Đề cương ôn tập môn Giao tiếp sư phạm | Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Đề cương ôn tập môn Giao tiếp sư phạm | Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 77 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

1
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN GIAO TIẾP SƯ PHẠM CUỐI KÌ 1
Câu 1.Giao tiếp sư phạm
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao - Giao
tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi thông tin,
cảm xúc, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại cùng nhau, ảnh hưởng tác động
qua lại lẫn nhau. Khái niệm giao tiếp sư phạm:
- Theo nghĩa rộng, GTSP là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa các chủ thể trong quá trình giáo
dục, nhằm trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau,
thiết lập nên những mối quan hệ để thực hiện mục đích giáo dục.
VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh trong lớp nghe giảng.
+ Giáo viên trao đổi về kiến thức với các đồng nghiệp.
- Theo nghĩa hẹp, GTSP là sự tiếp xúc tâm lý giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền đạt
và lĩnh hội tri thức khoa học, vốn kinh nghiệm sống, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng để xây
dựng và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
Như vậy: GTSP là giao tiếp mang tính nghề nghiệp giữa giáo viên với học sinh
Câu 2. Đặc trưng của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm mang tính chuẩn mực (mẫu mực).
Tính chuẩn mực là một tất yếu trong giao tiếp sư phạm. Khi giảng bài, khi đánh giá học
sinh và khi gặp gỡ trò chuyện với học sinh, thầy luôn phải có sự mẫu mực, thống nhất
giữa lời nói với việc làm...phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
VD: Chuẩn mực, tác phong của nhà giáo luôn là một yếu tố được quan tâm và đặt lên
hàng đầu, nhà nước cũng đã quy định rất rõ tại Điều 5 Quy định về đạo đức nhà giáo ban
hành kèm theo Quyết địnhsố 16/2008/QĐ-BGDĐT thì Tiêu chuẩn lối sống, tác phong của
nhà giáo. Trong mỗi trường sư phạm, tác phong của người giáo viên không chỉ là bộ mặt
của nền giáo dục, mà còn ảnh hưởng trực tiếptới học sinh, tác động tới hành vi và nhân
cách của học sinh.
Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên chủ yếu tác động đến học sinh bằng tình cảm.
+ Giáo viên tác động bằng tình cảm của mình.
+ Giáo viên tác động tới mặt tình cảm của học sinh.
Các loại giao tiếp khác đòi hỏi cả lí và tình hoặc thiên về lí, thậm chí chỉ có lí (nguyên
tắc).
VD: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, người giáo viên không nên trách cứ, mắng,
hay có những hành động tiêu cực trực tiếp. Thay vào đó, người giáo viên nên tìm hiểu kĩ
nguyên nhân, lí do khiến học sinh không làm bài tập, đồng thời ôn tồn trò chuyện để từ
đó, đưa ra lời khuyên để học sinh khắc phục lỗi sai của mình.
Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên tác động đến học sinh bằng nhân - cách của
mình.
+ Giáo viên dùng nhân cách của mình làm công cụ tác động. Hiệu quả tác động bằng lời
nói hay hành động tới học sinh do nhân cách của giáo viên quy định.
2
+ Giáo viên không thể giáo dục một phẩm chất nào đó cho học sinh mà bản thân họ chưa
có.
VD: Khi đi học, chúng ta thường có thói quen trình bày bài giống những gì thầy, cô giáo
làm. Không chỉ dừng lại ở bài tập, tác phong và cử chỉ của người giáo viên còn ảnh hưởng
trực tiếp tới thói quen,cảm xúc của học sinh. Một người thầy có thói quen dừng lại giữa
bụcgiảng chào học sinh khi vào lớp, hành động này khiến học sinh hình thành thói quen
đứng dậy nghiêm chỉnh chào thầy giáo. Dần dần, điều này trở thành một phản xạ, mỗi khi
đến môn học của thầyhọc sinh đều chủ động đứng dậy trước để chào, thể hiện sự tôn
trọngcủa bản thân.
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội, được xã hội thừa nhận và tôn trọng.
+ Giao tiếp sư phạm diễn ra trong môi trường sư phạm - an toàn, lành mạnh.
+ Nhà nước và xã hội đều tôn trọng người thầy giáo.
VD: Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con người trong
hoạt động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”. Từ nhận định trên, có thể thấy rõ giao
tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội.
Câu 3. Chức năng của giao tiếp sư phạm
* Trao đổi thông tin
Thông tin trong giao tiếp sư phạm trước hết là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các giá
trị... mà thầy giáo truyền đạt đến học sinh. Đó là nội dung bài học, môn học, cách học...,
hay nói rộng hơn, đó là kinh nghiệm xã hội lịch sử mà mỗi người đến trường cần được
lĩnh hội để sống bình thường trong xã hội. Để lĩnh hội được, học sinh phải thông qua giao
tiếp với thầy giáo, với bạn bè... Quá trình đó xét về chức năng của nó là quá trình giáo dục
sư phạm, học sinh tiếp thu được tri thức của nhân loại để hình thành, phát triển trí tuệ,
nhân cách và trên cơ sở tri thức đó mà phát triển nền văn hoá xã hội.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm còn là những cảm xúc, là thế giới tâm hồn của những
người tham gia giao tiếp. Mỗi con người là một thế giới tâm hồn chứa đựng cảm xúc.
VD: Trong một tiết học, thầy giáo kể một câu chuyện của bản thân về lần đầu được điểm
kém do không ôn bài. Không chỉ nằm ở việc giúp học sinh biết về một kỉ niệm trong quá
khứ của mình, thầy giáo còn giúp học sinh nhận ra được sai lầm trong cách ôn thi, từ đó
rút ra kinh nghiệm và học tập cẩn thận. Việc trao đổi thông tin trong giao tiếp sư phạm
diễn ra từ cả hai phía, giữa thầy và trò, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục.
* Tri giác lẫn nhau
Giao tiếp sư phạm luôn diễn ra sự nhận thức và hiểu biết nhau giữa giáo viên và học sinh.
Đặc tính quan trọng của tri giác lẫn nhau không chỉ là nhận thức về đối tượng giao tiếp mà
còn nhận thức được chính bản thân trong mối quan hệ đó. Tri giác lẫn nhau diễn ra trong
suốt quá trình giao tiếp, giúp mỗi người thu thập thông tin cả cảm tính (tư thế, tác phong,
ánh mắt, nụ cười, trang phục...) lẫn lí tính (phẩm chất, tính cách, tình cảm...) của đối
tượng giao tiếp.
Trong quá trình giao tiếp sư phạm, giáo viên học sinh hiểu biết lẫn nhau bằng cách
cùng chia sẻ cảm xúc của mình đối với những xúc động mạnh của người kia, bằng con
đường đồng nhất hoá bản thân mình với người kia và bằng biện pháp suy nghĩ về người
3
kia. Nhờ tri giác lẫn nhau giáo viên hiểu học sinh của mình hơn, chất lượng quan
hệ cũng như hiệu quả của tác động giáo dục nâng cao hơn. Tri giác lẫn nhau trong giao
tiếp phạm là một hình thức tri giác liên nhân cách.
VD: Khi người giáo viên đặt ra một câu hỏi khiến học sinh lộ ra vẻ lúng túng. Lúc này,
người giáo viên không nên gặng hỏi, mà chủ động gợi ý, đặt ra những câu hỏi phụ đơn
giản hơn, để học sinh có thể tự tin và tìm ra câu trả lời chính xác. Từđó, tạo ra cảm giác t
tin cho người học, cũng như không khí thoải mái cho giờ học. Việc quan sát thái độ của
người học, cũng như người dạy, có lợi ích rất lớn nhằm nâng cao chất lượng của giờ học,
đem lại cảm giác thoải mái, hứng khởi.
* Đánh giá lẫn nhau
Cùng với sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp, con người luôn có sự
đánh giá lẫn nhau trên cơ sở định hướng giá trị của mình. Kết quả của nó ảnh hướng quyết
định tới tiến trình cũng như hiệu quả của quá trình giao tiếp.
- Chẳng hạn, từ chỗ hiểu nhầm dẫn đến đánh giá sai về học sinh, giáo viên có thể căng
thẳng trong cư xử với các em, và tất nhiên, giáo viên sẽ hứng chịu phản ứng có thể là trực
tiếp hoặc ngấm ngầm không lấy gì là tốt đẹp từ phía học sinh, thậm chí có thể phá vỡ quan
hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học sinh.
VD: Khi gặp phải một bài làm điểm kém của một học sinh, người giáo viên không nên lập
tức trách móc hay có những hành động tiêu cực. Thay vào đó, người giáo viên cần tìm
hiểu kĩ lực học của học sinh này, từ đó đưa ra những phương án giảng dạy phù hợp, đem
lại sự thoải mái cũng như động lực cho học sinh phấn đấu.
Ảnh hưởng lẫn nhau
Mỗi người tham gia giao tiếp quan hệ vói người cùng giao tiếp với mình như là chủ thể có
tâm lí, ý thức. Nếu trong hoạt động thực tiễn có đối tượng, kết quả là vật chất (đối tượng
được cải tạo), thì trong giao tiếp kết quả trước hết liên quan đến những thay đổi này hay
khác trong ý thức, hành vi và phẩm chất của những người giao tiếp. Mỗi thành viên tham
gia giao tiếp có thể có kế hoạch nào đó, nhưng trong quá trình giao tiếp trên thực tế có thể
diễn ra khác với dự kiến của kế hoạch cá nhân. Trong quá trình giao tiếp, các kế hoạch
nhân được biến đổi và có thể tạo ra một kế hoạch chung nào đó năng động hơn, hoặc
ngược lại, bất đồng hơn.
Như vậy, giao tiếp dẫn đến sự thay đổi không chí là tư tưởng mà còn thay đổi cả chức
năng tâm lí, trạng thái, thuộc tính tâm lí của những người giao tiếp. Trong giao tiếp sư
phạm, với chức năng xã hội là người hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển hoạt động nhận thức
cũng như quá trình hình thành nhân cách của học sinh, giáo viên có ảnh hường vô cùng
lớn tới học sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi.
Tuy nhiên trong quá trình này, giáo viên cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ phía học sinh
(liên hệ ngược). Một khía cạnh đặc biệt lưu ý là, giữa học sinh với học sinh cũng có ảnh
hưởng lẫn nhau rất lớn trong quá trình các em giao tiếp với nhau (học thầy không tày học
bạn).
VD: Khi giảng bài, tâm lí cũng như cảm xúc, thái độ của người giáo viên có nhữngảnh
hưởng nhất định tới học sinh. Người giáo viên có cảm xúc vui vẻ, hào hứng sẽđem lại một
bầu không khí sôi nổi và thoải mái cho lớp học. Người giáo viên có cảm xúc không tốt,
4
cáu giận sẽ tạo cho lớp học không khí căng thẳng, nặng nề. Ngoài ra, trạng thái và kết
quả của lớp học cũng ảnh hưởng tới tâm lý
của người giáo viên. Chính vì vậy, giáo viên và học sinh ảnh hưởng tới nhau trong quá
trình giao tiếp sư phạm.
Điều khiển hoạt động nhóm
Giao tiếp luôn mang ý nghĩa xã hội, đó là giao tiếp đảm bảo tổ chức mọi người tiến hành
hoạt động chung, đảm bảo cho sự liên hệ qua lại của họ. Đặc điểm cơ bản của chức năng
này thể hiện ở chỗ chính quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, tư tưởng, biểu
tượng...
Sự thống nhất các ý đồ, tư tưởng... sẽ điều khiển hoạt động chung của nhóm, cộng đồng.
Trong giao tiếp sư phạm, sự thống nhất các ý đồ, tư tưởng... giữa giáo viên và học sinh
điều kiện lí tưởng đảm bảohiệu quả cao trong dạy học và giáo dục, và điều này phụ thuộc
phần lớn vào năng lực giao tiếp của người giáo viên.
Thông qua giao tiếp, giáo viên tổ chức các mối quan hệ, các tương tác giữa giáo viên với
học sinh, giữa học sinh với nhau nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh - đó là
khía cạnh bản chất của phương pháp dạy học tích cực
VD: Người giáo viên giống như một nghệ sĩ trên sân khấu, một người diễn viên tài năng
sẽ biết cách lôi cuốn khán giả về phía mình. Một giáo viên hiệu quả sẽ biết thu hút sự
tham gia của học sinh. Để trở thành một giáo viên hiệu quả, thầy cô phải làm chủ được
các chiến thuật, các kĩ thuật dạy học đảm bảo học sinh tham gia vào các hoạt động mà
mình tổ chức, lắng nghe những gì mà mình nói, thực hiện những nhiệm vụ mà mình yêu
cầu.
Ở một cách diễn đạt khác, giao tiếp sư phạm gồm các chức năng sau:
+ Công cụ: Giao tiếp sư phạm là cơ chế xã hội của việc điều khiển và truyền đạt thông tin
cần thiết cho việc thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục.
+ Liên kết: Giao tiếp sư phạm là phương tiện liên kết giáo viên với giáo viên, giáo viên
với học sinh, học sinh với học sinh...
+ Tự thể hiện: Giao tiếp sư phạm là sự trình diễn thế giới nội tâm của giáo viên và học
sinh, và do đó là hình thức hiểu biết lẫn nhau.
+ Chuyển dời: Quá trình sư phạm (dạy học và giáo dục) về bản chất là quá trình tổ chức
cho học sinh hoạt động nhằm chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội. Trong quá trình này, thầy
giáo là cầu nối giữa học sinh và nền văn hoá đó. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, thầy
giáo và học sinh đã "chuyển dời” những tri thức cần thiết từ nền văn hoá nhân loại vào
bản thân mình. Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp sư phạm.
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, giao tiếp là yếu tố quyết định quan trọng
nhất của các quá trình nhận thức ở tất cả các mức độ. Trong quá trình lĩnh hội khái niệm,
nhờ giao tiếp sư phạm mà cơ sở khái quát hoá và trừu tượng hoá được mở rộng (so với
hoạt động cá nhân), giao tiếp sư phạm thúc đẩy việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ
lĩnh hội. Giao tiếp sư phạm tạo ra các điều kiện thuận lợi để xem xét các nhiệm vụ từ các
quan điểm khác nhau và những thay đổi chiến lược tìm kiếm cách giải quyết chúng. Ở đây
5
nhấn mạnh hiệu quả giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh, giữa học sinh với học sinh
trong quá trình dạy học.
+ Kiểm soát xã hội: Giao tiếp sư phạm có chức năng thể chế hoá hành vi và hoạt động của
giáo viên và học sinh, tức là làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định,
nguyên tắc xác định.
+ Xã hội hoá: Giao tiếp sư phạm hình thành cho cả giáo viên và học sinh kĩ năng, kĩ xảo
tác động qua lại trong xã hội phù hợp với các chuẩn mực và quy tắc, các phong tục, tập
quán...
Câu 4. Vai trò của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giáo dục nói chung và trong
việc hình thành nhân cách người thầy giáo nói riêng.
Trong hoạt động sư phạm, hoạt động giao tiếp không những là điều kiện cơ bản và tất yếu
của hoạt động sư phạm mà còn là công cụ, là phương tiện để thực hiện mục đích sư phạm,
bởi tất cả những nội dung giáo dục từ việc giảng dạy thú vị, sáng tạo đến các phương pháp
tích cực, tiến bộ chỉ phát huy tác dụng khi và chỉ khi được đảm bảo bằng giao tiếp sư
phạm phù hợp, đúng đắn. Từ đó cho thấy giao tiếp sư phạm gắn bó chặt chẽ với hoạt động
sư phạm và bản chất của quá trình sư
phạm
Nếu coi hoạt động sư phạm phục vụ 3 mục đích: giảng dạy, giáo dục và phát triển thì giao
tiếp sư phạm có vai trò:
+ Là phương tiện để giải quyết nhiệm vụ giảng dạy vì giao tiếp sư phạm đảm bảo sự tiếp
xúc tâm lý với học sinh, hình thành động cơ tích cực học tập, tạo bầu không khí tâm lý
trong nhận thức, tìm tòi
+ Là sự bảo đảm tâm lý – xã hội cho quá trình giao tiếp vì nhờ giao tiếp sư phạm mà hình
thành được mối quan hệ giáo dục, tạo nên khuôn mẫu của lối sống, ảnh hưởng tới sự hình
thành các định hướng, các chuẩn mực, các kiểu sống của cá nhân và có sự tiếp xúc tâm lý
giữa thầy và trò. Điều đó đảm bảo kết quả của hoạt động học tập, khắc phục những trở
ngại tâm lý, hình thành các mối quan hệ liên nhân cách trong tập thể học sinh.
+ Là phương pháp tổ chức mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò, bảo đảm cho việc dạy và
giáo dục có hiệu quả bởi vì giao tiếp sư phạm đã tạo ra hoàn cảnh, tìn huống tâm lý kích
thích việc tự học và tự giáo dục của học sinh, khắc phục các yếu tố tâm lý kìm hãm sự
phát triển nhân cách trong quá trình giao tiếp: thiếu tự tin, lúng túng khi giao tiếp, …Tạo
điều kiện để phát hiện việc điều chỉnh tâm lý – xã hội trong quá trình phát triển và hình
thành các phẩm chất, nhân cách
-> Như vậy, giao tiếp sư phạm không chỉ là phương tiện, là công cụ để thực hiện mục
đích sư phạm mà còn là bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là một thành phần chủ đạo
trong cấu trúc năng lực của người thầy giáo, góp phần tạo nên nhân cách của họ
+ Nhờ có giao tiếp sư phạm nhà giáo dục mới tổ chức được hoạt động của mình, đồng thời
giao tiếp sư phạm là công cụ thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ giao tiếp giữa
6
các thầy cô giáo trong nhà trường.
+ Giao tiếp sư phạm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của học
sinh. Thông qua giao tiếp sư phạm mà nhà giáo dục truyển đạt những tri thức khoa học,
kinh nghiệm, trải nghiệm… còn người được giáo dục thì lĩnh hội tiếp thu tri thức, kinh
nghiệm chuẩn mực đạo đức để hình thành, phát triển tâm lý nhân cách cho chính mình.
Qua sự trao đổi thông tin giữa nhà giáo dục và người học sinh đã giúp cho nhiều học sinh
hình thành được một số phẩm chất và nhân cách như: ý thức trách nhiệm, tôn trọng tập
thể, lòng tự trọng….
+ Nhờ có giao tiếp sư phạm, nhà giáo dục đã đi sâu vào thế giới tinh thần của học sinh,
thiết lập được mối quan hệ gắn bó đối với học sinh, kích thích học sinh tính tích cực chủ
động, sáng tạo trong mọi hoạt động giao tiếp để trở thành những nhân cách có ích cho xã
hội và tự hoàn thiện bản thân.
Câu 5. Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm
Nguyên tắc: là hệ thống những chuẩn mực, quy định có tác dụng chỉ đạo, định hướng suy
nghĩ và hành động của con người.
Nguyên tắc giao tiếp sư phạm: là hệ thống những quan điểm có tác dụng chỉ đạo, định
hướng thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể giao tiếp, cũng như việc lựa chọn các
phương pháp, phương tiện giao tiếp trong hoạt động sư phạm.
Nguyên tắc mẫu mực, mô phạm
Mô phạm là khuôn mẫu, mực thước cho mọi người làm theo.
Biểu hiện:
Mẫu mực về hình thức (trang phục, cử chỉ, hành vi)
Mẫu mực về thái độ quan hệ
Mẫu mực về ngôn từ
Sự mẫu mực trong giao tiếp sẽ tạo ra uy tín của GV đối với HS
VD: Trong một lần, vì quá nóng vội, bạn đã phạt một học sinh vì cho rằng em đó đã vi
phạm kỉ luật. Nhưng rồi sau đó bạn phát hiện ra em đó ko có lỗi. Bạn sẽ xử lý ntn?
Cách xử lí:
Hãy thẳng thắn và trung thực với các em và với chính bản thân mình.
Hãy công khai xin lỗi học sinh đó trước lớp. Chờ một dịp thuận lợi, một buổi sinh hoạt
lớp với không khí vui vẻ chẳng hạn, bạn hãy nói với các em học sinh thế này: “Hôm
trước, cô đã hơi nóng vội nên đã phạt oan bạn A. Người lớn cũng có những lúc mắc
khuyết điểm. Cô rất xin lỗi bạn A và cả lớp. Chắc các em cũng là những học sinh rộng
lượng đúng không?”
Hoặc gặp riêng học sinh, bạn sẽ nói chuyện dễ dàng hơn, cô trò cảm thông và hiểu nhau.
Nguyên tắc tôn trọng nhân cách
Tôn trọng nhân cách là coi trọng phẩm giá, nguyện vọng của HS, không ép buộc. - Biểu
hiện:
Biết khích lệ, động viên HS bày tỏ suy nghĩ, mong muốn; biết lắng nghe nhu cầu và
7
nguyện vọng của các em
Chân thành, trung thực trong phản ứng đối với HS;
Sử dụng ngôn từ phù hợp; không có những lời nói xúc phạm đối với HS trong mọi trường
hợp
Cử chỉ, điệu bộ khoan hòa
Trang phục gọn gàng, lịch sự
VD: Với những học sinh ít nói có tính cách khép mình, có thể gọi phát biểu trong giờ sinh
hoạt, một câu hỏi rộng có thể chia thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn như một sự gợi ý đối với
học sinh đó. Ngoài ra, giáo viên nên giữ nụ cười của mình sao cho thân thiện, biểu hiện
mong chờ, điều này góp phần tạo cảm giác dễ chịu cho học sinh được hỏi.
Nguyên tắc thiện chí
Thiện chí là nghĩ tốt về HS, tạo điều kiện cho HS bộc bạch tâm tư, nguyện vọng
Biểu hiện:
Trong dạy học: Hết mình vì HS, làm việc với lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách
nhiệm cao đối với HS
Trong đánh giá HS: Khách quan, công bằng, khích lệ sự tiến bộ và vươn lên của HS
Trong phân công nhiệm vụ: lòng tin đối với HS
Trong giải quyết các vấn đề quan hệ
Trong sử dụng hình phạt
VD: Sau khi chấm bài kiểm tra, giáo viên nhận thấy có hai bài khá giống nhau, một của
học sinh giỏi, một của học sinh yếu hơn. Lúc đó, giáo viên không nên có đánh giá chủ
quan như bạn yếu chép bài bạn giỏi. Giáo viên có thể gọi riêng hai bạn lên để đối chất về
hai bài làm và đưa ra cách giải quyết công bằng nhất bất
kể hai bạn có học lực ra sao. Dù ai chép bài, giáo viên vẫn cần phải nhắc nhở nhẹ nhàng,
trừ nhẹ bài chép. Nếu bài không phải chép mà chỉ tình cờ giống nhau (điều này rất có thể
xảy ra với các môn tự nhiên) nếu bài làm tốt, giáo viên có thể khích lệ sự tiến bộ của bạn
yếu.
Nguyên tắc tạo niềm tin
Tạo niềm tin là thể hiện sự chân thành, không sáo rỗng, kiểu cách.
Biểu hiện:
+ Tin tưởng vào sự thay đổi và khả năng tiến bộ của HS
+ Tìm ra ưu điểm, mặt tích cực của HS thay vì miệt thị, phê phán
+ Khiến HS tin vào năng lực và nhân cách của mình
+ Ngay lập tức giải tỏa nghi kỵ của HS
VD: Trong lớp có một học sinh rất nghịch ngợm hay pha trò trong giờ. Giáo viên trong
trường hợp này, không nên có định kiến xấu với học sinh (bởi từ đó có thể nảy sinh
những đánh giá chủ quan tiêu cực của giáo viên trong quá trình tương tác của giáo viên
với học sinh này),luôn phải tin rằng học sinh luôn có mặt tốt, tìm hiểu nguyên nhân
họcsinh này nghịch như vậy là do đâu (có thể muốn thu hút sự chú ý, có thể là do thừa
năng lượng, hoặc do học sinh đó không có nhiều cơ hội thể hiện bản thân với người khác,
…), từ đó tìm hướng giải quyết thích hợp vì sự tiến bộ của học sinh đó.
8
Nguyên tắc đồng cảm
Đồng cảm = đặt mình vào vị trí của người khác.
Biểu hiện:
Hiểu đặc điểm và hoàn cảnh của HS; hiểu được tâm tư, nguyện vọng và mong muốn của
HS
Thân mật, gần gũi với HS
Khoan dung, độ lượng trong ứng xử
VD: hoàn cảnh sống cũng ảnh hướng khá nhiều đến đời sống tâm lí của học sinh. Một
học sinh luôn luôn không chú ý học, phá phách, không hợp tác luôn phạm khuyết điểm có
thể là do một tổn thương
đến từ tâm lí. Là người giao viên, chúng ta cần tìm hiểu để có thể có phương hướng giúp
đỡ học sinh…
Câu 6. Phong cách giao tiếp sư phạm
Phong cách giao tiếp sư phạm là toàn bộ hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp
nhận, phản ứng hành động tương đối ổn định, bền vững của giáo viên và học sinh tỏng
quá trình giao tiếp sư phạm.
Phong cách độc đoán
Là phong cách mà trong đó giáo viên khi ứng xử với học sinh thường xem nhẹ, không tính
đến đặc điểm tâm lí cá nhân của đối tượng giao tiếp. Vì vậy khi tiếp xúc với học sinh hay
đưa ra những yêu cầu xa lạ, mang tính chất áp đặt khiến cho các em khó thực hiện được
Biểu hiện:
Giữ khoảng cách với HS
Không để tâm đến những đòi hỏi, yêu cầu và nguyện vọng của HS
Nguyên tắc cứng nhắc, không nhân nhượng, không linh hoạt
Duy ý chí
Tác động
+ Ưu điểm:
Phong cách độc đoán có tác dụng nhất định đối với công việc cần phải hoàn thành trong
thời gian ngắn, có tính cấp bách
Phong cách này phù hợp với tập thể mới hình thành và tập thể không có sự thống nhất
+ Nhược điểm:
Khiến HS thụ động, lệ thuộc và thiếu tích cực
Tạo ra sự chống đối từ phía HS
Giảm những tác động giáo dục của GV đối với HS
Ví dụ: Trong quá trình giảng bài Toán, giáo viên giảng từ 1 phía, không để ý đến khả
năng nhận thức, tiếp thu của học sinh, yêu cầu học sinh làm theo cách của mình mà không
để ý đến ý kiến khác
- KLSP: Trong quá trình dạy học cần tránh việc lạm dụng phong cách độc đoán, bắt ép
HS theo ý của GV
+ Về thái độ: Tôn trọng ý kiến HS, quan tâm để ý đến khả năng nhận thức, nhu cầu của
9
HS
+ Về hành vi: lắng nghe ý kiến từ HS, khích lệ HS phát biểu ý kiến. Sử dụng linh hoạt,
hiệu quả phong cách độc đoán trong quá trình xử lí tình huống nảy sinh trong giờ học trên
lớp
Phong cách tự do
- Phong cách tự do là phong cách mà giáo viên linh hoạt thay đổi cách ứng xử theo sự
thay đổi của hoàn cảnh giao tiếp
Biểu hiện:
Dễ thay đổi về mục đích, nội dung, đối tượng
Không câu nệ nghi thức
Không làm chủ được cảm xúc
Tác động:
+ Ưu điểm
Có tính mềm dẻo, linh hoạt, khéo léo trong giao tiếp
Phát huy tính tích cực nhận thức, tính độc lập, sáng tạo và ý thức tự giác của HS
Tạo được bầu không khí thoải mái trong giao tiếp
+ Nhược điểm
Dễ phá vỡ các quy tắc quan hệ, dễ bị coi nhẹ; dễ rơi vào tình trạng hời hợt, nông cạn,
thiếu tập trung
Ví dụ: Trong lớp tiết Toán, giáo viên tạo điều kiện cho HS phát biểu suy nghĩ, cách làm
của mình đồng thời hòa đồng với các em trong giờ nghỉ giải lao
KLSP:
+ Trong quá trình giao tiếp cần quan tâm đến thái độ, hành vi, nhu cầu chính đáng của HS
+ Có thái độ đúng mực trong quá trình giao tiếp, kiểm soát tốt cảm xúc của bản thân +
Cần kết hợp linh hoạt với các phong cách giao tiếp khác
Phong cách dân chủ
- Là phong cách giao tiếp mà thầy cô giáo coi trọng những đặc điểm tâm lý cá nhân, vốn
sống, kinh nghiệm, trình độ nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú và các mức độ tích cực
nhận thức của học sinh. Biết lắng nghe, tôn trọng và đáp ứng kịp thời nguyện vọng chính
đáng của học sinh
Biểu hiện:
Luôn gần gũi, thân mật với HS
Lắng nghe nguyện vọng, ý kiến của HS
Kịp thời giải tỏa những băn khoăn, vướng mắc, hoặc những vấn đề HS gặp phải
Tôn trọng nhu cầu và những những đòi hỏi chính đáng của HS
Biết đề ra những yêu cầu phù hợp và vừa sức đối với HS
Tác động:
+ Ưu điểm:
Kích thích tính tích cực nhận thức của HS
Tạo ra ở HS tính độc lập, sáng tạo và ý thức trách nhiệm
Là phong cách giao tiếp có tác động tích cực nhất đối với hiệu quả dạy học và giáo dục
10
+ Lưu ý: Tuy nhiên phong cách dân chủ ở đây không có nghĩa là nuông chiều, thả mặc HS
hoặc xóa bỏ ranh giới thầy trò theo nghĩa “cá mè một lứa” mà là thể hiện sự tôn trọng đối
tượng giao tiếp, thể hiện rõ sự “tôn sư trọng đạo” ở HS
-Ví dụ: Khi soạn giáo án, GV đưa ra các bài toán phù hợp với trình độ nhận thức của HS.
Trong khi giảng Toán cho HS, GV luôn mời HS phát biểu cách làm của mình
=>KL chung: Ba loại phong cách giao tiếp sư phạm trên đều có những mặt mạnh, mặt
yếu nhất định. Xuất phát từ nguyên tắc của quá trình giao tiếp sư phạm, đòi hỏi giáo viên
phải thường xuyên thực hiện phong cách dân chủ. Tuy nhiên, người giáo viên trong hoạt
động giảng dạy và giáo dục học sinh nên vận dụng một cách linh hoạt, pha trộn cả ba loại
hình phong cách trên phù họp với từng hoàn cảnh, mục đích giao tiếp cụ thể... Việc tổ
chức quá trình giáo dục và dạy học ở nhà trường không thể phù hợp hoàn toàn với một
phong cách giao tiếp nào, mà chỉ phù hợp với từng loại công việc của lớp, của trường khi
giáo viên giao việc, hướng dẫn, tổ chức học tập, lao động... cho học sinh. Điều này thể
hiện rõ nghệ thuật giao tiếp sư phạm cảa từng giáo viên. Trong thực tế, có giáo viên quá
lợi dụng phong cách này hoặc phong cách khác trong tiếp xúc với học sinh, nên đã gây ra
ở học sinh tâm lí sợ hãi, hoặc coi thường giáo viên.
Câu 7.Phương tiện giao tiếp sư phạm (PT ngôn ngữ và PT phi ngôn ngữ)
*Khái niệm
Phương tiện giao tiếp sư phạm là những yếu tố trung gian (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ…)
giúp GV, HS, các lực lượng giáo dục tiếp xúc, trao đổi thông tin, nhận thức lẫn nhau, ảnh
hưởng tác động qua lại với nhau trong quá trình giao tiếp
* Phương tiện ngôn ngữ
Phương tiện ngôn ngữ trong GTSP là lời nói và chữ viết giúp giáo viên, học sinh, các lực
lượng giáo dục tiếp xúc, trao đổi thông tin, nhận thức lẫn nhau, tác động qua lại với nhau
trong quá trình giao tiếp
*Phương tiện phi ngôn ngữ
** Hành vi, cử chỉ, điệu bộ
Trong giao tiếp sư phạm, hành vi giao tiếp của giáo viêncó đặc điểm là:
+ Được hình thành từ các nguồn gốc khác nhau
+ Khoan dung, cung kính, tôn sư, trọng đạo.
+ Hành vi giao tiếp sư phạm mang tính linh hoạt
- Điệu bộ, cử chỉ, tư thế, dáng đứng, đi
+ Điệu bộ là cử động của tay, chân, cơ thể …để diễn đạt một điều gì đó hay phụ họa thêm
cho lời nói.
dụ: vừa giảng bài, vừa đưa tay làm điệu bộ
Điệu bộ thể góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động. Đối với giáoviên, điệu bộ phải do s
rèn
luyện theo yêu cầu sư phạm mà tạo thành
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Là 1 phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Việc bố trí một địa điểm giao tiếp phù hợp với
tính chất, mục đích, nội dung cuộc giao tiếp là hết sức quan trọng.
Địa điểm trong GTSP thông thường là lớp học, tuy nhiên cũng có khi là sân trường…
Địa điểm thường thoáng mát, sáng sủa, sạch sẽ, bàn ghế phù hợp với lứa tuổi học sinh
+ Lưu ý:
Lớp học là nơi diễn ra GTSP thì cần phải bài trí hài hoà, thuận tiện cho hoạt động của
giáo viên và học sinh
Không gian lớp học hay 1 địa điểm khác để GTSP cần phải phù hợp với hoàn cảnh và đối
tượng giao tiếp
Khoảng cách tiếp xúc:
+ Đặc điểm:
Là một phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp sư phạm
Nói lên mức độ tương tác nhau giữa các cá nhân. Một khoảng cách hợp lý giữa hai người
ѕẽ tạo nên ѕự hài hòa, thoải mái trong buổi nói chuуện.
Trong mọi loại giao tiếp đều cần có khoảng cách không gian giữa hai chủ thể giao tiếp.
Trong giao tiếp sư phạm, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra khoảng cách thích hợp giữa giáo
viên và học sinh là 3,5m, độ cao chữ viết trên bảng là 5cm.
Khoảng cách giao tiếp sư phạm có tính linh động tuỳ tình huống giao tiếp.
+ Lưu ý:
Chọn khoảng cách phù hợp để giao tiếp hiệu quả, không quá xa mà cũng không quá gần,
nếu quá xa thì mức độ giao tiếp sẽ càng thấp dẫn đến hiệu quả của cuộc giao tiếp không
cao.
Nếu đám đông càng lớn, ta càng phải đứng cách xa để có thể bao quát hết cả hội trường.
Sử dụng hợp lí khoảng cách giao tiếp trong giao tiếp sư phạm là yêu cầunghiệp vụ đối với
giáo viên.
** Thời gian
Đặc điểm:
+ Giúp cho đối tượng giao tiếp căn chỉnh được thời lượng, nội dung của cuộc giao tiếp +
Cách thức sử dụng thời gian cho chúng ta biết được nhiều điều về họ, như: việc đến muộn
có nghĩa là coi thường mọi người.
+ Thời gian là thước đo, căn chỉnh giúp quá trình diễn ra giao tiếp có điểm dừng, nghỉ đển
cuộc giao tiếp được diễn ra dài hơn mà không gây sự mệt mỏi cho đối
25
tượng giao tiếp.
Lưu ý:
+ Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên cần sử dụng hợp lí thời gian để tránh các hiện tượng
phí thời gian vô ích hoặc bị: “cháy giáo án”
+ Không chỉ giáo viên mà học sinh cũng cần đến lớp đúng giờ để đảm bảo quá trình giao
tiếp hay dạy học có hiệu quả.
** Sự im lặng
Đặc điểm:
+ Im lặng được dùng như dấu hiệu của sự tôn trọng
VD: khi giáo viên giảng bài thì học sinh chăm chú lắng nghe, im lặng không nói chuyện
với nhau
+ Trong giao tiếp sư phạm, việc giáo viên sử dụng sự im lặng hoặc điểm dừng khi đang
nói có tác dụng tập trung chú ý hoặc kích thích tư duy của học sinh và thu được kết quả tôt
nhất trong việc tiếp thu kiến thức
- Lưu ý:
+ Cần phải tuỳ vào từng trường hợp và xem xét có cần im lặng hay không.
+ TrongGTSP với học sinh thì giáo viên không nên Im lặng quá lâu dễ làm cho học sinh
bị sợ.
+ Cần sử dụng sự im lặng phù hợp vừa thể hiện sự tôn trọng với các em vừa không làm
mất đi sự tự tin của các bạn học sinh trong quá trình giao tiếp.
=> Kết luận chung: Trong giao tiếp sư phạm cần vận dụng các phương tiện giao tiếp
đúng lúc và nên kết hợp có các phương tiện với nhau để giúp cho quá trình giao tiếp sư
phạm diễn ra hiệu quả, đạt kết quả như mong muốn.
Câu 8.Kỹ năng giao tiếp sư phạm (KN lắng nghe, KN thuyết phục, KN quản lý cảm xúc,
KN giải quyết tình huống sư phạm)
* Khái niệm kỹ năng giao tiếp SP
KNGTSP là sự phối hợp phức tạp giữa những chuẩn mực hành vi xãhội cá nhân với sự
vận động của cơ mặt, ánh mắt, nụ cười, tư thế củađầu, cổ, vai, tay, chân, đồng thời với
ngôn ngữ nói, viết của người giáo viên.
Sự phối hợp hài hòa, hợp lý giữa các vận động đều mang một nộidung tâm lý nhất định,
phù hợp với những mục đích, ngôn ngữ, nhiệm vụ giao tiếp cần đạt mà giáo viên là chủ
thể
Kỹ năng giao tiếp sư phạm được hình thành qua:
26
+ Những thói quen ứng xử được xây dựng trong gia đình.
+ Do vốn sống kinh nghiệm cá nhân qua tiếp xúc với mọi người, trong các quan hệ xã
hội…
+ Rèn luyện trong môi trường sư phạm qua các lần thực hành, tiếp xúc với học sinh (thâm
niên nghề càng cao thì KNGTSP càng hợp lý).
=> Khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của người giáo viên để nhận thức nhanh
chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và
bản thân, đồng thời sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách
tổ chức, điều khiển điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục
Kỹ năng lắng nghe
Khái niệm Là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm vào việc quan sát, tập trung chú
ý cao độ để nắm bắt thông tin, hiểu được cảm xúc, thái độ, quan điểm của đối tượng giao
tiếp, đồng thời giúp đối tượng giao tiếp cảm thấy được tôn trọng, quan tâm và chia sẻ.
