-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương ôn tập môn lịch sử văn minh thế giới | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Những thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập Ai Cập cổ đại, hay nền văn minh sông Nin, gắn liền với cư dân sống bên hai bờ sông Nin tại Ai Cập. Dòng sông Nin dài khoảng 6500 km, có bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử văn minh thế giới 10 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Đề cương ôn tập môn lịch sử văn minh thế giới | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Những thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập Ai Cập cổ đại, hay nền văn minh sông Nin, gắn liền với cư dân sống bên hai bờ sông Nin tại Ai Cập. Dòng sông Nin dài khoảng 6500 km, có bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử văn minh thế giới 10 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Đề cương ôn tập
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1: Những thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập Ai Cập cổ đại, hay nền văn minh sông Nin, gắn liền
với cư dân sống bên hai bờ sông Nin tại Ai Cập. Dòng sông Nin dài khoảng 6500 km, có bảy nhánh đổ ra
Địa Trung Hải, đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới. Phần hạ lưu sông
Nin rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700 km, hai bên bờ sông rộng từ 10 đến 50 km tạo thành một
vùng sinh thái ngập nước và bán ngập nước - một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa dạng và
đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9, nước lũ sông Nin dâng lên làm tràn ngập cả khu đồng bằng
rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình
thành nền văn minh Ai Cập sớm nhất với các thành tựu văn minh cơ bản:
a) Chữ viết: Khoảng hơn 3000 năm Tr.CN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Muốn chỉ
một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm trừu tượng thì họ
mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để
nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu (vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau).
Từ chữ tượng hình, người Ai Cập cổ đại đã tìm ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II Tr.CN, người
Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy
lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A, B ... Những chữ
tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây
papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ xưa nhất, do vậy trong ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được
gọi là papes, papier ...Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông đã tìm cách đọc được loại chữ này.
b) Về văn học: những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại
của một người thất linh hồn của mình, Người nông phu biết nói những điều hay....
c) Tôn giáo: Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị
thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh Câu 3:
Trình bày quá trình hình thành, giáo lý và các nghi lễ cơ bản của đạo Hồi
Quá trình hình thành, giáo lý vá các nghi lễ cơ bản của đạo Hồi?
a) Quá trình hình thành Đạo Hồi
Hồi giáo là một tôn giáo lớn được sang lập vào thời trung đại và nhanh chóng trở thành niềm phấn khích
của các đại đế chế. Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi một người nổi tiếng là giáo chủ
Mohammed (570 – 632), là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca.
Tục truyền rằng khi Mohammed được 40 tuổi (năm 610) ông một mình vào trong một hang nhỏ ở núi
Xira, ngoại thành Mecca để tu luyện và trầm ngâm suy tưởng. Trong một đêm thánh Allah (Ala – Chân
chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho ông chân lý của Kinh
Coran khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh” và ông tự xưng là đã tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao
cho và bắt đầu truyền đạo. Đầu tiên ông bí mật truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở
thành những tín đồ đầu tiên, về sau sự truyền đạo trở nên công khai, đối tượng mở rộng tới quần chúng
ở Mecca nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại. Mohammet đã trốn được đến Yathrib (sau đổi thành
Madinah – Thành phố tiên tri). Ở đây, ông phát động và tổ chức quần chúng đấu tranh và cuộc cách
mạng của ông giành được thắng lợi. Sau đó ông tổ chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và dùng khẩu
hiệu “Chiến đấu vì Allah” và đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca.
Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo Mohammet còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh
buộc các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Có thể nói cuộc cách mạng do Mohammed lãnh
đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra
một thời kỳ lịch sử mới thống nhất trên bán đảo Ảrập.
b) Giáo lý và các nghi lễ cơ bản của đạo Hồi
Những tư tưởng chính trị của đạo Hồi nằm trong kinh Koran gồm 30 quyển, 114 chương, 6236 tiết. Các
tín đồ Hồi giáo coi kinh Koran như một vật linh thiêng, thần thánh. Trong kinh Koran, luân lí và pháp luật,
thế tục và tôn giáo là một, mọi giới luật đều do thánh Allah ban ra, đó là quy tắc cho mọi hành vi, từ lễ
giáo đến hôn nhân, từ các hoạt động kĩ nghệ, thương mại đến chính trị, di chúc, chiến tranh và hòa bình...
Những hiểu biết về y, dược và cách chữa trị một số bệnh cũng được nói đến trong kinh Koran.
- Kinh Koran gọi tín ngưỡng của đạo Hồi là Iman là chỉ tất cả những tín điều của thánh Allah do nhà tiên
tri Muhammad truyền đạt lại. Đạo Hồi có 6 tín ngưỡng lớn gọi là Lục tín:
+ Tin chân thành: tức là tin rằng ngoài thánh Allah không còn vị thần nào khác, thánh Allah là duy nhất,
là độc nhất. Đây là hạt nhân có bản nhất của tín ngưỡng của đạo Hồi.
