ổn định tương đối
của sự vật, tính tương đối của sự thống nhất của các mặt đối lập làm cho thế giới
vật chất phân hoá thành các bộ phận các sự vật đa dạng phực tạp, gián đoạn.
Ví dụ: Đồng hóa - dị hóa trong con người, hấp thụ - bài tiết, người bán - người mua,…
Xét một phương diện nào đó, giữa hai mặt đối lập có những nét giống nhau,
Lê-nin gọi là đồng nhất. Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau.
Sự đồng nhất của hai mặt đối lập:
+ Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà giữa chúng có những nhân
tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập.
+ Sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong đó sự triển khai của mâu
thuẫn đến một lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau – khi xét về một đặc trưng nào đó.
+ Sự thống nhất các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát
triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Ví dụ: Cái thiện và cái ác trong một con người.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lấp. Tuy nhiên không nên hiểu đấu tranh giữa
các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đó. Đấu tranh giữa các mặt
đối lập diễn ra trong thực tế hết sức phong phú và đa dạng.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục
trong suốt quá trình tồn tại của sự vật kể cả trong trang thái sự vật ổn định cũng
như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất. Sự đấu tranh của các mặt đối lập tạo lên tính
chất tự thân, liên tục của sự vận động phát triển của sự vật. Cũng vì vậy muốn thay
đổi sự vật thì phải tăng cường sự đấu tranh.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp diễn ra từ thấp
đến cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng.
+ Giai đoạn đầu: Mâu thuẫn biểu hiện ra ở sự khác nhau của hai mặt đối lập
song không phải sự khác nhau nào cũng là mâu thuẫn mà chỉ hai mặt khác nhau
nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể có khuynh hướng phát triển trái
ngược nhau mới tạo thành giai đoạn đầu của mâu thuẫn, trong giai đoạn này sự đấu
tranh chưa rõ và chưa gay gắt.
+ Giai đoạn sau: Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau
biến thành đối lập, khi đó hai mặt đối lập càng rõ, càng sâu sắc thì sự đấu tranh
giữa chúng ngày càng gay gắt và quyết liệt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt
chuyển hoá lẫn nhau và mâu thuẫn được giải quyết.
Ví dụ: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ (nông dân tìm cách để thoát khỏi
địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột).
Các hình thức của các mặt đối lập rất phong phú đa dạng, phụ thuộc vào
điều kiện, tính chất, phạm vi, phạm vi của các mặt đối lập. b. Tính chất chung
Tính khách quan và tính phổ biến: là mâu thuẫn bên trong. Sự vật nào cũng
là tồn tại của mâu thuẫn bên trong bởi kết cấu sự vật bao gồm những mặt giống
nhau, khác nhau và đối lập nhau.
Mâu thuẫn là khách quan có nghĩa là mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự vật
hiện tượng. Mâu thuẫn hình thành phát triển là do cấu trúc tự thân bên trong của sự
vật quy định nó không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên nào và
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Mâu thuẫn là hiện tượng phổ
biến có nghĩa là mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi kết thúc. Mâu thuẫn tồn
tại ở mọi không gian, thời gian, mọi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành. Trong mỗi sự vật không phải chỉ có một mâu thuẫn
mà có thể có nhiều mâu thuẫn vì sự trong cùng một lúc có thể có nhiều mặt đối lập.
Tính đa dạng phong phú: mỗi sự vật hiện tượng, quá trình đều có thể bao
hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện
lịch sử cụ thể khác nhau, chúng giữ vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật.
Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra dưới nhiều
hình thức đa dạng và phong phú khác nhau:
+ Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
2. Mối quan hệ biện chứng
- Hai mặt đối lập có thuộc tính bài trừ, phủ định nhau nhưng chúng lại gắn
bó chặt chẽ với nhau, chúng đồng thời tồn tại.
- Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự
thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các
mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
- Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu
thuẫn, đến 1 lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt đối lập kia -
khi xét về 1 vài đặc trưng nào đó.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.
- Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại
với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua
lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
- Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của
sự vật. Sự đấu tranh có mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và
phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt là tương đối, sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.
- Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định
và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn
định và tính thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận
động và sự phát triển.
Thực chất quy luật thống nhất và đáu tranh giữa các mặt đối lập như sau:
Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự
mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong tiến trình nhận thức sự vật, việc nhận thức mâu thuẫn, trước hết chúng
ta nhận sự vật như một thực thể đồng nhất. Từ đó phân tích để phát hiện ra sự khác
nhau, sự đối lập và sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập để biết được nguồn gốc
của sự vận động và sự phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi
quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập; nghiên cứu mối quan
hệ tác động qua lại, và điều kiện chuyển hoá của các mặt. Đồng thời, cũng phải
xem xét các mâu thuẫn cụ thể với vai trò, vị trí và mối quan hệ của nó. Chỉ có như
thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát
triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn
của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn. Mâu
thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không
được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng
không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo
điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và tìm ra phương thức, phương tiện
và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết
mâu thuẫn một cách thực tế.
Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức
cụ thể rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải
quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều
kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. *Vận dụng vào Việt Nam:
Những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường: Ổn định và đổi mới
về chính trị là hai mặt đối lập thống nhất biện chứng. Có ổn định thì mới đổi mới
được. Muốn ổn định được thì cần phải giải quyết những mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Mâu thuẫn giữa hình thái trước đây và nền kinh tế thị trường.
- Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Câu 7: Nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa phương pháp luận.
1. Quan niệm về phủ định nói chung:
- Sự phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng một sự
vật, hiên tượng khác trong quá trình vận động và phát triển của chúng.
- Có nhiều quan niệm khác nhau về phủ định
+ Quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn sự vận
động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự phủ định và phát
triển ở bên ngoài sự vật.
+ Quan niệm trong cuộc sống đời thường: phủ định đồng nghĩa với nói
“không”, “không phải”,...
2. Định nghĩa về phủ định biện chứng, đặc trưng của phủ định biện chứng
- Định nghĩa phủ định: Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự
vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
- Định nghĩa phủ định biện chứng: là phạm trù triết học dùng để
chỉ sự phủ định tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu
trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
- Bản chất: phủ định là sự thay thế sự vật cũ bằng sự vật mới và
sự vật mới ra đời là tiền đề cho sự phát triển.
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
+ Phủ định biện chứng mang tính khách quan là điều kiện cho sự phát triển.
Vì do mâu thuẫn của bản thân sự vật tự quy định và phương thức phủ định
không phụ thuộc vào ý muốn bản thân con người.
+ Phủ định biện chứng mang tính kế thừa, là nhân tố liên hệ giữa cái mới và
cái cũ vì phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái bị phủ định.
- Phủ định của phủ định: là một khái niệm để chỉ sự vật hiện
tượng qua hai lần phủ định dường như quay lại cái ban đầu
nhưng trên cơ sở cao hơn. 3. Tính chất:
- Tính chu kỳ của các quá trình diễn ra theo hình “xoáy ốc”, đó
cũng là tính chất “phủ định của phủ định”. Mỗi một chu kỳ phát
triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định cơ bản (Lưu ý:
sự phân chia 2 lần phủ định chỉ là tương đối còn thực chất là vô số lần phủ định.)
Tóm lại, quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và
cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là phủ định
sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phủ định trước đó, mà là điều kiện cho sự phát
triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại
một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cpw sở mới và cao
hơn: do vậy sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng,
mà theo đường xoáy ốc.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì sự vật tự thân phủ định do đó ta phải kiên trì phủ định cái cũ,
tọa điều kiện cho cái mới phát triển.
- Trong phủ định bao hàm kế thừa do đó trong mỗi lần phủ định
ta phải phát triển tích cực và hạn chế tiêu cực.
- Xu hướng phát triển của sự vật không phải theo đường thẳng,
đường tròn mà theo hình xoáy ốc vì thế ta pahir tin tưởng vào
tất thắng cái mới, đặc biệt phải kiên trì.
- Giữa cái mới và cái cũ quan hệ với nhau vì thế trong quá trình
phủ định phải chú ý khuynh hướng phủ định cái cũ.
- Trong quá trình phủ định ta phải biết kế thừa cái cũ, tạo điều
kiện cho cái mới phát triển.
Câu 8: Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- “Cái riêng” là một phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- “Cái chung” là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính chung không những có tồn tại ở kết cấu vật chất này mà
còn tồn tại ở kết cấu vật chất khác
- “Cái đơn nhất” là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không lặp
lại ở bất cứ kết cấu vật chất nào khác. 2. Quan hệ biện chứng
- Cái riêng và cái chung thống nhất với nhau trong một sự vật.
Không có cái chuung thuần túy và cũng không có cái riêng thuần túy.
- Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ, cái riêng bao hàm cái chung.
+ Cái riêng là cái phong phú, đa dạng, cái chung là cái sâu sắc.
+ Cái riêng là cái phong phú vì ngoài thuộc tính chung nó còn thuộc tính riêng.
+ Cái chung là cái sâu sắc vì nó phản ánh xu hướng chung mang tính quy luật.
- Cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau. Cái riêng,
cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất và ngược lại.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì không có cái chung và cái riêng thuần túy nên muốn nhận
thức cái chung thì phải xuất phát từ cái riêng.
- Cái riêng là cái phong phú đa dạng, cái chung là cái sâu sắc nên
trong cuộc sống phải dựa vào cái chung là chỉ đạo nhưng đồng
thời phải tạo ra cái riêng cái riêng phong phú.
- Trong thực tế cuộc sống cần tạo điều kiện để cái đơn nhất có lợi
trở thành cái chung và cái chung bất lợi thanhg cái đơn nhất. -
Câu 9: Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả mối quan hệ biện
chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- I. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
- 1. Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động
lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với
nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- 2. Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất
hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau.
- – Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó
trực tiếp xảy ra trước kết quả, nhưng không sinh ra kết quả, có
liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài không bản chất.
- VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném
bom miền Bắc là nguyên cơ, còn nguyên nhân thực sự là do bản
chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
- – Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào
nguyên nhân, nhưng có tác dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
- VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không
thể thiếu của một số phản ứng hoá học
- II. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- 1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ
cũng có trước kết quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau
nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian
có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
- 2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp:
một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân và một số nguyên
nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
- – Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng
dẫn đến kết quả nhanh hơn.
- – Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến
trình hình thành kết quả chậm hơn. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
- 3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển
hoá, tác động qua lại tạo thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
- III. Ý nghĩa phương pháp luận
- – Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính
khách quan của mối liên hệ nhân quả.
- – Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân
cùng những điều kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng.
Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm mất
nguyên nhân tồn tại của nó.
- – Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy
sinh vì các nguyên nhân có vai trò không như nhau.
- – Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong
hoạt động thực tiễn cần khai thác, tận dụng những kết quả đã
đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực. -
Câu 10: Quan niệm của triết học Mác- Lenin về bản chất của nhận thức. Thực
tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
- I. Quan niệm của triết học Mác- Lenin về bản chất của nhận thức.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi nhận thức không phải là sự
phản ánh đơn, thụ động, mà là một quá trình gắn liền với hoạt
động thực tiễn. Quá trình đó đã được Lênin chỉ ra như sau: “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức khách quan” (V.I.Lênin: Toàn tập,
t.29, Nxb Tiến Bộ, M.1981, tr.179)
- 1. Con đường biện chứng
- a) Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn
đầu tiên, gắn liền với thực tiễn và thông qua các giác quan trong đó:
- + Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực
khách quan. Sự vật, hiện tượng tác động vào các giác quan, gây
nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các
cảm giác. Cảm giác là hình ảnh phản ánh từng thuộc tính riêng
lẻ của sự vật, hiện tượng như màu sắc, mùi, vị, độ rắn…
- + Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác không
phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, mà phản ánh nhiều thuộc tính
của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau: tri
giác được hình thành từ nhiều cảm giác. + Biểu tượng là hình
thức cao nhất của trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện
trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu
tượng là hình ảnh về sự vật được lưu giữ trong chủ thể nhận
thức khi sự vật không còn hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Con
người không cần quan sát trực tiếp sự vật mà vẫn hình dung ra
chúng dựa trên sự tiếp xúc nhiều lần trước đó. Do đó ở biểu
tượng, nhận thức đã ít nhiều mang tính chất gián tiếp. Biểu
tượng là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- b) Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao
của quá trình nhận thức bao gồm các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý:
- + Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng. Nó
phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản và phổ biến của một
lớp các sự vật, hiện tượng nhất định.
- Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là
kết quả của sự khái quát những tri thức do trực quan sinh động đem lại.
- + Phán đoán là sự vận dụng các khải niệm trong ý thức con
người để phản ánh mối liên hệ giữa các sự vận, hiện tượng cũng
như các thuộc tính, tính chất của chúng.
- Có rất nhiều loại phán đoán khác nhau: phán đoán khẳng định,
phán đoán phủ định, phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.
- Tính chân thực của phán đoán kết luận phụ thuộc vào tính chân
thực của phán đoán tiền đề cung cấp như tính hợp quy luật của quá trình suy luận.
- c) Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
- – Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: Nhận thức
cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực
tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại, nhận thức lý
tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp,
khái quát đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
- – Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của
một quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động
thần kinh cao cấp. Giữa chúng có sự tác động qua lại: nhận thức
cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý
tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn
- – Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống
nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính hoàn toàn đối
lập với chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò của nhận thức cảm
tính) và chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò của nhận thức lý tính).
- 2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
- – Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân
lý hay là sai lầm. Ngoài ra, mục đích của nhận thức là để định
hướng cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
- – Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình
biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn mới một chu
trình nhận thức tiếp theo lại bắt đầy và cứ thế mãi mãi.
- II. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- 1. Khái niệm thực tiễn và khái niệm nhận thức
- * Khái niệm thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất
có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội.
- * Khái niệm nhận thức: Là những tri thức, những hiểu biết của
con người về thế giới khách quan
- 2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
- * Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, động lực của nhận thức,
mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của quá trình nhận thức:
- + Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh
hướng vận động, phát triển của nhận thức.
- + Hoạt động thực tiễn làm cho các giác quan của con người
ngày càng được hoàn thiện, năng lực tư duy lôgic không ngừng
được củng cố và phát triển.
- * Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức:
- + Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức.
- + Nó bổ sung điều chỉnh, sữa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
- => Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải
luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực
tiễn, phải coi trọng công tác thực tiễn.
- 3. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
- Quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng quay trở về thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”
- a. Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính - * Đặc điểm:
- – Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.
- – Là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để nắm bắt các sự vật.
- – Giai đoạn này giúp con người hiểu được cái bề ngoài của sự vật.