Mục đích của kĩ năng lắng nghe: giúp giáo viên thu thập được những thông tin cần thiết
trong quá trình giáo dục; thể hiện sự tôn trọng, quan tâm, thấu hiểu và tạo mối quan hệ
hợp tác tích cực với đối tượng
Biểu hiện của kĩ năng lắng nghe
Tập trung chú ý tối đa vào những gì đối tượng nói: im lặng, chăm chú, không ngắt lời,
không phản bác, không làm việc khác trong khi nghe
Tập trung quan sát, nhận biết được hành vi, cử chỉ, cảm xúc của học sinh và giải nghĩa
chính xác những biểu hiện phi ngôn ngữ của đối tượng
Đưa ra những phản hồi phù hợp với nội dung đối tượng đã nói và những cảm xúc của họ;
đặt câu hỏi để làm rõ hoặc gợi mở cho họ tiếp tục nói; nhấn mạnh hay mở rộng những
điều họ nói
Khuyến khích: sử dụng những đáp ứng không lời để thể hiện sự quan tâm và khuyến
khích đối tượng như: tiếp xúc bằng mắt và có những động tác đáp ứng thích hợp với
những chia sẻ của đối tượng (gật đầu, hơi ngả người về phía đối tượng giao tiếp…)
27
=> Giáo viên có kĩ năng lắng nghe tốt:
− Duy trì tiếp xúc bằng mắt với đối tượng
− Không ngắt lời đối tượng
− Không vội vàng đưa ra kết luận
− Nghe chính xác nội dung những điều đối tượng nói
− Có thể đưa ra những tín hiệu cho đối tượng thấy rằng họ đang được lắng nghe
−Biết phân tích các thông tin để đặt câu hỏi làm rõ vấn đề đang được chia sẻ
− Không hỏi những câu không liên quan đến vấn đề đang được chia sẻ
− Nhận diện được những cảm xúc người nó
Cách thực hiện kĩ năng lắng nghe
Bao gồm 5 bước: 1. Tập trung, 2. Tham dự, 3. Hiểu, 4. Ghi nhớ, 5. Hồi đáp, 6. Phát triển.
Trung tâm của chu trình lắng nghe này là mong muốn thấu hiểu của giáo viên đối với đối
tượng
Bước 1: Tập trung
+ Thể hiện thái độ toàn tâm toàn ý để lắng nghe đối tượng. Giáo viên chỉ chú ý vào người
nói, thể hiện sự mong muốn lắng nghe, không được tranh thủ làm việc khác hay nhìn lơ
đãng xung quanh
+ Tôn trọng bản thân người nói và những gì họ nói
+ Khuyến khích người nói cởi mở hơn
+ Nghe chính xác điều người nói muốn truyền tải
+ Hiểu đúng ý đối tượng muốn nói gì
Bước 2: Tham dự
+ Hòa vào với nội dung câu chuyện và trạng thái xúc cảm của đối tượng
+ Thể hiệnrõ giáo viên đang lắng nghe thông qua các biểu hiện: cử chỉ, nét mặt và lời nói
như: gật đầu, biểu hiện đồng cảm qua nét mặt, sử dụng những từ có nghĩa đồng tình (ah,
uh, oh, vâng, dạ, thế ạ, …)
Bước 3: Hiểu
+ Kiểm tra lại sự chính xác của những thông tin đã tiếp nhận và chứng tỏ mình đã hiểu
đúng những gì đối tượng nói bằng việc nhắc lại những từ khóa, ý quan trọng mà đối tượng
đã trình bày
+ Lặp lại thông điệp đối tượng đã nói
+ Trình bày lại nội dung củađối tượng theo cách hiểu của mình
+ Đặt các câu hỏi để xác nhận như:
28
Có phải ý của anh/chị/em là…?
Theo như tôi hiểu thì anh/chị/em muốn nói….?
Tôi hiểu như thế này có đúng không…?
Bước 4: Ghi nhớ
Chọn lọc thông điệp/nội dung chính mà đối tượng muốn truyền tải
Ghi chép/ghi nhớ những nội dung chính, thông tin cần thiết trong buổi giao tiếp
Bước 5: Hồi đáp Giáo viên phải trả lời, giải đáp các băn khoăn, thắc mắc của họcsinh
trong điều kiện có thể.
Cung cấp thông tin cho đối tượng
Giải đáp thắc mắc giúp đối tượng hiểu hơn vấn đề
Cho đối tượng thấy họ được lắng nghe, được hiểu, được khích lệ để tiếp tục chia sẻ
Bước 6: Phát triển Làm cho câu chuyện rõ ràng hơn, sâu sắc hơn và có thể mở rộng ra
ngoài nội dung ban đầu Giáo viên đặt câu hỏi để làm rõ các vấn đề, hoặc phát triển thêm
các ý kiến khác mà học sinh chưa đề cập đến hoặc không có ý định đề cập đến.
=> Quy trình 6 bước này liên tục lặp đi lặp lại trong quá trình giao tiếp sư phạm đảm bảo
lắng nghe một cách hiệu quả nhất.
Kỹ năng quản lí cảm xúc
Khái niệm: Là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân để nhận
diện, xử lý và điều chỉnh cảm xúc của bản thân một cách phù hợpvới đối tượng và hoàn
cảnh giao tiếp.
Quản lý cảm xúc là một quá trình, để có kĩ năng quản lý cảm xúc đòi hỏi cần thời gian rèn
luyện và cần những kỹ thuật/cách thức để đạt được mục đích mà chúngta mong muốn.
Biểu hiện của kỹ năng quản lý cảm xúc
Biết nhận diện cảm xúc của bản thân và đối tượng giao tiếp
Biết làm chủ trạng thái cảm xúc của mình và điều khiển, điều chỉnh các cảm xúccủa bản
thân cho phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp
29
Không để những cảm xúc tiêu cực điều khiển hành động, lời nói của mình
Không đưa ra những quyết định ngẫu hứng, bất cẩn mà luôn suy nghĩ trước khi hành
động.
Luôn có khả năng theo dõi được biểu hiện và mức độ cảm xúc của mình trong quá trình
giao tiếp
+ Bộc lộ cảm xúc của mình với đối tượng giao tiếp bằng lời nói, hành vi, cử chỉ phù hợp.
+ Chế ngự các cảm xúc tiêu cực của bản thân Người giáo viên có kĩ năng quản lý cảm xúc
tốt là người luôn chủ động trong quá trình giao tiếp sư phạm/có trạng thái cảm xúc phù
hợp, không bị cảm xúc chi phối và điều khiển, đặc biệt là cảm xúc tiêu cực
Cách thực hiện kĩ năng QLCX
Nguyên tắc
Mình là người điều khiển và chịu trách nhiệm về cảm xúc; không phải cảm xúc điều khiển
mình;
Cần phải ý thức về nguyên nhân, lý do gây ra CX
Có quyền thể hiện tất cả các dạng cảm xúc tích cực và tiêu cực, nhưng phải nhớ: cảm xúc
tiêu cực có những hệ lụy nếu như không kiểm soát được;
Cảm xúc tiêu cực không thể triệt tiêu hay kìm hãm mà cần có cách quản lý;
Luôn mong muốn nuôi dưỡng cảm xúc tích cực;
Hãy vị tha và rộng lượng với mọi người
Các bước
- Bước 1: Dự báo (nhận thức, chuẩn bị) Dự báo các tình huống và trạng thái cảm xúc của
bản thân, của đối tượng giao tiếp
Bước 2: Nhận diện (hiểu lý do nảy sinh cảm xúc và gọi tên cảm xúc) Nhận biết được lí do
gây ra cảm xúc và gọi được tên của cảm xúc Cụ thể là nhận ra được các dạng cảm xúc
hiện thời của bản thân chỉ ra chính xác cảm xúc mà cá nhân đang trải nghiệm là gì
Bước 3: Thực hiện cách quản lý cảm xúc
Cảm xúc nảy sinh cũng do yếu tố nhận thức khác nhau về cùng một sự kiện→ Có thể
quản lý được cảm xúc của bản thân thông qua việc thay đổi các tác nhân bên
30
trong (nhận thức) hay các yếu tố bên ngoài (không gian, thời gian, hoạt động ...) bằng
cách:
+ Điều chỉnh nhận thức Nhận thức là cơ sở của thái độ (cảm xúc) và hành vi, điều chỉnh
nhận thức là điều chỉnh cái gốc, là giai đoạn đầu tiên giúp cá nhân có được hiểu biết về sự
kiện để từ đó có thể có những thái độ rung cảm khác nhau và dẫn đến phản ứng hành vi
riêng.
+ Do mối quan hệ qua lại giữa nhận thức- thái độ- hành vi nên thay đổi hành vi sẽ dẫn đến
thay đổi cảm xúc. Ví dụ: khi đang trải nghiệm cảm xúc buồn nếu tìm đến những hoạt động
như đi chơi thể thao, nói chuyện với bạn bè, người thân sẽ khiến thay đổi sự chú ý và tạo
hứng thú, giúp cho cảm xúc buồn giảm bớt Viết nhật k cũng là cách để giải tỏa cảm xúc
đang trải nghiệm, nhưng đồng thời việc viết ra cũng là công cụ giúp chúng ta một lần nữa
nhìn lại những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của mình và thấy cần phải thay đổi
Các kĩ thuật và biện pháp khác:
+ Thư giãn (Hít thở sâu): cách này sẽ cung cấp thêm một lượng oxy phản ứng thay đổi
sinh lý khi cơ thể giúp chúng ta bình tĩnh hơn.
+ Sử dụng thời gian tạm lắng/thay đổi vị trí là cho phép mình thoát khỏi cảm xúc hiện tại,
khỏi bối cảnh gây cảm xúc hiện bằng cách rời đi chỗ khác
+ Kỹ thuật self-talk (tự nói với bản thân mình): là tự nói thầm với bản thân những câu nói
chất vấn chính mình - Sử dụng sự hài hước: tìm ra yếu tố hài hước trong tình huống để
hóa giải hoặc giảm bớt những cảm xúc tiêu cực ở cả hai bên.
+ Thay đổi chú ý: là sự chuyển mục tiêu tri giác một cách có chủ ý sang đối tượng khác để
tạo khoảng thời gian cho cảm xúc “lắng” xuống cũng như tránh các phản ứng hành vi tiêu
cực.
+ Ngừng suy nghĩ: “cắt” dòng suy nghĩ tiêu cực dẫn đến cảm xúc tiêu cực
+ Giao tiếp quyết đoán: bày tỏ cảm xúc nhưng với thái độ dứt khoát và không công kích,
đổ lỗi hay chỉ trích người gây ra cảm xúc cho mình.
Bước 4: Điều chỉnh và hoàn thiện kỹ năng quản lý cảm xúc Sau khi trải nghiệm và áp
dụng những kỹ thuật, biện pháp khác nhau để quản lý cảm xúc của mình, bước tiếp theo
cá nhân sẽ rút kinh nghiệm, nêu ra bài học cho bản thân trong quá trình các tình huống
tương tự hoặc những tình huống khác trong tương lai.
Kỹ năng thuyết phục
Khái niệm
31
Thuyết phục Là quá trình thay đổi hoặc cải thiện thái độ, niềm tin hoặc cử chỉ đối với một
kết quả được xác định trước thông qua sự tuân thủ tự nguyện Kurt. W Mortensen - Nhiều
tác giả khác lại cho rằng thuyết phục là đưa ra những tình tiết, sự kiện để phân tích, giải
thích, đánh giá làm cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, làm theo
Như vậy, thuyết phục là phương pháp tác động vào nhận thức của con người bằng lý lẽ là
chính PP này được xây dựng trên cơ sở tính lôgic, tính chặt chẽ, xác đáng của các lập luận
nhằm làm thay đổi quan điểm, thái độ của người khác, làm cho người khác tin theo, làm
theo hoặc xây dựng quan điểm mới. Hiệu quả của thuyết phục phụ thuộc vào: uy tín của
người thuyết phục, tính chặt chẽ và lôgic của lý lẽ đưa ra, một số đặc điểm tâm lý cá nhân,
hoàn cảnh diễn ra sự thuyết phục, cách thức thuyết phục
Kĩ năng thuyết phục Là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của giáo viên để tác
động, cảm hóa làm thay đổi quan điểm, thái độ, niềm tin của học sinh/phụ huynh/đồng
nghiệp, làm cho họ tin tưởng, nghe theo và làm theo Người giáo viên có khả năng thuyết
phục để người khác tin tưởng, nghe theo và làm theo cũng chứng tỏ rằng họ có khả năng
gây ảnh hưởng và có uy tín thật sự với người khác
Biểu hiện của kĩ năng thuyết phục
Biết chọn thời điểm thuyết phục thích hợp
Biết lựa chọn cách thức thuyết phục phù hợp với từng đối tượng: bằng lời nói, việc làm
bằng tình cảm
Có lý lẽ, lập luận logic, chặt chẽ, có minh chứng
Biết tôn trọng, lắng nghe và dành thời gian cho đối tượng suy nghĩ, bày tỏ quan điểm, cảm
xúc - Thừa nhận/khen ngợi (một cách khách quan) cái hay, cái đúng trong quan điểm của
đối tượng - Biết dẫn dắtđối tượng thay đổi quan điểm/thái độ/hành vi theo hướng tích cực
Các bước thực hiện kĩ năng thuyết phục
Bước 1: Tạo không khí bình đẳng, tôn trọng và thể hiện thànhý/thiện chí của mình với đối
tượng
Bước 2: Lắng nghe đối tượng bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc
Bước 3: Thừa nhận hoặc khen ngợi những điểm phù hợp trong quan điểm/ý kiến của đối
tượng
Bước 4: Chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quan điểm/ý kiến của đối tượng và đề
nghị họ thay đổi
32
+ Lời lẽ nhẹ nhàng, lịch sự ngắn gọn, có trọng tâm không gây áp lực
+ Lý lẽ đưa ra phải rõ ràng, lập luận logic, chặt chẽ và có minh chứng cụ thể
Bước 5: Tổng kết và khắc sâu lại thông điệp cần thuyết phục đối tượng thay đổi
Bước 6: Ghi nhận kết quả (Đo kết quả thay đổi bằng hành vi, khôngbằng lời nói)
-> quá trình thuyết phục cần theo dõi sát các biểu hiện phi ngôn ngữ của họ để có Lưu ý:
sự điều chỉnh phù hợp Nếu đối tượng không thay đổi, hay thái độ xấu đi thì không nên
tiếp tục; mà có thể chuyểnchủ đề khác Nội dung cũng như phương thức nói chuyện cũng
phải theo đó mà thay đổi, hoặc chọn thời điểm khác
Kỹ năng giải quyết tình huống SP (một số tình huống cho câu 9, 10)
Câu 9.Thực hành giải quyết tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với học sinh
Câu 10.Thực hành giải quyết tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với cha mẹ học
sinh
Các tình huống:
GIAO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VỚI GIÁO VIÊN
Khi chấm bài giáo viên B thấy có 2 bài làm của 2 học sinh giống hệt nhau. Là giáo viên,
trong trường hợp đó, bạn sẽ xử lý như thế nào?
Câu trả lời:
Nhận thức và biểu đạt vấn đề, xác định và tìm hiểu nguyên nhân:
Bài làm của hai học sinh giống hệt nhau trong trường hợp môn học đó là các môn khoa
học xã hội( văn, sử, địa,…) hay các môn học thể hiện được tính cá nhân trong bài làm thì
có hai khả năng: một là một trong hai học sinh chép bài của bạn còn lại và hai là 2 HS
cùng chép bài từ một tài liệu. Còn đối với các môn học như toán, lý, hóa,… việc trình bày
đúng giống nhau cũng có khả năng xảy ra. Vì vậy GV cần xem xét thật kĩ trước khi xử lí.
Trên thực tế, nếu bạn là GV đã dạy 2 HS đó được khá lâu thì chắc cũng có những nhận
định về đạo đức cũng như lực học của 2 HS, tuy nhiên không nên vội vàng kết luận.
Các cách xử lý:
Phương án 1: Trong giờ trả bài trên lớp, GV trực tiếp nêu ra vẫn đề và yêu cầu 2 HS giải
thích và tự nhận lỗi. Nếu 2 HS đó không chịu nhận ai là người chép
33
bài thì sẽ cho 2 HS đó điểm kém hoặc chia đôi điểm bài kiểm tra. Nếu 2 HS đó nhận lỗi
thì cho 2 em đó kiểm tra lại hay kiểm tra miệng luôn trên lớp.
Phương án 2:
+ Thực hiện trả bài trên lớp bình thường, có những lời khen và động viên với những bài
làm tốt và động viên các em có bài làm còn thấp có gắng trong những bài kiểm tra sau.
+ Kể một câu chuyện giáo dục con người phải biết trung thực, thành quả do mình làm ra
thực sự đáng quý và cho dù kết quả như thế nào thì nó cũng sẽ đem lại cho bạn một bài
học từ đó rút cho mình những kinh nghiệm và ngày càng tốt hơn.
+ Trao đổi riêng với 2 HS đó. Nếu hai học sinh đó thực sự hối lỗi và nhận lỗi thì tha lỗi
cho HS, khuyến khích 2 em sửa lỗi, cho 2 em về cùng ôn tập lại và vào tiết sau GV sẽ gọi
2 HS lên trả lời và lấy điểm đó là điểm kiểm tra. Nếu 2 HS đó không có thái độ nhận lỗi
thì cho 2 HS đó cùng làm ngay tại đó một bài kiểm tra và giải thích tại sao GV lại cho 2
em đó làm lại bài. Sau đó GV cầm 2 bài kiểm tra cũng rút ra những nhận xét, cách khắc
phục lỗi trong bài trong những bài kiểm tra sau. Nếu như bài này không phải do chính
những HS đó viết thì chắc hẳn việc rút kinh nghiệm sửa sai là không thể.
Phương án 2 là phương án xử lí tối ưu hơn, vì:
Điều quan trọng là cho HS tự nhận ra lỗi lầm của mình và phương án 2 giúp đạt được hiệu
quả đó.
Nêu tên và xử phạt trự tiếp 2 HS đó trên lớp sẽ khiến 2 em đó xấu hổ với bạn bè hay bị
chúng bạn xười chê, điều này không tốt cho tâm lý của các em.
Bài học kinh nghiệm: Bài làm của 2 hay nhiều học sinh giống nhau có thể nói là một tình
huống rất hay gặp trong kiểm tra đánh giá kết quả trong trường lớp. Tình huống xử lý
quan trọng là phải làm cho HS tự nhận ra lỗi lầm và hiểu được việc chép bài của bạn để
đạt điểm cao thực sự lại tác hại với chính bản thân HS hơn cái lợi trước mắt mà HS
nhìn thấy.
Bạn đi dự giờ một đồng nghiệp cùng tổ chuyên môn dạy ở lớp 12A. Bạn phát hiện thấy
người đồng nghiệp đó trong lúc giảng bài liên tục mắng học sinh bằng những từ ngữ thậm
tệ như: “đồ ngu”, “đồ rác rưởi”, “đồ cặn bã”… Trong trường hợp đó bạn sẽ làm gì?.
- Vấn đề cần được giải quyết trong tình huống là:
34
+ Chỉ ra cho đồng nghiệp thấy việc họ mắng học sinh là không đúng theo quy định của
nghề nghiệp cũng như cái tâm, đạo đức của người làm thầy
+ Chỉ ra tác hại của việc mắng nhiếc học sinh thậm tệ như vậy không chỉ về mặt tâm lí mà
còn ảnh hưởng đến suy nghĩ và việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng đặc biệt các học sinh đang ở lớp 12 có rất nhiều áp lực trong thi cử
nên cần để các em có tâm lí thoải mái vui vẻ học tập khi tới lớp.
+ Tìm hiểu nguyên nhân vì sao giáo viên đó lại liên tục
+ Cần phải dùng biện pháp mềm mỏng, khôn khéo để người đồng nghiệp thấy được lỗi và
tác hại của việc họ làm mà không gây mâu thuẫn giữa 2 người
+ Có biện pháp để báo cáo với cấp trên để xử lí tình huống của đồng nghiệp nếu sau khi
trao đổi với giáo viên đó nhiều lần nhưng không thấy kết quả tốt.
- Để giải quyết được tình huống cần vận dụng các tri thức sau.
+ Nắm vững và vận dụng tốt được nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giao tiếp (tính
mô phạm trong giao tiếp)
+ Tôn trọng nhân cách khi giao tiếp
+Có thiện ý trong quá trình giao tiếp
+ Cần linh hoạt ứng phó với các tình huống
+ Có kĩ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp
+ năng nghe biết lắng nghe, năng tự kiềm chế kiểm tra đối tượng giao tiếp
+ Kĩ năng diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, mạch lặc, thuyết phục
- Các cách giải quyết
+ GV dự giờ không nói gì, cũng không tìm hiểu phản hồi với GV chủ nghiệm
đó. Tuy biết hành vi lời nói đó không đúng nhưng cũng bỏ qua
+ Sau giờ học GV dự giờ gặp GV dạy tiết học đó chỉ trích liên tục về hành vi
đồng thời đưa ra lời lẽ thể gây sức ép tâm lí với GV đó khi
35
muốn thưa lên hội đồng nhà trường sử lí nghiệm minh trường hợp này mà không hề tìm
hiểu nguyên nhân hay phản hồi của HS
- Phương án để giải quyết tình huống:
Em sẽ vẫn ngồi dự giờ và không đưa ra nói ngay ý kiến với GV đó trên lớp. Cuối giờ học
em sẽ gặp riêng lớp trưởng và lớp phó của lớp đó để hỏi rõ tình hình. Mục đích là để xác
định có phải buổi dạy nào GV đó cũng liên tục chửi mắng học sinh hay không hay là chỉ
có buổi học hôm đó. Đồng thời qua đó xác định cách giải quyết riêng với từng nguyên
nhân khác nhau.
+ Trường hợp 1: GV chỉ chửi mắng HS vào buổi học đó thôi còn các buổi học khác thầy
không như vậy.
Em sẽ tìm hiểu sơ bộ tình hình của GV đó vì có thể do áp lực từ gia đình hoặc các nhân t
ngoại cảnh đã khiến thầy mất tự chủ trong lời nói của mình khilên lớp
Sau khi tìm hiểu có thể đã biết nguyên nhân hoặc chưa biết thì sau khi dự giờ em sẽ gặp
riêng GV đó để trao đổi.
“Sau khi dự giờ tiết học của anh, em có một vài nhận xét như sau: thứ nhất về điểm mạnh
là HS ngồi học rất ngoan không có hiện tượng nói chuyện làm việc riêng trong lớp. Anh
giữ kỉ luật lớp khá tốt. Tuy nhiên giờ dạy cũng có một số nhược điểm nên sửa chữa để thu
được kết quả tốt hơn. Em có thấy rằng trong giờ anh có nói với học sinh hơi nặng lời khá
nhiều lần. Em biết là mỗi giáo viên chúng mình đều nhận ra việc làm này là không được
cho phép và cũng không được làm như vậy. Em nghĩ là anh cũng biết những tác hại tiêu
cực của nó đổi với học sinh đặc biệt là các em đang ôn thi đại học đã rất căng thẳng nữa.
Em cũng đi dạy và nhiều buổi do công việc gia đình, áp lực cuộc sống làm mình thấy
bựcdọc khó chịu nhưng mình phải biết kiềm trế và làm chủ lời nói và hành động của bản
thân anh ạ. Nếu anh có việc gì khó khăn cần giúp đỡ hay chia sẻ anh thể nói với em
em sẽ giúp anh hết sức thể. Việc mắng
36
nhiếc học sinh là rất không nên, em mong rằng anh sẽ rút kinh nghiệm và không tái phạm
nữa.”
+ Trường hợp 2: GV này luôn luôn chửi mắng học sinh trong tất cả các giờ học
Sau khi nghe phản hồi từ nhiều học sinh về vấn đề của GV đó thì em sẽ gặp trực tiếp và
trao đổi thẳng thắn, và sau đó có quan sát hành vi và lời nói của GV đó trong 1 khoảng
thời gian. Nếu không có chuyển biến thì cần phải phản hồi và nhắc nhở lần nữa. Nếu GV
đó vẫn cố làm sai thì cần báo lên nhà trường để tìm cách sử lí hợp lí.
=> Kết luận sư phạm: theo em là giáo viên thì không chỉ dạy học sinh về tri thức mà ta
phải chú ý tới giáo dục nhân cách và đạo đức của học sinh để dạy được học sinh thì chính
mỗi người giáo viên cũng phải tự rèn luyện bản thân để trở thành tấm gương cho học
sinh noi theo. Đồng thời khi đi dạy thì mỗi người gv cần kiểm soát hành vi và lời nói của
chính mình không để những chuyện cá nhân ảnh hưởng tới giờ lên lớp
Hôm nay giáo viên H. tiết dạy lớp 11C. Một đồng nghiệp trẻ mới công tác được 3
năm đến xin dự giờ ở lớp của thầy. Khi thầy H. đang giảng bài bỗng người đồng nghiệp
trẻ đó nói to: “Chỗ này thầy giảng sai rồi”. Cả lớp học xì xào, bàn tán. Là giáo viên H.
trong trường hợp đó bạn sẽ làm gì?.
Phân tích tình huống: Đây là một tình huống khá phổ biến trong thực tế. Đồng nghiệp trẻ
muốn học hỏi cách giảng dạy nên đến xin dự giờ. Trong lúc giáo viên giảng bài cho học
sinh, đồng nghiệp trẻ chợt nhận ra kiến thức thầy giảng sai, thay góp ý cho giáo viên
sau giờ dạy, thì đồng nghiệp nói to: “Chỗ này thầy giảng sai”. Cả lớp học bàn tán, xì
xào trước ý kiến của đồng nghiệp trẻ.
Cách xử lí:
37
Trong thực tế có nhiều cách giải quyết với tình huống này:
Làm ngơ câu nói của đồng nghiệp trẻ, coi như không biết, giáo viên tiếp tục giảng bài và
nhắc cả lớp trật tự.
Giáo viên nhắc lớp trật tự, ổn định tiếp tục tập trung vào bài học và mời đồng nghiệp trẻ,
học sinh chỉ ra thắc mắc đồng thời giáo viên cũng kiểm tra lại kiến thức vừa giảng có bị
sai không.
Nếu nhận thấy kiến thức bị sai, giáo viên xin lỗi cả lớp và nhấn mạnh lại nội dung đó đồng
thời cảm ơn đồng nghiệp đã góp ý.
Nếu sau khi kiểm tra và thấy kiến thức đó không sai thì giáo viên nhấn mạnh, giải thích lại
nội dung đó cho học sinh và đồng nghiệp đồng thời cảm ơn sự cho ý của đồng nghiệp
(không tỏ ra cáu gắt khi đồng nghiệp góp ý sai).
Tuy nhiên sau tiết học, giáo viên nên góp ý với đồng nghiệp nên góp ý cho giáo viên sau
giờ học chứ không nên nói to để ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.
Theo ý kiến của em, em sẽ xử lý tình huống trên theo cách b. Theo nguyên tắc giao tiếp sư
phạm giáo viên cần tôn trọng nhân cách giao tiếp tức cần tôn trọng ý kiến, hành vi, biết
lắng nghe ý kiến không phân biết đẳng cấp, không cáu gắt với đồng nghiệp trẻ. Đồng thời
nên sử dụng phong cách dân chủ để học sinh và đồng nghiệp cùng tham gia góp ý.
Kết luận sư phạm:
Trong quá trình giảng dạy cần tôn trọng ý kiến nhân cách của đồng nghiệp và
học sinh
Giáo viên cần biết sửa chữa kiến thức cũng như góp ý thẳng thắn, thành thật, hợp
với đồng nghiệp không tỏ thái độ chê bai, phê bình.
Trong các trường hợp giáo viên cần thể hiện nhân cách mẫu mực để học sinh
học tâp.
38
Là Tổ trưởng chuyên môn của tổ tự nhiên ở trường Tiểu học thuộc huyện miền núi, thầy
V. đi dự giờ đột xuất lớp dạy của cô A. – một giáo viên trẻ mới có 2 năm tuổi nghề. Buổi
học này Cô A. dạy về phép chia cho học sinh lớp 4. Ngồi dưới lớp, thầy V. nhận thấy cô
A. dạy sai kiến thức cơ bản. Là thầy V. trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế
nào?
Tình huống nêu ra: trong một lần dự giờ đột xuất Thầy V phát hiện ra Cô A – một giáo
viên trẻ chưa có nhiều năm kinh nghiệm đã dạy sai kiến thức cơ bản.
Phân tích tình huống: Đối với một giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, thì việc sai
sót là khó tránh khỏi. Hơn nữa, đây là tiết dự giờ đột xuất, cô A gặp vấn đề về tâm lý có
thể là lo lắng, đặc biệt trước người có kinh nghiệm và chuyên môn cao hơn. Việc nhầm
lẫn cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, việc sai sót sẽ ảnh hưởng đến uy tín của giáo viên
cũng như ảnh hưởng tới kiến thức học sinh thu nạp được: các em sẽ hiểu sai.
môn Toán lại là một môn khoa học cần độ chính xác cao tuyệt đối.
Một số cách giải quyết:
Phương án 1: Sau khi cô A ngừng lời, nói với cô A một cách tế nhị rằng cô đã sai
ở phần này … ( Lời nói thể hiện sự xây dựng đóng góp chứ không mang hơi hướng coi
thường)
Phương án 2: Ngay lúc đó, xin phép cả lớp gặp riêng cô A ở ngoài để trao đổi một
cách thẳng thắn với thái độ đóng góp với cô về vấn đề này. Mong cô sửa sai và xin lỗi học
trò rồi tiếp tục bài học.
Phương án 3: Sau khi buổi học kết thúc, gặp riêng nói chuyện khéo léo với cô A
về việc cô đã dạy sai kiến thức cơ bản.
Nếu em là Thầy V, theo em cách xử lý thứ ba hợp lý nhất. Nếu nói trực tiếp ngay lúc đó
với A trước mặt toàn thể học sinh cả lớp về lỗi sai của
39
A sẽ làm cô mất uy tín với lớp, có thể khiến cô lúng túng khó xử tam thời chưa nhận ra
được lỗi sai của bản thân. Nếu để kết thúc tiết học mới trao đổi với cô A về lỗi sai này thì
các em học sinh đã được học một lượng tri thức sai lệch. Việc này sẽ ảnh hướng tới quá
trình tiếp thu tri thức ở những bài học sau trở nên khó khăn hơn. Vì thế, lựa chọn phương
án 2 là khả quan nhất. Thầy V đặt mình vào vị trí cô A hiểu được tâm trạng lo lắng của
cô ,vì thế thầy gặp riêng cô A ở bên ngoài giúp cô không lúng túng , khó xử trước học trò
mà có thời gian xem xét lại bài giảng của mình. Sau đó xin lỗi học trò và sửa lỗi sai trước
học trò kịp thời.
Bài học kinh nghiệm: Là một giáo viên tương lai cần phải có kĩ năng xử lý tình huống linh
hoạt trước những tình huống bất ngờ, giữ vững tâm lý. Đồng thời cần chuẩn bị soạn bài
cẩn thận để tránh những lỗi sai kiến thức cơ bản không đáng có. Khi nhận được lời góp ý
tích cực từ những người chuyên môn cao cần lưu tâm, xem xét lại bài giảng của mình.
Lan là tổ trưởng chuyên môn của tổ Xã hội ở trường THCS. Cô đi dự giờ của giáo viên M.
– có thâm niên 10 năm trong giảng dạy ở tổ. Trong lúc M. giảng bài ở lớp 8A, Lan phát
hiện M. đã có một số sai sót về kiến thức trong bài giảng. Là tổ trưởng chuyên môn, trong
trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Nhận xét: Đây là mối quan hệ giữa các giáo viên với nhau trong cùng một trường, hơn
nữa là cùng một tổ chuyên môn. Cụ thể trong tình huống này: một giáo viên thuộc bộ môn
xã hội đã có thâm niên 10 năm trong nghề nhưng vẫn xảy ra sai sót về kiến thức trong quá
trình giảng dạy.
Nếu là tổ trưởng chuyên môn, trong trường hợp đó có thể có các cách giải quyết như sau:
40
Phương án 1: Nể trình là đồng nghiệp và tránh mất lòng nhau nên lờ đi và bỏ qua, coi như
không có gì.
Phương án 2: Sau khi kết thúc buổi dạy sẽ gặp trực tiếp người giáo viên đó và nghiêm
khắc phê bình vì đã có thâm niên lâu năm trong nghề lại để xảy ra sai sót nghiêm trọng
như vậy trong lúc dạy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh tiếng về chất lượng giáo dục của
tổ, trường.
Phương án 3:
Nếu có thể thì ngay trong tiết dạy đó có thể kín đáo nhắc nhở sai sót với người giáo viên
M để giáo viên đó thể kịp thời chỉnh sửa sai sót xin lỗi cả lớp.
Đợi sau khi kết thúc tiết dạy, sẽ nói chuyện với người giáo viên đó: Trước hết, hỏi xem
giáo viên đó đã phát hiện sai sót của mình chưa. Vì có thể sai sót đó là do trong lúc giảng
hăng say nói nhầm hoặc diễn đạt chưa thoát ý, ngay sau đó họ đã phát hiện ra. Khi đó
chỉ cần nhắc nhở giáo viên M lần sau nên cẩn thận hơn, tránh mắc phải những sai sót
không đáng có như vậy.
Nếu người giáo viên đó không phải vì nhầm lẫn lời nói dẫn đến sai sót mà do họ hiểu chưa
đúng về phần kiến thức ấy thì sẽ góp ý, chỉ dẫn để họ hiểu chính xác về kiến thức đó.
Khuyên họ buổi lên lớp sau nên chỉnh sửa lại lỗi sai và nói lời xin lỗi với học sinh. Và
nhắc nhở lần sau nên cẩn thẩn hơn
Nếu tôi là người tổ trưởng chuyên môn trong trường hợp này, tôi sẽ lựa chọn xử lý
theo phương án 3: Góp ý để đồng nghiệp nhận ra sai sót và sửa chữa kịp thời là giúp đỡ
đồng nghiệp dần hoàn thiện hơn về năng lực chuyên môn. Nếu lờ đi và cho qua, như vậy
sẽ tạo 1 tiền lệ xấu trong quy tắc giao tiếp giữa các giáo viên trong tổ, trong trường. Vi
phạm nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giáo tiếp, thiếu kỹ năng thiết lập mối quan hệ
trong giao tiếp. Cũng không nên nghiêm khắc phê bình, vì bất cứ ai trong quá trình giảng
dạy cũng khó tránh khỏi sai sót. Như vậy vi phạm nguyên tắc đồng cảm thiện chí
41
trong giao tiếp sư phạm, thiếu kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi, nghe và biết lắng nghe,
linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp.
Trong tình huống trên, chúng ta vận dụng nguyên tắc tôn trọng nhân cách, có thiện chí và
có niềm tin trong giao tiếp sư phạm; Vận dụng những kỹ năng nghe và biết lắng nghe, tự
chủ cảm xúc và hành vi, tự kiềm chế và kiểm tra đối tượng. linh hoạt, mềm dẻo diễn
đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu trong giao tiếp.
Rút kinh nghiệm bản thân: Tương lai là một người giáo viên, tôi nhận thức được rằng phải
tôn trọng và có niềm tin vào đồng nghiệp. Dù là giáo viên trẻ mới ra trường hay giáo viên
thâm niên đều khó tránh khỏi những sai sót khi đứng lớp nên cần đồng cảm để thấu hiểu
nhau hơn. Khi mắc lỗi cần lắng nghe góp ý và chân thành biết ơn sự giúp đỡ của mọi
người để dần hoàn thiện nhân cách cũng như năng lực chuyên môn.
Hôm nay tổng kết khoá học và chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp của giáo sinh ở một trường
Cao đẳng vùng cao, có rất nhiều đại biểu đến dự, trong đó có Phó phòng đào tạo của
trường. Gần cuối buổi làm việc, Ban tổ chức mời đồng chí Phó phòng đào tạo lên phát
biểu. Ông nói khá nhiều về mục tiêu phấn đấu của thanh niên, trách nhiệm của người thầy
giáo…, ông luôn nhắc đi nhắc lại một câu hỏi: Các anh (chị) quyết tâm thi đỗ 100%
không? Một đồng nghiệp (học cùng với đồng chí Phó phòng ở Đại học Sư phạm) vốn
không ưa phong cách sống của ông đã buột miệng nói to: Xem thầy đã tốt nghiệp chưa?
Cả hội trường xào bàn tán. Nếu là đồng chí Phó phòng đó bạn sẽ giải quyết như thế
nào?
Hướng giải quyết:
Tình huống trên nêu lên quan hệ giao tiếp phạm giữa giáo viên giáo viên. Cụ
thể, trong nh huống này một đồng nghiệp (học cùng với đồng chí
42
Phó phòng ở Đại học Sư phạm) vì không ưa phong cách sống của ông Phó phòng nên sau
khi nghe ông Phó phòng hỏi: “Các anh chị có quyết tâm thi đỗ 100% không” thì đã buột
miệng nói to :”Xem thầy đã tốt nghiệp chưa” với ý chỉ trích ông Phó phòng này
Nếu là đồng chí Phó phòng, trong trường hợp đó, có thể có các cách giải quyết như sau:
Cách 1: Coi như chưa nghe thấy gì và tiếp tục công việc của mình.
Cách 2: Bằng một hình thức nào đó, có thể kể một câu chuyện về một người thầy nào đó
khi học trên trường không được nghiêm túc, là, mải chơi nên có thể chưa tốt
nghiệp được ngay từ đầu. Tuy nhiên, sau đó người thầy ấy đã nhận ra tầm quan trọng của
việc học và trở thành một người thầy giáo tốt có ý nghĩa như thế nào? Nhờ đó mà người
thầy đó đã cố gắng để trở thành một thầy giáo mẫu mực và giữ chức vụ cao trong ngành
giáo dục ở địa phương. Và vì thế người thầy giáo đó không muốn học sinh của mình bị
vấp phải tình huống như mình ngày xưa nên luôn nhắc nhở các em phải cố gắng phấn đấu,
biết đặt ra mục tiêu cho mình và phấn đấu đạt được mục tiêu đó. Và người bạn cùng học ở
trường Đại học Sư phạm kia sẽ hiểu được tâm ý của mình.