+ Tin thiên sử: Theo kinh Koran thì có rất nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai quản một công việc. Thiên sứ
do Allah sáng tạo ra từ ánh sáng, để theo dõi, ghi chép tất cả mọi hành vi thiện, ác, tốt, xấu của con người.
+ Tín kinh điển: Tức là tin rằng kinh Koran là bộ kinh Thần thánh do đông Allah khải thị cho nhà tiên tri
Muhammad, từ đó xây dựng uy quyền tuyệt đối của kinh Koran đối với các tín đồ.
+ Tín sứ giả: Muhammad là sứ giả và nhà tiên tri của thánh Allah, được phái xuống để thực hiện những
sứ mệnh do Allah ủy thác, mọi tín đồ phải tôn sùng.
+ Tín tiên định: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, số phận con người do thánh Allah an bài, con người không
có cách gì cưỡng lại được. Đó là định mệnh.
+ Tín kiếp sau: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, sau khi chết, con người có thể sống lại và chịu sự phán xét
của thánh Allah vào ngày tận thế.
Như các tôn giáo độc thần khác, đạo Hồi có những nghi lễ tôn giáo riêng biệt được giáo hội qui định để
các tín đồ tuân hành một cách nghiêm túc và đồng nhất trong việc tôn thờ Thiên Chúa cũng như trong
việc chấp hành luật đạo. Khi thực hiện các nghi lễ này, đạo Hồi buộc tín đồ phải tập trung chú ý và phải
hết sức chân thành. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì mọi nghi lễ sẽ bị coi là vô ích.
“Năm cột trụ của Hồi Giáo”.
+ Thứ nhất: Công khai tuyên xưng một Thiên Chúa là Allah và tin rằng ngoài Allah ra không có một Thiên
Chúa nào khác. Tín đồ phải công khai tuyên xưng Muhammad là sứ giả của Thiên Chúa thì mới nhận lãnh được ơn Chúa
+ Thứ hai: Mỗi ngày cầu nguyện năm lần. Khi cầu nguyện Allah, phải quay mặt về phía thánh địa Mecca
(thủ đô xứ Saudi Arabia ngày nay):
- Lần thứ nhất vào lúc rạng đông Lần thứ hai đúng ngọ - Lần thứ ba sau trưa
- Lần thứ tư lúc mặt trời lặn - Lần thứ năm lúc nửa đêm.
Dù tín đồ Hồi Giáo đang làm gì và ở bất cứ đâu (ở giữa sa mạc hoặc trên đường phố, tại sở làm hay tại
trường học, bến xe, chợ búa v.v...) cứ đến giờ câu nguyện là họ quì mọp xuống đất để thực hiện các nghi lễ này.
Khi cầu nguyện tại nhà thờ Hồi Giáo, mọi người đàn ông đứng thành hàng ngang sát nhau. Đàn bà luôn
luôn xếp hàng ở phía sau đàn ông hoặc cầu nguyện tại nhà riêng. Trong nhà thờ Hồi Giáo, không có bàn
thờ hoặc ảnh tượng, không có người chủ lễ. Chỉ có người hướng dẫn cầu nguyện (Imam). Ngoài việc
hướng dẫn cầu nguyện, các Imam còn giảng thuyết về giáo lý hoặc hô hào vận động về các vấn đề tôn
giáo, xã hội, chính trị v.v... Các Imam thường có uy tín lớn trong các cộng đồng Hồi Giáo và được mọi tín
đồ kính trọng. Sau khi cầu nguyện, mọi người quay sang trái sang phải bắt tay và cúi chào những đồng
đạo ở quanh mình. Họ chúc nhau “bình an và đầy ơn Chúa”.
+ Thứ ba: Bố thí cho kẻ nghèo. Hồi Giáo coi việc bố thí này là một thứ thuế tôn giáo đối với mọi tín đồ có
lợi tức. Số tiền này được ấn định là 1/40 hoặc 2.5% lợi tức hàng năm. Kinh Koran dạy rằng: “Bố thí là bổn
phận do Thiên Chúa đòi hỏi”. Các tín đồ Hồi Giáo quan niệm bố thí là nghĩa vụ chứ không phải là một
hành vi bác ái hoặc từ thiện.
+ Thứ tư: Ăn chay trong tháng Ramadan (tháng 9 âm lịch Hồi Giáo). Việc ăn chay này kéo dài suốt tháng:
không ăn không uống trong suốt thời gian ban ngày và chỉ được phép ăn một cách từ tốn sau khi mặt trời lặn.
+ Thứ năm: Hành hương Mecca, thánh địa số một của thế giới Hồi Giáo vì đó là nơi sinh của giáo chủ
Muhammad và có ngôi đền Ka'ba được tin là do Abraham và Ismael xây dựng lên. Hiện nay, số tín đồ
viếng Thánh Địa Mecca mỗi năm từ 3-5 triệu người.