- * Trực quan sinh động gồm 3 hình thức: Cảm giác, tri giác và biểu tượng
- + Cảm giác: là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự
vật, hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
- +Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó
đang trực tiếp tác động vào các giác quan, nó là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.
- + Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất
của giai đoạn trực quan sinh động, đó là hình ảnh cảm tính và
tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc người về sự vật
khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan.
- b. Giai đoạn từ nhận thức lý tính đến thực tiễn - * Đặc điểm:
- – Là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng về sự vật
- – Khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất, quy luật của đối tượng
- * Các hình thức nhận thức lý tính:
- + Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Phản
ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành các khái
niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc
điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Hình thức biểu
hiện khái niệm là “từ”
- + Phán đoán: Là một hình thức của tư duy liên kết các khái
niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm,
một thuộc tính nào đó của đối tượng. Hình thức diễn đạt khái niệm là “mệnh đề”
- + Suy lý: Là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với
nhau để rút ra tri thức mới bằng phán đoán mới
- * Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:
- – Là hai giai đoạn, hai trình độ khác nhau của nhận thức chúng
có quan hệ biện chứng với nhau.
- – Nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn là cơ sở
của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát
cao lại có thể hiểu biết được bản chất quy luật vận động và phát
triển của sự vật giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng
đúng và trở nên sâu sắc hơn về sự vật
- Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới
chỉ có được những tri thức về đối tượng còn bản thân những tri
thức ấy có chân thực hay không thì con người chưa nhận biết
được để nhận thức được điều đó phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra tri thức
- III. Ý nghĩa phương pháp luận
- - Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi phải quán
triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
- - Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi
với hành. Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
- - Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt
đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
Câu 11: Phân tích luận điểm của Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý, nhận thức thực tại khách quan”. Ý nghĩa phương
pháp luận của luận điểm trên. Trả lời:
- Định nghĩa nhận thức: Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác
và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn,
nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
- Phân tích luận điểm của Lênin: o
Nhận thức theo Lênin là quá trình từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, đó là 1 quá trình biện chứng. o
Trực quan sinh động (giai đoạn nhận thức cảm tính) là giai đoạn mở
đầu của quá trình nhận thức. Ở giai đoạn này, nhận thức mới chỉ nhận
biết được bề ngoài của sự vật cảm tính trong hiện thực khách quan.
Giai đoạn này có 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng:
1. Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ
khai nhất, đơn giản nhất của quá trình nhận thức nhưng nếu
không có nó thì sẽ không có bất cứ nhận thức nào về sự vật
khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác.
2. Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về
những biểu hiện của sự vật khách quan được hình thành trên cơ
sở liên kết, tổng hợp các cảm giác về sự vật.
3. Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã
được phản ánh bởi cảm giác và tri giác. Nó là hình thức phản
ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính.
Tóm lại, đây mới là giai đoạn nhận thức bề ngoài, chưa đi sâu vào bản chất. o
Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính)
Đây là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián
tiếp trừu tượng hiện thực khách quan và thông qua 3 hình thức cơ bản:
khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm: Quá trình sử dụng ngôn ngữ để phản ánh những
thuộc tính, những mối quan hệ bản chất phổ biến của sự vật, hiện tượng.
Phán đoán: vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ
định 1 thuộc tính, 1 mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
Suy lí: xuất phát từ 1 hay nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra
phán đoán mới làm kết luận. Từ những phán đoán tiền đề dựa
theo những qui luật của logic hình thức để tạo ra những phán
đoán mới mang tính chân lí. Có các loại suy lí: suy lí trực tiếp và suy lí gián tiếp. o
Quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính.
Nhờ có nhận thức lý tính thì nhận thức cảm tính mới nắm bắt
được bản chất và quy luật của sự vật.
Tóm lại, sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, trong việc khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.
CÂU 12: Khái niệm sản xuất vật chất, phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trìnhđộ của lực lượng sản xuất. Ý nghĩa của việc nắm vững quy luật nayd trong
sự nghiệpđổi mớiở nước ta hiện nay.
1. Sản xuất vật chất
-Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
(trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên để tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển -
nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
- Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã
hội loài người. Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng
tạo của con người. Theo Ăng-ghen “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người và loài vật là ở chỗ: loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trng khi con người sản xuất”
- Sản xuất xa hôi bao gồm: Sản xuất vật chất; sản xuất tinh thần; sản xuất ra
bản thân con người. Ba quá trình này không tách biệt nhau, trong đó sản xuất
cất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
2. Phương thức sản xuất
- Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành
quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài
người. Nó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để tạo nên
sức sản xuất cho xã hội.
- Phương thức sản xuất biểu thị năng lực hoạt động của con người trong một giai đoạn cụ thể.