Sau đó, có thể gặp người bạn kia sau buổi tổng kết để góp ý kiến và giải quyết khúc mắc
giữa hai người
Cách 3: Phân bua luôn với người đồng nghiệp kia ngay trong buổi tổng kế
Nếu tôi là người Phó phòng trong tình huống trên, tôi sẽ chọn cách xử lý tình huống thứ
hai. Việc kể ra một câu chuyện như thế sẽ giúp người đồng nghiệp đó tự nhận ra hành vi
của mình là không phù hợp với hoàn cảnh lắm. Đồng thời, cách làm như vậy vừa hợp
tình hợp lý, vừa không làm sứt mẻ mối quan hệ giữa hai người
Trong tình huống trên, chúng ta vận dụng nguyên tắc tôn trọng nhân cách, có thiện chí
niềm tin trong giao tiếp phạm; Vận dụng những kỹ năng
43
nghe và biết lắng nghe, tự chủ cảm xúc và hành vi, tự kiềm chế, không nên có cái nhìn
quá gay gắt với đồng nghiệp của mình, cần phải biết tôn trọng lẫn nhau
Hai vợ chồng Sơn và Minh là giáo viên của một trường THCN thuộc huyện ĐS của tỉnh
TH. Trong đợt thi tốt nghiệp có một nữ giáo sinh N đến nhờ Minh “giúp đỡ” để thi chót
lọt môn Văn Sơn (chồng Minh) dạy. Minh đã nhận lời “giúp đỡ” giáo sinh N. Cô
đem việc này nói với chồng và đề nghị anh giúp đỡ em giáo sinh đó. Là Sơn, trong trường
hợp này bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Tình huống nêu ra : Một giáo sinh của thầy Sơn vì muốn thi tốt nghiệp chót lọt môn Văn
thầy dạy, nên đã đến nhờ vợ thầy “ giúp đỡ”.
Phân tích tình huống: tình huống này là tình huống mang tính phổ biến, trên thực tế những
việc như thế này xảy ra khá nhiều. Trong tình huống này hành vi của giáo sinh
Minh đều sai. Với cương vị một người giáo viên, cô Minh hẳn phải biết rằng hành
động “đi cửa sau” của học trò là điều cấm kị trong ngành, đáng lẽ ra cô nên thẳng thắn từ
chối và nói cho giáo sinh_một giáo viên tương lai biết hành động đáng lên án đối với một
giáo viên tương lai. Nhưng cô lại chấp thuận, vừa có lỗi với đạo đức nghề giáo, được coi
là “phạm tội”, thêm nữa cô không hề nói cho chồng biết việc này mà tự mình quyết định,
sau đó lại đề nghị thầy Sơn ( chồng cô) giúp giáo sinh này. Trong tình huống này, thầy
Sơn phải xử lý ổn thỏa cả bên vợ, cả bên học trò sao cho vừa giữ được đạo đức nghề
nghiệp, vừa làm cho vợ_một người giáo viên nhận ra được vấn đề nghiêm trọng của việc
này.
Các cách xử lý tình huống:
Cách thứ nhất : Chấp nhận yêu cầu của vợ, giúp đỡ e học sinh thi chót lọt môn văn của
mình.
44
Cách thứ hai : Từ chối đề nghị của vợ, trả lại “quà” mà vợ đã nhận của học sinh. Làm theo
nguyên tắc, đánh giá dựa trên năng lực của học sinh.
Cách thứ ba : Nói chuyện với vợ, kiên quyết không chấp nhận đề nghị của vợ. Chỉ ra cho
vợ ( cô Minh ) biết hành động của cô là trái với đạo đức nghề nghiệp. Thuyết phục
nói cho Minh hiểu để không còn những việc như thế này xảy ra, đồng thời bảo cô
trả lại “quà” xin giúp đỡ của giáo sinh. Thầy sẽ gặp giáo sinh đó tìm hiểu nguyên nhân
chỉ ra giáo sinh đó biết hành động của giáo sinh là không phù hợp trong môi trường
sư phạm, là điều cấm kị. Và thầy thể hiện rõ quan điểm công bằng trong việc đánh giá
năng lực, khuyên giáo sinh đó nên cố gắng học tập đạt được kết quả tốt bằng chính năng
lực của mình, có khó khăn gì trong học tập có thể nhờ thầy và cô giúp đỡ.
Nếu em thầy Sơn trong trường hợp trên em sẽ chọn cách xử số 3. Vì cách xử
thứ nhất trái với đạo đức nghề giáo, trái với lương tâm, hại học sinh. Cách xử lý thứ
2 tuy cũng giải quyết được một phần của vấn đề nhưng chưa triệt để. Cách giải quyết
thứ 3, thầy vừa làm đúng theo nguyên tắc, vừa giúp vợ nhận ra lỗi lầm để sửa chữa, và
không để lặp lại hành vi sai trái, giúp học trò tiến bộ hơn bằng cách của mình. Thầy nên
nói với vợ trả lại “quà”, việc làm của vợ không những làm cho học sinh không chịu học
tập để tiến bộ mà còn ảnh hưởng đến tương lai của học sinh, tạo cho học sinh thói quen đi
cửa sau. Đồng thời việc làm này là trái với lương tâm, trái đạo đức, có câu “nghề dạy học
là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”, người giáo viên không chỉ cần có “tài”
mà cần phải có “đức”, làm như thế không phải thương học sinh, mà hại học sinh, còn làm
cho bản thân mình lương tâm cắn rứt. Là một giáo viên, thầy mong vợ thầy có thể hiểu ra
điều này và đừng để xảy ra việc này một lần nữa, hãy làm một nhà giáo công tư phân
minh, như một vị quan liêm chính. Còn về phía giáo sinh, hôm sau thầy sẽ gặp riêng giáo
45
sinh đó để nói chuyện, giữ thái độ bình tĩnh và tôn trọng học trò, tìm ra nguyên nhân giáo
sinh đó làm vậy. Đồng thời chỉ ra hành động sai trái của giáo sinh, khuyên giáo sinh đó
nên chăm chỉ học tập để đạt kết quả tốt, thay đổi và điều chỉnh hành động của bản thân
sao cho phù hợp với cương vị là một giáo viên tương lai. Những chỗ không hiểu hay thắc
mắc về môn Văn có thể gặp thầy và cô Minh để hỏi, thầy cô sẵn sàng giảng giải, thầy sẽ
dựa trên thực lực để đánh giá kết quả, chúc giáo sinh đó học tập tốt và đạt kết quả cao
trong kì thi tốt nghiệp.
Bài học kinh nghiệm: Là một giáo viên tương lai, nên rèn luyện cho bản thân cách ứng xử
linh hoạt trong mọi tình huống. Cần giữ vững quan điểm công tư phân minh, giữ vững đạo
đức nghề nghiệp, kiên quyết từ chối những đề nghị “giúp đỡ” để qua môn,…v..v..Tìm
hiểu rõ nguyên nhân vấn đề, nhìn nhận mọi tình huống dưới cái nhìn khách quan và đưa ra
biện pháp giải quyết hợp lý.
Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của một trường THPT, hôm nay L đi kiểm tra
đột xuất tiết giảng của cô giáo H. ở lớp 10C và anh đã phát hiện thấy cô H. không soạn bài
nhưng vẫn cứ lên lớp dạy. Nếu là người Hiệu phó đó, bạn sẽ xử lý giáo viên này như thế
nào?
Phân tích tình huống: Tình huống xảy ra khi có một giáo viên tên H không soạn giáo án
trước khi lên lớp và bị thầy hiệu phó tên L “bắt quả tang”. Thông thường, là một giáo viên
thì cô H phải có chuẩn bị bài trước khi đến lớp, được thể hiện bằng việc có giáo án. Nếu
không soạn bài trước thì hiệu quả của tiết học sẽ không được đảm bảo. một phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn thì thầy L chắc hẳn phải rất coi trọng việc soạn bài trước
khi đến lớp của giáo viên. Việc “bắt quả tang” như này thì thầy L phải cách giải
quyết vấn đề phù hợp, hợp lí, hợp nh. Khó khăn đây xử giữa giáo viên với
giáo
46
viên- những người lòng tự trọng rất cao trong hội nên hướng giải quyết phải
thật sự thấu tình đạt lí và đạt hiệu quả cao.
Mục tiêu giải quyết tình huống:
Giải quyết ngay lập tức và giải quyết lâu dài.
Không gây tác động xấu đến tiết học hiện tại của lớp.
Trên tinh thần dân chủ, vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo.
Vừa thể hiện được tinh thần trách nhiệm, làm đúng quy tắc của một thầy hiệu phó vừa
tránh mất lòng giáo viên.
Những phương án có thể đạt được mục tiêu tình huống đã xác định: Thầy giáo có thể xử lí
tình huống bằng cách sau:
1, Thầy gọi giáo viên ra ngoài nói chuyện, quở trách cô, bảo cô sau tiết dạy thì lên văn
phòng kiểm điểm.
2, Thầy đi vào và dự giờ luôn tiết học đấy xem cô dạy thế nào. Nếu cô dạy tốt thì bỏ qua,
nếu cô dạy không tốt thì phạt thật nặng.
3, Trước khi xử lí thầy sẽ phải phân tích trong đầu một lúc. Cô H là đồng nghiệp như thế
nào? Cô đã có những đóng góp như thế nào trong việc giảng dạy cũng như công tác khác
trong trường? Nếu đây chỉ một hôm hạn hữu, cô quên mang giáo án hoặc quên
soạn giáo án, nhưng kiến thức luôn nắm rất chắc và cô luôn biết mình phải giảng dạy
như thế nào cho học sinh trong một tiết học, thì sẽ xử lí nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên trong
những trường hợp chung thì thầy L nên gọi cô nhẹ nhàng để đi ra nói chuyện, trong khi đó
nhắc nhở học sinh tự đọc và làm bài và mình “xin cô” của lớp một vài phút. Thầy L nên
hỏi nguyên nhân tại sao cô không soạn bài, cô thấy khi mình không soạn bài trước thì có
thấy những khó khăn khi lên lớp không (bị lúng túng, không có hệ thống…), thầy sẽ giúp
cô tự nhận ra hậu quả. Nếu đây là lần đầu tiên thì thầy có thể nhắc nhở nhẹ nhàng còn các
lần sau thì tăng dần mức độ phạt (làm bản kiểm điểm, trừ điểm thi đua…). Sau khi tiết
học kết thúc, cô
47
lên phòng hiệu bộ thì thầy có thể nói riêng với cô nhiều hơn về vấn đề này, có thể tìm hiểu
kĩ hơn về nguyên nhân, nếu có cô H gặp khó khăn gì đó thì thầy L sẽ có những lời khuyên
và những sự giúp đỡ trong khuôn khổ với tư cách vừa là đồng nghiệp vừa là sếp. Nhưng
dù thế nào đi nữa thì thầy cũng phải kiên quyết với việc giáo viên phải soạn giáo án trước
khi đến lớp để tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh.
Em chọn cách giải quyết thứ ba vì nó đáp ứng đầy đủ mục tiêu đề ra. Thầy giáo đã thực
hiện đầy đủ những nguyên tắc trong giao tiếp: phạm, tôn trọng nhân cách, có thiện
ý và đồng cảm.
=> Kết luận sư phạm: Dù giữ chức vụ cao hơn trong một trường học thì người thầy giáo
vẫn là đồng nghiệp của giáo viên. Đã là đồng nghiệp thì phải thấu hiểu lẫn nhau. Bên cạnh
đó cũng không ngần ngừ trong việc chỉ ra lỗi sai cho đồng nghiệp, cùng khắc phục lỗi sai
đó và áp dụng những biện pháp thưởng phạt phù hợp. Vẫn phải giữ được cái uy của một
lãnh đạo và luôn sát sao đến tình hình dạy học của các thầy cô trong trường.
Khi kiểm tra hồ sơ dạy của giáo viên, thanh tra của trường phát hiện thấy cô V
Tổ phó chuyên môn chưa kết quả nhận xét, đánh giá môn học của học sinh ở 2
lớp 10A và 10B mà cô phụ trách. Là thanh tra của trường, lại là một đồng nghiệp với V,
bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Vấn đề xảy ra ở đây là khi thanh tra đi kiểm tra đã phát hiện giáo viên( Tổ phó tổ chuyên
môn) chưa kết quả nhận xét, đánh giá của hai lớp đang dạy.
Là một thanh tra và là một đồng nghiệp,em xử lý tình huống này như sau:
Với tư cách là một thanh tra,thiếu sót của cô V cần được xử lý ngay khi phát hiện.Em sẽ
xử theo đúng quy định,phê bình V chưa làm tròn trách
48
nhiệm của mình và yêu cầu cô bổ sung kết quả nhận xét,đánh giá của hai lớp 10A và 10B
vào hồ sơ dạy.
Với tư cách là một đồng nghiệp,em sẽ tìm cơ hội trao đổi với cô V về việc này, hỏi V
xem gặp khó khăn hay không, tìm hiểu do tại sao cô ấy chưa hoàn thành
công việc.Sau khi biết lý do, có thể khuyên nhủ,giúp đỡ cô V giải quyết khó khăn và
công việc trong phạm vi của bản thân với cách đồng nghiệp,trên sở không trái với
quy định của trường.Cũng có thể nhờ thêm đồng nghiệp khác cùng chuyên môn giúp đỡ
cô V nếu hiệu quả và thuận tiện hơn.
Theo em việc xử lý tình huống như trên là đảm bảo được các nguyên tắc sư phạm cơ bản:
Có thiện ý trong giao tiếp sư phạm
Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm: Quan tâm,thấu hiểu đồng nghiệp,tìm hiểu rõ hơn về
hoàn cảnh, khó khăn của họ và giúp đỡ họ
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đã sử dụng là:
Kỹ năng định hướng giao tiếp
Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp
Qua việc xử lý tình huống trên em rút ra kinh nghiệm cho bản thân: Sau này khi trở thành
giáo viên, sẽ xảy ra nhiều trường hợp phải xử lý đồng nghiệp phạm lỗi, chúng ta một mặt
cần phải xử lý theo đúng quy định, thẳng thắn phê bình và không bao che cho đồng
nghiệp, mặt khác cần an ủi,giúp đỡ nếu họ có khó khăn.Việc này nếu xử lý không tốt sẽ
ảnh hưởng xấu tới quan hệ đồng nghiệp hiện tại cũng như trong tương lai, vì thế người
giáo viên cần xử lý thật khéo léo.
Theo Công văn của Sở Giáo dục, mỗi học kỳ các tổ chuyên môn phải tiến hành dự
giờ của ít nhất 50% số giáo viên trong tổ. Sau khi dự giờ A. một
49
giáo viên của tổ Tự nhiên, cả tổ về phòng Hội đồng để rút kinh nghiệm giờ dự. Vừa vào
đến phòng Hội đồng, một số giáo viên trong tổ đã lên tiếng chê trách, phê bình tiết dạy
của A. một cách gay gắt. Là tổ trưởng chuyên môn của tổ đó bạn sẽ xử lý như thế nào?
Là tổ trưởng tổ chuyên môn tôi sẽ giải quyết tình huống như sau:
Phương án 1: Tôi sẽ lờ đi và tiếp tục buổi họp rút kinh nghiệm sau giờ dạy của A.
Phương án 2: Tôi sẽ đồng tình với người giáo viên đó và tiếp tục chỉ trích phê bình A.
Phương án 3: Là cách hợp lý nhất
Đầu tiên là phải làm dịu không khí bằng cách là bảo là các đồng chí bây giờ chúng ta họp.
Khi vào cuôc họp thì mời các thầy (cô) đưa ra các ý kiến, quan điểm của bản thân và yêu
cầu đồng nghiệp đưa ra các ưu điểm, và nhược điểm của bài dạy vừa qua.
Sau khi đợi tất cả mọi người phát biểu, thì mình sẽ là người cuối cùng đứng lên nói ra các
ý kiến. Lưu ý mình với vai trò là tổ trưởng thì nên là người trung hòa không khí trong
cuộc họp, không nên quá gay gắt với A, cũng như người giáo viên chỉ trích A. Cố gắng
nêu ra được những điểm tốt của giờ dạy, và nhấn mạnh những thiếu sót của A,và phải tích
cực cố gắng để cho mỗi giờ dạy sẽ ngày càng hay và bổ ích hơn nữa.
Có thể sau khi họp xong mình sẽ nên có một buổi nói chuyện với A, và ngưới giáo viên
phê bình A. Gặp A mình nên nói : ‘’ Bài dạy hôm qua chưa thực sự tốt, em hãy cố gắng
sửa chữa và trau dồi thêm kinh nghiệm của bản thân, cố gắng lắng nghe ý kiến của mọi
người, và nên chú ý tới học sinh nhiều hơn em nhé. Mình là giáo viên dạy Toán, kiến thức
đương nhiên quan trọng, nhưng để bài giảng thành công thì còn phụ thuộc nhiều yếu tố
như…chữ viết,
50
cách trình bày, giọng nói, học sinh…. Chị sẽ cố gắng sắp xếp thời gian để dự nhiều tiết
dạy của em nữa.’’. Khi gặp thầy(cô) phê bình A: “ Tôi biết hôm qua bài dạy của A còn có
nhiều vấn đề còn thiếu sót, em ấy còn trẻ kinh nghiệm còn ít, chúng mình đi dạy cũng
nhiều năm rồi nên thông cảm, và hiểu cho A. Chúng mình là đồng nghiệp, còn dạy chung
một trường phải hiểu cho nhau, ai cũng có lúc này lúc khác, tôi nghĩ chắc cô hiểu. Cô đưa
ra ý kiến là rất tốt, nhưng không nên quá gay gắt, như vậy A hay người giáo viên nào cũng
sẽ buồn. Khi đi dạy, hơn ai hết tôi hay cô đều hiểu nghề này như thế nào, còn gì buồn hơn
khi mình không thể dạy được học sinh….’’
Trong tình huống trên chúng ta cần vận dung nguyên tắc giao tiếp trong sư phạm là : Tôn
trọng nhân cách trong giao tiếp,có thiện ý trong giao tiếp sư phạm . Kỹ năng giao tiếp sư
phạm là : Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm. Sau này sẽ là
một giáo viên, tôi nhận thức được rằng nên có cái nhìn không quá gay gắt với đồng
nghiệp, phải tôn trọng và thông cảm cho những ai đang đứng lớp.
GIAO TIẾP CỦA GIÁO VIÊN VỚI HỌC SINH
Trong 15 phút kiểm tra miệng trước khi giảng bài mới, cô B đã gọi một học sinh lên bảng
(cả lớp đều biết bạn học sinh đó cháu ruột của cô). Nhưng học sinh đó không thuộc
bài không trả lời được câu hỏi của cô. Nếu cô B, bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Câu trả lời:
Nhận thức và biểu đạt vấn đề:
Đây là một vấn đề hay gặp trong giảng dạy, nó liên quan tới sự đánh giá công bằng
của GV đối với từng đối tượng học sinh.
Các cách xử lý:
51
Phương án 1: GV nhận xét câu trả lời của HS, nêu câu trả lời đúng và lơ đi phần đánh giá,
cho điểm và đề cập luôn vào bài mới.
Phương án 2:
+ Xử lý tạm thơi: Là một giáo viên cần thể hiện thái độ công bằng trong kiểm tra đánh giá
kết quả. Trong trường hợp này cũng vậy. GV sẽ cho điểm đúng với câu trả lời của HS
và cũng như các HS khác, GV cho HS đó cơ hội để gỡ điểm vào những lần sau.
+ Xử lý lâu dài: Nói chuyện riêng với HS đó không chỉ với tư cách là một GV mà còn là
tư cách của một người cô. Giải thích cho em hiểu rõ nguyên nhân cô lại có cách xử lí như
vậy. GV động viên HS cố gắng học tập và có gì không hiểu GV sẽ tận tình chỉ bảo.
Nếu là GV B trong trường hợp này, em sẽ chọn cách xử lí số 2 vì: Cách xử lý này thể hiện
sự công bằng trong đánh giá kết quả của HS, GV không được có sự thiên vị vì bất cứ lý do
gì. Cách xử lý này còn giúp HS nhận ra sai lầm của mình và sửa chữa.
Bài học kinh nghiệm:
Đây tình huống khá nhậy cảm, GV đứng trong tình thế phải xử đảm bảo công
bằng lại vừa để HS đó hiểu và nhận ra lỗi khi không học thuộc bài và cố gắng học tập.
Bạn trừng phạt một học sinh vì cho rằng em đó phạm lỗi nhưng sau khi tìm hiểu thì mới
biết em học sinh đó không mắc lỗi. giáo viên trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết
như thế nào?
Nhận thức vấn đề cần giải quyết:
+ Sự hiểu nhầm của giáo viên với học sinh
+ Sự thông cảm và tha thứ của học sinh với giáo viên khi giáo viên đó nhận ra là GV đã
sử phạt nhầm
Các tri thức cần vận dụng để xử lí tình huống
52
+ Kĩ năng kiểm soát hành vi, lời nói
+ Kĩ năng giải thích trình bày nguyên nhân
+ Nguyên tắc tôn trọng trong giao tiếp
+ Kĩ năng nhận xét và giải quyết vấn đề
+ Kĩ năng lắng nghe và nhận lỗi
Các phương án giải quyết
+ GV dù nhận ra lỗi vẫn phớt lờ đi coi như không biết.
+ GV nhận lỗi với HS tuy nhiên không chân thành mà còn vẫn có phần đổi lỗi cho HS tại
sao lại không giải thích.
Phương án giải quyết
Trong giờ sinh hoạt gần nhất, em sẽ xin lỗi học sinh đó trước mặt cả lớp và nói ra lí do vì
mình chưa tìm hiểu kĩ đã vội kết luận và phạt học sinh. Đồng thời nhắc nhở học sinh sự
việc này không chỉ mình cô cần rút kinh nghiệm mà đây còn là bài học của mỗi người
trong cuộc sống. Khi phải giải quyết và đối mặt với một vấn đề hoặc việc làm của người
khác chúng ta cần phải bình tĩnh để phân tích xem xét để đưa ra kết luận đúng nhất. Và
các hình phạt đối với học sinh đó sẽ được bỏ.
=> Kết luận sư phạm:
GV cần phải biết tự nhận lỗi và chỉnh sửa hành vi sao cho đúng đắn nếu như mình có lỗi
với học sinh. Việc đổ lỗi cho HS khi chưa biết rõ nguyên nhân thì sẽ dễ dẫn đền kết luận
sai lầm chính vì vậy trước khi quyết định thưởng phạt thì cần phải xem xét và tìm hiểu
tình huống rõ ràng. Khi mắc lỗi thì cần xin lỗi học sinh một cách chân thành, cởi mở đồng
thời cũng giảng giải cho các học sinh khác một bài học trong cuộc sống từ các tình huống
thực tế
Trong lớp 9A có một số học sinh hư thường bị ghi tên vào sổ ghi đầu bài của lớp. vậy
sổ này thường hay bị tẩy xoá để che dấu những khuyết điểm và các học sinh hư mắc
phải. Hôm nay sinh hoạt cuối tuần cô M. - giáo viên chủ nhiệm lớp lại một lần nữa nhận
thấy sổ đầu bài bị tẩy xoá. Là giáo viên chủ nhiệm đó, bạn sẽ giải quyết thế nào?
Tình huống: Lớp học có nhiều học sinh cá biệt thường xuyên tẩy xóa sổ đầu bài để che
dấu những khuyết điểm. Trong tiết sinh hoạt, giáo viên lại tiếp tục nhận thấy sổ đầu bài bị
tẩy xóa.
53
Phân tích tình huống: Đây là một tình huống phổ biến trong thực tế.
Học sinh cá biệt để che dấu những khuyết điểm, những lỗi phạm qui với giáo viên để
không bị phạt, nhắc nhở mà tẩy xóa sổ đầu bài. Mặc dù giáo viên chủ nhiệm đã có nhắc
nhở nhưng chưa thực sự hiệu quả. Trong tiết sinh hoạt giáo viên nhận thấy học vẫn tiếp
tục tái diễn xóa sổ đầu bài.
Cách xử lý: Trong thực tế có thể xảy ra các cách xử lý như sau
Giáo viên tức giận mắng học sinh sau đó phạt các em đã tẩy xóa sổ đầu bài thật nặng.
Giáo viên lại tiếp tục chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng với cả lớp.
Giáo viên bình tĩnh kết hợp nhắc nhở học sinh và phê bình nhưng không quá nhẹ nhàng,
cần có chút kiên quyết. Giáo viên hỏi một số học sinh cá biệt có bị mắc lỗi trong tuần qua
không, để các em tự giác nhận sau đó mời lớp trưởng cho ý kiến. Giáo viên cũng cần chỉ
cho học sinh thấy phạm lỗi mà không dám nhận lỗi là việc làm không tốt.
Theo quan điểm của em, em sẽ xử theo cách c. Theo nguyên tắc giao tiếp sư phạm,
giáo viên cần thấu hiểu và đặt mình vào vị trí của học sinh cá biệt để hiểu các em nghĩ gì
và tại sao làm như vậy. Đồng thời giáo viên tạo điều kiện cho học sinh tự nhận lỗi, tự
kiểm điểm bản thân cũng như có phê bình ý thức của học sinh để không tái phạm. Giáo
viên cần kết hợp phong cách tự do và phong cách độc đoán để vừa tạo không khí thoải
mái vừa thể hiện sự kiên quyết.
Kết luận sư phạm:
Trong giao tiếp sư phạm giáo viên cần đồng cảm, thấu hiểu và đặt vị trí vào học
sinh
Giáo viên cần khoan dung đồng thời thể hiện sự kiên quyết trong xử lý học sinh
phạm lỗi
54
thân.
Giáo viên luôn tạo điều kiện để học sinh tự nhận lỗi xem xét bản
Giáo viên cần tạo sự gần gũi khi giảng giải trong giao tiếp.
Một giáo sinh đi thực tập tốt nghiệp được phân công làm chủ nhiệm lớp 11A. Buổi đầu
tiên ra mắt học sinh, cô bị một số học sinh cá biệt trong lớp trêu chọc, gọi “em
giáo”, thậm chí em còn không đứng lên chào khi cô vào lớp. Là giáo viên đó trong
trường hợp này bạn sẽ giải quyết ra sao?
Tình huống nêu ra: Giáo sinh thực tập bị một số học sinh cá biệt trêu chọc, gọi là “em
giáo”, có em còn không đứng lên chào cô khi cô vào lớp.
Phân tích tình huống: Trong thực tế, học sinh thấy giáo sinh thực tập còn trẻ, lại chưa
có nhiều kinh nghiệm nên thường trêu chọc vui đùa. Trong trường hợp này, một số học
sinh cá biệt gọi cô là “ em giáo” và một số học sinh còn không đứng lên chào cô trong
buổi đầu cô bước vào lớp. Giáo sinh nếu không giữ vững tâm lý sẽ dễ lúng túng, ngại
ngùng khiến học sinh được đà trêu đùa thêm.
Một số cách giải quyết:
Phương án 1: Giáo viên lờ đi tiếp tục buổi giới thiệu làm quen với
lớp.
Phương án 2: Giáo viên cho cả lớp ngồi xuống, sau đó mời những bạn
vừa nói “em giáo” và các bạn không đứng lên chào cô ra khỏi lớp.
Phương án 3: Giáo viên giữ thái độ bình tĩnh, đưa mắt nhìn nhanh cả lớp và sau đó
dừng lâu hơn ở chỗ các học sinh vẫn còn đang ngồi chưa đứng lên chào cô. Sau khi cho
các em ngồi xuống, giáo viên bình tĩnh hướng ánh nhìn tới những học sinh cá biệt. Mở
đầu bằng câu nói hài hước “ Trông cô trẻ quá hay sao mà các em gọi cô như vậy”. Sau đó
tiếp tục nói chuyện trao đổi cởi mở với các học sinh. Sau khi kết thúc buổi học, giáo
sinh thực tập sắp xếp
55
một buổi gặp gỡ riêng với giáo viên chủ nhiệm trước đây của lớp 11A để tìm hiểu tình
hình lớp, đăc biệt là tính cách các em học sinh cá biệt.
Phương án 3, theo em, lựa chọn tối ưu nhất trong 3 phương án. Nếu xử lý theo cách 2
thì các hs đó sẽ không những không nhận ra vấn đề mà trong lòng còn thành kiến với cô
giáo sinh. Nếu xử lý theo phương án 1 thì những học sinh này sẽ có ý khinh nhờn, coi
thường giáo viên lần sau học sinh lại tiếp tục hành xử như vậy. Khi ta xử lý theo phương
án 3, giáo viên đưa ra tín hiệu tới những học sinh không đứng lên chào mình. các
em cũng đã lớn, nên khi gặp ánh nhìn này các em sẽ tự động đứng lên. Giáo sinh sử dụng
câu nói hài hước đáp lại sự xưng “em giáo” giúp những học sinh đó tự động xem
xét lại lời nói của mình đã phù hợp chưa.
Bài học kinh nghiệm: Không phải đứng trước tình huống sư phạm nào giáo viên cũng xử
lý cứng nhắc, khuôn mẫu, phải khéo léo xử lý ứng biến phù hợp. Đặc biệt trong trường
hợp một giáo sinh thực tập, phải luôn giữu thái độ bình tình khi xảy ra các sự cố bất ngờ
trong những ngày đầu làm quen với lớp.
Khi sắp kết thúc bài giảng một học sinh trong lớp làm bạn bực mình vì những câu thắc
mắc “hóc búa” ngoài sự chuẩn bị của bạn. Bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Nhận xét: Đây là tình huống khá phổ biến trong môi trường học đường. Cụ thể là: Học
sinh có câu hỏi “hóc búa” khi sắp kết thúc tiết học khiến giáo viên cảm thấy có chút khó
chịu.
Nếu tôi trong trường hợp ấy, có các phương án giải quyết như sau: Phương án 1: Trả lời 1
cách qua loa để kết thúc đúng giờ. Vì giờ nghỉ giải lao giữa các tiết học rất ngắn nên
cần tận dụng để đảm bảo thời gian thư giãn lấy lại sức và chuẩn bị cho các tiết dạy tiếp
theo
56
Phương án 2: Nếu ngay lúc đó đã nghĩ ra lời giải cho câu hỏi đó thì sẽ gợi ý cho em học
sinh ấy để em về nhà suy nghĩ và tìm lời giải. Và hẹn nếu em vẫn không làm được thì buổi
sau cô sẽ chữa.
Phương án 3: Nếu ngay lúc đó chưa nghĩ ra hướng làm thì sẽ hẹn em buổi sau vì bây giờ
cô có việc bận (nếu có việc thật sự) hoặc nói thật rằng “tạm thời cô vẫn chưa nghĩ ra lời
giải cho câu hỏi này, để cô về nhà nghĩ thêm và sẽ trả lời em vào buổi học sau”. Như vậy
vừa có thời gian để suy nghĩ thêm về lời giải hoặc trao đổi, hỏi ý kiến đồng nghiệp
Nếu tôi là người giáo viên trong trường hợp này, tôi sẽ lựa chọn phương án 2 hoặc
3, tùy vào lúc đó đã nghĩ ra lời giải hay chưa. Chúng ta không nên trả lời qua loa, như
vậy tự bộc lộ năng lực chuyên môn chưa tốt với học sinh khiến học sinh mất niềm tin
vào năng lực của người giáo viên, đồng thời khiến học sinh không tôn trọng nhân cách
của mình đã không thành thực mà kiếm cớ lấp liếm, trả lừoi qua loa, không dám thừa
nhận sự thực. Như vậy đã vi phạm nguyên tắc nhân cách mẫu mực và thiện chí trong giao
tiếp sư phạm, thiếu kỹ năng sư phạm là linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp
Trong trường hợp trên, chúng ta cần vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực, tôn
trọng nhân cách, thiện chí trong giao tiếp phạm. Những kỹ năng cần thiết là kỹ
năng nghe và biết lắng nghe, tự chủ cảm xúc, hành vi, diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ
hiểu, linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp và điều khiển quá trình giao tiếp.
Rút kinh nghiệm bản thân: Sau này một giáo viên, nên vui mừng vì co học sinh ham
học hỏi như vậy, khuyến khích các em không ngừng tìm tòi khám phá các kiến thức mới.
Không nên “thẹn quá hóa giận” khi gặp những câu hỏi khó ngoài khả năng của mình. Qua
đó cũng cần nhắc nhở bản thân phải không ngừng học tạp, trau dồi kiến thức kỹ năng để
dần hoàn thiện nhân cách và năng lực chuyên môn.
57
Trong lớp cô giáo L. chủ nhiệm có một học sinh hay gây gổ đánh nhau với bạn, học lực lại
quá yếu. Nhưng một lần cả lớp đi tham quan, em đó đã có hành động dũng cảm cùng
người khác bắt kẻ gian. Cô giáo chủ nhiệm và cả lớp đều chứng kiến chuyện đó. Là cô
giáo L., bạn sẽ làm gì trước tình huống đó.
Cách giải quyết
Nhận xét: Đây là tình huống cũng thường gặp trong môi trường học đường. Hành vi của
học sinh có phần sai cũng có phần đúng nên đòi hỏi giáo viên phải có cách xử lý phù hợp,
mềm mỏng và được các học sinh trong lớp đồng thuận để nhận thấy nên làm gì và không
nên làm gì để không có những trường hợp trương tự
Nếu em là giáo viên chủ nhiệm trong tình huống trên, em sẽ tuyên dương em học sinh đó
trước cả lớp vì trong lần đi tham quan đã có hành động dung cảm cùng người khác bắt kẻ
gian, hành động đó rất đáng để tuyên dương. Tuy nhiên, hành động đó quá nguy hiểm
chúng ta mới chỉ học sinh, chưa có đủ sức khỏe và các mánh khóe như mấy kẻ gian
ngoài xã hội kia. Vì thế, học sinh trong lớp cần biết đó hành động tốt khi gặp
trường hợp tương tự thì tốt nhất nên gọi người lớn đến giải quyết. Lại nói về em học sinh
kia, tuy đã làm việc tốt trong lần đi tham quan nhưng trong trường hay gây gổ đánh nhau
với bạn, học lực thì quá yếu, nên giáo chủ nhiệm cần khuyên học sinh:” Biết một ít
võ vẽ, có sức mạnh là điều tốt, tuy nhiên dung sức mạnh để gây gổ đánh nhau với bạn là
việc không nên. Tại sao em có thể giúp người ngoài bắt kẻ gian mà không thể bỏ nắm đấm
xuống đối với bạn mình, bạn bè học cùng với nhau, thay bằng cái nắm đấm, chúng ta có
thể nói rõ ràng mọi chuyện với nhau để giải quyết mâu thuẫn, bắt tay làm hòa sẽ giúp tình
bạn trở nên tốt đẹp hơn”. Còn về việc học sinh học lực quá yếu thì thể
58
cải thiện bằng cách xếp cho hs đó ngồi cùng với một bạn học lực khá trong lớp kèm
cặp, cùng nhau tiến bộ đồng thời Gv cũng để ý tới việc học tập của em đó hơn nữa
Trong trường hợp trên, chúng ta cần vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực, tôn
trọng nhân cách, có thiện chí trong giao tiếp sư phạm. Những kỹ năng cần thiết kỹ
năng nghe biết lắng nghe, tự chủ cảm xúc, hành vi, diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ
hiểu, linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp và điều khiển quá trình giao tiếp.
Trên đường đi tập thể dục, thấy 2 em học sinh đang đi tới, thầy A. tưởng các em sẽ chào
thầy vì thầy đang dạy lớp các em và biết rất rõ về 2 em học sinh này. Nhưng không, cả 2
em đều đi thẳng qua thầy mà không một lời chào. Là thầy A. bạn sẽ giải quyết như thế
nào?
Tình huống nêu ra :Khi tập thể dục thầy A gặp hai em học sinh lớp mình dạy nhưng hai
em đi qua không hề chào hỏi thầy.
Phân tích tình huống: Tình huống phổ biến, xảy ra nhiều trong thực tế. Trong tình huống
này, hai bạn học sinh đã coi như không nhìn thấy thầy mà cứ thế đi qua. Thầy nên giải
quyết như thế nào trong tình huống này?
Các cách giải quyết :
Cách thứ nhất : Đi qua coi như không thấy 2 em đó và coi như chưa có gì xảy ra.
Cách thứ hai: ngày hôm sau gặp riêng hai em để hỏi lý do.
Cách thứ ba : bình tĩnh, chủ động chào hỏi nói chuyện với hai em học sinh. Sau đó
thầy cần tìm hiểu nguyên nhân ( có lẽ do các em ngại chào hỏi, có lẽ không thích mình,
hoặc thật sự không muốn chào hỏi…) và thầy nên đề xuất với nhà trường hoặc giáo viên
chủ nhiệm lớp đó làm một chuyên
59
đề liên quan đến cách ứng xử trong giao tiếp hằng ngày, về đạo đức, hay chủ đề “ Tôn sư,
trọng đạo”…..nâng cao nhận thức cho các em.
Nếu em là thầy giáo trong trường hợp trên em sẽ chọn cách giải quyết thứ 3. Vì cách thứ
nhất không giải quyết được vấn đề, cách thứ hai không giải quyết được triệt để. Cách thứ
ba hợp lý nhất vì thầy vừa xử lý tình huống ngay lúc đấy vừa có biện pháp xử lý lâu dài.
Thầy có thể khéo léo chào các em, thầy đôi khi lên tiếng trước cũng không sao cả, chẳng
hạn hai em đó tên là Linh và Hà : “ Linh, Hà hai em đi tập thể dục à? Đang nói chuyện gì
vui thế, không cả nhìn thấy thầy nữa” thầy có thể chào hỏi và nói chuyện với thái độ thân
thiện niềm nở không thể hiện sự khó chịu, vừa làm cho học sinh chột dạ, vừa thể hiện sự
thân thiện, có lẽ sẽ làm cho hai em thấy áy náy. Sau đó thầy cần tìm hiểu nguyên nhân tại
sao các em làm như vậy, và đề nghị giáo viên chủ nhiệm lớp hoặc nhà trường Làm chuyên
đề liên quan đến đạo đức, giao tiếp ứng xử hằng ngày…v..v.. để bồi dưỡng và nâng cao
nhận thức cho các em.
KLSP: là một giáo viên tương lai cần phải học cách nhẫn nhịn và kiên trì, “ học sinh luôn
đúng”, hãy tìm hiểu nguyên nhân rồi nghĩ ra hướng giải quyết. Phải tùy thuộc vào tình
huống để lựa chọn cách giải quyết tốt nhất, giải quyết tạm thời và lâu dài
Trong giờ học cô giáo đang giảng bài trên lớp và nhận thấy có một số học sinh nghe
giảng rất mệt mỏi, luôn gục xuống bàn… là cô giáo trong trường hợp này bạn sẽ làm gì?
Phân tích tình huống: Cô giáo đang giảng bài thì một số học sinh tỏ ra rất mệt mỏi, chưa
biết nguyên do là gì. Khó khăn là cô giáo phải giải quyết tình huống sao cho không ảnh
hưởng quá nhiều đến tiết học mà vẫn đạt được mục tiêu sư phạm của mình. Hướng giải
quyết sẽ theo hướng thấu hiểu, thái độ đúng chừng mực.
60
Mục tiêu giải quyết tình huống:
- Tháo gỡ được tình trạng hiện tại của lớp không lặp lại về sau, trong bất kì tiết
học nào.
Những phương án có thể đạt được mục tiêu tình huống đã xác định:
1, giáo đuổi các em học sinh đó ra ngoài, thể rửa mặt, bao giờ tỉnh táo thì học
tiếp, còn các bạn còn lại tiếp tục học bài.
2, Cô giáo cho mấy em đó đứng góc lớp, hoặc thường xuyên gọi mấy em đó đứng dậy để
trả lời câu hỏi. Sau đó báo với giáo viên chủ nhiệm về thái độ vô lễ của mấy em đó.
3, Mới đầu nhìn thấy cô sẽ tiến lại gần bàn các em, đứng ở đó, giảng bài, lên cao giọng,
nhấn nhá để giúp các em tập trung vào bài giảng, nếu thấy các em vẫn đang gục xuống
bàn thì tăng dần mức độ thể hiện sự chú ý của mình tới những em đó và muốn các em thay
đổi thái độ của mình: gõ tay xuống bàn, cho lớp thảo luận theo cặp, mời các em phát biểu
ý kiến …Nếu thấy các em mệt quá thì sẽ dừng lại vài phút để hỏi lí do làm sao hôm nay
lại có vài bạn mệt thế. Tìm hiểu nguyên nhân, nhìn lại cách dạy của mình, thẳng thắn trao
đổi với học sinh và cùng nhau tìm ra cách giải quyết (nếu là vì lí do cá nhân của mấy em
ý, như thức khuya, buồn chuyện nhà…thì có thể tâm sự sau và giúp các em tìm sự giúp đỡ
từ mọi người; nếu lí do là từ giáo viên thì chính cô giáo đó sẽ cố gắng hết sức để thay đổi
cách dạy bằng cách nhờ giáo viên khác dự giờ và góp ý… cố gắng hạ thấp cái tôi của
mình một chút mà hiệu quả thu được rất xứng đáng).
Em chọn phương án thứ ba vì cô giáo đã thực hiện được kĩ năng lắng nghe, tự chủ cảm
xúc hành vi trong giao tiếp cũng như thực hiện được các nguyên tắc cơ bản trong giao
tiếp: tôn trọng học sinh, thấu hiểu.
61
=> Kết luận sư phạm: Để là một giáo viên tốt thì phải biết quan tâm đến cảm xúc của học
sinh, biết nhìn lại bản thân mình và biết cách giải quyết mọi tình huống một cách chủ
động và hiệu quả nhất.
Trong một lần trả bài kiểm tra cho lớp 10A của cô B., có một học sinh thắc mắc với cô về
kết quả điểm cô chấm với lý do bài của em giống hệt bài của bạn M., sao bạn M. được
cho điểm 8, còn em chỉ được 6 điểm. Nếu cô B, bạn sẽ làm gì?
Em xin đưa ra cách xử lý tình huống này theo ý kiến cá nhân của mình như sau:
Đầu tiên,yêu cầu học sinh ngồi xuống xem kỹ lại bài của mình và bạn,xem lại những chỗ
sai mà cô( thầy) đã ghi trong bài kiểm tra,và kiểm tra xem có đúng là hai bài giống hệt
nhau hay không.
Nếu sau khi xem học sinh vẫn còn thắc mắc thì giáo viên sẽ xử lý ngay bằng cách yêu cầu
học sinh đem hai bài lên bàn giáo viên.Khi đó có thể xảy ra hai trường hợp sau:
+Nếu hai bài không phải giống hệt nhau mà chỉ do học sinh nhầm lẫn thì giáo viên sẽ chỉ
ra cho học sinh và khẳng định cô( thầy) không hề chấm sai sau đó cho học sinh về chỗ.
+Nếu đúng là hai bài giống hệt nhau, là do giáo viên chấm sai thì giáo viên cần nhận lỗi,
và cảm ơn học sinh đã chỉ ra lỗi sai của mình( Cô đã chấm sai, cảm ơn em đã phát hiện
ra…).Sau đó giáo viên sẽ xem thật kỹ rồi sửa lại điểm cho em học sinh đó(Có thể là
chấm nhầm điểm thấp hơn hoặc cao hơn),rồi đưa bài cho em về chỗ để xem lại bài, rút
kinh nghiệm cho các bài kiểm tra tiếp theo.
Sau khi đã giải quyết xong cho học sinh đó, giáo viên yêu cầu tất cả học sinh xem lại bài
thật kỹ và xử lý các trường hợp tương tự (nếu có).
62
Việc xử lý tình huống trên đã đảm bảo được các nguyên tắc giao tiếp sư phạm cơ bản, cụ
thể là:
Tính phạm trong giao tiếp( Nhân cách mẫu mực trong giao tiếp): Giáo viên nhận
sai và sửa sai, là tấm gương mẫu mực để học sinh noi theo.
Tôn trọng nhân cách trong giao tiếp: Giáo viên tiếp thu tôn trọng ý kiến của học
sinh, xử lí thắc mắc của học sinh một cách triệt để.
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đã thể hiện là:
Kỹ năng định hướng giao tiếp
Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm
Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Kinh nghiệm rút ra qua việc xử lý tình huống trên: Sau này khi trở thành giáo viên, trong
khi chấm bài giáo viên có thể mắc sai lầm.Cần biết nhận lỗi và sửa chữa để làm gương
cho học sinh,không nên gạt đi ý kiến của học sinh,một mực phủ nhận sai lầm của mình, vì
như thế có thể khiến học sinh không phục,dẫn đến không tôn trọng giáo viên và rất nhiều
hệ luỵ khác.Chỉ cần một hành động nhỏ của giáo viên có thể ảnh hưởng đến nhân cách
của học sinh nên giáo viên cần đặc biệt chú ý.
Cuối giờ học hôm nay cô T. không giao bài tập về nhà như thường lệ, tất cả học sinh trong
lớp 8A đều vỗ tay reo hò mừng rỡ. Là cô T. trong trường hợp đó bạn sẽ làm gì?
Là cô T thì tôi sẽ giải quyết các tình huống như sau:
Phương án 1: Tôi sẽ quát mắng học sinh, bắt các em ngồi lại và cho nhiều bài tập hơn
nữa.
Phương án 2: Lờ đi và coi như không có chuyện gì xảy ra. Phương án 3:
63
Thực ra đây là mình tình huống khá phổ biến trong trường học, theo tôi thấy thì tâm
học sinh như thế này bình thường, các em còn nhỏ, đang phát triển về thể cũng
như đang hình thành nhân cách sau này. Tâm khi đi học đa số ai cũng muốn được
nghỉ , được chơi… do đó lúc đầu tôi sẽ cười và nói chuyện thật thoải mái với các em :’’
Cô không giao bài tập nhưng về nhà nhớ học và ôn bài đầy đủ nhé’’.
Sau đó đợi cá em ổn định xong, thì mình nên có một vài điều căn dặn các em :’’ Việc học
đối với các em bây giờ rất quan trọng, nó là mối quan tâm hàng đầu. Cô không giao bài
tập không có nghĩa là các em không học, mà phải cố gắng làm thêm các bài tập ngoài sách
giáo khoa, đọc kĩ lại bài, ôn kĩ lại những gì mình đã học… cố gắng lên các em nhé’’
Không nên quá gay gắt với các em , hãy tạo không khí vui vẻ, thoải mái và thân thiện nhất
để mối quan hệ giữa cô và trò ngày càng gần gũi…
Trong tình huống trên cần vận dụng nguyên tắc giao tiếp trong sư phạm : Có thiện ý trong
giao tiếp phạm đồng cảm trong giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp trong sư phạm là :
Kỹ năng định vị và kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp. Khi là một
giáo viên , tôi thấy rằng khi giao tiếp với học sinh mình nên đặt vị trí của mình vào các
em, để hiểu và lắng nghe được những tâm tư tình cảm và mong muốn của các em. Hơn ai
hết mình cũng từng là học sinh, nên càng phải hiểu và chia sẻ với học sinh.
GIÁO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VỚI PHỤ HUYNH
Một phụ huynh khi kiểm tra bài học của con mình ở trên lớp đã phát hiện ra giáo viên A.
giải nghĩa sai từ ngữ, phân tích mô hình ngữ pháp câu không đúng. Vị phụ huynh đó đã
gặp và trao đổi điều đó với giáo viên A.
Là giáo viên A. trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
64
Câu trả lời:
Nhận thức và biểu đạt vấn đề: Đây là một tình huống rất hay gặp trong giảng dạy, khi GV
vô tình giảng sai bài hay HS ghi chép bài chưa chính xác.
Các cách xử lí:
Phương án 1: Yêu cầu PHHS cho xem lại vở ghi của HS quả quyết đây là do HS đó
ghi chép nhầm. GV xử lý như vậy để đảm bảo cho trình độ chuyên môn của mình và để
PHHS tin tưởng giao con cho GV.
Phương án 2:
+ Khi GV gặp riêng với PHHS trước tiên GV cần khôn khéo trong cách xử lý:
+GV : “ Em thực sự rất mong a/c thông cảm khi đã để cho trường hợp này xảy ra dù cho
là vì nguyên nhân gì, do em không quan tâm kĩ tới việc học, ghi chép bài của từng học
sinh hay do sai lầm khi giảng dạy trên lớp. Trước tiên em mong a/c cho em thời gian để
làm rõ( nếu PHHS có đem vở của HS thì có thể yêu cầu PHHS cho xem lại) để có cách xử
lý phù hợp nhất.”
+Sau khi điều tra rõ nguyên nhân, nếu HS chép nhầm bài thì giải thích cho HS hiểu. Nếu
lỗi của GV thì GV cần xử hợp để vẫn giữ được niềm tin của PHHS khi giao con
cho mình.
+GV: “ Như a/c biết đấy ông cha ta có câu : phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam, và con người không phải ai cũng không mắc sai lầm bao giờ. Em biết mình mắc sai
lầm khi đang giáo dục cho thế hệ tương lai là hoàn toàn đáng trách, em sẽ rút kinh
nghiệm và chú ý hơn trong những bài giảng sau này của mình. Em cũng sẽ để ý tới em
nhà mình hơn, giúp em học tập tốt hơn và không để những trường hợp như vậy xảy ra
nữa. Anh chị hãy tin rằng GV trường mình đã được qua đào tạo bài bản, em cũng đang
trau dồi thêm kiến thức của mình nên a/c cứ yên tâm. Cuối cùng em xin lỗi a/c một lần
nữa khi đã để xảy ra sự việc này .”
Bài học kinh nghiệm:
GV cần soạn bài chu đáo trước khi tới lớp hỏi lại học sinh sau mỗi tiết học xem
các em có hiểu bài hay còn thắc mắc chỗ nào không.
GV không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn năng phạm để hiệu quả
giảng dạy ngày càng tốt hơn.
GV kết hợp với PHHS cùng hỗ trợ học sinh trong học tập để hiệu quả học tập của HS
được nâng cao.
65
Trong giờ sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp 9A đã không tiếc lời sỉ vả, mắng nhiếc
học sinh sau khi xem sổ đầu bài thấy các giáo viên bộ môn nhận xét, đánh giá không tốt
về tình hình học tập và chuẩn bị bài… của học sinh trong lớp. Một số học sinh về nhà đã
kể lại chuyện đó cho cha mẹ của mình. Các vị phụ huynh đã phản ánh việc làm đó của
giáo viên chủ nhiệm lớp với Hiệu trưởng nhà trường. Là Hiệu trưởng nhà trường, bạn sẽ
xử lý như thế nào?
Vấn đề cần giải quyết:
+ Mâu thuẫn giữa GV chủ nghiệm và phụ huynh
+ Cách xử lí GV khi có những hành vi mắng nhiếc HS khi các em mắc lỗi
Các tri thức cần vận dụng
+ Kĩ năng trao đổi và đàm phán
+ Kĩ năng xử lí các tình huống bất ngờ
+ Kĩ năng giao tiếp với phụ huynh
+ Nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng trong giao tiếp
Các cách giải quyết
+ Gặp mặt GV chủ nghiệm đó trực tiếp để trao đổi về tình hình, tìm hiểu rõ nguyên nhân.
Nếu thấy chỉ nguyên nhân HS bị ghi sổ đầu bài như vậy mà GV chửi mắng học sinh
như vật là không đúng. Yêu cầu GV đó nhận lỗi và sửa chữa. Đồng thời thì cũng sẽ yêu
cầu GV đó có buổi gặp mặt trao đổi với phụ huynh học sinh để xin lỗi vì hành động thiếu
kiểm soát của bản thân đồng thời cùng thảo luận kết hợp với gia đình học sinh để dạy bảo
HS không tái phạm lỗi nữa cùng nhau chung sức tìm ra giải pháp tối ưu để HS tiến bộ
trong học tập và có ý thức tốt hơn. Về phía học sinh GV cần trao đổi thẳng thắn với
học sinh. Nói rõ lỗi và yêu cầu các em cần sửa đổi. Nếu tình hình không được thực hiện
tốt bởi giáo viên chủ nghiệm thì hiệu trưởng sẽ cho học hội đồng nhà trường tiến hành
kiểm điểm và yêu cầu khắt khao, kiểm tra đánh giá GV đó
66
=> kết luận sư phạm: khi có vấn đề nảy sinh trong lớp học của GV và HS truyền tới phụ
huynh và có phản hồi tiêu cực thì cán bộ nhà trường đặc biệt là hiệu trưởng cần xem xét rõ
tình hình để xác định rõ thực hư, tìm cách giải quyết tốt nhất cho cả hai bên. Về mặt nhà
trường, đặc biệt là GV chủ nghiệm sẽ cần xem xét thái độ và hành vi chuẩn mực dạy học
có biện pháp xử lí thích đáng và yêu cầu GV sửa đổi hành vi. Về phía gia đình học sinh thì
có thể cũng nên gặp mặt nếu điều kiện cho phép, hiệu trưởng cần giải thích, đưa ra lời
hứa các giải pháp đề xuất cho các phụ huynh biết nhằm tạo sự tin tưởng của gia đình
và nhà trường qua đó cùng nhau thống nhất hợp tác quan điểm để có sự kết hợp giáo dục
gia đình nhà trường tạo điều kiện môi trường thuạn lợi nhất cho học sinh phát
triển năng lực và nhân cách đạo đức con người.
Một phụ huynh học sinh trong Ban phụ huynh của lớp bạn chủ nhiệm rất tích cực giúp đỡ
nhà trường và lớp học của con mình. Thế nhưng con của vị phụ huynh đó lại học rất kém,
có thể xếp loại cả năm học dưới trung bình. Là giáo viên chủ nhiệm lớp, bạn sẽ làm để
giúp đỡ em học sinh đó đáp lại lòng tốt của phụ huynh.
Tình huống: Phụ huynh học sinh rất tích cực giúp đỡ nhà trường nhưng con của phụ
huynh lại học rất kém và có thể xếp loại dưới trung bình.
Phân tích tình huống: Đây là tình huống phổ biến trong thực tế.
Phụ huynh học sinh luôn hết lòng giúp đỡ nhà trường lớp học thế nhưng con lại
chưa học tập tốt. Để đáp lại sự giúp đỡ đó của phụ huynh, giáo viên sẽ giúp đỡ học sinh
đó.
Cách xử lý: trong thực tế có thể xảy ra các cách xử lý sau:
Giáo viên bắt ép học sinh học một cách bắt buộc để em học sinh đó tiến bộ
Giáo viên giúp đỡ cho học sinh điểm cao tùy ý.
67
Giáo viên thể hiện sự giúp đỡ học sinh, tạo điều kiện để học sinh tiến bộ trong học tập
bằng cách kèm học cũng như để bản thân học sinh nhận thức được sự quan tâm của gia
đình và nhà trường để cố gắng. Đồng thời phối hợp với gia đình để nhắc nhở em tiến bộ
hơn.
Theo ý kiến của em, em sẽ xử lý tình huống trên theo cách c. Theo nguyên tắc giao tiếp sư
phạm, để học sinh cần tiến bộ thì việc học sinh tự ý thức được tầm quan trọng của việc
học cũng như sự mong mỏi của gia đình, nhà trường là hết sức quan trọng để từ đó học
sinh luôn có ý thức phấn đấu. Giáo viên cũng cần khuyến khích, tạo điều kiện học tập tốt
nhất để học sinh cảm thấy yên tâm. Đồng thời sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là
cần thiết trong giáo dục.
Kết luận sư phạm:
Trong giáo dục sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường là cần thiết.
Giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh học tập tốt nhất, luôn động viên, khuyến
khích học sinh học tập một cách chân thành.
Vào năm học mới, bạn được phân công chủ nhiệm lớp 9A. Trong lớp có 1 học sinh cá biệt
luôn gây ảnh hưởng xấu: lôi kéo bạn bè trốn học đi chơi, gây sự rồi đánh nhau với bạn bè
trong lớp, trong trường, trấn lột các học sinh lớp dưới… Là giáo viên chủ nhiệm lớp đó,
bạn sẽ giải quyết như thế nào.
Các cách giải quyết:
Phương án 1: Thực hiện nghiêm chỉnh kỉ luật em học sinh đó, yêu cầu phê bình
trước toàn trường, thực hiện đình chỉ học, hạ hạnh kiểm.
Phương án 2: Vẫn thực hiện kỉ luật do em đó đã phạm lỗi. Tìm hiểu nguyên nhân
tại sao học sinh đó lại có hành vi như vậy qua bạn bè cùng trang lứa và qua phụ huynh,
tìm hiểu hoàn cảnh gia đình để có hướng giải quyết phù hợp. Gặp mặt trực tiếp với phụ
huynh để tìm ra hướng đi phù hợp.
68
Chọn phương án 2 là phù hợp vì có thể do một lý do chủ quan nào đó ảnh hưởng tới suy
nghĩ và lối hành xử của học sinh đó: có thể do hoàn cảnh gia đình, do môi trường sống,…
Bài học kinh nghiệm: để giải quyết lâu dài một tình huống sư phạm, không chỉ thực hiện
giải quyết trước mắt mà nhà sư phạm phải đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân đã dẫn tới việc
đó, không thể quy chụp mọi học sinh như nhau. sống trong những môi trường khác
nhau nên đã hình thành nên thái độ và cách ứng xử khác nhau.
Có những phụ huynh học sinh trực tiếp đến gặp Hiệu trưởng trường Tiểu học DVA góp ý
phê bình nhà trường về một điều gì đó. Là Hiệu trưởng trong trường hợp đó bạn sẽ giải
quyết như thế nào?
Nhận xét: Đây tình huống không quá hiếm gặp trong trường học. Tình huống có
thể bắt nguồn từ nguyên nhân tính cách của phụ huynh quá nóng nảy, thiếu niềm tin vào
giáo viên chủ nhiệm hoặc do chính giáo viên chủ nhiệm không tạo được niềm tin vững
chắc với phụ huynh. Cụ thể tình huống này là:”Phụ huynh học sinh lên gặp trực tiếp hiệu
trưởng của trường để góp ý, phê bình điều gì đó mà không qua giáo viên chủ nhiệm”
Trong trường hợp trên, sẽ có các phương án giải quyết như sau:
Phương án 1: Ngay lập tức gọi những người có liên quan lên trực tiếp đối chất với vị phụ
huynh kia và nghiêm khắc phê bình nhân viên, giáo viên trong trường trước mặt phụ
huynh học sinh
Phương án 2: Đợi sau khi tiếp xong phụ huynh đó, gọi những người có liên quan lên và
gay gắt phê bình, chỉ trích.
Phương án 3: Đợi sau khi tiếp xong vị phụ huynh kia sẽ gọi những người có liên quan lên
gặp và hỏi rõ sự việc. Dựa vào thông tin 2 bên cung cấp sẽ tùy trường hợp để đưa ra cách
xử lý phù hợp. Kiểm tra tính xác thực của thông tin
69
thông qua cách ứng xử hàng ngày của những người có liên quan. Tuy nhiên cần nhắc nhở
nhân viên hoặc giáo viên trong trường, sau này cần cẩn thận hơn trong cách hành xử để
tránh những tình huống như vậy tái diễn. Nên hành xử phù hợp với nguyên tắc mẫu
mực trong giao tiếp phạm, tạo dựng được niềm tin với phụ huynh và học sinh.
Nếu tôi là hiệu trưởng trong tình huống này tôi sẽ ứng xử theo phương án 3. Bởi
phương án 1 và 2 đều không nên, cách xử lsy như vậy không hay. Vừa làm mất hình ảnh
của trường trong mắt phụ huynh học sinh vừa tạo khoảng cách trong mối quan hệ với các
đồng nghiệp. Xử lý theo phương án 3 vừa mang tính nghiêm minh lại linh hoạt, mềm dẻo.
Xử lsy tinh tế không vi phạm nguyên tắc nhân cách mẫu mực, tôn trọng đồng cảm
trong giao tiếp sư phạm.
Trong tình huống trên, chúng ta nên vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giao
tiếp sư phạm (xử lý công bằng, nghiêm minh mà không thiếu tình người), tôn trọng nhân
cách, thiện chí, niềm tin đồng cảm trong giao tiếp sư phạm. Vận dụng các kỹ
năng sư phạm như nghe và biết lắng nghe, tự kiềm chế cảm xức và hành vi, linh hoạt,
mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, xử lý thông tin trong quá trình giao tiếp.
Rút kinh nghiệm bản thân: là một giáo viên tương lai, phải không ngừng trau dồi kỹ năng
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Cần tạo được niềm tin với học sinh, phụ huynh cả
cấp trên. Đồng thời, cũng cần niềm tin, đồng cảm với đồng nghiệp
Một phụ huynh học sinh tham gia rất nhiệt tình trong hoạt động phối hợp giữa nhà trường
và phụ huynh học sinh, nhưng bạn biết rõ động cơ của vị phụ huynh này muốn cho
con họ được chọn vào đội học sinh giỏi đi thi cấp
70
Quận trong khi em này chưa đủ trình độ tuyển chọn. Là giáo viên chủ nhiệm của em học
sinh đó, bạn sẽ xử lý như thế nào?
Hướng giải quyết:
Nhận xét: Trong tình huống trên, phụ huynh này tham gia rất nhiệt tình trong hoạt động
phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh học sinh với động cơ là cho con họ được chọn vào
đội tuyển học sinh giỏi đi thi cấp Quận. Tuy nhiên, vì là phụ huynh học sinh, không nên
xử lý quá cứng rắn, cần mềm mỏng trong giao tiếp để phụ huynh hiểu và thông cảm. Điều
đó, sẽ giúp ích cho giáo viên trong việc tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa phụ huynh, giáo viên
và nhà trường
Nếu là giáo viên chủ nhiệm của học sinh đó, em sẽ đến gặp phụ huynh đó Trước tiên là
cảm ơn phụ huynh đó đã có tấm long, tích cực tham gia các hoạt động, nhờ đó mà lớp
cũng đạt được thành tích cao trong thời gian gần đây
Sau đó, em sẽ nói rõ về tình hình học tập của học sinh đó “ tuy chăm ngoan, nhưng học
lực lại chỉ được khá, tiếp thu bài chưa nhanh. Trong lớp, còn rất nhiều bạn có học lực tốt
hơn, vì vậy việc chọn em hs đó đi thi là không công bằng với học sinh khác và cũng
không phù hợp với tiêu chí của nhà trường, mong gia đình thông cảm. Mong gia đình kèm
cặp em, tôi cũng cố gắng giúp em trong việc học tập, nếu đủ điều kiện mà nhà trường đề
ra thì em sẽ được thi”
Trong tình huống trên, chúng ta nên vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giao
tiếp sư phạm (xử lý công bằng, nghiêm minh mà không thiếu tình người), tôn trọng nhân
cách, có thiện chí, niềm tin và đồng cảm trong giao tiếp sư phạm. Vận dụng các kỹ năng
sư phạm như nghe và biết lắng nghe, tự kiềm chế cảm xức và hành vi, linh hoạt, mềm dẻo
trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, xử lý thông tin trong quá trình giao tiếp
71
Vào năm học mới, sau khi học được 1 tháng, giáo viên dạy lớp 1A phát hiện thấy em H.
ngồi trong lớp chỉ nghịch ngợm, quấy phá. Trong giờ học, em vẫn cười đùa tự nhiên, giáo
viên nói gì em cũng không làm theo. Sau nhiều lần theo dõi, giáo viên mới biết em bị điếc
hoàn toàn. Là giáo viên dạy lớp đó, bạn sẽ xử lý trường hợp này như thế nào?
Tình huống nêu ra: Giáo viên dạy lớp 1A sau 1 tháng dạy học đã phát hiện ra em học sinh
nghịch ngợm quấy phá trong lớp đó bị điếc hoàn toàn.
Phân tích tình huống : Tình huống này giáo viên cần phải giải quyết thật khéo léo, không
để cho em học sinh H bị tổn thương, lại thể giữ cho lớp học ổn định không ảnh
hưởng đến học tập của lớp
Các cách giải quyết :
Cách thứ nhất : Dùng ám hiệu ý bảo em H trật tự.
Cách thứ hai : ổn định lớp học, rời sự chú ý của các học sinh khác hướng vào bài học. sau
đó gặp GVCN để trao đổi. Tìm hiểu về gia đình em H, bệnh tình của em, và tìm hiểu một
số “ thủ ngữ” _ ngôn ngữ của người khiếm thính để giao tiếp với em. Sau đó, sẽ đến nhà
em H, hỏi thăm tình hình của e H ở nhà và bệnh tình của em, nói chuyện với bố mẹ về
tình hình của em ở trên lớp và khuyên gia đình nên cho em học những lớp giáo dục đặc
biệt để em có thể phát triển thuận lợi hơn.
Nếu em là giáo viên trong trường hợp này em sẽ chọn giải pháp thứ 2, đây là giải pháp
hợp lý. Đầu tiên là giáo viên trong trường hợp này cần ổn định lớ học để cho các em học
sinh khác tập trung vào bài học. Tiếp theo sẽ gặp giáo viên chủ nhiệm để trao đổi và tìm
hiểu rõ hơn tình hình của em H. Em sẽ tìm hiểu cách giao tiếp với trẻ bị khiếm thính, cách
nói chuyện bằng cử chỉ hành động, tìm hiểu một số thủ ngữ” _ ngôn ngữ của người
khiếm thính để giao
72
tiếp với em. Đến thăm nhà em H, hỏi han và nói chuyện với phụ huynh, hỏi thăm tình
hình của e H ở nhà và bệnh tình của em, nói chuyện với bố mẹ về tình hình của em ở trên
lớp và khuyên gia đình nên cho em học những lớp giáo dục đặc biệt để em có thể phát
triển thuận lợi hơn. Nói chuyện với phụ huynh với thái độ chân thành, đồng cảm và tôn
trọng. Tôn trọng ý kiến của em H và gia đình nhưng cũng không ngừng thuyết phục gia
đình cho em H học tập trong môi trường phù hợp hơn, để em có thể tiếp thu kiến thức và
phát triển tốt như các bạn. Trò chuyện cùng em H bằng “ thủ ngữ”, động viên em cố gắng
học tập, ngoan ngoãn….
KLSP : Là giáo viên, khi nhìn nhận một vấn đề cần phải quan sát tìm hiểu nguyên nhân để
đưa ra quyết định, không thể phán đoán dựa trên cảm tính. Với những em học sinh như
trong tình huống trên giáo viên cần khéo léo lựa chọn cách giải quyết, tôn trọng, yêu
thương và cảm thông. Khi gặp mặt phụ huynh, cần nói chuyện với thái độ chân thành,
thân thiện và bình tĩnh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải bình tĩnh giải quyết
không được nôn nóng vội vàng cũng không được tức giận to tiếng. Với những vấn đề
nhạy cảm, cần khéo léo sử dụng ngôn ngữ và hành động linh hoạt để giải quyết.
Nghe tin con mình không được lên lớp phải lưu bạn lại lớp 10. Cha của em học sinh
đó đã đến gặp giáo viên chủ nhiệm lớp trong tình trạng “nửa say, nửa tỉnh” vì hơi men và
nói với giáo viên chủ nhiệm:
Tôi chỉ có mỗi một đứa con duy nhất. Thầy phải cho nó lên lớp, nếu nó không được
lên lớp thì tôi sẽ giết nó.
Phân tích tình huống: Tình huống khá nhạy cảm, một ông bố khá khó tính và thích uống
rượu thấy con mình không được lên lớp 10 thế là đến gặp giáo viên trong tình trạng nửa
say, nửa tỉnh để uy hiếp là nếu con mình không được lên lớp thì mình sẽ giết con. Ở tình
huống này, khó khăn được thấy rất rõ, khi một người say thì sẽ không tự chủ được cảm
xúc và hành động của mình do vậy
73
hướng giải quyết của giáo viên phải cực kì mềm dẻo và phải xử lí được ngay thời điểm đó
cũng như về lâu về dài.
Mục tiêu giải quyết tình huống:
Giải quyết được tình huống ngay tức khắc và lâu dài.
Theo nguyên tắc thì con ông này vẫn sẽ bị lưu ban, nhưng phải làm sao để ông ý hiểu việc
lưu ban này không có gì là to tát mà ông đòi giết con, làm sao để không có bất kì hậu quả
xấu nào xảy ra trong tương lai. Có thế còn giúp ông này với con yêu thương nhau hơn,
giúp gia đình bố tốt hơn, con học giỏi hơn.
Những phương án có thể đạt được mục tiêu tình huống đã xác định:
1, Cùng ông ấy ra quán uống rượu cho đến say rồi đưa ông đấy về nhà, đợi khi ông đấy
tỉnh lại thì nói chuyện tiếp, trong khi đó thì tìm hiểu rõ hơn về gia cảnh học sinh.
2, Giải quyết luôn: Thầy bảo rằng tôi đã báo lại trường hợp của em cho cấp trên và đang
trong quá trình xem xét, chưa có kết quả chính thức, bao giờ có kết quả thì sẽ báo lại cho
bác đấy sau và khuyên bác đấy bình tĩnh, bác cứ yên tâm. Nói như vậy có thể trấn an bác
ấy ngay lập tức, tránh những hậu quả đáng tiếc. Là giáo viên chắc hẳn thầy giáo cũng biết,
hiểu về gia cảnh học sinh. Đợi khi phụ huynh đó tỉnh rượu (không ra quán rượu), thì nói
chuyện như hai phụ huynh với nhau. Rằng ai chẳng muốn con giỏi, con hay, nhưng con
do mình dứt ruột sinh ra, lúc này vấp ngã thì phải biết cách đứng lên rồi thành
công rồi báo đáp công ơn cha mẹ… Thầy sẽ dùng phương pháp giảng giải bằng phong
cách dân chủ, tự nhiên, dông dài nhất có thể. Thầy có hứa sẽ giúp đỡ em học sinh học tập
tốt hơn, nhờ những sự giúp đỡ khác nữa trên cơ sở có sự phối hợp với gia đình…hứa sẽ
cố gắng để giáo dục em thành người tốt, mai kia đỗ đại học và còn thể công ăn
việc làm đàng hoàng. Thầy giáo giúp phụ huynh đó tỉnh
74
ngộ biết được ông ấy cần phải làm gì, ít nhất bỏ rượu biết cách kiềm chế tính
nóng nảy của mình.
Em chọn cách giải quyết thứ hai vì thầy giáo đã thấu hiểu hoàn cảnh và dùng chính hoàn
cảnh của thầy nói chuyện với phụ huynh thể hiện thái độ đồng cảm của bản thân.
=> Kết luận sư phạm: Là thầy phải biết hiểu tâm tư nguyện vọng của phụ huynh, giúp
phụ huynh hiểu được mong muốn của thầy cô giáo với học trò. Thầy cô là mối liên kết
giữa nhà trường và gia đình, biết cách tương hỗ để giúp giáo dục nhân cách cũng như
nâng cao năng lực, tri thức của học sinh. Đồng thời luôn quan tâm đến gia cảnh học sinh
để có những cách giải quyết phù hợp, kịp thời nhất trước khi mọi việc xảy ra quá xa tầm
kiểm soát.
Là giáo viên chủ nhiệm lớp, trong tình huống đó bạn sẽ làm gì?
Trong một buổi đi dã ngoại của học sinh khối 8 ở một trường THCS, trong lúc chơi đùa
với nhau chẳng may một em học sinh bị trật khớp chân. Cô giáo chủ nhiệm cùng một số
em trong lớp đã kịp thời đưa em học sinh đến bệnh viện gần đó. Khi về nhà, em học sinh
đó đã kể lại với phụ huynh. Hôm sau phụ huynh đã đến gặp giáo viên chủ nhiệm lớp trách
cứ cô thiếu trách nhiệm với học sinh. Là giáo viên chủ nhiệm trong trường hợp đó bạn sẽ
giải quyết như thế nào?.
Em xin xử lý tình huống trên theo ý kiến cá nhân của mình như sau:
Đầu tiên, mời phụ huynh vào văn phòng nói chuyện, hỏi thăm về tình trạng của học
sinh
Tiếp theo, giáo viên có thể nói như sau:”Em và ban giám hiệu rất tiếc về trường hợp của
em A.Cá nhân em rất xin lỗi chị.Em có thể hiểu được tâm trạng của chị lúc này.Đây là
chuyện mà không ai muốn xảy ra.=>Dùng tình cảm,lựa lời nói khéo léo với phụ huynh để
phụ huynh bớt giận.
75
“Các em còn đang trong lứa tuổi hiếu động và rất thích thể hiện, em và các thầy cô sẽ
quan tâm, để ý em hơn để không xảy ra sự việc đáng tiếc này một lần nữa”
Trò chuyện thêm với phụ huynh về việc học hành và về những sở thích của em
A. Đặc biệt trong thời gian tới giáo viên sẽ cùng với các bạn trong lớp giúp đỡ tạo điều
kiện tối đa để em A theo kịp bài .
Hi vọng em sớm bình phục, đến trường cùng cô và các bạn.Lớp sẽ tổ chức một buổi đi
thăm em A.
Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm:
Tính mô phạm trong giao tiếp
Có thiện ý trong giao tiếp
Đồng cảm trong giao tiếp
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đã thể hiện là:
Kỹ năng định hướng giao tiếp
Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm
- Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Qua việc xử lý tình huống trên, em rút ra kinh nghiệm cho bản thân là: Khi trở thành giáo
viên, nếu phụ huynh trách cứ vì một việc không may xảy ra với học sinh,người giáo viên
cần phải bình tĩnh, xử lý thật khéo léo để không làm xấu đi mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường.Gia đình kết hợp với nhà trường cùng quản lý và giáo dục học sinh sẽ là cơ sở
để học sinh phát triển đầy đủ cả về trí tuệ và nhân cách.
Trong buổi họp phụ huynh sơ kết học kỳ 1, một phụ huynh đã phát biểu: tất cả những yêu
cầu của nhà trường từ đầu năm học chúng tôi đã thực hiện đầy đủ, nhưng mong muốn của
chúng tôi đối với nhà trường thì chưa được các giáo
76
viên thực hiện tốt, cụ thể kết quả học tập rèn luyện của học sinh chưa cao, tỷ lệ học
sinh yếu kém còn nhiều… Là giáo viên chủ nhiệm bạn xử lý như thế nào?.
Đầu tiên chúng ta phải nhận thức vấn đề xảy ra đây là một tình huống xảy ra với giáo viên
với học sinh. Đây là một tình huống ít xảy ra nhưng không có nghĩa là không gặp. Cụ thể :
‘’Trong buổi họp phụ huynh sơ kết học kỳ I, một phụ huynh đã phát biểu: Tất cả những
yêu cầu của nhà trường từ đầu năm học chúng tôi đã thực hiện đầy đủ, nhưng mong muốn
của chúng tôi đối với nhà trường thì chưa được các giáo viên thực hiện tốt, cụ thể kết ủa
học tập và rèn luyện của học sinh chưa cao, tỷ lệ học sinh yếu kém còn nhiều…’’
Là giáo viên chủ nhiệm, tôi sẽ xử lý tình huống như sau:
Phương ân 1: Phản ứng lại gay gắt ý kiến của vị phụ huynh đó, nói đây không phải lỗi nhà
trường và nhà trường không phải chịu trách nhiệm về việc này.
Phương án 2: Vẫn gật đầu đồng tình với ý kiến của phụ huynh nhưng sau đó bỏ qua và
coi như không có chuyện gì xảy ra.
Phương án 3: - Đầu tiên đợi các phụ huynh phát biểu ý kiến , phải thực sự lắng nghe
tiếp thu, thái độ hòa nhã, vui vẻ… tạo thiện cảm cho người đối diện và không khí
không quá gay gắt..
Sau đó khi các bác đã bình tĩnh thì mình nên nhận sai, đây thiếu sót và trách nhiệm
của giáo viên chủ nhiệm cũng như nhà trường, vì lúc này mà mình đổ lỗi cho học sinh
ngay là một sự thiếu sót, càng làm không khí thêm nặng nề. Mặc dù nhận lỗi nhưng cũng
phải chỉ rõ cho phụ huynh hiểu ‘’ Nhà trường đang cố gắng và hoàn thiện hơn nữa để các
em được học tập, học hành hiệu quả hơn, cảm ơn các Bác đã ủng hộ và đóng góp cho
nhà trường, việc làm của các bác giúp chúng tôi, cũng như các em thoải mái, cố gắng hơn
nữa.. Nhưng kết quả học tập chưa cao cũng phải phụ thuộc vào chính bản thân mỗi học
sinh, chỉ bản thân các bạn ấy cố gắng mới được. giáo viên chủ
77
nhiệm tôi sẽ cố gắng dạy bảo, chăm lo cho các em hơn nữa. Cảm oen những đóng góp quý
báu của các bác, cô trò chúng tôi sẽ càng ngày càng hoàn thiện bản thân mình’’
Trong tình huống trên cần vận dụng nguyên tắc giao tiếp trong sư phạm:
Tính mô phạm trong giao tiếp
Tôn trọng nhân cách trong giao tiếp
Có thiện ý trong giao tiếp sư phạm
Đồng cảm trong giao tiếp Vận dụng các kỹ năng giao tiếp :
Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp sư phạm
Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Nếu là một giáo viên tôi nhận thức được rằng khi nói chuyện hay trao đổi với người khác
không chỉ riêng học sinh cần phải có thái độ đúng mực, thân thiện, và luôn đặt mình vào
vị trí người khác, sẵn sàng nhận sai nếu nhu mình là người có lỗi.
| 1/77

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN GIAO TIẾP SƯ PHẠM CUỐI KÌ 1
Câu 1.Giao tiếp sư phạm
Giao tiếp
là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao - Giao
tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi thông tin,
cảm xúc, nhận thức lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại cùng nhau, ảnh hưởng tác động
qua lại lẫn nhau. Khái niệm giao tiếp sư phạm:
- Theo nghĩa rộng, GTSP là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa các chủ thể trong quá trình giáo
dục, nhằm trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau,
thiết lập nên những mối quan hệ để thực hiện mục đích giáo dục. VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh trong lớp nghe giảng.