- Phương thức sản xuất mang tính lịch sử: nó có quá trình hình thành, tồn tại,
phát triển và phát triển. Quá trình đó phải có điều kiện
- Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một
trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng
3. Lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất là quan hệ của con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất. Nó là sự biểu thị năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động,
cải tạo, chinh phục và khai thác tự nhiên để phục vụ các nhu cầu cộng đồng
- Lực lượng sản xuất là sự thống nhất giữa tư liệu sản xuất và người lao động để sản xuất ra sản phẩm
+ Tư liệu sản xuất: có hai bộ phận sau
Tư liệu lao động: là những vật phẩm, những yếu tố, điều kiện để
con người tác động vào đối tượng nhằm tạo ra sản phẩmtrong quá
trình sản xuất. Nó bao gồm: công cụ và các điều kiện sản xuất. Tư
liệu lao động gồm: công cụ lao động và phương tiện sản xuất.
1. Công cụ lao động: là những vật phẩm dùng để truyền lực tác
động của con người vào đối tượng lao động.
2. Phương tiện của quá trình lao động: bao gồm nhà xưởng, các
vật phẩm để làm điều kiện phục vụ quá trình sản xuất, tuy nó
không đóng vai trò quyết định nhưng không thể không có.
Chúng rất quan trọng, đó là môi trường, là chất xúc tác của quá trình sản xuất.
Đối tượng lao động: toàn bộ vật phẩm chịu sự tác động của công cụ
lao động để trực tiếp hình thành sản phẩm gọi là đối tượng lao
động. Đối tượng lao động quyết định phẩm chất của sản phẩm.
1. Đối tượng lao động tự nhiên là những vật phẩm tự nhiên chưa
qua sơ chế, đang tồn tại tự nó.
2. Đối tượng lao động nhân tạolà những vật phẩm tự nhiên đã
qua sơ chế ít nhất 1 lần. Xã hội càng phát triển, trình độ khoa
học, công nghệ càng cao thì tỉ trọng đối tượng lao động nhân
tạo với đối tượng lao động tự nhiên ngày càng lớn.
+ Lực lượng lao động : những người trong độ tuổi lao động tham gia vào quá
trình sản xuất để tạo ra của cải cho xã hội gọi là lực lượng lao động 4. Quan hệ sản xuất
- Quan hệ sản xuấtlà quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
- Quan hệ sản xuất bao gồm : quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ
chức quản lý sản xuất, quan hệ về phân phối sản phẩm
5. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình
độ kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật
vào sản xuất...ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình độ
của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Điều này thế hiện ở chỗ:
+Thứ nhất, xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát
triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi của lực lượng sản
xuất này mà quan hệ sản xuất phải biến đổi theo cho phù hợp.
Câu 13: Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng. Mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ý nghĩa của việc nắm vững
mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo
nên bởi các quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất
mới tồn tại dưới hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương
lai; trong đó quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ
sản xuất khác, định hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò
là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất định. Sự tồn tại của ba loại
hình quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng của một xã hội phản ánh tính chất
vận động, phát triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế thừa và phát triển.
Như vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội đóng vai trò “kép”: một mặt, với lực
lượng sản xuất, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự duy trì, phát huy
và phát triển lực lượng sản xuất; mặt khác, với các quan hệ chính trị - xã hội, nó
đóng vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế, làm cơ sở hiện thực cho sự thiết
lập một hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
VD: Trong xã hội phong kiến: chiếm hữu nô lệ, nguyên thủy là quan hệ tàn
dư, phong kiến là quan hệ thống trị, tư bản chủ nghĩa là quan hệ mầm mống.
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Theo quan điểm của C.Mác, khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ
toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính
trị-xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể được
phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan xen và chi
phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến trúc thượng tầng
của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội và các thiết chế chính
trị-xã hội tương ứng của chúng.
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý
thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà
nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
VD: Trong xã hội phong kiến, con vua thì lại làm vua, cha truyền con nối.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã khẳng định: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai
trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở
hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai
trò với kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với tính chất
trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy.
Sự biến đổi giữa hai yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ biện chứng giữa
chất và lượng diễn ra theo hai hướng:
Một là: sự phát triển hoạc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất.
Hai là: sự tăng hay giảm về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay
đổi dần dần từng phần từng bước.
Theo quy luật này thì quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng diễn ra như sau:
- Khi cơ sở hạ tầng phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm
nút, thì nó đòi hỏi phải kéo theo sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình
này không chỉ đơn thuần là sự biến một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả
một hình thái kinh tế chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai
đoạn lịch sử này: trong giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có sự dung hoà với nhau hay đạt được giới hạn
độ.Tại đây, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tác động biện chứng với nhau
theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần tự về cơ sở hạ tầng (tăng hoặc giảm dần)
nhưng tại đây kiến trúc thượng tầng chưa có sự thay đổi.