+ Giáo viên trao đổi về kiến thức với các đồng nghiệp.
- Theo nghĩa hẹp, GTSP là sự tiếp xúc tâm lý giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền đạt
và lĩnh hội tri thức khoa học, vốn kinh nghiệm sống, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng để xây
dựng và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
Như vậy: GTSP là giao tiếp mang tính nghề nghiệp giữa giáo viên với học sinh
Câu 2. Đặc trưng của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm mang tính chuẩn mực (mẫu mực).
Tính chuẩn mực là một tất yếu trong giao tiếp sư phạm. Khi giảng bài, khi đánh giá học
sinh và khi gặp gỡ trò chuyện với học sinh, thầy luôn phải có sự mẫu mực, thống nhất
giữa lời nói với việc làm...phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
VD: Chuẩn mực, tác phong của nhà giáo luôn là một yếu tố được quan tâm và đặt lên
hàng đầu, nhà nước cũng đã quy định rất rõ tại Điều 5 Quy định về đạo đức nhà giáo ban
hành kèm theo Quyết địnhsố 16/2008/QĐ-BGDĐT thì Tiêu chuẩn lối sống, tác phong của
nhà giáo. Trong mỗi trường sư phạm, tác phong của người giáo viên không chỉ là bộ mặt
của nền giáo dục, mà còn ảnh hưởng trực tiếptới học sinh, tác động tới hành vi và nhân cách của học sinh.
Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên chủ yếu tác động đến học sinh bằng tình cảm.
+ Giáo viên tác động bằng tình cảm của mình.
+ Giáo viên tác động tới mặt tình cảm của học sinh.
Các loại giao tiếp khác đòi hỏi cả lí và tình hoặc thiên về lí, thậm chí chỉ có lí (nguyên tắc).
VD: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, người giáo viên không nên trách cứ, mắng,
hay có những hành động tiêu cực trực tiếp. Thay vào đó, người giáo viên nên tìm hiểu kĩ
nguyên nhân, lí do khiến học sinh không làm bài tập, đồng thời ôn tồn trò chuyện để từ
đó, đưa ra lời khuyên để học sinh khắc phục lỗi sai của mình.
Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên tác động đến học sinh bằng nhân - cách của mình.
+ Giáo viên dùng nhân cách của mình làm công cụ tác động. Hiệu quả tác động bằng lời
nói hay hành động tới học sinh do nhân cách của giáo viên quy định. 1
+ Giáo viên không thể giáo dục một phẩm chất nào đó cho học sinh mà bản thân họ chưa có.
VD: Khi đi học, chúng ta thường có thói quen trình bày bài giống những gì thầy, cô giáo
làm. Không chỉ dừng lại ở bài tập, tác phong và cử chỉ của người giáo viên còn ảnh hưởng
trực tiếp tới thói quen,cảm xúc của học sinh. Một người thầy có thói quen dừng lại giữa
bụcgiảng chào học sinh khi vào lớp, hành động này khiến học sinh hình thành thói quen
đứng dậy nghiêm chỉnh chào thầy giáo. Dần dần, điều này trở thành một phản xạ, mỗi khi
đến môn học của thầyhọc sinh đều chủ động đứng dậy trước để chào, thể hiện sự tôn trọngcủa bản thân.
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội, được xã hội thừa nhận và tôn trọng.
+ Giao tiếp sư phạm diễn ra trong môi trường sư phạm - an toàn, lành mạnh.
+ Nhà nước và xã hội đều tôn trọng người thầy giáo.
VD: Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con người trong
hoạt động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”. Từ nhận định trên, có thể thấy rõ giao
tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội.
Câu 3. Chức năng của giao tiếp sư phạm * Trao đổi thông tin
Thông tin trong giao tiếp sư phạm trước hết là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các giá
trị... mà thầy giáo truyền đạt đến học sinh. Đó là nội dung bài học, môn học, cách học...,
hay nói rộng hơn, đó là kinh nghiệm xã hội lịch sử mà mỗi người đến trường cần được
lĩnh hội để sống bình thường trong xã hội. Để lĩnh hội được, học sinh phải thông qua giao
tiếp với thầy giáo, với bạn bè... Quá trình đó xét về chức năng của nó là quá trình giáo dục
sư phạm, học sinh tiếp thu được tri thức của nhân loại để hình thành, phát triển trí tuệ,
nhân cách và trên cơ sở tri thức đó mà phát triển nền văn hoá xã hội.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm còn là những cảm xúc, là thế giới tâm hồn của những
người tham gia giao tiếp. Mỗi con người là một thế giới tâm hồn chứa đựng cảm xúc.
VD: Trong một tiết học, thầy giáo kể một câu chuyện của bản thân về lần đầu được điểm
kém do không ôn bài. Không chỉ nằm ở việc giúp học sinh biết về một kỉ niệm trong quá
khứ của mình, thầy giáo còn giúp học sinh nhận ra được sai lầm trong cách ôn thi, từ đó
rút ra kinh nghiệm và học tập cẩn thận. Việc trao đổi thông tin trong giao tiếp sư phạm
diễn ra từ cả hai phía, giữa thầy và trò, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục. * Tri giác lẫn nhau
Giao tiếp sư phạm luôn diễn ra sự nhận thức và hiểu biết nhau giữa giáo viên và học sinh.
Đặc tính quan trọng của tri giác lẫn nhau không chỉ là nhận thức về đối tượng giao tiếp mà
còn nhận thức được chính bản thân trong mối quan hệ đó. Tri giác lẫn nhau diễn ra trong
suốt quá trình giao tiếp, giúp mỗi người thu thập thông tin cả cảm tính (tư thế, tác phong,
ánh mắt, nụ cười, trang phục...) lẫn lí tính (phẩm chất, tính cách, tình cảm...) của đối tượng giao tiếp.
Trong quá trình giao tiếp sư phạm, giáo viên và học sinh hiểu biết lẫn nhau bằng cách
cùng chia sẻ cảm xúc của mình đối với những xúc động mạnh của người kia, bằng con
đường đồng nhất hoá bản thân mình với người kia và bằng biện pháp suy nghĩ về người 2
kia. Nhờ tri giác lẫn nhau mà giáo viên hiểu rõ học sinh của mình hơn, chất lượng quan
hệ cũng như hiệu quả của tác động giáo dục nâng cao hơn. Tri giác lẫn nhau trong giao
tiếp sư phạm là một hình thức tri giác liên nhân cách.
VD: Khi người giáo viên đặt ra một câu hỏi khiến học sinh lộ ra vẻ lúng túng. Lúc này,
người giáo viên không nên gặng hỏi, mà chủ động gợi ý, đặt ra những câu hỏi phụ đơn
giản hơn, để học sinh có thể tự tin và tìm ra câu trả lời chính xác. Từđó, tạo ra cảm giác tự
tin cho người học, cũng như không khí thoải mái cho giờ học. Việc quan sát thái độ của
người học, cũng như người dạy, có lợi ích rất lớn nhằm nâng cao chất lượng của giờ học,
đem lại cảm giác thoải mái, hứng khởi. * Đánh giá lẫn nhau
Cùng với sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp, con người luôn có sự
đánh giá lẫn nhau trên cơ sở định hướng giá trị của mình. Kết quả của nó ảnh hướng quyết
định tới tiến trình cũng như hiệu quả của quá trình giao tiếp.
- Chẳng hạn, từ chỗ hiểu nhầm dẫn đến đánh giá sai về học sinh, giáo viên có thể căng
thẳng trong cư xử với các em, và tất nhiên, giáo viên sẽ hứng chịu phản ứng có thể là trực
tiếp hoặc ngấm ngầm không lấy gì là tốt đẹp từ phía học sinh, thậm chí có thể phá vỡ quan
hệ tốt đẹp giữa giáo viên và học sinh.
VD: Khi gặp phải một bài làm điểm kém của một học sinh, người giáo viên không nên lập
tức trách móc hay có những hành động tiêu cực. Thay vào đó, người giáo viên cần tìm
hiểu kĩ lực học của học sinh này, từ đó đưa ra những phương án giảng dạy phù hợp, đem
lại sự thoải mái cũng như động lực cho học sinh phấn đấu.
Ảnh hưởng lẫn nhau
Mỗi người tham gia giao tiếp quan hệ vói người cùng giao tiếp với mình như là chủ thể có
tâm lí, ý thức. Nếu trong hoạt động thực tiễn có đối tượng, kết quả là vật chất (đối tượng
được cải tạo), thì trong giao tiếp kết quả trước hết liên quan đến những thay đổi này hay
khác trong ý thức, hành vi và phẩm chất của những người giao tiếp. Mỗi thành viên tham
gia giao tiếp có thể có kế hoạch nào đó, nhưng trong quá trình giao tiếp trên thực tế có thể
diễn ra khác với dự kiến của kế hoạch cá nhân. Trong quá trình giao tiếp, các kế hoạch cá
nhân được biến đổi và có thể tạo ra một kế hoạch chung nào đó năng động hơn, hoặc
ngược lại, bất đồng hơn.
Như vậy, giao tiếp dẫn đến sự thay đổi không chí là tư tưởng mà còn thay đổi cả chức
năng tâm lí, trạng thái, thuộc tính tâm lí của những người giao tiếp. Trong giao tiếp sư
phạm, với chức năng xã hội là người hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển hoạt động nhận thức
cũng như quá trình hình thành nhân cách của học sinh, giáo viên có ảnh hường vô cùng
lớn tới học sinh, đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi.
Tuy nhiên trong quá trình này, giáo viên cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ phía học sinh
(liên hệ ngược). Một khía cạnh đặc biệt lưu ý là, giữa học sinh với học sinh cũng có ảnh
hưởng lẫn nhau rất lớn trong quá trình các em giao tiếp với nhau (học thầy không tày học bạn).
VD: Khi giảng bài, tâm lí cũng như cảm xúc, thái độ của người giáo viên có nhữngảnh
hưởng nhất định tới học sinh. Người giáo viên có cảm xúc vui vẻ, hào hứng sẽđem lại một
bầu không khí sôi nổi và thoải mái cho lớp học. Người giáo viên có cảm xúc không tốt,
3
cáu giận sẽ tạo cho lớp học không khí căng thẳng, nặng nề. Ngoài ra, trạng thái và kết
quả của lớp học cũng ảnh hưởng tới tâm lý
của người giáo viên. Chính vì vậy, giáo viên và học sinh ảnh hưởng tới nhau trong quá trình giao tiếp sư phạm.
Điều khiển hoạt động nhóm
Giao tiếp luôn mang ý nghĩa xã hội, đó là giao tiếp đảm bảo tổ chức mọi người tiến hành
hoạt động chung, đảm bảo cho sự liên hệ qua lại của họ. Đặc điểm cơ bản của chức năng
này thể hiện ở chỗ chính quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, tư tưởng, biểu tượng...
Sự thống nhất các ý đồ, tư tưởng... sẽ điều khiển hoạt động chung của nhóm, cộng đồng.
Trong giao tiếp sư phạm, sự thống nhất các ý đồ, tư tưởng... giữa giáo viên và học sinh là
điều kiện lí tưởng đảm bảohiệu quả cao trong dạy học và giáo dục, và điều này phụ thuộc
phần lớn vào năng lực giao tiếp của người giáo viên.
Thông qua giao tiếp, giáo viên tổ chức các mối quan hệ, các tương tác giữa giáo viên với
học sinh, giữa học sinh với nhau nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh - đó là
khía cạnh bản chất của phương pháp dạy học tích cực
VD: Người giáo viên giống như một nghệ sĩ trên sân khấu, một người diễn viên tài năng
sẽ biết cách lôi cuốn khán giả về phía mình. Một giáo viên hiệu quả sẽ biết thu hút sự
tham gia của học sinh. Để trở thành một giáo viên hiệu quả, thầy cô phải làm chủ được
các chiến thuật, các kĩ thuật dạy học đảm bảo học sinh tham gia vào các hoạt động mà
mình tổ chức, lắng nghe những gì mà mình nói, thực hiện những nhiệm vụ mà mình yêu cầu.
Ở một cách diễn đạt khác, giao tiếp sư phạm gồm các chức năng sau:
+ Công cụ: Giao tiếp sư phạm là cơ chế xã hội của việc điều khiển và truyền đạt thông tin
cần thiết cho việc thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục.
+ Liên kết: Giao tiếp sư phạm là phương tiện liên kết giáo viên với giáo viên, giáo viên
với học sinh, học sinh với học sinh...
+ Tự thể hiện: Giao tiếp sư phạm là sự trình diễn thế giới nội tâm của giáo viên và học
sinh, và do đó là hình thức hiểu biết lẫn nhau.
+ Chuyển dời: Quá trình sư phạm (dạy học và giáo dục) về bản chất là quá trình tổ chức
cho học sinh hoạt động nhằm chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội. Trong quá trình này, thầy
giáo là cầu nối giữa học sinh và nền văn hoá đó. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, thầy
giáo và học sinh đã "chuyển dời” những tri thức cần thiết từ nền văn hoá nhân loại vào
bản thân mình. Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp sư phạm.
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, giao tiếp là yếu tố quyết định quan trọng
nhất của các quá trình nhận thức ở tất cả các mức độ. Trong quá trình lĩnh hội khái niệm,
nhờ giao tiếp sư phạm mà cơ sở khái quát hoá và trừu tượng hoá được mở rộng (so với
hoạt động cá nhân), giao tiếp sư phạm thúc đẩy việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ
lĩnh hội. Giao tiếp sư phạm tạo ra các điều kiện thuận lợi để xem xét các nhiệm vụ từ các
quan điểm khác nhau và những thay đổi chiến lược tìm kiếm cách giải quyết chúng. Ở đây 4
nhấn mạnh hiệu quả giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh, giữa học sinh với học sinh trong quá trình dạy học.
+ Kiểm soát xã hội: Giao tiếp sư phạm có chức năng thể chế hoá hành vi và hoạt động của
giáo viên và học sinh, tức là làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định, nguyên tắc xác định.
+ Xã hội hoá: Giao tiếp sư phạm hình thành cho cả giáo viên và học sinh kĩ năng, kĩ xảo
tác động qua lại trong xã hội phù hợp với các chuẩn mực và quy tắc, các phong tục, tập quán...
Câu 4. Vai trò của giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giáo dục nói chung và trong
việc hình thành nhân cách người thầy giáo nói riêng.
Trong hoạt động sư phạm, hoạt động giao tiếp không những là điều kiện cơ bản và tất yếu
của hoạt động sư phạm mà còn là công cụ, là phương tiện để thực hiện mục đích sư phạm,
bởi tất cả những nội dung giáo dục từ việc giảng dạy thú vị, sáng tạo đến các phương pháp
tích cực, tiến bộ chỉ phát huy tác dụng khi và chỉ khi được đảm bảo bằng giao tiếp sư
phạm phù hợp, đúng đắn. Từ đó cho thấy giao tiếp sư phạm gắn bó chặt chẽ với hoạt động
sư phạm và bản chất của quá trình sư phạm
Nếu coi hoạt động sư phạm phục vụ 3 mục đích: giảng dạy, giáo dục và phát triển thì giao
tiếp sư phạm có vai trò:
+ Là phương tiện để giải quyết nhiệm vụ giảng dạy vì giao tiếp sư phạm đảm bảo sự tiếp
xúc tâm lý với học sinh, hình thành động cơ tích cực học tập, tạo bầu không khí tâm lý trong nhận thức, tìm tòi
+ Là sự bảo đảm tâm lý – xã hội cho quá trình giao tiếp vì nhờ giao tiếp sư phạm mà hình
thành được mối quan hệ giáo dục, tạo nên khuôn mẫu của lối sống, ảnh hưởng tới sự hình
thành các định hướng, các chuẩn mực, các kiểu sống của cá nhân và có sự tiếp xúc tâm lý
giữa thầy và trò. Điều đó đảm bảo kết quả của hoạt động học tập, khắc phục những trở
ngại tâm lý, hình thành các mối quan hệ liên nhân cách trong tập thể học sinh.
+ Là phương pháp tổ chức mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò, bảo đảm cho việc dạy và
giáo dục có hiệu quả bởi vì giao tiếp sư phạm đã tạo ra hoàn cảnh, tìn huống tâm lý kích
thích việc tự học và tự giáo dục của học sinh, khắc phục các yếu tố tâm lý kìm hãm sự
phát triển nhân cách trong quá trình giao tiếp: thiếu tự tin, lúng túng khi giao tiếp, …Tạo
điều kiện để phát hiện việc điều chỉnh tâm lý – xã hội trong quá trình phát triển và hình
thành các phẩm chất, nhân cách
-> Như vậy, giao tiếp sư phạm không chỉ là phương tiện, là công cụ để thực hiện mục
đích sư phạm mà còn là bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là một thành phần chủ đạo
trong cấu trúc năng lực của người thầy giáo, góp phần tạo nên nhân cách của họ
+ Nhờ có giao tiếp sư phạm nhà giáo dục mới tổ chức được hoạt động của mình, đồng thời
giao tiếp sư phạm là công cụ thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ giao tiếp giữa 5
các thầy cô giáo trong nhà trường.
+ Giao tiếp sư phạm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của học
sinh. Thông qua giao tiếp sư phạm mà nhà giáo dục truyển đạt những tri thức khoa học,
kinh nghiệm, trải nghiệm… còn người được giáo dục thì lĩnh hội tiếp thu tri thức, kinh
nghiệm chuẩn mực đạo đức để hình thành, phát triển tâm lý nhân cách cho chính mình.
Qua sự trao đổi thông tin giữa nhà giáo dục và người học sinh đã giúp cho nhiều học sinh
hình thành được một số phẩm chất và nhân cách như: ý thức trách nhiệm, tôn trọng tập thể, lòng tự trọng….
+ Nhờ có giao tiếp sư phạm, nhà giáo dục đã đi sâu vào thế giới tinh thần của học sinh,
thiết lập được mối quan hệ gắn bó đối với học sinh, kích thích học sinh tính tích cực chủ
động, sáng tạo trong mọi hoạt động giao tiếp để trở thành những nhân cách có ích cho xã
hội và tự hoàn thiện bản thân.
Câu 5. Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm
Nguyên tắc: là hệ thống những chuẩn mực, quy định có tác dụng chỉ đạo, định hướng suy
nghĩ và hành động của con người.
Nguyên tắc giao tiếp sư phạm: là hệ thống những quan điểm có tác dụng chỉ đạo, định
hướng thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể giao tiếp, cũng như việc lựa chọn các
phương pháp, phương tiện giao tiếp trong hoạt động sư phạm.
Nguyên tắc mẫu mực, mô phạm
Mô phạm là khuôn mẫu, mực thước cho mọi người làm theo. Biểu hiện:
Mẫu mực về hình thức (trang phục, cử chỉ, hành vi)
Mẫu mực về thái độ quan hệ Mẫu mực về ngôn từ
Sự mẫu mực trong giao tiếp sẽ tạo ra uy tín của GV đối với HS
VD: Trong một lần, vì quá nóng vội, bạn đã phạt một học sinh vì cho rằng em đó đã vi
phạm kỉ luật. Nhưng rồi sau đó bạn phát hiện ra em đó ko có lỗi. Bạn sẽ xử lý ntn?
Cách xử lí:
Hãy thẳng thắn và trung thực với các em và với chính bản thân mình.
Hãy công khai xin lỗi học sinh đó trước lớp. Chờ một dịp thuận lợi, một buổi sinh hoạt
lớp với không khí vui vẻ chẳng hạn, bạn hãy nói với các em học sinh thế này: “Hôm
trước, cô đã hơi nóng vội nên đã phạt oan bạn A. Người lớn cũng có những lúc mắc
khuyết điểm. Cô rất xin lỗi bạn A và cả lớp. Chắc các em cũng là những học sinh rộng lượng đúng không
?”
Hoặc gặp riêng học sinh, bạn sẽ nói chuyện dễ dàng hơn, cô trò cảm thông và hiểu nhau.
Nguyên tắc tôn trọng nhân cách
Tôn trọng nhân cách là coi trọng phẩm giá, nguyện vọng của HS, không ép buộc. - Biểu hiện:
Biết khích lệ, động viên HS bày tỏ suy nghĩ, mong muốn; biết lắng nghe nhu cầu và 6 nguyện vọng của các em
Chân thành, trung thực trong phản ứng đối với HS;
Sử dụng ngôn từ phù hợp; không có những lời nói xúc phạm đối với HS trong mọi trường hợp
Cử chỉ, điệu bộ khoan hòa
Trang phục gọn gàng, lịch sự
VD: Với những học sinh ít nói có tính cách khép mình, có thể gọi phát biểu trong giờ sinh
hoạt, một câu hỏi rộng có thể chia thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn như một sự gợi ý đối với
học sinh đó. Ngoài ra, giáo viên nên giữ nụ cười của mình sao cho thân thiện, biểu hiện
mong chờ, điều này góp phần tạo cảm giác dễ chịu cho học sinh được hỏi.
Nguyên tắc thiện chí
Thiện chí là nghĩ tốt về HS, tạo điều kiện cho HS bộc bạch tâm tư, nguyện vọng Biểu hiện:
Trong dạy học: Hết mình vì HS, làm việc với lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao đối với HS
Trong đánh giá HS: Khách quan, công bằng, khích lệ sự tiến bộ và vươn lên của HS
Trong phân công nhiệm vụ: lòng tin đối với HS
Trong giải quyết các vấn đề quan hệ Trong sử dụng hình phạt
VD: Sau khi chấm bài kiểm tra, giáo viên nhận thấy có hai bài khá giống nhau, một của
học sinh giỏi, một của học sinh yếu hơn. Lúc đó, giáo viên không nên có đánh giá chủ
quan như bạn yếu chép bài bạn giỏi. Giáo viên có thể gọi riêng hai bạn lên để đối chất về
hai bài làm và đưa ra cách giải quyết công bằng nhất bất
kể hai bạn có học lực ra sao. Dù ai chép bài, giáo viên vẫn cần phải nhắc nhở nhẹ nhàng,
trừ nhẹ bài chép. Nếu bài không phải chép mà chỉ tình cờ giống nhau (điều này rất có thể
xảy ra với các môn tự nhiên) nếu bài làm tốt, giáo viên có thể khích lệ sự tiến bộ của bạn yếu.
Nguyên tắc tạo niềm tin
Tạo niềm tin là thể hiện sự chân thành, không sáo rỗng, kiểu cách. Biểu hiện:
+ Tin tưởng vào sự thay đổi và khả năng tiến bộ của HS
+ Tìm ra ưu điểm, mặt tích cực của HS thay vì miệt thị, phê phán
+ Khiến HS tin vào năng lực và nhân cách của mình
+ Ngay lập tức giải tỏa nghi kỵ của HS
VD: Trong lớp có một học sinh rất nghịch ngợm hay pha trò trong giờ. Giáo viên trong
trường hợp này, không nên có định kiến xấu với học sinh (bởi từ đó có thể nảy sinh
những đánh giá chủ quan tiêu cực của giáo viên trong quá trình tương tác của giáo viên
với học sinh này),luôn phải tin rằng học sinh luôn có mặt tốt, tìm hiểu nguyên nhân
họcsinh này nghịch như vậy là do đâu (có thể muốn thu hút sự chú ý, có thể là do thừa
năng lượng, hoặc do học sinh đó không có nhiều cơ hội thể hiện bản thân với người khác,
…), từ đó tìm hướng giải quyết thích hợp vì sự tiến bộ của học sinh đó. 7 Nguyên tắc đồng cảm
Đồng cảm = đặt mình vào vị trí của người khác. Biểu hiện:
Hiểu đặc điểm và hoàn cảnh của HS; hiểu được tâm tư, nguyện vọng và mong muốn của HS
Thân mật, gần gũi với HS
Khoan dung, độ lượng trong ứng xử
VD: hoàn cảnh sống cũng ảnh hướng khá nhiều đến đời sống tâm lí của học sinh. Một
học sinh luôn luôn không chú ý học, phá phách, không hợp tác luôn phạm khuyết điểm có
thể là do một tổn thương
đến từ tâm lí. Là người giao viên, chúng ta cần tìm hiểu để có thể có phương hướng giúp đỡ học sinh…
Câu 6. Phong cách giao tiếp sư phạm
Phong cách giao tiếp sư phạm là toàn bộ hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp
nhận, phản ứng hành động tương đối ổn định, bền vững của giáo viên và học sinh tỏng
quá trình giao tiếp sư phạm. Phong cách độc đoán
Là phong cách mà trong đó giáo viên khi ứng xử với học sinh thường xem nhẹ, không tính
đến đặc điểm tâm lí cá nhân của đối tượng giao tiếp. Vì vậy khi tiếp xúc với học sinh hay
đưa ra những yêu cầu xa lạ, mang tính chất áp đặt khiến cho các em khó thực hiện được Biểu hiện: Giữ khoảng cách với HS
Không để tâm đến những đòi hỏi, yêu cầu và nguyện vọng của HS
Nguyên tắc cứng nhắc, không nhân nhượng, không linh hoạt Duy ý chí Tác động + Ưu điểm:
Phong cách độc đoán có tác dụng nhất định đối với công việc cần phải hoàn thành trong
thời gian ngắn, có tính cấp bách
Phong cách này phù hợp với tập thể mới hình thành và tập thể không có sự thống nhất + Nhược điểm:
Khiến HS thụ động, lệ thuộc và thiếu tích cực
Tạo ra sự chống đối từ phía HS
Giảm những tác động giáo dục của GV đối với HS
Ví dụ: Trong quá trình giảng bài Toán, giáo viên giảng từ 1 phía, không để ý đến khả
năng nhận thức, tiếp thu của học sinh, yêu cầu học sinh làm theo cách của mình mà không
để ý đến ý kiến khác
- KLSP: Trong quá trình dạy học cần tránh việc lạm dụng phong cách độc đoán, bắt ép HS theo ý của GV
+ Về thái độ: Tôn trọng ý kiến HS, quan tâm để ý đến khả năng nhận thức, nhu cầu của 8 HS
+ Về hành vi: lắng nghe ý kiến từ HS, khích lệ HS phát biểu ý kiến. Sử dụng linh hoạt,
hiệu quả phong cách độc đoán trong quá trình xử lí tình huống nảy sinh trong giờ học trên lớp Phong cách tự do
- Phong cách tự do là phong cách mà giáo viên linh hoạt thay đổi cách ứng xử theo sự
thay đổi của hoàn cảnh giao tiếp Biểu hiện:
Dễ thay đổi về mục đích, nội dung, đối tượng Không câu nệ nghi thức
Không làm chủ được cảm xúc Tác động: + Ưu điểm
Có tính mềm dẻo, linh hoạt, khéo léo trong giao tiếp
Phát huy tính tích cực nhận thức, tính độc lập, sáng tạo và ý thức tự giác của HS
Tạo được bầu không khí thoải mái trong giao tiếp + Nhược điểm
Dễ phá vỡ các quy tắc quan hệ, dễ bị coi nhẹ; dễ rơi vào tình trạng hời hợt, nông cạn, thiếu tập trung
Ví dụ: Trong lớp tiết Toán, giáo viên tạo điều kiện cho HS phát biểu suy nghĩ, cách làm
của mình đồng thời hòa đồng với các em trong giờ nghỉ giải lao KLSP:
+ Trong quá trình giao tiếp cần quan tâm đến thái độ, hành vi, nhu cầu chính đáng của HS
+ Có thái độ đúng mực trong quá trình giao tiếp, kiểm soát tốt cảm xúc của bản thân +
Cần kết hợp linh hoạt với các phong cách giao tiếp khác Phong cách dân chủ
- Là phong cách giao tiếp mà thầy cô giáo coi trọng những đặc điểm tâm lý cá nhân, vốn
sống, kinh nghiệm, trình độ nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú và các mức độ tích cực
nhận thức của học sinh. Biết lắng nghe, tôn trọng và đáp ứng kịp thời nguyện vọng chính đáng của học sinh Biểu hiện:
Luôn gần gũi, thân mật với HS
Lắng nghe nguyện vọng, ý kiến của HS
Kịp thời giải tỏa những băn khoăn, vướng mắc, hoặc những vấn đề HS gặp phải
Tôn trọng nhu cầu và những những đòi hỏi chính đáng của HS
Biết đề ra những yêu cầu phù hợp và vừa sức đối với HS Tác động: + Ưu điểm:
Kích thích tính tích cực nhận thức của HS
Tạo ra ở HS tính độc lập, sáng tạo và ý thức trách nhiệm
Là phong cách giao tiếp có tác động tích cực nhất đối với hiệu quả dạy học và giáo dục 9
+ Lưu ý: Tuy nhiên phong cách dân chủ ở đây không có nghĩa là nuông chiều, thả mặc HS
hoặc xóa bỏ ranh giới thầy trò theo nghĩa “cá mè một lứa” mà là thể hiện sự tôn trọng đối
tượng giao tiếp, thể hiện rõ sự “tôn sư trọng đạo” ở HS
-Ví dụ: Khi soạn giáo án, GV đưa ra các bài toán phù hợp với trình độ nhận thức của HS.
Trong khi giảng Toán cho HS, GV luôn mời HS phát biểu cách làm của mình
=>KL chung: Ba loại phong cách giao tiếp sư phạm trên đều có những mặt mạnh, mặt
yếu nhất định. Xuất phát từ nguyên tắc của quá trình giao tiếp sư phạm, đòi hỏi giáo viên
phải thường xuyên thực hiện phong cách dân chủ. Tuy nhiên, người giáo viên trong hoạt
động giảng dạy và giáo dục học sinh nên vận dụng một cách linh hoạt, pha trộn cả ba loại
hình phong cách trên phù họp với từng hoàn cảnh, mục đích giao tiếp cụ thể... Việc tổ
chức quá trình giáo dục và dạy học ở nhà trường không thể phù hợp hoàn toàn với một
phong cách giao tiếp nào, mà chỉ phù hợp với từng loại công việc của lớp, của trường khi
giáo viên giao việc, hướng dẫn, tổ chức học tập, lao động... cho học sinh. Điều này thể
hiện rõ nghệ thuật giao tiếp sư phạm cảa từng giáo viên. Trong thực tế, có giáo viên quá
lợi dụng phong cách này hoặc phong cách khác trong tiếp xúc với học sinh, nên đã gây ra
ở học sinh tâm lí sợ hãi, hoặc coi thường giáo viên.
Câu 7.Phương tiện giao tiếp sư phạm (PT ngôn ngữ và PT phi ngôn ngữ) *Khái niệm
Phương tiện giao tiếp sư phạm là những yếu tố trung gian (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ…)
giúp GV, HS, các lực lượng giáo dục tiếp xúc, trao đổi thông tin, nhận thức lẫn nhau, ảnh
hưởng tác động qua lại với nhau trong quá trình giao tiếp * Phương tiện ngôn ngữ
Phương tiện ngôn ngữ trong GTSP là lời nói và chữ viết giúp giáo viên, học sinh, các lực
lượng giáo dục tiếp xúc, trao đổi thông tin, nhận thức lẫn nhau, tác động qua lại với nhau trong quá trình giao tiếp
*Phương tiện phi ngôn ngữ
** Hành vi, cử chỉ, điệu bộ
Trong giao tiếp sư phạm, hành vi giao tiếp của giáo viêncó đặc điểm là:
+ Được hình thành từ các nguồn gốc khác nhau
+ Khoan dung, cung kính, tôn sư, trọng đạo.
+ Hành vi giao tiếp sư phạm mang tính linh hoạt
- Điệu bộ, cử chỉ, tư thế, dáng đứng, đi
+ Điệu bộ là cử động của tay, chân, cơ thể …để diễn đạt một điều gì đó hay phụ họa thêm cho lời nói.
dụ: vừa giảng bài, vừa đưa tay làm điệu bộ
Điệu bộ có thể góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động. Đối với giáoviên, điệu bộ phải do sự rèn
luyện theo yêu cầu sư phạm mà tạo thành 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23
Là 1 phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Việc bố trí một địa điểm giao tiếp phù hợp với
tính chất, mục đích, nội dung cuộc giao tiếp là hết sức quan trọng.
Địa điểm trong GTSP thông thường là lớp học, tuy nhiên cũng có khi là sân trường…
Địa điểm thường thoáng mát, sáng sủa, sạch sẽ, bàn ghế phù hợp với lứa tuổi học sinh + Lưu ý:
Lớp học là nơi diễn ra GTSP thì cần phải bài trí hài hoà, thuận tiện cho hoạt động của giáo viên và học sinh
Không gian lớp học hay 1 địa điểm khác để GTSP cần phải phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp Khoảng cách tiếp xúc: + Đặc điểm:
Là một phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp sư phạm
Nói lên mức độ tương tác nhau giữa các cá nhân. Một khoảng cách hợp lý giữa hai người
ѕẽ tạo nên ѕự hài hòa, thoải mái trong buổi nói chuуện.
Trong mọi loại giao tiếp đều cần có khoảng cách không gian giữa hai chủ thể giao tiếp.
Trong giao tiếp sư phạm, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra khoảng cách thích hợp giữa giáo
viên và học sinh là 3,5m, độ cao chữ viết trên bảng là 5cm.
Khoảng cách giao tiếp sư phạm có tính linh động tuỳ tình huống giao tiếp. + Lưu ý:
Chọn khoảng cách phù hợp để giao tiếp hiệu quả, không quá xa mà cũng không quá gần,
nếu quá xa thì mức độ giao tiếp sẽ càng thấp dẫn đến hiệu quả của cuộc giao tiếp không cao.
Nếu đám đông càng lớn, ta càng phải đứng cách xa để có thể bao quát hết cả hội trường.
Sử dụng hợp lí khoảng cách giao tiếp trong giao tiếp sư phạm là yêu cầunghiệp vụ đối với giáo viên. ** Thời gian Đặc điểm:
+ Giúp cho đối tượng giao tiếp căn chỉnh được thời lượng, nội dung của cuộc giao tiếp +
Cách thức sử dụng thời gian cho chúng ta biết được nhiều điều về họ, như: việc đến muộn
có nghĩa là coi thường mọi người.
+ Thời gian là thước đo, căn chỉnh giúp quá trình diễn ra giao tiếp có điểm dừng, nghỉ đển
cuộc giao tiếp được diễn ra dài hơn mà không gây sự mệt mỏi cho đối 24 tượng giao tiếp. Lưu ý:
+ Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên cần sử dụng hợp lí thời gian để tránh các hiện tượng
phí thời gian vô ích hoặc bị: “cháy giáo án”
+ Không chỉ giáo viên mà học sinh cũng cần đến lớp đúng giờ để đảm bảo quá trình giao
tiếp hay dạy học có hiệu quả. ** Sự im lặng Đặc điểm:
+ Im lặng được dùng như dấu hiệu của sự tôn trọng
VD: khi giáo viên giảng bài thì học sinh chăm chú lắng nghe, im lặng không nói chuyện với nhau
+ Trong giao tiếp sư phạm, việc giáo viên sử dụng sự im lặng hoặc điểm dừng khi đang
nói có tác dụng tập trung chú ý hoặc kích thích tư duy của học sinh và thu được kết quả tôt
nhất trong việc tiếp thu kiến thức - Lưu ý:
+ Cần phải tuỳ vào từng trường hợp và xem xét có cần im lặng hay không.
+ TrongGTSP với học sinh thì giáo viên không nên Im lặng quá lâu dễ làm cho học sinh bị sợ.
+ Cần sử dụng sự im lặng phù hợp vừa thể hiện sự tôn trọng với các em vừa không làm
mất đi sự tự tin của các bạn học sinh trong quá trình giao tiếp.
=> Kết luận chung: Trong giao tiếp sư phạm cần vận dụng các phương tiện giao tiếp
đúng lúc và nên kết hợp có các phương tiện với nhau để giúp cho quá trình giao tiếp sư
phạm diễn ra hiệu quả, đạt kết quả như mong muốn.
Câu 8.Kỹ năng giao tiếp sư phạm (KN lắng nghe, KN thuyết phục, KN quản lý cảm xúc,
KN giải quyết tình huống sư phạm)
* Khái niệm kỹ năng giao tiếp SP
KNGTSP là sự phối hợp phức tạp giữa những chuẩn mực hành vi xãhội cá nhân với sự
vận động của cơ mặt, ánh mắt, nụ cười, tư thế củađầu, cổ, vai, tay, chân, đồng thời với
ngôn ngữ nói, viết của người giáo viên.
Sự phối hợp hài hòa, hợp lý giữa các vận động đều mang một nộidung tâm lý nhất định,
phù hợp với những mục đích, ngôn ngữ, nhiệm vụ giao tiếp cần đạt mà giáo viên là chủ thể
Kỹ năng giao tiếp sư phạm được hình thành qua: 25
+ Những thói quen ứng xử được xây dựng trong gia đình.
+ Do vốn sống kinh nghiệm cá nhân qua tiếp xúc với mọi người, trong các quan hệ xã hội…
+ Rèn luyện trong môi trường sư phạm qua các lần thực hành, tiếp xúc với học sinh (thâm
niên nghề càng cao thì KNGTSP càng hợp lý).
=> Khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của người giáo viên để nhận thức nhanh
chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và
bản thân, đồng thời sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách
tổ chức, điều khiển điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục Kỹ năng lắng nghe
Khái niệm Là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm vào việc quan sát, tập trung chú
ý cao độ để nắm bắt thông tin, hiểu được cảm xúc, thái độ, quan điểm của đối tượng giao
tiếp, đồng thời giúp đối tượng giao tiếp cảm thấy được tôn trọng, quan tâm và chia sẻ.
Mục đích của kĩ năng lắng nghe: giúp giáo viên thu thập được những thông tin cần thiết
trong quá trình giáo dục; thể hiện sự tôn trọng, quan tâm, thấu hiểu và tạo mối quan hệ
hợp tác tích cực với đối tượng
Biểu hiện của kĩ năng lắng nghe
Tập trung chú ý tối đa vào những gì đối tượng nói: im lặng, chăm chú, không ngắt lời,
không phản bác, không làm việc khác trong khi nghe
Tập trung quan sát, nhận biết được hành vi, cử chỉ, cảm xúc của học sinh và giải nghĩa
chính xác những biểu hiện phi ngôn ngữ của đối tượng
Đưa ra những phản hồi phù hợp với nội dung đối tượng đã nói và những cảm xúc của họ;
đặt câu hỏi để làm rõ hoặc gợi mở cho họ tiếp tục nói; nhấn mạnh hay mở rộng những điều họ nói
Khuyến khích: sử dụng những đáp ứng không lời để thể hiện sự quan tâm và khuyến
khích đối tượng như: tiếp xúc bằng mắt và có những động tác đáp ứng thích hợp với
những chia sẻ của đối tượng (gật đầu, hơi ngả người về phía đối tượng giao tiếp…) 26
=> Giáo viên có kĩ năng lắng nghe tốt:
− Duy trì tiếp xúc bằng mắt với đối tượng
− Không ngắt lời đối tượng
− Không vội vàng đưa ra kết luận
− Nghe chính xác nội dung những điều đối tượng nói
− Có thể đưa ra những tín hiệu cho đối tượng thấy rằng họ đang được lắng nghe
−Biết phân tích các thông tin để đặt câu hỏi làm rõ vấn đề đang được chia sẻ
− Không hỏi những câu không liên quan đến vấn đề đang được chia sẻ
− Nhận diện được những cảm xúc người nó
Cách thực hiện kĩ năng lắng nghe
Bao gồm 5 bước: 1. Tập trung, 2. Tham dự, 3. Hiểu, 4. Ghi nhớ, 5. Hồi đáp, 6. Phát triển.
Trung tâm của chu trình lắng nghe này là mong muốn thấu hiểu của giáo viên đối với đối tượng Bước 1: Tập trung
+ Thể hiện thái độ toàn tâm toàn ý để lắng nghe đối tượng. Giáo viên chỉ chú ý vào người
nói, thể hiện sự mong muốn lắng nghe, không được tranh thủ làm việc khác hay nhìn lơ đãng xung quanh
+ Tôn trọng bản thân người nói và những gì họ nói
+ Khuyến khích người nói cởi mở hơn
+ Nghe chính xác điều người nói muốn truyền tải
+ Hiểu đúng ý đối tượng muốn nói gì Bước 2: Tham dự
+ Hòa vào với nội dung câu chuyện và trạng thái xúc cảm của đối tượng
+ Thể hiệnrõ giáo viên đang lắng nghe thông qua các biểu hiện: cử chỉ, nét mặt và lời nói
như: gật đầu, biểu hiện đồng cảm qua nét mặt, sử dụng những từ có nghĩa đồng tình (ah,
uh, oh, vâng, dạ, thế ạ, …) Bước 3: Hiểu
+ Kiểm tra lại sự chính xác của những thông tin đã tiếp nhận và chứng tỏ mình đã hiểu
đúng những gì đối tượng nói bằng việc nhắc lại những từ khóa, ý quan trọng mà đối tượng đã trình bày
+ Lặp lại thông điệp đối tượng đã nói
+ Trình bày lại nội dung củađối tượng theo cách hiểu của mình
+ Đặt các câu hỏi để xác nhận như: 27
Có phải ý của anh/chị/em là…?
Theo như tôi hiểu thì anh/chị/em muốn nói….?
Tôi hiểu như thế này có đúng không…? Bước 4: Ghi nhớ
Chọn lọc thông điệp/nội dung chính mà đối tượng muốn truyền tải
Ghi chép/ghi nhớ những nội dung chính, thông tin cần thiết trong buổi giao tiếp
Bước 5: Hồi đáp Giáo viên phải trả lời, giải đáp các băn khoăn, thắc mắc của họcsinh
trong điều kiện có thể.
Cung cấp thông tin cho đối tượng
Giải đáp thắc mắc giúp đối tượng hiểu hơn vấn đề
Cho đối tượng thấy họ được lắng nghe, được hiểu, được khích lệ để tiếp tục chia sẻ
Bước 6: Phát triển Làm cho câu chuyện rõ ràng hơn, sâu sắc hơn và có thể mở rộng ra
ngoài nội dung ban đầu Giáo viên đặt câu hỏi để làm rõ các vấn đề, hoặc phát triển thêm
các ý kiến khác mà học sinh chưa đề cập đến hoặc không có ý định đề cập đến.
=> Quy trình 6 bước này liên tục lặp đi lặp lại trong quá trình giao tiếp sư phạm đảm bảo
lắng nghe một cách hiệu quả nhất.
Kỹ năng quản lí cảm xúc
Khái niệm: Là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân để nhận
diện, xử lý và điều chỉnh cảm xúc của bản thân một cách phù hợpvới đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp.
Quản lý cảm xúc là một quá trình, để có kĩ năng quản lý cảm xúc đòi hỏi cần thời gian rèn
luyện và cần những kỹ thuật/cách thức để đạt được mục đích mà chúngta mong muốn.
Biểu hiện của kỹ năng quản lý cảm xúc
Biết nhận diện cảm xúc của bản thân và đối tượng giao tiếp
Biết làm chủ trạng thái cảm xúc của mình và điều khiển, điều chỉnh các cảm xúccủa bản
thân cho phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp 28
Không để những cảm xúc tiêu cực điều khiển hành động, lời nói của mình
Không đưa ra những quyết định ngẫu hứng, bất cẩn mà luôn suy nghĩ trước khi hành động.
Luôn có khả năng theo dõi được biểu hiện và mức độ cảm xúc của mình trong quá trình giao tiếp
+ Bộc lộ cảm xúc của mình với đối tượng giao tiếp bằng lời nói, hành vi, cử chỉ phù hợp.
+ Chế ngự các cảm xúc tiêu cực của bản thân Người giáo viên có kĩ năng quản lý cảm xúc
tốt là người luôn chủ động trong quá trình giao tiếp sư phạm/có trạng thái cảm xúc phù
hợp, không bị cảm xúc chi phối và điều khiển, đặc biệt là cảm xúc tiêu cực
Cách thực hiện kĩ năng QLCX Nguyên tắc
Mình là người điều khiển và chịu trách nhiệm về cảm xúc; không phải cảm xúc điều khiển mình;
Cần phải ý thức về nguyên nhân, lý do gây ra CX
Có quyền thể hiện tất cả các dạng cảm xúc tích cực và tiêu cực, nhưng phải nhớ: cảm xúc
tiêu cực có những hệ lụy nếu như không kiểm soát được;
Cảm xúc tiêu cực không thể triệt tiêu hay kìm hãm mà cần có cách quản lý;
Luôn mong muốn nuôi dưỡng cảm xúc tích cực;
Hãy vị tha và rộng lượng với mọi người Các bước
- Bước 1: Dự báo (nhận thức, chuẩn bị) Dự báo các tình huống và trạng thái cảm xúc của
bản thân, của đối tượng giao tiếp
Bước 2: Nhận diện (hiểu lý do nảy sinh cảm xúc và gọi tên cảm xúc) Nhận biết được lí do
gây ra cảm xúc và gọi được tên của cảm xúc Cụ thể là nhận ra được các dạng cảm xúc
hiện thời của bản thân chỉ ra chính xác cảm xúc mà cá nhân đang trải nghiệm là gì
Bước 3: Thực hiện cách quản lý cảm xúc
Cảm xúc nảy sinh cũng do yếu tố nhận thức khác nhau về cùng một sự kiện→ Có thể
quản lý được cảm xúc của bản thân thông qua việc thay đổi các tác nhân bên 29
trong (nhận thức) hay các yếu tố bên ngoài (không gian, thời gian, hoạt động ...) bằng cách:
+ Điều chỉnh nhận thức Nhận thức là cơ sở của thái độ (cảm xúc) và hành vi, điều chỉnh
nhận thức là điều chỉnh cái gốc, là giai đoạn đầu tiên giúp cá nhân có được hiểu biết về sự
kiện để từ đó có thể có những thái độ rung cảm khác nhau và dẫn đến phản ứng hành vi riêng.
+ Do mối quan hệ qua lại giữa nhận thức- thái độ- hành vi nên thay đổi hành vi sẽ dẫn đến
thay đổi cảm xúc. Ví dụ: khi đang trải nghiệm cảm xúc buồn nếu tìm đến những hoạt động
như đi chơi thể thao, nói chuyện với bạn bè, người thân sẽ khiến thay đổi sự chú ý và tạo
hứng thú, giúp cho cảm xúc buồn giảm bớt Viết nhật k cũng là cách để giải tỏa cảm xúc
đang trải nghiệm, nhưng đồng thời việc viết ra cũng là công cụ giúp chúng ta một lần nữa
nhìn lại những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của mình và thấy cần phải thay đổi gì
Các kĩ thuật và biện pháp khác:
+ Thư giãn (Hít thở sâu): cách này sẽ cung cấp thêm một lượng oxy phản ứng thay đổi
sinh lý khi cơ thể giúp chúng ta bình tĩnh hơn.
+ Sử dụng thời gian tạm lắng/thay đổi vị trí là cho phép mình thoát khỏi cảm xúc hiện tại,
khỏi bối cảnh gây cảm xúc hiện bằng cách rời đi chỗ khác
+ Kỹ thuật self-talk (tự nói với bản thân mình): là tự nói thầm với bản thân những câu nói
chất vấn chính mình - Sử dụng sự hài hước: tìm ra yếu tố hài hước trong tình huống để
hóa giải hoặc giảm bớt những cảm xúc tiêu cực ở cả hai bên.
+ Thay đổi chú ý: là sự chuyển mục tiêu tri giác một cách có chủ ý sang đối tượng khác để
tạo khoảng thời gian cho cảm xúc “lắng” xuống cũng như tránh các phản ứng hành vi tiêu cực.
+ Ngừng suy nghĩ: “cắt” dòng suy nghĩ tiêu cực dẫn đến cảm xúc tiêu cực
+ Giao tiếp quyết đoán: bày tỏ cảm xúc nhưng với thái độ dứt khoát và không công kích,
đổ lỗi hay chỉ trích người gây ra cảm xúc cho mình.
Bước 4: Điều chỉnh và hoàn thiện kỹ năng quản lý cảm xúc Sau khi trải nghiệm và áp
dụng những kỹ thuật, biện pháp khác nhau để quản lý cảm xúc của mình, bước tiếp theo
cá nhân sẽ rút kinh nghiệm, nêu ra bài học cho bản thân trong quá trình các tình huống
tương tự hoặc những tình huống khác trong tương lai. Kỹ năng thuyết phục Khái niệm 30
Thuyết phục Là quá trình thay đổi hoặc cải thiện thái độ, niềm tin hoặc cử chỉ đối với một
kết quả được xác định trước thông qua sự tuân thủ tự nguyện Kurt. W Mortensen - Nhiều
tác giả khác lại cho rằng thuyết phục là đưa ra những tình tiết, sự kiện để phân tích, giải
thích, đánh giá làm cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, làm theo
Như vậy, thuyết phục là phương pháp tác động vào nhận thức của con người bằng lý lẽ là
chính PP này được xây dựng trên cơ sở tính lôgic, tính chặt chẽ, xác đáng của các lập luận
nhằm làm thay đổi quan điểm, thái độ của người khác, làm cho người khác tin theo, làm
theo hoặc xây dựng quan điểm mới. Hiệu quả của thuyết phục phụ thuộc vào: uy tín của
người thuyết phục, tính chặt chẽ và lôgic của lý lẽ đưa ra, một số đặc điểm tâm lý cá nhân,
hoàn cảnh diễn ra sự thuyết phục, cách thức thuyết phục
Kĩ năng thuyết phục Là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của giáo viên để tác
động, cảm hóa làm thay đổi quan điểm, thái độ, niềm tin của học sinh/phụ huynh/đồng
nghiệp, làm cho họ tin tưởng, nghe theo và làm theo Người giáo viên có khả năng thuyết
phục để người khác tin tưởng, nghe theo và làm theo cũng chứng tỏ rằng họ có khả năng
gây ảnh hưởng và có uy tín thật sự với người khác
Biểu hiện của kĩ năng thuyết phục
Biết chọn thời điểm thuyết phục thích hợp
Biết lựa chọn cách thức thuyết phục phù hợp với từng đối tượng: bằng lời nói, việc làm bằng tình cảm
Có lý lẽ, lập luận logic, chặt chẽ, có minh chứng
Biết tôn trọng, lắng nghe và dành thời gian cho đối tượng suy nghĩ, bày tỏ quan điểm, cảm
xúc - Thừa nhận/khen ngợi (một cách khách quan) cái hay, cái đúng trong quan điểm của
đối tượng - Biết dẫn dắtđối tượng thay đổi quan điểm/thái độ/hành vi theo hướng tích cực
Các bước thực hiện kĩ năng thuyết phục
Bước 1: Tạo không khí bình đẳng, tôn trọng và thể hiện thànhý/thiện chí của mình với đối tượng
Bước 2: Lắng nghe đối tượng bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc
Bước 3: Thừa nhận hoặc khen ngợi những điểm phù hợp trong quan điểm/ý kiến của đối tượng
Bước 4: Chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quan điểm/ý kiến của đối tượng và đề nghị họ thay đổi 31
+ Lời lẽ nhẹ nhàng, lịch sự ngắn gọn, có trọng tâm không gây áp lực
+ Lý lẽ đưa ra phải rõ ràng, lập luận logic, chặt chẽ và có minh chứng cụ thể
Bước 5: Tổng kết và khắc sâu lại thông điệp cần thuyết phục đối tượng thay đổi
Bước 6: Ghi nhận kết quả (Đo kết quả thay đổi bằng hành vi, khôngbằng lời nói)
-> Lưu ý: quá trình thuyết phục cần theo dõi sát các biểu hiện phi ngôn ngữ của họ để có
sự điều chỉnh phù hợp Nếu đối tượng không thay đổi, hay thái độ xấu đi thì không nên
tiếp tục; mà có thể chuyểnchủ đề khác Nội dung cũng như phương thức nói chuyện cũng
phải theo đó mà thay đổi, hoặc chọn thời điểm khác
Kỹ năng giải quyết tình huống SP (một số tình huống cho câu 9, 10)
Câu 9.Thực hành giải quyết tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với học sinh
Câu 10.Thực hành giải quyết tình huống giao tiếp sư phạm giữa giáo viên với cha mẹ học sinh Các tình huống:
GIAO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VỚI GIÁO VIÊN
Khi chấm bài giáo viên B thấy có 2 bài làm của 2 học sinh giống hệt nhau. Là giáo viên,
trong trường hợp đó, bạn sẽ xử lý như thế nào? Câu trả lời:
Nhận thức và biểu đạt vấn đề, xác định và tìm hiểu nguyên nhân:
Bài làm của hai học sinh giống hệt nhau trong trường hợp môn học đó là các môn khoa
học xã hội( văn, sử, địa,…) hay các môn học thể hiện được tính cá nhân trong bài làm thì
có hai khả năng: một là một trong hai học sinh chép bài của bạn còn lại và hai là 2 HS
cùng chép bài từ một tài liệu. Còn đối với các môn học như toán, lý, hóa,… việc trình bày
đúng giống nhau cũng có khả năng xảy ra. Vì vậy GV cần xem xét thật kĩ trước khi xử lí.
Trên thực tế, nếu bạn là GV đã dạy 2 HS đó được khá lâu thì chắc cũng có những nhận
định về đạo đức cũng như lực học của 2 HS, tuy nhiên không nên vội vàng kết luận. Các cách xử lý:
Phương án 1: Trong giờ trả bài trên lớp, GV trực tiếp nêu ra vẫn đề và yêu cầu 2 HS giải
thích và tự nhận lỗi. Nếu 2 HS đó không chịu nhận ai là người chép 32
bài thì sẽ cho 2 HS đó điểm kém hoặc chia đôi điểm bài kiểm tra. Nếu 2 HS đó nhận lỗi
thì cho 2 em đó kiểm tra lại hay kiểm tra miệng luôn trên lớp. Phương án 2:
+ Thực hiện trả bài trên lớp bình thường, có những lời khen và động viên với những bài
làm tốt và động viên các em có bài làm còn thấp có gắng trong những bài kiểm tra sau.
+ Kể một câu chuyện giáo dục con người phải biết trung thực, thành quả do mình làm ra
thực sự đáng quý và cho dù kết quả như thế nào thì nó cũng sẽ đem lại cho bạn một bài
học và từ đó rút cho mình những kinh nghiệm và ngày càng tốt hơn.
+ Trao đổi riêng với 2 HS đó. Nếu hai học sinh đó thực sự hối lỗi và nhận lỗi thì tha lỗi
cho HS, khuyến khích 2 em sửa lỗi, cho 2 em về cùng ôn tập lại và vào tiết sau GV sẽ gọi
2 HS lên trả lời và lấy điểm đó là điểm kiểm tra. Nếu 2 HS đó không có thái độ nhận lỗi
thì cho 2 HS đó cùng làm ngay tại đó một bài kiểm tra và giải thích tại sao GV lại cho 2
em đó làm lại bài. Sau đó GV cầm 2 bài kiểm tra cũng rút ra những nhận xét, cách khắc
phục lỗi trong bài trong những bài kiểm tra sau. Nếu như bài này không phải do chính
những HS đó viết thì chắc hẳn việc rút kinh nghiệm sửa sai là không thể.
Phương án 2 là phương án xử lí tối ưu hơn, vì:
Điều quan trọng là cho HS tự nhận ra lỗi lầm của mình và phương án 2 giúp đạt được hiệu quả đó.
Nêu tên và xử phạt trự tiếp 2 HS đó trên lớp sẽ khiến 2 em đó xấu hổ với bạn bè hay bị
chúng bạn xười chê, điều này không tốt cho tâm lý của các em.
Bài học kinh nghiệm: Bài làm của 2 hay nhiều học sinh giống nhau có thể nói là một tình
huống rất hay gặp trong kiểm tra đánh giá kết quả trong trường lớp. Tình huống xử lý
quan trọng là phải làm cho HS tự nhận ra lỗi lầm và hiểu được việc chép bài của bạn để
đạt điểm cao thực sự lại có tác hại với chính bản thân HS hơn cái lợi trước mắt mà HS nhìn thấy.
Bạn đi dự giờ một đồng nghiệp cùng tổ chuyên môn dạy ở lớp 12A. Bạn phát hiện thấy
người đồng nghiệp đó trong lúc giảng bài liên tục mắng học sinh bằng những từ ngữ thậm
tệ như: “đồ ngu”, “đồ rác rưởi”, “đồ cặn bã”… Trong trường hợp đó bạn sẽ làm gì?.
- Vấn đề cần được giải quyết trong tình huống là: 33
+ Chỉ ra cho đồng nghiệp thấy việc họ mắng học sinh là không đúng theo quy định của
nghề nghiệp cũng như cái tâm, đạo đức của người làm thầy
+ Chỉ ra tác hại của việc mắng nhiếc học sinh thậm tệ như vậy không chỉ về mặt tâm lí mà
còn ảnh hưởng đến suy nghĩ và việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng đặc biệt các học sinh đang ở lớp 12 có rất nhiều áp lực trong thi cử
nên cần để các em có tâm lí thoải mái vui vẻ học tập khi tới lớp.
+ Tìm hiểu nguyên nhân vì sao giáo viên đó lại liên tục
+ Cần phải dùng biện pháp mềm mỏng, khôn khéo để người đồng nghiệp thấy được lỗi và
tác hại của việc họ làm mà không gây mâu thuẫn giữa 2 người
+ Có biện pháp để báo cáo với cấp trên để xử lí tình huống của đồng nghiệp nếu sau khi
trao đổi với giáo viên đó nhiều lần nhưng không thấy kết quả tốt.
- Để giải quyết được tình huống cần vận dụng các tri thức sau.
+ Nắm vững và vận dụng tốt được nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giao tiếp (tính mô phạm trong giao tiếp)
+ Tôn trọng nhân cách khi giao tiếp
+Có thiện ý trong quá trình giao tiếp
+ Cần linh hoạt ứng phó với các tình huống
+ Có kĩ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp
+ Kĩ năng nghe và biết lắng nghe, kĩ năng tự kiềm chế và kiểm tra đối tượng giao tiếp
+ Kĩ năng diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, mạch lặc, thuyết phục - Các cách giải quyết
+ GV dự giờ không nói gì, cũng không tìm hiểu và phản hồi với GV chủ nghiệm
đó. Tuy biết hành vi lời nói đó không đúng nhưng cũng bỏ qua
+ Sau giờ học GV dự giờ có gặp GV dạy tiết học đó và chỉ trích liên tục về hành vi
đồng thời đưa ra lời lẽ có thể là gây sức ép tâm lí với GV đó khi 34
muốn thưa lên hội đồng nhà trường sử lí nghiệm minh trường hợp này mà không hề tìm
hiểu nguyên nhân hay phản hồi của HS
- Phương án để giải quyết tình huống:
Em sẽ vẫn ngồi dự giờ và không đưa ra nói ngay ý kiến với GV đó trên lớp. Cuối giờ học
em sẽ gặp riêng lớp trưởng và lớp phó của lớp đó để hỏi rõ tình hình. Mục đích là để xác
định có phải buổi dạy nào GV đó cũng liên tục chửi mắng học sinh hay không hay là chỉ
có buổi học hôm đó. Đồng thời qua đó xác định cách giải quyết riêng với từng nguyên nhân khác nhau.
+ Trường hợp 1: GV chỉ chửi mắng HS vào buổi học đó thôi còn các buổi học khác thầy không như vậy.
Em sẽ tìm hiểu sơ bộ tình hình của GV đó vì có thể do áp lực từ gia đình hoặc các nhân tố
ngoại cảnh đã khiến thầy mất tự chủ trong lời nói của mình khilên lớp
Sau khi tìm hiểu có thể đã biết nguyên nhân hoặc chưa biết thì sau khi dự giờ em sẽ gặp
riêng GV đó để trao đổi.
“Sau khi dự giờ tiết học của anh, em có một vài nhận xét như sau: thứ nhất về điểm mạnh
là HS ngồi học rất ngoan không có hiện tượng nói chuyện làm việc riêng trong lớp. Anh
giữ kỉ luật lớp khá tốt. Tuy nhiên giờ dạy cũng có một số nhược điểm nên sửa chữa để thu
được kết quả tốt hơn. Em có thấy rằng trong giờ anh có nói với học sinh hơi nặng lời khá
nhiều lần. Em biết là mỗi giáo viên chúng mình đều nhận ra việc làm này là không được
cho phép và cũng không được làm như vậy. Em nghĩ là anh cũng biết những tác hại tiêu
cực của nó đổi với học sinh đặc biệt là các em đang ôn thi đại học đã rất căng thẳng nữa.
Em cũng đi dạy và nhiều buổi do công việc gia đình, áp lực cuộc sống làm mình thấy
bựcdọc khó chịu nhưng mình phải biết kiềm trế và làm chủ lời nói và hành động của bản
thân anh ạ. Nếu anh có việc gì khó khăn cần giúp đỡ hay chia sẻ anh có thể nói với em
em sẽ giúp anh hết sức có thể. Việc mắng 35
nhiếc học sinh là rất không nên, em mong rằng anh sẽ rút kinh nghiệm và không tái phạm nữa.”
+ Trường hợp 2: GV này luôn luôn chửi mắng học sinh trong tất cả các giờ học
Sau khi nghe phản hồi từ nhiều học sinh về vấn đề của GV đó thì em sẽ gặp trực tiếp và
trao đổi thẳng thắn, và sau đó có quan sát hành vi và lời nói của GV đó trong 1 khoảng
thời gian. Nếu không có chuyển biến thì cần phải phản hồi và nhắc nhở lần nữa. Nếu GV
đó vẫn cố làm sai thì cần báo lên nhà trường để tìm cách sử lí hợp lí.
=> Kết luận sư phạm: theo em là giáo viên thì không chỉ dạy học sinh về tri thức mà ta
phải chú ý tới giáo dục nhân cách và đạo đức của học sinh để dạy được học sinh thì chính
mỗi người giáo viên cũng phải tự rèn luyện bản thân để trở thành tấm gương cho học
sinh noi theo. Đồng thời khi đi dạy thì mỗi người gv cần kiểm soát hành vi và lời nói của
chính mình không để những chuyện cá nhân ảnh hưởng tới giờ lên lớp
Hôm nay giáo viên H. có tiết dạy ở lớp 11C. Một đồng nghiệp trẻ mới công tác được 3
năm đến xin dự giờ ở lớp của thầy. Khi thầy H. đang giảng bài bỗng người đồng nghiệp
trẻ đó nói to: “Chỗ này thầy giảng sai rồi”. Cả lớp học xì xào, bàn tán. Là giáo viên H.
trong trường hợp đó bạn sẽ làm gì?.
Phân tích tình huống: Đây là một tình huống khá phổ biến trong thực tế. Đồng nghiệp trẻ
muốn học hỏi cách giảng dạy nên đến xin dự giờ. Trong lúc giáo viên giảng bài cho học
sinh, đồng nghiệp trẻ chợt nhận ra kiến thức thầy giảng sai, thay vì góp ý cho giáo viên
sau giờ dạy, thì đồng nghiệp nói to: “Chỗ này thầy giảng sai”. Cả lớp học bàn tán, xì
xào trước ý kiến của đồng nghiệp trẻ. Cách xử lí: 36
Trong thực tế có nhiều cách giải quyết với tình huống này:
Làm ngơ câu nói của đồng nghiệp trẻ, coi như không biết, giáo viên tiếp tục giảng bài và nhắc cả lớp trật tự.
Giáo viên nhắc lớp trật tự, ổn định tiếp tục tập trung vào bài học và mời đồng nghiệp trẻ,
học sinh chỉ ra thắc mắc đồng thời giáo viên cũng kiểm tra lại kiến thức vừa giảng có bị sai không.
Nếu nhận thấy kiến thức bị sai, giáo viên xin lỗi cả lớp và nhấn mạnh lại nội dung đó đồng
thời cảm ơn đồng nghiệp đã góp ý.
Nếu sau khi kiểm tra và thấy kiến thức đó không sai thì giáo viên nhấn mạnh, giải thích lại
nội dung đó cho học sinh và đồng nghiệp đồng thời cảm ơn sự cho ý của đồng nghiệp
(không tỏ ra cáu gắt khi đồng nghiệp góp ý sai).
Tuy nhiên sau tiết học, giáo viên nên góp ý với đồng nghiệp nên góp ý cho giáo viên sau
giờ học chứ không nên nói to để ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.
Theo ý kiến của em, em sẽ xử lý tình huống trên theo cách b. Theo nguyên tắc giao tiếp sư
phạm giáo viên cần tôn trọng nhân cách giao tiếp tức cần tôn trọng ý kiến, hành vi, biết
lắng nghe ý kiến không phân biết đẳng cấp, không cáu gắt với đồng nghiệp trẻ. Đồng thời
nên sử dụng phong cách dân chủ để học sinh và đồng nghiệp cùng tham gia góp ý. Kết luận sư phạm:
Trong quá trình giảng dạy cần tôn trọng ý kiến và nhân cách của đồng nghiệp và học sinh
Giáo viên cần biết sửa chữa kiến thức cũng như góp ý thẳng thắn, thành thật, hợp
lý với đồng nghiệp không tỏ thái độ chê bai, phê bình.
Trong các trường hợp giáo viên cần thể hiện là nhân cách mẫu mực để học sinh học tâp. 37
Là Tổ trưởng chuyên môn của tổ tự nhiên ở trường Tiểu học thuộc huyện miền núi, thầy
V. đi dự giờ đột xuất lớp dạy của cô A. – một giáo viên trẻ mới có 2 năm tuổi nghề. Buổi
học này Cô A. dạy về phép chia cho học sinh lớp 4. Ngồi dưới lớp, thầy V. nhận thấy cô
A. dạy sai kiến thức cơ bản. Là thầy V. trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Tình huống nêu ra: trong một lần dự giờ đột xuất Thầy V phát hiện ra Cô A – một giáo
viên trẻ chưa có nhiều năm kinh nghiệm đã dạy sai kiến thức cơ bản.
Phân tích tình huống: Đối với một giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, thì việc sai
sót là khó tránh khỏi. Hơn nữa, đây là tiết dự giờ đột xuất, cô A gặp vấn đề về tâm lý có
thể là lo lắng, đặc biệt trước người có kinh nghiệm và chuyên môn cao hơn. Việc nhầm
lẫn cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, việc sai sót sẽ ảnh hưởng đến uy tín của giáo viên
cũng như ảnh hưởng tới kiến thức mà học sinh thu nạp được: các em sẽ hiểu sai. Mà
môn Toán lại là một môn khoa học cần độ chính xác cao tuyệt đối.
Một số cách giải quyết:
Phương án 1: Sau khi cô A ngừng lời, nói với cô A một cách tế nhị rằng cô đã sai
ở phần này … ( Lời nói thể hiện sự xây dựng đóng góp chứ không mang hơi hướng coi thường)
Phương án 2: Ngay lúc đó, xin phép cả lớp gặp riêng cô A ở ngoài để trao đổi một
cách thẳng thắn với thái độ đóng góp với cô về vấn đề này. Mong cô sửa sai và xin lỗi học
trò rồi tiếp tục bài học.
Phương án 3: Sau khi buổi học kết thúc, gặp riêng nói chuyện khéo léo với cô A
về việc cô đã dạy sai kiến thức cơ bản.
Nếu em là Thầy V, theo em cách xử lý thứ ba hợp lý nhất. Nếu nói trực tiếp ngay lúc đó
với cô A trước mặt toàn thể học sinh cả lớp về lỗi sai của cô 38
A sẽ làm cô mất uy tín với lớp, có thể khiến cô lúng túng khó xử tam thời chưa nhận ra
được lỗi sai của bản thân. Nếu để kết thúc tiết học mới trao đổi với cô A về lỗi sai này thì
các em học sinh đã được học một lượng tri thức sai lệch. Việc này sẽ ảnh hướng tới quá
trình tiếp thu tri thức ở những bài học sau trở nên khó khăn hơn. Vì thế, lựa chọn phương
án 2 là khả quan nhất. Thầy V đặt mình vào vị trí cô A hiểu được tâm trạng lo lắng của
cô ,vì thế thầy gặp riêng cô A ở bên ngoài giúp cô không lúng túng , khó xử trước học trò
mà có thời gian xem xét lại bài giảng của mình. Sau đó xin lỗi học trò và sửa lỗi sai trước học trò kịp thời.
Bài học kinh nghiệm: Là một giáo viên tương lai cần phải có kĩ năng xử lý tình huống linh
hoạt trước những tình huống bất ngờ, giữ vững tâm lý. Đồng thời cần chuẩn bị soạn bài
cẩn thận để tránh những lỗi sai kiến thức cơ bản không đáng có. Khi nhận được lời góp ý
tích cực từ những người chuyên môn cao cần lưu tâm, xem xét lại bài giảng của mình.
Lan là tổ trưởng chuyên môn của tổ Xã hội ở trường THCS. Cô đi dự giờ của giáo viên M.
– có thâm niên 10 năm trong giảng dạy ở tổ. Trong lúc M. giảng bài ở lớp 8A, Lan phát
hiện M. đã có một số sai sót về kiến thức trong bài giảng. Là tổ trưởng chuyên môn, trong
trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Nhận xét: Đây là mối quan hệ giữa các giáo viên với nhau trong cùng một trường, hơn
nữa là cùng một tổ chuyên môn. Cụ thể trong tình huống này: một giáo viên thuộc bộ môn
xã hội đã có thâm niên 10 năm trong nghề nhưng vẫn xảy ra sai sót về kiến thức trong quá trình giảng dạy.
Nếu là tổ trưởng chuyên môn, trong trường hợp đó có thể có các cách giải quyết như sau: 39
Phương án 1: Nể trình là đồng nghiệp và tránh mất lòng nhau nên lờ đi và bỏ qua, coi như không có gì.
Phương án 2: Sau khi kết thúc buổi dạy sẽ gặp trực tiếp người giáo viên đó và nghiêm
khắc phê bình vì đã có thâm niên lâu năm trong nghề lại để xảy ra sai sót nghiêm trọng
như vậy trong lúc dạy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh tiếng về chất lượng giáo dục của tổ, trường. Phương án 3:
Nếu có thể thì ngay trong tiết dạy đó có thể kín đáo nhắc nhở sai sót với người giáo viên
M để giáo viên đó có thể kịp thời chỉnh sửa sai sót và xin lỗi cả lớp.
Đợi sau khi kết thúc tiết dạy, sẽ nói chuyện với người giáo viên đó: Trước hết, hỏi xem
giáo viên đó đã phát hiện sai sót của mình chưa. Vì có thể sai sót đó là do trong lúc giảng
hăng say nói nhầm hoặc diễn đạt chưa thoát ý, ngay sau đó họ đã phát hiện ra. Khi đó
chỉ cần nhắc nhở giáo viên M lần sau nên cẩn thận hơn, tránh mắc phải những sai sót không đáng có như vậy.
Nếu người giáo viên đó không phải vì nhầm lẫn lời nói dẫn đến sai sót mà do họ hiểu chưa
đúng về phần kiến thức ấy thì sẽ góp ý, chỉ dẫn để họ hiểu chính xác về kiến thức đó.
Khuyên họ buổi lên lớp sau nên chỉnh sửa lại lỗi sai và nói lời xin lỗi với học sinh. Và
nhắc nhở lần sau nên cẩn thẩn hơn
Nếu tôi là người tổ trưởng chuyên môn trong trường hợp này, tôi sẽ lựa chọn xử lý
theo phương án 3: Góp ý để đồng nghiệp nhận ra sai sót và sửa chữa kịp thời là giúp đỡ
đồng nghiệp dần hoàn thiện hơn về năng lực chuyên môn. Nếu lờ đi và cho qua, như vậy
sẽ tạo 1 tiền lệ xấu trong quy tắc giao tiếp giữa các giáo viên trong tổ, trong trường. Vi
phạm nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giáo tiếp, thiếu kỹ năng thiết lập mối quan hệ
trong giao tiếp. Cũng không nên nghiêm khắc phê bình, vì bất cứ ai trong quá trình giảng
dạy cũng khó tránh khỏi sai sót. Như vậy vi phạm nguyên tắc đồng cảm và thiện chí 40
trong giao tiếp sư phạm, thiếu kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi, nghe và biết lắng nghe,
linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp.
Trong tình huống trên, chúng ta vận dụng nguyên tắc tôn trọng nhân cách, có thiện chí và
có niềm tin trong giao tiếp sư phạm; Vận dụng những kỹ năng nghe và biết lắng nghe, tự
chủ cảm xúc và hành vi, tự kiềm chế và kiểm tra đối tượng. linh hoạt, mềm dẻo và diễn
đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu trong giao tiếp.
Rút kinh nghiệm bản thân: Tương lai là một người giáo viên, tôi nhận thức được rằng phải
tôn trọng và có niềm tin vào đồng nghiệp. Dù là giáo viên trẻ mới ra trường hay giáo viên
thâm niên đều khó tránh khỏi những sai sót khi đứng lớp nên cần đồng cảm để thấu hiểu
nhau hơn. Khi mắc lỗi cần lắng nghe góp ý và chân thành biết ơn sự giúp đỡ của mọi
người để dần hoàn thiện nhân cách cũng như năng lực chuyên môn.
Hôm nay tổng kết khoá học và chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp của giáo sinh ở một trường
Cao đẳng vùng cao, có rất nhiều đại biểu đến dự, trong đó có Phó phòng đào tạo của
trường. Gần cuối buổi làm việc, Ban tổ chức mời đồng chí Phó phòng đào tạo lên phát
biểu. Ông nói khá nhiều về mục tiêu phấn đấu của thanh niên, trách nhiệm của người thầy
giáo…, ông luôn nhắc đi nhắc lại một câu hỏi: Các anh (chị) có quyết tâm thi đỗ 100%
không? Một đồng nghiệp (học cùng với đồng chí Phó phòng ở Đại học Sư phạm) vốn
không ưa phong cách sống của ông đã buột miệng nói to: Xem thầy đã tốt nghiệp chưa?
Cả hội trường xì xào bàn tán. Nếu là đồng chí Phó phòng đó bạn sẽ giải quyết như thế nào? Hướng giải quyết:
Tình huống trên nêu lên quan hệ giao tiếp sư phạm giữa giáo viên và giáo viên. Cụ
thể, trong tình huống này một đồng nghiệp (học cùng với đồng chí 41
Phó phòng ở Đại học Sư phạm) vì không ưa phong cách sống của ông Phó phòng nên sau
khi nghe ông Phó phòng hỏi: “Các anh chị có quyết tâm thi đỗ 100% không” thì đã buột
miệng nói to :”Xem thầy đã tốt nghiệp chưa” với ý chỉ trích ông Phó phòng này
Nếu là đồng chí Phó phòng, trong trường hợp đó, có thể có các cách giải quyết như sau:
Cách 1: Coi như chưa nghe thấy gì và tiếp tục công việc của mình.
Cách 2: Bằng một hình thức nào đó, có thể kể một câu chuyện về một người thầy nào đó
mà khi học trên trường không được nghiêm túc, lơ là, mải chơi nên có thể chưa tốt
nghiệp được ngay từ đầu. Tuy nhiên, sau đó người thầy ấy đã nhận ra tầm quan trọng của
việc học và trở thành một người thầy giáo tốt có ý nghĩa như thế nào? Nhờ đó mà người
thầy đó đã cố gắng để trở thành một thầy giáo mẫu mực và giữ chức vụ cao trong ngành
giáo dục ở địa phương. Và vì thế người thầy giáo đó không muốn học sinh của mình bị
vấp phải tình huống như mình ngày xưa nên luôn nhắc nhở các em phải cố gắng phấn đấu,
biết đặt ra mục tiêu cho mình và phấn đấu đạt được mục tiêu đó. Và người bạn cùng học ở
trường Đại học Sư phạm kia sẽ hiểu được tâm ý của mình.