- Cơ sở hạ tầng ở mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn
đến quá trình đào thải. Mác nói: ”nếu không có phủ định những hình thức tồn tại
đã có trước thì không thể có sự phát triển trong bất cứ lĩnh vực nào”. Chính vì cơ
sở hạ tầng cũ được thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới bao hàm những mặt tích cực
tiến bộ của cái cũ đã được cải tạo đi trên những nấc thang mới. Chính vì cơ sở hạ
tầng thường xuyên vận động như vậy nên kiến trúc thượng tầng luôn luôn thay đổi
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng.
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng, và kiến trúc thượng tầng của
nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, và cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định
đối với kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết là ở chỗ: Cơ sở hạ
tầng là những quan hệ vật chất khách quan quy định mọi quan hệ khác: Về chính
trị, tinh thần, tư tưởng của xã hội. Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng
ấy, nói cách khác cơ sở hạ tầng đã sinh ra kiến trúc thượng tầng, và kiến trúc
thượng tầng bao giờ cũng phản ánh một cơ sở hạ tầng nhất định, khônh có kiến
trúc thượng tầng chung cho mọi xã hội.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nội dung và kết
cấu: Tính chất của kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối kháng, nội dung
của kiến trúc thượng tầng nghèo nàn hay đa dạng, phong phú và hình thức của kiến
trúc thượng tầng gọn nhẹ hay phức tạp do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể
hiện ở chỗ những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng. Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả tất cả các
kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng”.
Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở hạ tầng này
thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự thủ tiêu cơ
sở hạ tầng cũ bị xoá bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị xoá bỏ
và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai cấp
thay đổi, bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội cũng biến đổi.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng diễn ra do kết quả của cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa các
giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Những biến
đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Nhưng lực lực lượng sản xuất trực tiếp gây ra sự biến đổi của
cơ sở hạ tầng và sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đến lượt nó lại làm cho kiến trúc
thượng tầng biến đổi.
Trong sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không phải cứ
cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì kiến trúc thượng tầng mới mất đi ngay mà có bộ
phận thay đổi dần dần chậm chạp. Vì trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,
những tàn dư của cái cũ còn tồn tại rất lâu. Mặt khác cũng có những yếu tố, những
hình thức không cơ bản nào đó của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được
giai cấp mới giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng mới.
Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ sở hạ tầng có quyết định to lớn đối với kiến
trúc thượng tầng, do đó trong cách mạng xã hội chủ nghĩa việc xây dựng cơ sở chủ
nghĩa có tác dụng vô cùng to lớn đối với cuộc sống của xã hội. Chính vì tầm quan
trọng của nó mà khi xem xét, cải tạo một bộ phận nào đó của kiến trúc thượng tầng
phải xem xét cải tạo từ cơ sở hạ tầng xã hội. Và tính quyết định của cơ sở hạ tầng
đối với với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ
một hình thái kinh tế- xã hội khác.
Tuy vậy, những quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội đó là kiến trúc thượng
tầng, cũng không hoàn toàn thụ động, nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với
cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
VD: Cơ sở hạ tầng quan hệ sản xuất tư bản thì kiến trúc thượng tầng là kiến
trúc thượng tầng tư bản.Cơ sở hạ tầng thay đổi thì dẫn đến kiến trúc thượng tầng
thay đổi nhưng phức tạp vì sự thay đổi không đồng nhất thay đổi nhanh chậm khác
nhau. Trong xã hội hiện nay vẫn còn tư tưởng gia trưởng phong kiến.
b. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở
hạ tầng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần xã hội, do đó có vai trò tác động to
lớn trở lại với cơ sở hạ tầng.
Là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát
triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc
thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra
nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.
Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã
hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và
tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị
không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không
thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ,
phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò
đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng
vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị. Nhà nước
không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc
kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát,
toà án, nhà tù... để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa
vị của quan hệ sản xuất thống trị.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành
chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng
quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế
trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước
được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị
kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng
giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của
kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế,
còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và
sự tồn tại của nhà nước khác nhau.
Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác
động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự
tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó
chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động
cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược
chiều vớ qui luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ
thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã
hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn,
định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh
tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế
của xã hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.
Nói tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng
với nhau. Do đó, khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của
cơ sở hạ tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối
hoá hoặc hạ thấp yếu tố nào.
VD: Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh
đúng tình hình thực tiễn, đặc biệt phản ánh phù hợp các QUAN HỆ SẢN XUẤT và
đời sống vật chất của nhân dân trong xã hội sẽ thúc đẩy đất nước phát triển
Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật phản ánh không đúng tình hình
thực tế, đặc biệt là phản ánh không phù hợp các QUAN HỆ SẢN XUẤT và đời
sống vật chất trong xã hội sẽ kìm hãm sự phát triển của đất nước.
3. Ý nghĩa của việc nắm vững mối quan hệ này trong quá trình đổi mới
ở nước ta hiện nay
- Trong kiến trúc thượng tầng, Nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối
với cơ sở hạ tầng, làm chức năng bảo vệ, duy trì quyền sở hữu tư liệu sản xuất và
lợi ích của giai cấp thống trị thông qua bộ máy quyền lực Nhà nước, bao gồm:
cảnh sát, nhà tù, trại giam, quân đội, vũ khí tự vệ và chiến đấu.
- Cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay nằm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền kinh tế phát triển còn thấp kém. Đó là một cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều thành phần.
- Kiến trúc thượng tầng là do cơ sở hạ tầng sinh ra. Vì vậy, phải xây dựng và
hoàn thiện một hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, đầu tư chiến lược phù hợp
với cơ sở hạ tầng, tức là phù hợp với quan hệ sản xuất hiện tồn và cơ cấu thành
phần kinh tế nhằm kích thích sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
- Cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vì
vậy, để củng cố kiến trúc thượng tầng vững mạnh thì cần phải mở rộng và phát huy
vai trò của các quan hệ sản xuất trong đời sống xã hội, cụ thể:
• Thực hiện mở rộng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đặt dưới sự quản lý của Nhà nước.
• Thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối
sản phẩm nhằm bảo đảm lợi ích cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Qua đó, sẽ
kích thích, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, góp phần củng cố kiến trúc
thượng tầng và tình hình an ninh chính trị của quốc gia.
- Trong quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất
thống trị và mầm mống của quan hệ sản xuất tương lai.
• Nhà nước và các tổ chức xã hội cần có cơ chế, chính sách loại bỏ dần các
quan hệ sản xuất tàn dư, lạc hậu và củng cố vững chắc quan hệ sản xuất thống trị hiện tồn
• Từng bước ưu tiên phát triển những quan hệ sản xuất mới tiến bộ, khoa học
nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động. Qua đó,
góp phần củng cố kiến trúc thượng tầng vững mạnh.
VD: Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉ ra:
“Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”
Câu 14: Khái niệm và kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội. Tại sao nói sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
1. Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
- Khái niệm: hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy.
- Kết cấu hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh,
có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, tác đọng
qua lại thống nhất với nhau.
+ Lực lượng sản xuất vật chất – kinh tế của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác.
+ Các quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học,... và các thiết chế
tương ứng được hình thành phát triển trên các các quan hệ sản xuất tạo thành
kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Ngoài ra, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ gia đình,
dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ ấy gắn bó chặt
chẽ với quan hệ sản xuất và biến đổi cùng với quan hệ sản xuất.
2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
- Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó các mặt
không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật
vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về
sự phù howjpcuar quan hệ sản xuất với trình đọ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của
các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội
vận động phát triển từ thấp đến cao.
- Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực
lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất.
Đến lượt mình, quan hệ sản xuất làm cho kiến trúc thượng tầng
thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được
thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến độ
hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan. Vì vậy Mác viết: sự phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
- Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội
từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một vài
hình thái kinh tế - xã hội nào đó để tiến lên hình thái kinh tế -
xã hội cao hơn trong thời đại đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua như
vậy cũng diễn ra theo quy luật, theo một quá trình lịch sử - tự
nhiên, chứ không phải tùy tiện, theo ý muốn chủ quan.
- Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội
chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn
bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một
hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định -
Câu 15: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại Xã hội và ý thức xã hội?
Trên cơ sở đó hãy khái quát những đặc điễm về đời sống tinh thần của người Việt Nam
trong lịch sử và biểu hiện của nó trong hoạt động tinh thần của người Việt Nam hiện nay .
- I- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- 1. Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, bao gồm:
- - Hoàn cảnh địa lý.
- - Điều kiện dân số.
- - Phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
- Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất ra của cải vật
chất là nhân tố quyết định đối với tồn tại xã hội.
- 2. Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao
gồm những tư tưởng, quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng,
tập quán, truyền thống v.v. phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
- đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
- Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Đó là hai
trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã
hội. Nó có chung một nguồn gốc là phản ánh tồn tại xã hội và
giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Nhưng hệ tư tưởng xã
hội không nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự
biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội. Trong xã hội có giai cấp ý
thức xã hội có tính giai cấp.
- II- Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- 1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
- - Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể
hiện: tồn tại xã hội sinh ra ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là sự
phản ánh của tồn tại xã hội; tồn tại xã hội như thế nào thì ý
- thức xã hội như thế ấy; mỗi khi tồn tại biến đổi, nhất là phương
thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội,
những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học,
- nghệ thuật v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo.
- - Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là phản
ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải bất cứ tư tưởng, quan
điểm lý luận xã hội nào, tác phẩm văn học nghệ thuật nào cũng
nhất thiết trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại,
mà chỉ xét đến cùng thì các quan hệ kinh tế mới được phản ánh
bằng cách nay hay cách khác vào trong những tư tưởng đó. Bởi
vì ý thức xã hội trong sự phát triển của mình có tính độc lập tương đối.
- 2. Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội
- Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội biểu hiện ở những mặt dưới đây:
- - Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
- - Ý thức xã hội có tính vượt trước tồn tại xã hội. Đó là những tư
tưởng tiến bộ, khoa học.