Sau đó, có thể gặp người bạn kia sau buổi tổng kết để góp ý kiến và giải quyết khúc mắc giữa hai người
Cách 3: Phân bua luôn với người đồng nghiệp kia ngay trong buổi tổng kế
Nếu tôi là người Phó phòng trong tình huống trên, tôi sẽ chọn cách xử lý tình huống thứ
hai. Việc kể ra một câu chuyện như thế sẽ giúp người đồng nghiệp đó tự nhận ra hành vi
của mình là không phù hợp với hoàn cảnh lắm. Đồng thời, cách làm như vậy vừa hợp
tình hợp lý, vừa không làm sứt mẻ mối quan hệ giữa hai người
Trong tình huống trên, chúng ta vận dụng nguyên tắc tôn trọng nhân cách, có thiện chí và
có niềm tin trong giao tiếp sư phạm; Vận dụng những kỹ năng 42
nghe và biết lắng nghe, tự chủ cảm xúc và hành vi, tự kiềm chế, không nên có cái nhìn
quá gay gắt với đồng nghiệp của mình, cần phải biết tôn trọng lẫn nhau
Hai vợ chồng Sơn và Minh là giáo viên của một trường THCN thuộc huyện ĐS của tỉnh
TH. Trong đợt thi tốt nghiệp có một nữ giáo sinh N đến nhờ Minh “giúp đỡ” để thi chót
lọt môn Văn mà Sơn (chồng Minh) dạy. Minh đã nhận lời “giúp đỡ” giáo sinh N. Cô
đem việc này nói với chồng và đề nghị anh giúp đỡ em giáo sinh đó. Là Sơn, trong trường
hợp này bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Tình huống nêu ra : Một giáo sinh của thầy Sơn vì muốn thi tốt nghiệp chót lọt môn Văn
thầy dạy, nên đã đến nhờ vợ thầy “ giúp đỡ”.
Phân tích tình huống: tình huống này là tình huống mang tính phổ biến, trên thực tế những
việc như thế này xảy ra khá nhiều. Trong tình huống này hành vi của giáo sinh và cô
Minh đều sai. Với cương vị là một người giáo viên, cô Minh hẳn phải biết rằng hành
động “đi cửa sau” của học trò là điều cấm kị trong ngành, đáng lẽ ra cô nên thẳng thắn từ
chối và nói cho giáo sinh_một giáo viên tương lai biết hành động đáng lên án đối với một
giáo viên tương lai. Nhưng cô lại chấp thuận, vừa có lỗi với đạo đức nghề giáo, được coi
là “phạm tội”, thêm nữa cô không hề nói cho chồng biết việc này mà tự mình quyết định,
sau đó lại đề nghị thầy Sơn ( chồng cô) giúp giáo sinh này. Trong tình huống này, thầy
Sơn phải xử lý ổn thỏa cả bên vợ, cả bên học trò sao cho vừa giữ được đạo đức nghề
nghiệp, vừa làm cho vợ_một người giáo viên nhận ra được vấn đề nghiêm trọng của việc này.
Các cách xử lý tình huống:
Cách thứ nhất : Chấp nhận yêu cầu của vợ, giúp đỡ e học sinh thi chót lọt môn văn của mình. 43
Cách thứ hai : Từ chối đề nghị của vợ, trả lại “quà” mà vợ đã nhận của học sinh. Làm theo
nguyên tắc, đánh giá dựa trên năng lực của học sinh.
Cách thứ ba : Nói chuyện với vợ, kiên quyết không chấp nhận đề nghị của vợ. Chỉ ra cho
vợ ( cô Minh ) biết hành động của cô là trái với đạo đức nghề nghiệp. Thuyết phục và
nói rõ cho cô Minh hiểu để không còn những việc như thế này xảy ra, đồng thời bảo cô
trả lại “quà” xin giúp đỡ của giáo sinh. Thầy sẽ gặp giáo sinh đó tìm hiểu nguyên nhân
và chỉ ra giáo sinh đó biết hành động của giáo sinh là không phù hợp trong môi trường
sư phạm, là điều cấm kị. Và thầy thể hiện rõ quan điểm công bằng trong việc đánh giá
năng lực, khuyên giáo sinh đó nên cố gắng học tập đạt được kết quả tốt bằng chính năng
lực của mình, có khó khăn gì trong học tập có thể nhờ thầy và cô giúp đỡ.
Nếu em là thầy Sơn trong trường hợp trên em sẽ chọn cách xử lý số 3. Vì cách xử lý
thứ nhất là trái với đạo đức nghề giáo, trái với lương tâm, hại học sinh. Cách xử lý thứ
2 tuy cũng giải quyết được một phần của vấn đề nhưng chưa triệt để. Cách giải quyết
thứ 3, thầy vừa làm đúng theo nguyên tắc, vừa giúp vợ nhận ra lỗi lầm để sửa chữa, và
không để lặp lại hành vi sai trái, giúp học trò tiến bộ hơn bằng cách của mình. Thầy nên
nói với vợ trả lại “quà”, việc làm của vợ không những làm cho học sinh không chịu học
tập để tiến bộ mà còn ảnh hưởng đến tương lai của học sinh, tạo cho học sinh thói quen đi
cửa sau. Đồng thời việc làm này là trái với lương tâm, trái đạo đức, có câu “nghề dạy học
là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”, người giáo viên không chỉ cần có “tài”
mà cần phải có “đức”, làm như thế không phải thương học sinh, mà hại học sinh, còn làm
cho bản thân mình lương tâm cắn rứt. Là một giáo viên, thầy mong vợ thầy có thể hiểu ra
điều này và đừng để xảy ra việc này một lần nữa, hãy làm một nhà giáo công tư phân
minh, như một vị quan liêm chính. Còn về phía giáo sinh, hôm sau thầy sẽ gặp riêng giáo 44
sinh đó để nói chuyện, giữ thái độ bình tĩnh và tôn trọng học trò, tìm ra nguyên nhân giáo
sinh đó làm vậy. Đồng thời chỉ ra hành động sai trái của giáo sinh, khuyên giáo sinh đó
nên chăm chỉ học tập để đạt kết quả tốt, thay đổi và điều chỉnh hành động của bản thân
sao cho phù hợp với cương vị là một giáo viên tương lai. Những chỗ không hiểu hay thắc
mắc về môn Văn có thể gặp thầy và cô Minh để hỏi, thầy cô sẵn sàng giảng giải, thầy sẽ
dựa trên thực lực để đánh giá kết quả, chúc giáo sinh đó học tập tốt và đạt kết quả cao trong kì thi tốt nghiệp.
Bài học kinh nghiệm: Là một giáo viên tương lai, nên rèn luyện cho bản thân cách ứng xử
linh hoạt trong mọi tình huống. Cần giữ vững quan điểm công tư phân minh, giữ vững đạo
đức nghề nghiệp, kiên quyết từ chối những đề nghị “giúp đỡ” để qua môn,…v..v..Tìm
hiểu rõ nguyên nhân vấn đề, nhìn nhận mọi tình huống dưới cái nhìn khách quan và đưa ra
biện pháp giải quyết hợp lý.
Là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của một trường THPT, hôm nay L đi kiểm tra
đột xuất tiết giảng của cô giáo H. ở lớp 10C và anh đã phát hiện thấy cô H. không soạn bài
nhưng vẫn cứ lên lớp dạy. Nếu là người Hiệu phó đó, bạn sẽ xử lý giáo viên này như thế nào?
Phân tích tình huống: Tình huống xảy ra khi có một giáo viên tên H không soạn giáo án
trước khi lên lớp và bị thầy hiệu phó tên L “bắt quả tang”. Thông thường, là một giáo viên
thì cô H phải có chuẩn bị bài trước khi đến lớp, được thể hiện bằng việc có giáo án. Nếu
không soạn bài trước thì hiệu quả của tiết học sẽ không được đảm bảo. Là một phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn thì thầy L chắc hẳn phải rất coi trọng việc soạn bài trước
khi đến lớp của giáo viên. Việc “bắt quả tang” như này thì thầy L phải có cách giải
quyết vấn đề phù hợp, hợp lí, hợp tình. Khó khăn ở đây là xử lí giữa giáo viên với giáo 45
viên- là những người có lòng tự trọng rất cao trong xã hội nên hướng giải quyết phải
thật sự thấu tình đạt lí và đạt hiệu quả cao.
Mục tiêu giải quyết tình huống:
Giải quyết ngay lập tức và giải quyết lâu dài.
Không gây tác động xấu đến tiết học hiện tại của lớp.
Trên tinh thần dân chủ, vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo.
Vừa thể hiện được tinh thần trách nhiệm, làm đúng quy tắc của một thầy hiệu phó vừa
tránh mất lòng giáo viên.
Những phương án có thể đạt được mục tiêu tình huống đã xác định: Thầy giáo có thể xử lí
tình huống bằng cách sau:
1, Thầy gọi giáo viên ra ngoài nói chuyện, quở trách cô, bảo cô sau tiết dạy thì lên văn phòng kiểm điểm.
2, Thầy đi vào và dự giờ luôn tiết học đấy xem cô dạy thế nào. Nếu cô dạy tốt thì bỏ qua,
nếu cô dạy không tốt thì phạt thật nặng.
3, Trước khi xử lí thầy sẽ phải phân tích trong đầu một lúc. Cô H là đồng nghiệp như thế
nào? Cô đã có những đóng góp như thế nào trong việc giảng dạy cũng như công tác khác
trong trường? Nếu đây chỉ là một hôm hạn hữu, cô quên mang giáo án hoặc cô quên
soạn giáo án, nhưng kiến thức cô luôn nắm rất chắc và cô luôn biết mình phải giảng dạy
như thế nào cho học sinh trong một tiết học, thì sẽ xử lí nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên trong
những trường hợp chung thì thầy L nên gọi cô nhẹ nhàng để đi ra nói chuyện, trong khi đó
nhắc nhở học sinh tự đọc và làm bài và mình “xin cô” của lớp một vài phút. Thầy L nên
hỏi nguyên nhân tại sao cô không soạn bài, cô thấy khi mình không soạn bài trước thì có
thấy những khó khăn khi lên lớp không (bị lúng túng, không có hệ thống…), thầy sẽ giúp
cô tự nhận ra hậu quả. Nếu đây là lần đầu tiên thì thầy có thể nhắc nhở nhẹ nhàng còn các
lần sau thì tăng dần mức độ phạt (làm bản kiểm điểm, trừ điểm thi đua…). Sau khi tiết học kết thúc, cô 46
lên phòng hiệu bộ thì thầy có thể nói riêng với cô nhiều hơn về vấn đề này, có thể tìm hiểu
kĩ hơn về nguyên nhân, nếu có cô H gặp khó khăn gì đó thì thầy L sẽ có những lời khuyên
và những sự giúp đỡ trong khuôn khổ với tư cách vừa là đồng nghiệp vừa là sếp. Nhưng
dù thế nào đi nữa thì thầy cũng phải kiên quyết với việc giáo viên phải soạn giáo án trước
khi đến lớp để tạo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh.
Em chọn cách giải quyết thứ ba vì nó đáp ứng đầy đủ mục tiêu đề ra. Thầy giáo đã thực
hiện đầy đủ những nguyên tắc trong giao tiếp: mô phạm, tôn trọng nhân cách, có thiện ý và đồng cảm.
=> Kết luận sư phạm: Dù giữ chức vụ cao hơn trong một trường học thì người thầy giáo
vẫn là đồng nghiệp của giáo viên. Đã là đồng nghiệp thì phải thấu hiểu lẫn nhau. Bên cạnh
đó cũng không ngần ngừ trong việc chỉ ra lỗi sai cho đồng nghiệp, cùng khắc phục lỗi sai
đó và áp dụng những biện pháp thưởng phạt phù hợp. Vẫn phải giữ được cái uy của một
lãnh đạo và luôn sát sao đến tình hình dạy học của các thầy cô trong trường.
Khi kiểm tra hồ sơ dạy của giáo viên, thanh tra của trường phát hiện thấy cô V
– Tổ phó chuyên môn chưa có kết quả nhận xét, đánh giá môn học của học sinh ở 2
lớp 10A và 10B mà cô phụ trách. Là thanh tra của trường, lại là một đồng nghiệp với V,
bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Vấn đề xảy ra ở đây là khi thanh tra đi kiểm tra đã phát hiện giáo viên( Tổ phó tổ chuyên
môn) chưa có kết quả nhận xét, đánh giá của hai lớp mà cô đang dạy.
Là một thanh tra và là một đồng nghiệp,em xử lý tình huống này như sau:
Với tư cách là một thanh tra,thiếu sót của cô V cần được xử lý ngay khi phát hiện.Em sẽ
xử lý theo đúng quy định,phê bình cô V chưa làm tròn trách 47
nhiệm của mình và yêu cầu cô bổ sung kết quả nhận xét,đánh giá của hai lớp 10A và 10B vào hồ sơ dạy.
Với tư cách là một đồng nghiệp,em sẽ tìm cơ hội trao đổi với cô V về việc này, hỏi cô V
xem cô có gặp khó khăn gì hay không, tìm hiểu lý do tại sao cô ấy chưa hoàn thành
công việc.Sau khi biết lý do, có thể khuyên nhủ,giúp đỡ cô V giải quyết khó khăn và
công việc trong phạm vi của bản thân với tư cách đồng nghiệp,trên cơ sở không trái với
quy định của trường.Cũng có thể nhờ thêm đồng nghiệp khác cùng chuyên môn giúp đỡ
cô V nếu hiệu quả và thuận tiện hơn.
Theo em việc xử lý tình huống như trên là đảm bảo được các nguyên tắc sư phạm cơ bản:
Có thiện ý trong giao tiếp sư phạm
Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm: Quan tâm,thấu hiểu đồng nghiệp,tìm hiểu rõ hơn về
hoàn cảnh, khó khăn của họ và giúp đỡ họ
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đã sử dụng là:
Kỹ năng định hướng giao tiếp Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp
Qua việc xử lý tình huống trên em rút ra kinh nghiệm cho bản thân: Sau này khi trở thành
giáo viên, sẽ xảy ra nhiều trường hợp phải xử lý đồng nghiệp phạm lỗi, chúng ta một mặt
cần phải xử lý theo đúng quy định, thẳng thắn phê bình và không bao che cho đồng
nghiệp, mặt khác cần an ủi,giúp đỡ nếu họ có khó khăn.Việc này nếu xử lý không tốt sẽ
ảnh hưởng xấu tới quan hệ đồng nghiệp hiện tại cũng như trong tương lai, vì thế người
giáo viên cần xử lý thật khéo léo.
Theo Công văn của Sở Giáo dục, mỗi học kỳ các tổ chuyên môn phải tiến hành dự
giờ của ít nhất 50% số giáo viên trong tổ. Sau khi dự giờ A. – một 48
giáo viên của tổ Tự nhiên, cả tổ về phòng Hội đồng để rút kinh nghiệm giờ dự. Vừa vào
đến phòng Hội đồng, một số giáo viên trong tổ đã lên tiếng chê trách, phê bình tiết dạy
của A. một cách gay gắt. Là tổ trưởng chuyên môn của tổ đó bạn sẽ xử lý như thế nào?
Là tổ trưởng tổ chuyên môn tôi sẽ giải quyết tình huống như sau:
Phương án 1: Tôi sẽ lờ đi và tiếp tục buổi họp rút kinh nghiệm sau giờ dạy của A.
Phương án 2: Tôi sẽ đồng tình với người giáo viên đó và tiếp tục chỉ trích phê bình A.
Phương án 3: Là cách hợp lý nhất
Đầu tiên là phải làm dịu không khí bằng cách là bảo là các đồng chí bây giờ chúng ta họp.
Khi vào cuôc họp thì mời các thầy (cô) đưa ra các ý kiến, quan điểm của bản thân và yêu
cầu đồng nghiệp đưa ra các ưu điểm, và nhược điểm của bài dạy vừa qua.
Sau khi đợi tất cả mọi người phát biểu, thì mình sẽ là người cuối cùng đứng lên nói ra các
ý kiến. Lưu ý mình với vai trò là tổ trưởng thì nên là người trung hòa không khí trong
cuộc họp, không nên quá gay gắt với A, cũng như người giáo viên chỉ trích A. Cố gắng
nêu ra được những điểm tốt của giờ dạy, và nhấn mạnh những thiếu sót của A,và phải tích
cực cố gắng để cho mỗi giờ dạy sẽ ngày càng hay và bổ ích hơn nữa.
Có thể sau khi họp xong mình sẽ nên có một buổi nói chuyện với A, và ngưới giáo viên
phê bình A. Gặp A mình nên nói : ‘’ Bài dạy hôm qua chưa thực sự tốt, em hãy cố gắng
sửa chữa và trau dồi thêm kinh nghiệm của bản thân, cố gắng lắng nghe ý kiến của mọi
người, và nên chú ý tới học sinh nhiều hơn em nhé. Mình là giáo viên dạy Toán, kiến thức
đương nhiên quan trọng, nhưng để bài giảng thành công thì còn phụ thuộc nhiều yếu tố như…chữ viết, 49
cách trình bày, giọng nói, học sinh…. Chị sẽ cố gắng sắp xếp thời gian để dự nhiều tiết
dạy của em nữa.’’. Khi gặp thầy(cô) phê bình A: “ Tôi biết hôm qua bài dạy của A còn có
nhiều vấn đề còn thiếu sót, em ấy còn trẻ kinh nghiệm còn ít, chúng mình đi dạy cũng
nhiều năm rồi nên thông cảm, và hiểu cho A. Chúng mình là đồng nghiệp, còn dạy chung
một trường phải hiểu cho nhau, ai cũng có lúc này lúc khác, tôi nghĩ chắc cô hiểu. Cô đưa
ra ý kiến là rất tốt, nhưng không nên quá gay gắt, như vậy A hay người giáo viên nào cũng
sẽ buồn. Khi đi dạy, hơn ai hết tôi hay cô đều hiểu nghề này như thế nào, còn gì buồn hơn
khi mình không thể dạy được học sinh….’’
Trong tình huống trên chúng ta cần vận dung nguyên tắc giao tiếp trong sư phạm là : Tôn
trọng nhân cách trong giao tiếp,có thiện ý trong giao tiếp sư phạm . Kỹ năng giao tiếp sư
phạm là : Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm. Sau này sẽ là
một giáo viên, tôi nhận thức được rằng nên có cái nhìn không quá gay gắt với đồng
nghiệp, phải tôn trọng và thông cảm cho những ai đang đứng lớp.
GIAO TIẾP CỦA GIÁO VIÊN VỚI HỌC SINH
Trong 15 phút kiểm tra miệng trước khi giảng bài mới, cô B đã gọi một học sinh lên bảng
(cả lớp đều biết bạn học sinh đó là cháu ruột của cô). Nhưng học sinh đó không thuộc
bài và không trả lời được câu hỏi của cô. Nếu là cô B, bạn sẽ giải quyết như thế nào? Câu trả lời:
Nhận thức và biểu đạt vấn đề:
Đây là một vấn đề hay gặp trong giảng dạy, nó có liên quan tới sự đánh giá công bằng
của GV đối với từng đối tượng học sinh. Các cách xử lý: 50
Phương án 1: GV nhận xét câu trả lời của HS, nêu câu trả lời đúng và lơ đi phần đánh giá,
cho điểm và đề cập luôn vào bài mới. Phương án 2:
+ Xử lý tạm thơi: Là một giáo viên cần thể hiện thái độ công bằng trong kiểm tra đánh giá
kết quả. Trong trường hợp này cũng vậy. GV sẽ cho điểm đúng với câu trả lời của HS
và cũng như các HS khác, GV cho HS đó cơ hội để gỡ điểm vào những lần sau.
+ Xử lý lâu dài: Nói chuyện riêng với HS đó không chỉ với tư cách là một GV mà còn là
tư cách của một người cô. Giải thích cho em hiểu rõ nguyên nhân cô lại có cách xử lí như
vậy. GV động viên HS cố gắng học tập và có gì không hiểu GV sẽ tận tình chỉ bảo.
Nếu là GV B trong trường hợp này, em sẽ chọn cách xử lí số 2 vì: Cách xử lý này thể hiện
sự công bằng trong đánh giá kết quả của HS, GV không được có sự thiên vị vì bất cứ lý do
gì. Cách xử lý này còn giúp HS nhận ra sai lầm của mình và sửa chữa. Bài học kinh nghiệm:
Đây là tình huống khá nhậy cảm, GV đứng trong tình thế phải xử lý đảm bảo công
bằng lại vừa để HS đó hiểu và nhận ra lỗi khi không học thuộc bài và cố gắng học tập.
Bạn trừng phạt một học sinh vì cho rằng em đó phạm lỗi nhưng sau khi tìm hiểu thì mới
biết em học sinh đó không mắc lỗi. Là giáo viên trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Nhận thức vấn đề cần giải quyết:
+ Sự hiểu nhầm của giáo viên với học sinh
+ Sự thông cảm và tha thứ của học sinh với giáo viên khi giáo viên đó nhận ra là GV đã sử phạt nhầm
Các tri thức cần vận dụng để xử lí tình huống 51
+ Kĩ năng kiểm soát hành vi, lời nói
+ Kĩ năng giải thích trình bày nguyên nhân
+ Nguyên tắc tôn trọng trong giao tiếp
+ Kĩ năng nhận xét và giải quyết vấn đề
+ Kĩ năng lắng nghe và nhận lỗi
Các phương án giải quyết
+ GV dù nhận ra lỗi vẫn phớt lờ đi coi như không biết.
+ GV nhận lỗi với HS tuy nhiên không chân thành mà còn vẫn có phần đổi lỗi cho HS tại
sao lại không giải thích. Phương án giải quyết
Trong giờ sinh hoạt gần nhất, em sẽ xin lỗi học sinh đó trước mặt cả lớp và nói ra lí do vì
mình chưa tìm hiểu kĩ đã vội kết luận và phạt học sinh. Đồng thời nhắc nhở học sinh sự
việc này không chỉ mình cô cần rút kinh nghiệm mà đây còn là bài học của mỗi người
trong cuộc sống. Khi phải giải quyết và đối mặt với một vấn đề hoặc việc làm của người
khác chúng ta cần phải bình tĩnh để phân tích xem xét để đưa ra kết luận đúng nhất. Và
các hình phạt đối với học sinh đó sẽ được bỏ. => Kết luận sư phạm:
GV cần phải biết tự nhận lỗi và chỉnh sửa hành vi sao cho đúng đắn nếu như mình có lỗi
với học sinh. Việc đổ lỗi cho HS khi chưa biết rõ nguyên nhân thì sẽ dễ dẫn đền kết luận
sai lầm chính vì vậy trước khi quyết định thưởng phạt thì cần phải xem xét và tìm hiểu
tình huống rõ ràng. Khi mắc lỗi thì cần xin lỗi học sinh một cách chân thành, cởi mở đồng
thời cũng giảng giải cho các học sinh khác một bài học trong cuộc sống từ các tình huống thực tế
Trong lớp 9A có một số học sinh hư thường bị ghi tên vào sổ ghi đầu bài của lớp. Vì vậy
sổ này thường hay bị tẩy xoá để che dấu những khuyết điểm và các học sinh hư mắc
phải. Hôm nay sinh hoạt cuối tuần cô M. - giáo viên chủ nhiệm lớp lại một lần nữa nhận
thấy sổ đầu bài bị tẩy xoá. Là giáo viên chủ nhiệm đó, bạn sẽ giải quyết thế nào?
Tình huống: Lớp học có nhiều học sinh cá biệt thường xuyên tẩy xóa sổ đầu bài để che
dấu những khuyết điểm. Trong tiết sinh hoạt, giáo viên lại tiếp tục nhận thấy sổ đầu bài bị tẩy xóa. 52
Phân tích tình huống: Đây là một tình huống phổ biến trong thực tế.
Học sinh cá biệt để che dấu những khuyết điểm, những lỗi phạm qui với giáo viên để
không bị phạt, nhắc nhở mà tẩy xóa sổ đầu bài. Mặc dù giáo viên chủ nhiệm đã có nhắc
nhở nhưng chưa thực sự hiệu quả. Trong tiết sinh hoạt giáo viên nhận thấy học vẫn tiếp
tục tái diễn xóa sổ đầu bài.
Cách xử lý: Trong thực tế có thể xảy ra các cách xử lý như sau
Giáo viên tức giận mắng học sinh sau đó phạt các em đã tẩy xóa sổ đầu bài thật nặng.
Giáo viên lại tiếp tục chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng với cả lớp.
Giáo viên bình tĩnh kết hợp nhắc nhở học sinh và phê bình nhưng không quá nhẹ nhàng,
cần có chút kiên quyết. Giáo viên hỏi một số học sinh cá biệt có bị mắc lỗi trong tuần qua
không, để các em tự giác nhận sau đó mời lớp trưởng cho ý kiến. Giáo viên cũng cần chỉ
cho học sinh thấy phạm lỗi mà không dám nhận lỗi là việc làm không tốt.
Theo quan điểm của em, em sẽ xử lý theo cách c. Theo nguyên tắc giao tiếp sư phạm,
giáo viên cần thấu hiểu và đặt mình vào vị trí của học sinh cá biệt để hiểu các em nghĩ gì
và tại sao làm như vậy. Đồng thời giáo viên tạo điều kiện cho học sinh tự nhận lỗi, tự
kiểm điểm bản thân cũng như có phê bình ý thức của học sinh để không tái phạm. Giáo
viên cần kết hợp phong cách tự do và phong cách độc đoán để vừa tạo không khí thoải
mái vừa thể hiện sự kiên quyết. Kết luận sư phạm:
Trong giao tiếp sư phạm giáo viên cần đồng cảm, thấu hiểu và đặt vị trí vào học sinh
Giáo viên cần khoan dung đồng thời thể hiện sự kiên quyết trong xử lý học sinh phạm lỗi 53
Giáo viên luôn tạo điều kiện để học sinh tự nhận lỗi và xem xét bản
Giáo viên cần tạo sự gần gũi khi giảng giải trong giao tiếp. thân.
Một giáo sinh đi thực tập tốt nghiệp được phân công làm chủ nhiệm lớp 11A. Buổi đầu
tiên ra mắt học sinh, cô bị một số học sinh cá biệt trong lớp trêu chọc, gọi cô là “em
giáo”, thậm chí có em còn không đứng lên chào khi cô vào lớp. Là giáo viên đó trong
trường hợp này bạn sẽ giải quyết ra sao?
Tình huống nêu ra: Giáo sinh thực tập bị một số học sinh cá biệt trêu chọc, gọi là “em
giáo”, có em còn không đứng lên chào cô khi cô vào lớp.
Phân tích tình huống: Trong thực tế, học sinh thấy giáo sinh thực tập còn trẻ, lại chưa
có nhiều kinh nghiệm nên thường trêu chọc vui đùa. Trong trường hợp này, một số học
sinh cá biệt gọi cô là “ em giáo” và một số học sinh còn không đứng lên chào cô trong
buổi đầu cô bước vào lớp. Giáo sinh nếu không giữ vững tâm lý sẽ dễ lúng túng, ngại
ngùng khiến học sinh được đà trêu đùa thêm.
Một số cách giải quyết:
Phương án 1: Giáo viên lờ đi và tiếp tục buổi giới thiệu làm quen với lớp.
Phương án 2: Giáo viên cho cả lớp ngồi xuống, sau đó mời những bạn
vừa nói “em giáo” và các bạn không đứng lên chào cô ra khỏi lớp.
Phương án 3: Giáo viên giữ thái độ bình tĩnh, đưa mắt nhìn nhanh cả lớp và sau đó
dừng lâu hơn ở chỗ các học sinh vẫn còn đang ngồi chưa đứng lên chào cô. Sau khi cho
các em ngồi xuống, giáo viên bình tĩnh hướng ánh nhìn tới những học sinh cá biệt. Mở
đầu bằng câu nói hài hước “ Trông cô trẻ quá hay sao mà các em gọi cô như vậy”. Sau đó
tiếp tục nói chuyện trao đổi cởi mở với các học sinh. Sau khi kết thúc buổi học, giáo sinh thực tập sắp xếp 54
một buổi gặp gỡ riêng với giáo viên chủ nhiệm trước đây của lớp 11A để tìm hiểu tình
hình lớp, đăc biệt là tính cách các em học sinh cá biệt.
Phương án 3, theo em, là lựa chọn tối ưu nhất trong 3 phương án. Nếu xử lý theo cách 2
thì các hs đó sẽ không những không nhận ra vấn đề mà trong lòng còn thành kiến với cô
giáo sinh. Nếu xử lý theo phương án 1 thì những học sinh này sẽ có ý khinh nhờn, coi
thường giáo viên lần sau học sinh lại tiếp tục hành xử như vậy. Khi ta xử lý theo phương
án 3, giáo viên đưa ra tín hiệu tới những học sinh không đứng lên chào mình. Vì các
em cũng đã lớn, nên khi gặp ánh nhìn này các em sẽ tự động đứng lên. Giáo sinh sử dụng
câu nói hài hước đáp lại sự xưng hô “em giáo” giúp những học sinh đó tự động xem
xét lại lời nói của mình đã phù hợp chưa.
Bài học kinh nghiệm: Không phải đứng trước tình huống sư phạm nào giáo viên cũng xử
lý cứng nhắc, khuôn mẫu, phải khéo léo xử lý ứng biến phù hợp. Đặc biệt trong trường
hợp một giáo sinh thực tập, phải luôn giữu thái độ bình tình khi xảy ra các sự cố bất ngờ
trong những ngày đầu làm quen với lớp.
Khi sắp kết thúc bài giảng một học sinh trong lớp làm bạn bực mình vì những câu thắc
mắc “hóc búa” ngoài sự chuẩn bị của bạn. Bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Nhận xét: Đây là tình huống khá phổ biến trong môi trường học đường. Cụ thể là: Học
sinh có câu hỏi “hóc búa” khi sắp kết thúc tiết học khiến giáo viên cảm thấy có chút khó chịu.
Nếu tôi trong trường hợp ấy, có các phương án giải quyết như sau: Phương án 1: Trả lời 1
cách qua loa để kết thúc đúng giờ. Vì giờ nghỉ giải lao giữa các tiết học là rất ngắn nên
cần tận dụng để đảm bảo thời gian thư giãn lấy lại sức và chuẩn bị cho các tiết dạy tiếp theo 55
Phương án 2: Nếu ngay lúc đó đã nghĩ ra lời giải cho câu hỏi đó thì sẽ gợi ý cho em học
sinh ấy để em về nhà suy nghĩ và tìm lời giải. Và hẹn nếu em vẫn không làm được thì buổi sau cô sẽ chữa.
Phương án 3: Nếu ngay lúc đó chưa nghĩ ra hướng làm thì sẽ hẹn em buổi sau vì bây giờ
cô có việc bận (nếu có việc thật sự) hoặc nói thật rằng “tạm thời cô vẫn chưa nghĩ ra lời
giải cho câu hỏi này, để cô về nhà nghĩ thêm và sẽ trả lời em vào buổi học sau”. Như vậy
vừa có thời gian để suy nghĩ thêm về lời giải hoặc trao đổi, hỏi ý kiến đồng nghiệp
Nếu tôi là người giáo viên trong trường hợp này, tôi sẽ lựa chọn phương án 2 hoặc
3, tùy vào lúc đó đã nghĩ ra lời giải hay chưa. Chúng ta không nên trả lời qua loa, như
vậy là tự bộc lộ năng lực chuyên môn chưa tốt với học sinh khiến học sinh mất niềm tin
vào năng lực của người giáo viên, đồng thời khiến học sinh không tôn trọng nhân cách
của mình vì đã không thành thực mà kiếm cớ lấp liếm, trả lừoi qua loa, không dám thừa
nhận sự thực. Như vậy đã vi phạm nguyên tắc nhân cách mẫu mực và thiện chí trong giao
tiếp sư phạm, thiếu kỹ năng sư phạm là linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp
Trong trường hợp trên, chúng ta cần vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực, tôn
trọng nhân cách, có thiện chí trong giao tiếp sư phạm. Những kỹ năng cần thiết là kỹ
năng nghe và biết lắng nghe, tự chủ cảm xúc, hành vi, diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ
hiểu, linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp và điều khiển quá trình giao tiếp.
Rút kinh nghiệm bản thân: Sau này là một giáo viên, nên vui mừng vì co học sinh ham
học hỏi như vậy, khuyến khích các em không ngừng tìm tòi khám phá các kiến thức mới.
Không nên “thẹn quá hóa giận” khi gặp những câu hỏi khó ngoài khả năng của mình. Qua
đó cũng cần nhắc nhở bản thân phải không ngừng học tạp, trau dồi kiến thức kỹ năng để
dần hoàn thiện nhân cách và năng lực chuyên môn. 56
Trong lớp cô giáo L. chủ nhiệm có một học sinh hay gây gổ đánh nhau với bạn, học lực lại
quá yếu. Nhưng một lần cả lớp đi tham quan, em đó đã có hành động dũng cảm cùng
người khác bắt kẻ gian. Cô giáo chủ nhiệm và cả lớp đều chứng kiến chuyện đó. Là cô
giáo L., bạn sẽ làm gì trước tình huống đó. Cách giải quyết
Nhận xét: Đây là tình huống cũng thường gặp trong môi trường học đường. Hành vi của
học sinh có phần sai cũng có phần đúng nên đòi hỏi giáo viên phải có cách xử lý phù hợp,
mềm mỏng và được các học sinh trong lớp đồng thuận để nhận thấy nên làm gì và không
nên làm gì để không có những trường hợp trương tự
Nếu em là giáo viên chủ nhiệm trong tình huống trên, em sẽ tuyên dương em học sinh đó
trước cả lớp vì trong lần đi tham quan đã có hành động dung cảm cùng người khác bắt kẻ
gian, hành động đó rất đáng để tuyên dương. Tuy nhiên, hành động đó là quá nguy hiểm
vì chúng ta mới chỉ là học sinh, chưa có đủ sức khỏe và các mánh khóe như mấy kẻ gian
ngoài xã hội kia. Vì thế, học sinh trong lớp cần biết đó là hành động tốt và khi gặp
trường hợp tương tự thì tốt nhất nên gọi người lớn đến giải quyết. Lại nói về em học sinh
kia, tuy đã làm việc tốt trong lần đi tham quan nhưng trong trường hay gây gổ đánh nhau
với bạn, học lực thì quá yếu, nên cô giáo chủ nhiệm cần khuyên học sinh:” Biết một ít
võ vẽ, có sức mạnh là điều tốt, tuy nhiên dung sức mạnh để gây gổ đánh nhau với bạn là
việc không nên. Tại sao em có thể giúp người ngoài bắt kẻ gian mà không thể bỏ nắm đấm
xuống đối với bạn mình, bạn bè học cùng với nhau, thay bằng cái nắm đấm, chúng ta có
thể nói rõ ràng mọi chuyện với nhau để giải quyết mâu thuẫn, bắt tay làm hòa sẽ giúp tình
bạn trở nên tốt đẹp hơn”. Còn về việc học sinh có học lực quá yếu thì có thể 57
cải thiện bằng cách xếp cho hs đó ngồi cùng với một bạn học lực khá trong lớp kèm
cặp, cùng nhau tiến bộ đồng thời Gv cũng để ý tới việc học tập của em đó hơn nữa
Trong trường hợp trên, chúng ta cần vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực, tôn
trọng nhân cách, có thiện chí trong giao tiếp sư phạm. Những kỹ năng cần thiết là kỹ
năng nghe và biết lắng nghe, tự chủ cảm xúc, hành vi, diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc, dễ
hiểu, linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp và điều khiển quá trình giao tiếp.
Trên đường đi tập thể dục, thấy 2 em học sinh đang đi tới, thầy A. tưởng các em sẽ chào
thầy vì thầy đang dạy lớp các em và biết rất rõ về 2 em học sinh này. Nhưng không, cả 2
em đều đi thẳng qua thầy mà không một lời chào. Là thầy A. bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Tình huống nêu ra :Khi tập thể dục thầy A gặp hai em học sinh lớp mình dạy nhưng hai
em đi qua không hề chào hỏi thầy.
Phân tích tình huống: Tình huống phổ biến, xảy ra nhiều trong thực tế. Trong tình huống
này, hai bạn học sinh đã coi như không nhìn thấy thầy mà cứ thế đi qua. Thầy nên giải
quyết như thế nào trong tình huống này? Các cách giải quyết :
Cách thứ nhất : Đi qua coi như không thấy 2 em đó và coi như chưa có gì xảy ra.
Cách thứ hai: ngày hôm sau gặp riêng hai em để hỏi lý do.
Cách thứ ba : bình tĩnh, chủ động chào hỏi và nói chuyện với hai em học sinh. Sau đó
thầy cần tìm hiểu nguyên nhân ( có lẽ do các em ngại chào hỏi, có lẽ không thích mình,
hoặc thật sự không muốn chào hỏi…) và thầy nên đề xuất với nhà trường hoặc giáo viên
chủ nhiệm lớp đó làm một chuyên 58
đề liên quan đến cách ứng xử trong giao tiếp hằng ngày, về đạo đức, hay chủ đề “ Tôn sư,
trọng đạo”…..nâng cao nhận thức cho các em.
Nếu em là thầy giáo trong trường hợp trên em sẽ chọn cách giải quyết thứ 3. Vì cách thứ
nhất không giải quyết được vấn đề, cách thứ hai không giải quyết được triệt để. Cách thứ
ba hợp lý nhất vì thầy vừa xử lý tình huống ngay lúc đấy vừa có biện pháp xử lý lâu dài.
Thầy có thể khéo léo chào các em, thầy đôi khi lên tiếng trước cũng không sao cả, chẳng
hạn hai em đó tên là Linh và Hà : “ Linh, Hà hai em đi tập thể dục à? Đang nói chuyện gì
vui thế, không cả nhìn thấy thầy nữa” thầy có thể chào hỏi và nói chuyện với thái độ thân
thiện niềm nở không thể hiện sự khó chịu, vừa làm cho học sinh chột dạ, vừa thể hiện sự
thân thiện, có lẽ sẽ làm cho hai em thấy áy náy. Sau đó thầy cần tìm hiểu nguyên nhân tại
sao các em làm như vậy, và đề nghị giáo viên chủ nhiệm lớp hoặc nhà trường Làm chuyên
đề liên quan đến đạo đức, giao tiếp ứng xử hằng ngày…v..v.. để bồi dưỡng và nâng cao nhận thức cho các em.
KLSP: là một giáo viên tương lai cần phải học cách nhẫn nhịn và kiên trì, “ học sinh luôn
đúng”, hãy tìm hiểu nguyên nhân rồi nghĩ ra hướng giải quyết. Phải tùy thuộc vào tình
huống để lựa chọn cách giải quyết tốt nhất, giải quyết tạm thời và lâu dài
Trong giờ học cô giáo đang giảng bài trên lớp và nhận thấy có một số học sinh nghe
giảng rất mệt mỏi, luôn gục xuống bàn… là cô giáo trong trường hợp này bạn sẽ làm gì?
Phân tích tình huống: Cô giáo đang giảng bài thì một số học sinh tỏ ra rất mệt mỏi, chưa
biết nguyên do là gì. Khó khăn là cô giáo phải giải quyết tình huống sao cho không ảnh
hưởng quá nhiều đến tiết học mà vẫn đạt được mục tiêu sư phạm của mình. Hướng giải
quyết sẽ theo hướng thấu hiểu, thái độ đúng chừng mực. 59
Mục tiêu giải quyết tình huống:
- Tháo gỡ được tình trạng hiện tại của lớp và không có lặp lại về sau, trong bất kì tiết học nào.
Những phương án có thể đạt được mục tiêu tình huống đã xác định:
1, Cô giáo đuổi các em học sinh đó ra ngoài, có thể là rửa mặt, bao giờ tỉnh táo thì học
tiếp, còn các bạn còn lại tiếp tục học bài.
2, Cô giáo cho mấy em đó đứng góc lớp, hoặc thường xuyên gọi mấy em đó đứng dậy để
trả lời câu hỏi. Sau đó báo với giáo viên chủ nhiệm về thái độ vô lễ của mấy em đó.
3, Mới đầu nhìn thấy cô sẽ tiến lại gần bàn các em, đứng ở đó, giảng bài, lên cao giọng,
nhấn nhá để giúp các em tập trung vào bài giảng, nếu thấy các em vẫn đang gục xuống
bàn thì tăng dần mức độ thể hiện sự chú ý của mình tới những em đó và muốn các em thay
đổi thái độ của mình: gõ tay xuống bàn, cho lớp thảo luận theo cặp, mời các em phát biểu
ý kiến …Nếu thấy các em mệt quá thì sẽ dừng lại vài phút để hỏi lí do làm sao hôm nay
lại có vài bạn mệt thế. Tìm hiểu nguyên nhân, nhìn lại cách dạy của mình, thẳng thắn trao
đổi với học sinh và cùng nhau tìm ra cách giải quyết (nếu là vì lí do cá nhân của mấy em
ý, như thức khuya, buồn chuyện nhà…thì có thể tâm sự sau và giúp các em tìm sự giúp đỡ
từ mọi người; nếu lí do là từ giáo viên thì chính cô giáo đó sẽ cố gắng hết sức để thay đổi
cách dạy bằng cách nhờ giáo viên khác dự giờ và góp ý… cố gắng hạ thấp cái tôi của
mình một chút mà hiệu quả thu được rất xứng đáng).
Em chọn phương án thứ ba vì cô giáo đã thực hiện được kĩ năng lắng nghe, tự chủ cảm
xúc hành vi trong giao tiếp cũng như thực hiện được các nguyên tắc cơ bản trong giao
tiếp: tôn trọng học sinh, thấu hiểu. 60
=> Kết luận sư phạm: Để là một giáo viên tốt thì phải biết quan tâm đến cảm xúc của học
sinh, biết nhìn lại bản thân mình và biết cách giải quyết mọi tình huống một cách chủ
động và hiệu quả nhất.
Trong một lần trả bài kiểm tra cho lớp 10A của cô B., có một học sinh thắc mắc với cô về
kết quả điểm cô chấm với lý do bài của em giống hệt bài của bạn M., sao bạn M. được cô
cho điểm 8, còn em chỉ được 6 điểm. Nếu là cô B, bạn sẽ làm gì?
Em xin đưa ra cách xử lý tình huống này theo ý kiến cá nhân của mình như sau:
Đầu tiên,yêu cầu học sinh ngồi xuống xem kỹ lại bài của mình và bạn,xem lại những chỗ
sai mà cô( thầy) đã ghi trong bài kiểm tra,và kiểm tra xem có đúng là hai bài giống hệt nhau hay không.
Nếu sau khi xem học sinh vẫn còn thắc mắc thì giáo viên sẽ xử lý ngay bằng cách yêu cầu
học sinh đem hai bài lên bàn giáo viên.Khi đó có thể xảy ra hai trường hợp sau:
+Nếu hai bài không phải giống hệt nhau mà chỉ do học sinh nhầm lẫn thì giáo viên sẽ chỉ
ra cho học sinh và khẳng định cô( thầy) không hề chấm sai sau đó cho học sinh về chỗ.
+Nếu đúng là hai bài giống hệt nhau, là do giáo viên chấm sai thì giáo viên cần nhận lỗi,
và cảm ơn học sinh đã chỉ ra lỗi sai của mình( Cô đã chấm sai, cảm ơn em đã phát hiện
ra…).Sau đó giáo viên sẽ xem thật kỹ rồi sửa lại điểm cho em học sinh đó(Có thể là
chấm nhầm điểm thấp hơn hoặc cao hơn),rồi đưa bài cho em về chỗ để xem lại bài, rút
kinh nghiệm cho các bài kiểm tra tiếp theo.
Sau khi đã giải quyết xong cho học sinh đó, giáo viên yêu cầu tất cả học sinh xem lại bài
thật kỹ và xử lý các trường hợp tương tự (nếu có). 61
Việc xử lý tình huống trên đã đảm bảo được các nguyên tắc giao tiếp sư phạm cơ bản, cụ thể là:
Tính mô phạm trong giao tiếp( Nhân cách mẫu mực trong giao tiếp): Giáo viên nhận
sai và sửa sai, là tấm gương mẫu mực để học sinh noi theo.
Tôn trọng nhân cách trong giao tiếp: Giáo viên tiếp thu và tôn trọng ý kiến của học
sinh, xử lí thắc mắc của học sinh một cách triệt để.
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đã thể hiện là:
Kỹ năng định hướng giao tiếp Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm
Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Kinh nghiệm rút ra qua việc xử lý tình huống trên: Sau này khi trở thành giáo viên, trong
khi chấm bài giáo viên có thể mắc sai lầm.Cần biết nhận lỗi và sửa chữa để làm gương
cho học sinh,không nên gạt đi ý kiến của học sinh,một mực phủ nhận sai lầm của mình, vì
như thế có thể khiến học sinh không phục,dẫn đến không tôn trọng giáo viên và rất nhiều
hệ luỵ khác.Chỉ cần một hành động nhỏ của giáo viên có thể ảnh hưởng đến nhân cách
của học sinh nên giáo viên cần đặc biệt chú ý.
Cuối giờ học hôm nay cô T. không giao bài tập về nhà như thường lệ, tất cả học sinh trong
lớp 8A đều vỗ tay reo hò mừng rỡ. Là cô T. trong trường hợp đó bạn sẽ làm gì?
Là cô T thì tôi sẽ giải quyết các tình huống như sau:
Phương án 1: Tôi sẽ quát mắng học sinh, bắt các em ngồi lại và cho nhiều bài tập hơn nữa.
Phương án 2: Lờ đi và coi như không có chuyện gì xảy ra. Phương án 3: 62
Thực ra đây là mình tình huống khá phổ biến trong trường học, theo tôi thấy thì tâm lí
học sinh như thế này là bình thường, các em còn nhỏ, đang phát triển về cơ thể cũng
như đang hình thành nhân cách sau này. Tâm lí khi đi học đa số ai cũng muốn được
nghỉ , được chơi… do đó lúc đầu tôi sẽ cười và nói chuyện thật thoải mái với các em :’’
Cô không giao bài tập nhưng về nhà nhớ học và ôn bài đầy đủ nhé’’.
Sau đó đợi cá em ổn định xong, thì mình nên có một vài điều căn dặn các em :’’ Việc học
đối với các em bây giờ rất quan trọng, nó là mối quan tâm hàng đầu. Cô không giao bài
tập không có nghĩa là các em không học, mà phải cố gắng làm thêm các bài tập ngoài sách
giáo khoa, đọc kĩ lại bài, ôn kĩ lại những gì mình đã học… cố gắng lên các em nhé’’
Không nên quá gay gắt với các em , hãy tạo không khí vui vẻ, thoải mái và thân thiện nhất
để mối quan hệ giữa cô và trò ngày càng gần gũi…
Trong tình huống trên cần vận dụng nguyên tắc giao tiếp trong sư phạm : Có thiện ý trong
giao tiếp sư phạm và đồng cảm trong giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp trong sư phạm là :
Kỹ năng định vị và kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp. Khi là một
giáo viên , tôi thấy rằng khi giao tiếp với học sinh mình nên đặt vị trí của mình vào các
em, để hiểu và lắng nghe được những tâm tư tình cảm và mong muốn của các em. Hơn ai
hết mình cũng từng là học sinh, nên càng phải hiểu và chia sẻ với học sinh.
GIÁO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VỚI PHỤ HUYNH
Một phụ huynh khi kiểm tra bài học của con mình ở trên lớp đã phát hiện ra giáo viên A.
giải nghĩa sai từ ngữ, phân tích mô hình ngữ pháp câu không đúng. Vị phụ huynh đó đã
gặp và trao đổi điều đó với giáo viên A.
Là giáo viên A. trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào? 63 Câu trả lời:
Nhận thức và biểu đạt vấn đề: Đây là một tình huống rất hay gặp trong giảng dạy, khi GV
vô tình giảng sai bài hay HS ghi chép bài chưa chính xác. Các cách xử lí:
Phương án 1: Yêu cầu PHHS cho xem lại vở ghi của HS và quả quyết đây là do HS đó
ghi chép nhầm. GV xử lý như vậy để đảm bảo cho trình độ chuyên môn của mình và để
PHHS tin tưởng giao con cho GV. Phương án 2:
+ Khi GV gặp riêng với PHHS trước tiên GV cần khôn khéo trong cách xử lý:
+GV : “ Em thực sự rất mong a/c thông cảm khi đã để cho trường hợp này xảy ra dù cho
là vì nguyên nhân gì, do em không quan tâm kĩ tới việc học, ghi chép bài của từng học
sinh hay do sai lầm khi giảng dạy trên lớp. Trước tiên em mong a/c cho em thời gian để
làm rõ( nếu PHHS có đem vở của HS thì có thể yêu cầu PHHS cho xem lại) để có cách xử lý phù hợp nhất.”
+Sau khi điều tra rõ nguyên nhân, nếu HS chép nhầm bài thì giải thích cho HS hiểu. Nếu
là lỗi của GV thì GV cần xử lí hợp lí để vẫn giữ được niềm tin của PHHS khi giao con cho mình.
+GV: “ Như a/c biết đấy ông cha ta có câu : phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam, và con người không phải ai cũng không mắc sai lầm bao giờ. Em biết mình mắc sai
lầm khi đang giáo dục cho thế hệ tương lai là hoàn toàn đáng trách, em sẽ rút kinh
nghiệm và chú ý hơn trong những bài giảng sau này của mình. Em cũng sẽ để ý tới em
nhà mình hơn, giúp em học tập tốt hơn và không để những trường hợp như vậy xảy ra
nữa. Anh chị hãy tin rằng GV trường mình đã được qua đào tạo bài bản, em cũng đang
trau dồi thêm kiến thức của mình nên a/c cứ yên tâm. Cuối cùng em xin lỗi a/c một lần
nữa khi đã để xảy ra sự việc này .” Bài học kinh nghiệm:
GV cần soạn bài chu đáo trước khi tới lớp và có hỏi lại học sinh sau mỗi tiết học xem
các em có hiểu bài hay còn thắc mắc chỗ nào không.
GV không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ năng sư phạm để hiệu quả
giảng dạy ngày càng tốt hơn.
GV kết hợp với PHHS cùng hỗ trợ học sinh trong học tập để hiệu quả học tập của HS được nâng cao. 64
Trong giờ sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp 9A đã không tiếc lời sỉ vả, mắng nhiếc
học sinh sau khi xem sổ đầu bài thấy các giáo viên bộ môn nhận xét, đánh giá không tốt
về tình hình học tập và chuẩn bị bài… của học sinh trong lớp. Một số học sinh về nhà đã
kể lại chuyện đó cho cha mẹ của mình. Các vị phụ huynh đã phản ánh việc làm đó của
giáo viên chủ nhiệm lớp với Hiệu trưởng nhà trường. Là Hiệu trưởng nhà trường, bạn sẽ xử lý như thế nào?
Vấn đề cần giải quyết:
+ Mâu thuẫn giữa GV chủ nghiệm và phụ huynh
+ Cách xử lí GV khi có những hành vi mắng nhiếc HS khi các em mắc lỗi
Các tri thức cần vận dụng
+ Kĩ năng trao đổi và đàm phán
+ Kĩ năng xử lí các tình huống bất ngờ
+ Kĩ năng giao tiếp với phụ huynh
+ Nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng trong giao tiếp Các cách giải quyết
+ Gặp mặt GV chủ nghiệm đó trực tiếp để trao đổi về tình hình, tìm hiểu rõ nguyên nhân.
Nếu thấy chỉ vì nguyên nhân HS bị ghi sổ đầu bài như vậy mà GV chửi mắng học sinh
như vật là không đúng. Yêu cầu GV đó nhận lỗi và sửa chữa. Đồng thời thì cũng sẽ yêu
cầu GV đó có buổi gặp mặt trao đổi với phụ huynh học sinh để xin lỗi vì hành động thiếu
kiểm soát của bản thân đồng thời cùng thảo luận kết hợp với gia đình học sinh để dạy bảo
HS không tái phạm lỗi nữa cùng nhau chung sức tìm ra giải pháp tối ưu để HS tiến bộ
trong học tập và có ý thức tốt hơn. Về phía học sinh GV cần trao đổi thẳng thắn với
học sinh. Nói rõ lỗi và yêu cầu các em cần sửa đổi. Nếu tình hình không được thực hiện
tốt bởi giáo viên chủ nghiệm thì hiệu trưởng sẽ cho học hội đồng nhà trường tiến hành
kiểm điểm và yêu cầu khắt khao, kiểm tra đánh giá GV đó 65
=> kết luận sư phạm: khi có vấn đề nảy sinh trong lớp học của GV và HS truyền tới phụ
huynh và có phản hồi tiêu cực thì cán bộ nhà trường đặc biệt là hiệu trưởng cần xem xét rõ
tình hình để xác định rõ thực hư, tìm cách giải quyết tốt nhất cho cả hai bên. Về mặt nhà
trường, đặc biệt là GV chủ nghiệm sẽ cần xem xét thái độ và hành vi chuẩn mực dạy học
có biện pháp xử lí thích đáng và yêu cầu GV sửa đổi hành vi. Về phía gia đình học sinh thì
có thể cũng nên gặp mặt nếu điều kiện cho phép, hiệu trưởng cần giải thích, đưa ra lời
hứa và các giải pháp đề xuất cho các phụ huynh biết nhằm tạo sự tin tưởng của gia đình
và nhà trường qua đó cùng nhau thống nhất hợp tác quan điểm để có sự kết hợp giáo dục
ở gia đình và nhà trường tạo điều kiện và môi trường thuạn lợi nhất cho học sinh phát
triển năng lực và nhân cách đạo đức con người.
Một phụ huynh học sinh trong Ban phụ huynh của lớp bạn chủ nhiệm rất tích cực giúp đỡ
nhà trường và lớp học của con mình. Thế nhưng con của vị phụ huynh đó lại học rất kém,
có thể xếp loại cả năm học dưới trung bình. Là giáo viên chủ nhiệm lớp, bạn sẽ làm gì để
giúp đỡ em học sinh đó và đáp lại lòng tốt của phụ huynh.
Tình huống: Phụ huynh học sinh rất tích cực giúp đỡ nhà trường nhưng con của phụ
huynh lại học rất kém và có thể xếp loại dưới trung bình.
Phân tích tình huống: Đây là tình huống phổ biến trong thực tế.
Phụ huynh học sinh luôn hết lòng giúp đỡ nhà trường và lớp học thế nhưng con lại
chưa học tập tốt. Để đáp lại sự giúp đỡ đó của phụ huynh, giáo viên sẽ giúp đỡ học sinh đó.
Cách xử lý: trong thực tế có thể xảy ra các cách xử lý sau:
Giáo viên bắt ép học sinh học một cách bắt buộc để em học sinh đó tiến bộ
Giáo viên giúp đỡ cho học sinh điểm cao tùy ý. 66
Giáo viên thể hiện sự giúp đỡ học sinh, tạo điều kiện để học sinh tiến bộ trong học tập
bằng cách kèm học cũng như để bản thân học sinh nhận thức được sự quan tâm của gia
đình và nhà trường để cố gắng. Đồng thời phối hợp với gia đình để nhắc nhở em tiến bộ hơn.
Theo ý kiến của em, em sẽ xử lý tình huống trên theo cách c. Theo nguyên tắc giao tiếp sư
phạm, để học sinh cần tiến bộ thì việc học sinh tự ý thức được tầm quan trọng của việc
học cũng như sự mong mỏi của gia đình, nhà trường là hết sức quan trọng để từ đó học
sinh luôn có ý thức phấn đấu. Giáo viên cũng cần khuyến khích, tạo điều kiện học tập tốt
nhất để học sinh cảm thấy yên tâm. Đồng thời sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là
cần thiết trong giáo dục. Kết luận sư phạm:
Trong giáo dục sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường là cần thiết.
Giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh học tập tốt nhất, luôn động viên, khuyến
khích học sinh học tập một cách chân thành.
Vào năm học mới, bạn được phân công chủ nhiệm lớp 9A. Trong lớp có 1 học sinh cá biệt
luôn gây ảnh hưởng xấu: lôi kéo bạn bè trốn học đi chơi, gây sự rồi đánh nhau với bạn bè
trong lớp, trong trường, trấn lột các học sinh lớp dưới… Là giáo viên chủ nhiệm lớp đó,
bạn sẽ giải quyết như thế nào. Các cách giải quyết:
Phương án 1: Thực hiện nghiêm chỉnh kỉ luật em học sinh đó, yêu cầu phê bình
trước toàn trường, thực hiện đình chỉ học, hạ hạnh kiểm.
Phương án 2: Vẫn thực hiện kỉ luật do em đó đã phạm lỗi. Tìm hiểu nguyên nhân
tại sao học sinh đó lại có hành vi như vậy qua bạn bè cùng trang lứa và qua phụ huynh,
tìm hiểu hoàn cảnh gia đình để có hướng giải quyết phù hợp. Gặp mặt trực tiếp với phụ
huynh để tìm ra hướng đi phù hợp. 67
Chọn phương án 2 là phù hợp vì có thể do một lý do chủ quan nào đó ảnh hưởng tới suy
nghĩ và lối hành xử của học sinh đó: có thể do hoàn cảnh gia đình, do môi trường sống,…
Bài học kinh nghiệm: để giải quyết lâu dài một tình huống sư phạm, không chỉ thực hiện
giải quyết trước mắt mà nhà sư phạm phải đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân đã dẫn tới việc
đó, không thể quy chụp mọi học sinh như nhau. Vì sống trong những môi trường khác
nhau nên đã hình thành nên thái độ và cách ứng xử khác nhau.
Có những phụ huynh học sinh trực tiếp đến gặp Hiệu trưởng trường Tiểu học DVA góp ý
phê bình nhà trường về một điều gì đó. Là Hiệu trưởng trong trường hợp đó bạn sẽ giải quyết như thế nào?
Nhận xét: Đây là tình huống không quá hiếm gặp trong trường học. Tình huống có
thể bắt nguồn từ nguyên nhân tính cách của phụ huynh quá nóng nảy, thiếu niềm tin vào
giáo viên chủ nhiệm hoặc do chính giáo viên chủ nhiệm không tạo được niềm tin vững
chắc với phụ huynh. Cụ thể tình huống này là:”Phụ huynh học sinh lên gặp trực tiếp hiệu
trưởng của trường để góp ý, phê bình điều gì đó mà không qua giáo viên chủ nhiệm”
Trong trường hợp trên, sẽ có các phương án giải quyết như sau:
Phương án 1: Ngay lập tức gọi những người có liên quan lên trực tiếp đối chất với vị phụ
huynh kia và nghiêm khắc phê bình nhân viên, giáo viên trong trường trước mặt phụ huynh học sinh
Phương án 2: Đợi sau khi tiếp xong phụ huynh đó, gọi những người có liên quan lên và
gay gắt phê bình, chỉ trích.
Phương án 3: Đợi sau khi tiếp xong vị phụ huynh kia sẽ gọi những người có liên quan lên
gặp và hỏi rõ sự việc. Dựa vào thông tin 2 bên cung cấp sẽ tùy trường hợp để đưa ra cách
xử lý phù hợp. Kiểm tra tính xác thực của thông tin 68
thông qua cách ứng xử hàng ngày của những người có liên quan. Tuy nhiên cần nhắc nhở
nhân viên hoặc giáo viên trong trường, sau này cần cẩn thận hơn trong cách hành xử để
tránh những tình huống như vậy tái diễn. Nên hành xử phù hợp với nguyên tắc mẫu
mực trong giao tiếp sư phạm, tạo dựng được niềm tin với phụ huynh và học sinh.
Nếu tôi là hiệu trưởng trong tình huống này tôi sẽ ứng xử theo phương án 3. Bởi
phương án 1 và 2 đều không nên, cách xử lsy như vậy không hay. Vừa làm mất hình ảnh
của trường trong mắt phụ huynh học sinh vừa tạo khoảng cách trong mối quan hệ với các
đồng nghiệp. Xử lý theo phương án 3 vừa mang tính nghiêm minh lại linh hoạt, mềm dẻo.
Xử lsy tinh tế không vi phạm nguyên tắc nhân cách mẫu mực, tôn trọng và đồng cảm trong giao tiếp sư phạm.
Trong tình huống trên, chúng ta nên vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giao
tiếp sư phạm (xử lý công bằng, nghiêm minh mà không thiếu tình người), tôn trọng nhân
cách, có thiện chí, niềm tin và đồng cảm trong giao tiếp sư phạm. Vận dụng các kỹ
năng sư phạm như nghe và biết lắng nghe, tự kiềm chế cảm xức và hành vi, linh hoạt,
mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, xử lý thông tin trong quá trình giao tiếp.
Rút kinh nghiệm bản thân: là một giáo viên tương lai, phải không ngừng trau dồi kỹ năng
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Cần tạo được niềm tin với học sinh, phụ huynh và cả
cấp trên. Đồng thời, cũng cần có niềm tin, đồng cảm với đồng nghiệp
Một phụ huynh học sinh tham gia rất nhiệt tình trong hoạt động phối hợp giữa nhà trường
và phụ huynh học sinh, nhưng bạn biết rõ động cơ của vị phụ huynh này là muốn cho
con họ được chọn vào đội học sinh giỏi đi thi cấp 69
Quận trong khi em này chưa đủ trình độ tuyển chọn. Là giáo viên chủ nhiệm của em học
sinh đó, bạn sẽ xử lý như thế nào? Hướng giải quyết:
Nhận xét: Trong tình huống trên, phụ huynh này tham gia rất nhiệt tình trong hoạt động
phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh học sinh với động cơ là cho con họ được chọn vào
đội tuyển học sinh giỏi đi thi cấp Quận. Tuy nhiên, vì là phụ huynh học sinh, không nên
xử lý quá cứng rắn, cần mềm mỏng trong giao tiếp để phụ huynh hiểu và thông cảm. Điều
đó, sẽ giúp ích cho giáo viên trong việc tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa phụ huynh, giáo viên và nhà trường
Nếu là giáo viên chủ nhiệm của học sinh đó, em sẽ đến gặp phụ huynh đó Trước tiên là
cảm ơn phụ huynh đó đã có tấm long, tích cực tham gia các hoạt động, nhờ đó mà lớp
cũng đạt được thành tích cao trong thời gian gần đây
Sau đó, em sẽ nói rõ về tình hình học tập của học sinh đó “ tuy chăm ngoan, nhưng học
lực lại chỉ được khá, tiếp thu bài chưa nhanh. Trong lớp, còn rất nhiều bạn có học lực tốt
hơn, vì vậy việc chọn em hs đó đi thi là không công bằng với học sinh khác và cũng
không phù hợp với tiêu chí của nhà trường, mong gia đình thông cảm. Mong gia đình kèm
cặp em, tôi cũng cố gắng giúp em trong việc học tập, nếu đủ điều kiện mà nhà trường đề
ra thì em sẽ được thi”
Trong tình huống trên, chúng ta nên vận dụng nguyên tắc nhân cách mẫu mực trong giao
tiếp sư phạm (xử lý công bằng, nghiêm minh mà không thiếu tình người), tôn trọng nhân
cách, có thiện chí, niềm tin và đồng cảm trong giao tiếp sư phạm. Vận dụng các kỹ năng
sư phạm như nghe và biết lắng nghe, tự kiềm chế cảm xức và hành vi, linh hoạt, mềm dẻo
trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, xử lý thông tin trong quá trình giao tiếp 70
Vào năm học mới, sau khi học được 1 tháng, giáo viên dạy lớp 1A phát hiện thấy em H.
ngồi trong lớp chỉ nghịch ngợm, quấy phá. Trong giờ học, em vẫn cười đùa tự nhiên, giáo
viên nói gì em cũng không làm theo. Sau nhiều lần theo dõi, giáo viên mới biết em bị điếc
hoàn toàn. Là giáo viên dạy lớp đó, bạn sẽ xử lý trường hợp này như thế nào?
Tình huống nêu ra: Giáo viên dạy lớp 1A sau 1 tháng dạy học đã phát hiện ra em học sinh
nghịch ngợm quấy phá trong lớp đó bị điếc hoàn toàn.
Phân tích tình huống : Tình huống này giáo viên cần phải giải quyết thật khéo léo, không
để cho em học sinh H bị tổn thương, lại có thể giữ cho lớp học ổn định không ảnh
hưởng đến học tập của lớp Các cách giải quyết :
Cách thứ nhất : Dùng ám hiệu ý bảo em H trật tự.
Cách thứ hai : ổn định lớp học, rời sự chú ý của các học sinh khác hướng vào bài học. sau
đó gặp GVCN để trao đổi. Tìm hiểu về gia đình em H, bệnh tình của em, và tìm hiểu một
số “ thủ ngữ” _ ngôn ngữ của người khiếm thính để giao tiếp với em. Sau đó, sẽ đến nhà
em H, hỏi thăm tình hình của e H ở nhà và bệnh tình của em, nói chuyện với bố mẹ về
tình hình của em ở trên lớp và khuyên gia đình nên cho em học những lớp giáo dục đặc
biệt để em có thể phát triển thuận lợi hơn.
Nếu em là giáo viên trong trường hợp này em sẽ chọn giải pháp thứ 2, đây là giải pháp
hợp lý. Đầu tiên là giáo viên trong trường hợp này cần ổn định lớ học để cho các em học
sinh khác tập trung vào bài học. Tiếp theo sẽ gặp giáo viên chủ nhiệm để trao đổi và tìm
hiểu rõ hơn tình hình của em H. Em sẽ tìm hiểu cách giao tiếp với trẻ bị khiếm thính, cách
nói chuyện bằng cử chỉ hành động, tìm hiểu một số “ thủ ngữ” _ ngôn ngữ của người khiếm thính để giao 71
tiếp với em. Đến thăm nhà em H, hỏi han và nói chuyện với phụ huynh, hỏi thăm tình
hình của e H ở nhà và bệnh tình của em, nói chuyện với bố mẹ về tình hình của em ở trên
lớp và khuyên gia đình nên cho em học những lớp giáo dục đặc biệt để em có thể phát
triển thuận lợi hơn. Nói chuyện với phụ huynh với thái độ chân thành, đồng cảm và tôn
trọng. Tôn trọng ý kiến của em H và gia đình nhưng cũng không ngừng thuyết phục gia
đình cho em H học tập trong môi trường phù hợp hơn, để em có thể tiếp thu kiến thức và
phát triển tốt như các bạn. Trò chuyện cùng em H bằng “ thủ ngữ”, động viên em cố gắng học tập, ngoan ngoãn….
KLSP : Là giáo viên, khi nhìn nhận một vấn đề cần phải quan sát tìm hiểu nguyên nhân để
đưa ra quyết định, không thể phán đoán dựa trên cảm tính. Với những em học sinh như
trong tình huống trên giáo viên cần khéo léo lựa chọn cách giải quyết, tôn trọng, yêu
thương và cảm thông. Khi gặp mặt phụ huynh, cần nói chuyện với thái độ chân thành,
thân thiện và bình tĩnh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải bình tĩnh giải quyết
không được nôn nóng vội vàng cũng không được tức giận to tiếng. Với những vấn đề
nhạy cảm, cần khéo léo sử dụng ngôn ngữ và hành động linh hoạt để giải quyết.
Nghe tin con mình không được lên lớp phải lưu bạn lại lớp 10. Cha của em học sinh
đó đã đến gặp giáo viên chủ nhiệm lớp trong tình trạng “nửa say, nửa tỉnh” vì hơi men và
nói với giáo viên chủ nhiệm:
Tôi chỉ có mỗi một đứa con duy nhất. Thầy phải cho nó lên lớp, nếu nó không được
lên lớp thì tôi sẽ giết nó.
Phân tích tình huống: Tình huống khá nhạy cảm, một ông bố khá khó tính và thích uống
rượu thấy con mình không được lên lớp 10 thế là đến gặp giáo viên trong tình trạng nửa
say, nửa tỉnh để uy hiếp là nếu con mình không được lên lớp thì mình sẽ giết con. Ở tình
huống này, khó khăn được thấy rất rõ, khi một người say thì sẽ không tự chủ được cảm
xúc và hành động của mình do vậy 72
hướng giải quyết của giáo viên phải cực kì mềm dẻo và phải xử lí được ngay thời điểm đó
cũng như về lâu về dài.
Mục tiêu giải quyết tình huống:
Giải quyết được tình huống ngay tức khắc và lâu dài.
Theo nguyên tắc thì con ông này vẫn sẽ bị lưu ban, nhưng phải làm sao để ông ý hiểu việc
lưu ban này không có gì là to tát mà ông đòi giết con, làm sao để không có bất kì hậu quả
xấu nào xảy ra trong tương lai. Có thế còn giúp ông này với con yêu thương nhau hơn,
giúp gia đình có bố tốt hơn, con học giỏi hơn.
Những phương án có thể đạt được mục tiêu tình huống đã xác định:
1, Cùng ông ấy ra quán uống rượu cho đến say rồi đưa ông đấy về nhà, đợi khi ông đấy
tỉnh lại thì nói chuyện tiếp, trong khi đó thì tìm hiểu rõ hơn về gia cảnh học sinh.
2, Giải quyết luôn: Thầy bảo rằng tôi đã báo lại trường hợp của em cho cấp trên và đang
trong quá trình xem xét, chưa có kết quả chính thức, bao giờ có kết quả thì sẽ báo lại cho
bác đấy sau và khuyên bác đấy bình tĩnh, bác cứ yên tâm. Nói như vậy có thể trấn an bác
ấy ngay lập tức, tránh những hậu quả đáng tiếc. Là giáo viên chắc hẳn thầy giáo cũng biết,
hiểu về gia cảnh học sinh. Đợi khi phụ huynh đó tỉnh rượu (không ra quán rượu), thì nói
chuyện như hai phụ huynh với nhau. Rằng ai chẳng muốn con giỏi, con hay, nhưng con
là do mình dứt ruột sinh ra, lúc này vấp ngã thì nó phải biết cách đứng lên rồi thành
công rồi báo đáp công ơn cha mẹ… Thầy sẽ dùng phương pháp giảng giải bằng phong
cách dân chủ, tự nhiên, dông dài nhất có thể. Thầy có hứa sẽ giúp đỡ em học sinh học tập
tốt hơn, nhờ những sự giúp đỡ khác nữa trên cơ sở có sự phối hợp với gia đình…hứa sẽ
cố gắng để giáo dục em thành người tốt, mai kia đỗ đại học và còn có thể có công ăn
việc làm đàng hoàng. Thầy giáo giúp phụ huynh đó tỉnh 73
ngộ và biết được ông ấy cần phải làm gì, ít nhất là bỏ rượu và biết cách kiềm chế tính nóng nảy của mình.
Em chọn cách giải quyết thứ hai vì thầy giáo đã thấu hiểu hoàn cảnh và dùng chính hoàn
cảnh của thầy nói chuyện với phụ huynh thể hiện thái độ đồng cảm của bản thân.
=> Kết luận sư phạm: Là thầy phải biết hiểu tâm tư nguyện vọng của phụ huynh, giúp
phụ huynh hiểu được mong muốn của thầy cô giáo với học trò. Thầy cô là mối liên kết
giữa nhà trường và gia đình, biết cách tương hỗ để giúp giáo dục nhân cách cũng như
nâng cao năng lực, tri thức của học sinh. Đồng thời luôn quan tâm đến gia cảnh học sinh
để có những cách giải quyết phù hợp, kịp thời nhất trước khi mọi việc xảy ra quá xa tầm kiểm soát.
Là giáo viên chủ nhiệm lớp, trong tình huống đó bạn sẽ làm gì?
Trong một buổi đi dã ngoại của học sinh khối 8 ở một trường THCS, trong lúc chơi đùa
với nhau chẳng may một em học sinh bị trật khớp chân. Cô giáo chủ nhiệm cùng một số
em trong lớp đã kịp thời đưa em học sinh đến bệnh viện gần đó. Khi về nhà, em học sinh
đó đã kể lại với phụ huynh. Hôm sau phụ huynh đã đến gặp giáo viên chủ nhiệm lớp trách
cứ cô thiếu trách nhiệm với học sinh. Là giáo viên chủ nhiệm trong trường hợp đó bạn sẽ
giải quyết như thế nào?.
Em xin xử lý tình huống trên theo ý kiến cá nhân của mình như sau:
Đầu tiên, mời phụ huynh vào văn phòng nói chuyện, hỏi thăm về tình trạng của học sinh
Tiếp theo, giáo viên có thể nói như sau:”Em và ban giám hiệu rất tiếc về trường hợp của
em A.Cá nhân em rất xin lỗi chị.Em có thể hiểu được tâm trạng của chị lúc này.Đây là
chuyện mà không ai muốn xảy ra.=>Dùng tình cảm,lựa lời nói khéo léo với phụ huynh để phụ huynh bớt giận. 74
“Các em còn đang trong lứa tuổi hiếu động và rất thích thể hiện, em và các thầy cô sẽ
quan tâm, để ý em hơn để không xảy ra sự việc đáng tiếc này một lần nữa”
Trò chuyện thêm với phụ huynh về việc học hành và về những sở thích của em
A. Đặc biệt trong thời gian tới giáo viên sẽ cùng với các bạn trong lớp giúp đỡ tạo điều
kiện tối đa để em A theo kịp bài .
Hi vọng em sớm bình phục, đến trường cùng cô và các bạn.Lớp sẽ tổ chức một buổi đi thăm em A.
Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm:
Tính mô phạm trong giao tiếp
Có thiện ý trong giao tiếp
Đồng cảm trong giao tiếp
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đã thể hiện là:
Kỹ năng định hướng giao tiếp Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm
- Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Qua việc xử lý tình huống trên, em rút ra kinh nghiệm cho bản thân là: Khi trở thành giáo
viên, nếu phụ huynh trách cứ vì một việc không may xảy ra với học sinh,người giáo viên
cần phải bình tĩnh, xử lý thật khéo léo để không làm xấu đi mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường.Gia đình kết hợp với nhà trường cùng quản lý và giáo dục học sinh sẽ là cơ sở
để học sinh phát triển đầy đủ cả về trí tuệ và nhân cách.
Trong buổi họp phụ huynh sơ kết học kỳ 1, một phụ huynh đã phát biểu: tất cả những yêu
cầu của nhà trường từ đầu năm học chúng tôi đã thực hiện đầy đủ, nhưng mong muốn của
chúng tôi đối với nhà trường thì chưa được các giáo 75
viên thực hiện tốt, cụ thể kết quả học tập và rèn luyện của học sinh chưa cao, tỷ lệ học
sinh yếu kém còn nhiều… Là giáo viên chủ nhiệm bạn xử lý như thế nào?.
Đầu tiên chúng ta phải nhận thức vấn đề xảy ra đây là một tình huống xảy ra với giáo viên
với học sinh. Đây là một tình huống ít xảy ra nhưng không có nghĩa là không gặp. Cụ thể :
‘’Trong buổi họp phụ huynh sơ kết học kỳ I, một phụ huynh đã phát biểu: Tất cả những
yêu cầu của nhà trường từ đầu năm học chúng tôi đã thực hiện đầy đủ, nhưng mong muốn
của chúng tôi đối với nhà trường thì chưa được các giáo viên thực hiện tốt, cụ thể kết ủa
học tập và rèn luyện của học sinh chưa cao, tỷ lệ học sinh yếu kém còn nhiều…’’
Là giáo viên chủ nhiệm, tôi sẽ xử lý tình huống như sau:
Phương ân 1: Phản ứng lại gay gắt ý kiến của vị phụ huynh đó, nói đây không phải lỗi nhà
trường và nhà trường không phải chịu trách nhiệm về việc này.
Phương án 2: Vẫn gật đầu đồng tình với ý kiến của phụ huynh nhưng sau đó bỏ qua và
coi như không có chuyện gì xảy ra.
Phương án 3: - Đầu tiên đợi các phụ huynh phát biểu ý kiến , phải thực sự lắng nghe và
tiếp thu, có thái độ hòa nhã, vui vẻ… tạo thiện cảm cho người đối diện và không khí không quá gay gắt..
Sau đó khi các bác đã bình tĩnh thì mình nên nhận sai, đây là thiếu sót và trách nhiệm
của giáo viên chủ nhiệm cũng như nhà trường, vì lúc này mà mình đổ lỗi cho học sinh
ngay là một sự thiếu sót, càng làm không khí thêm nặng nề. Mặc dù nhận lỗi nhưng cũng
phải chỉ rõ cho phụ huynh hiểu ‘’ Nhà trường đang cố gắng và hoàn thiện hơn nữa để các
em được học tập, học hành hiệu quả hơn, cảm ơn các Bác đã ủng hộ và đóng góp cho
nhà trường, việc làm của các bác giúp chúng tôi, cũng như các em thoải mái, cố gắng hơn
nữa.. Nhưng kết quả học tập chưa cao cũng phải phụ thuộc vào chính bản thân mỗi học
sinh, chỉ có bản thân các bạn ấy cố gắng mới được. Là giáo viên chủ 76
nhiệm tôi sẽ cố gắng dạy bảo, chăm lo cho các em hơn nữa. Cảm oen những đóng góp quý
báu của các bác, cô trò chúng tôi sẽ càng ngày càng hoàn thiện bản thân mình’’
Trong tình huống trên cần vận dụng nguyên tắc giao tiếp trong sư phạm:
Tính mô phạm trong giao tiếp
Tôn trọng nhân cách trong giao tiếp
Có thiện ý trong giao tiếp sư phạm
Đồng cảm trong giao tiếp Vận dụng các kỹ năng giao tiếp : Kỹ năng định vị
Kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp sư phạm
Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Nếu là một giáo viên tôi nhận thức được rằng khi nói chuyện hay trao đổi với người khác
không chỉ riêng học sinh cần phải có thái độ đúng mực, thân thiện, và luôn đặt mình vào
vị trí người khác, sẵn sàng nhận sai nếu nhu mình là người có lỗi. 77