- - Ý thức xã hội có nhiều hình thái khác nhau, giữa chúng có sự
tác động qua lại lẫn nhau trong sự phát triển của chúng.
- - Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là
biểu hiện quan trọng nhất của tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội, biểu hiện tập trung vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
- Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng xã hội đối với sự phát triển xã
hội phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên
đó nảy sinh những tư tưởng nhất định; phụ thuộc vào vai trò
lịch sử của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng đó; phụ thuộc
vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó đối với các nhu
cầu phát triển của xã hội, phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của
tư tưởng đó vào quần chúng đông đảo. - •
Ở VN, công cuộc đổi mới đã diễn ra hơn 20 năm, nhưng
ý thức xã hội còn lạc hậu chưa theo kịp với sự phát triển của tồn
tại xã hội.Tâm lý coi thường phụ nữ,coi thường pháp luật vẫn
còn nặng nề => ý thức xã hội chưa phù hợp.
- Hiện nay ta đã gia nhập sâu vào thương trường quốc tế (gia
nhập WTO) nhưng ý thức, tâm lý xã hội chưa theo kịp sự ptriển
của xã hội,làm ăn thiếu căn cơ bài bản,chưa tính đến sự bền
vững lâu dài. Chính vì vậy mà chúg ta phải mạnh dạn tiếp thu
những thành tựu văn hóa khoa học tiên tiến của thế giới. Mặt
khác làm biến đổi tâm lý xã hội. -
Câu 17. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người, về mối
quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển lịch
sử. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này
- Con người là 1 thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chứng giữa 2 phương diện tự nhiên và xã hội. * Bản chất con người
- Triết học Mác nhìn nhận vấn đề bản chất con người 1 cách toàn diện, cụ thể,
xem xét bản chất con người không phải 1 cách chung chung, trừu tượng mà trong
tính hiện thực, cụ thể của nó, trong quá trình phát triển của nó.
- Con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của
con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con người
không thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác
con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, cong hoạt
động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với
tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở
hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con người không phải theo bản năng
như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy con người phát triển trong hoạt
động và giao tiếp xã hội, trước hết là trong hoạt động lao động sản xuất. Với ý
nghĩa trên đây, có thể nói con ngừoi phân biệt với động vật ở tư duy mà ngôn ngữ
là cái vỏ vật chất của tư duy. Bởi cơ sở của tư duy là hoạt động thực tiễn của xã hội.
- Con người khác con vật ở bản chất ở cả 3 mặt: quan hệ với thiên nhiên, quan
hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả 3 mối quan hệ đó đều mang tính xã hội,
trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt
động của con người, cả trong lao động, sinh đẻ con cái và trong tư duy.
- Tính xã hội của con người phát triển từ thấp đến cao, từ hoạt động bản năng
đến hoạt động có ý thức, cũng như bản thân ý thức.
- Con người không chỉ có bản năng sinh học, mà còn có bản năng xã hội.
* Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển lịch sử.
Quần chúng nhân dân là bộ phân người có cùng chung lợi ích căn bản bao gồm
những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới
sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay một đảng phái nhằm giải quyết
những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong
phong trào quần chúng, được quần chúng tin yêu và tạo nên. Lãnh tụ có vai trò to
lớn quan trọng trong lịch sử.
- Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất với nhau. Không có phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân thì không có lãnh tụ. Lãnh tụ có vai trò
thúc đẩy phong trào quần chúng, vì họ là những cá nhân ưu tú.
+ Thứ 2, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của
mình. Chính sự thống nhất về lợi ích này đã quy định sự thống nhất về mục tiêu
của phong trào; về mục đích và nhận thức cũng như hành động giữa lãnh tụ và cá nhân.
+ Thứ 3, giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ khác nhau ở vai trò cụ thể đối với
lịch sử, quần chúng đóng vai trò quyết định, lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng
phong tròa quần chúng, thúc đẩy sự phát triển của phong trào.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
- Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, tư đó xây dựng quan
điểm quần chúng: tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh và khả năng to lớn của
quần chúng, dựa vào quần chúng, phát huy nguồn sức mạnh tiềm tàng của quần
chúng. Hiểu được quan điểm của Hồ Chủ tịch và Đảng ta: coi sự nghiệp cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, người cán bộ là đầy tờ trung thành của nhân dân.
- Hiểu được vai trò to lớn của lãnh tụ, lựa chọn lãnh tụ có đủ tài đức để lãnh đạo
phong trào. Tôn kính lãnh tụ, nhưng không được sùng bái cá nhân lãnh tụ. Tôn
kính lãnh tụ là tình cảm đạo đức đúng đắn, xuất phát từ chỗ hiểu biết tài năng,
phẩm chất và cống hiến của lãnh tụ. Trái lại, sùng bái cá nhân lãnh tụ xuất phát từ
sự ngu dốt và mê tín, coi lãnh tụ là thần thánh, làm cho lãnh tụ xa rời quần chúng,
phạm sai lầm sai lầm không khắc phục được.