Tất cả mọi tín đồ hành hương đến Mecca phải làm việc đầu tiên là cởi bỏ quần áo riêng của mình để mặc
vào một bộ đồ trắng đơn giản sau khi đã tắm rửa sạch sẽ. Đây là một việc bắt buộc mang ý nghĩa: Các tín
đồ Hồi Giáo, không phân biệt màu da, giàu nghèo, địa vị xã hội, tất cả đều là con cái của Thiên Chúa, tất
cả là anh chị em của nhau và tất cả đều bình đẳng trước mặt Chúa. Các phụ nữ có quyền mặc quốc phục
của mình nhưng tất cả đều phải trùm khăn che mặt.
của con người để đặt ra pháp luật, trật tự xã hội. Tư tưởng về pháp trị.
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ - ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần
thiết phải cai trị xã hội băng luật pháp. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp,
thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
+. "Pháp" là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn
phận, trách nhiệm của mình. + “Thế” là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. +, "Thuật"
cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực.
* Phân tích ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam.
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I TCN, nhưng, trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho
giáo ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền đô hộ và phục vụ cho
chính quyền đô hộ. Mặt khác, sự truyền bá Nho giáo cùng với việc phổ biến chữ Hán đã đưa tới Việt
Nam một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nền văn học, sử học, triết học, thiên văn học và y
học của người Trung Hoa cổ đại.
Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho giáo cần được tiếp thu
để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần, trung với vua không tách rời trung với nước,
vì đó là những ông vua thực sự điều hành cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đi đến thắng
lợi. Ở Việt Nam, “trung” thường gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách nhiệm của con người đối với Tổ
quốc, quê hương, làng xóm. Ngọn cờ nhân nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân khỏi áp bức của quân xâm lược.
Nho giáo ở Việt Nam đã đáp ứng được 1 phát triển của nền kinh tế tiểu nông gia trưởng. Dù là ruộng ở
trang thái ấp của quý tộc, ruộng của địa chủ, ruộng công của làng xã hay của một nền sản xuất nhỏ, lấy
gia đình làm đơn vị, khái niệm “nghĩa” ruộng tư của người nông dân, tất cả đều được canh tác trong
khuôn khổ cũng được đề cao như khái niệm “hiếu”.
Nho giáo đáp ứng nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục của nước Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
Nó thoả mãn yêu cầu tuyển dụng nhân viên cho bộ máy quan liêu của nhà nước phong kiến bằng việc
đào tạo ra hàng loạt những Nho sĩ có bằng cấp, phục vụ trong bộ máy nhà nước, tham gia thúc đẩy các
hoạt động tư tưởng, văn hoá, như sáng tác văn học nghệ thuật, biên soạn quốc sử, phát triển y học và
bàn luận về các vấn đề chính trị, pháp luật.
Do đáp ứng được những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam như trên đã nói, nên ngay từ thời Lý –
Trần, Nho giáo đã đóng vai trò là cơ sở tư tưởng của việc xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền, quản
lý xã hội và hoạch định chính sách của triều đình phong kiến.
Trên phương diện văn hoá - giáo dục, ngay từ thời Lý, khi được coi trọng và giữ vị trí là nền giáo dục
chính thức của nhà nước phong kiến, Nho học đã thể hiện rõ vai trò của một nền giáo dục có cơ chế, bài
bản và đầy sức sống. Do đó, nó đã tạo ra một bước tiến vượt bậc về nội dung giáo dục, cũng như về mặt
tổ chức và thực thi việc giáo dục và thi cử. Sang thời Trần, nhờ sự phát triển của nền giáo dục Nho học
mà tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo. Họ tích cực tham gia chính sự, cũng như tham gia vào các hoạt
động văn hoá nghệ thuật, học thuật và tư tưởng đương thời. Chính vì thế, lúc bấy giờ, Nho giáo đã thực
sự thúc đẩy các hoạt động văn hoá của nước Đại Việt tiến lên phía trước. Tóm lại, Nho giáo đã tồn tại và
phát triển ở Việt Nam suốt hai mươi thế kỷ. Sự có mặt tất yếu và vai trò lịch sử của Nho giáo ở Việt Nam
không tách rời sự hình thành và tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam. Nho giáo đã đáp ứng được
những yêu cầu phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Khi chế độ phong kiến Việt Nam suy tàn thì
Nho giáo Việt Nam cũng trở nên lỗi thời, lạc hậu và có những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam. Câu 5:
Phân tích ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc đến văn hóa Việt Nam
Văn minh Trung Hoa có sự ảnh hưởng mạnh mẽ ra các vùng lân cận trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc,
Triều Tiên, các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Những ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa tới văn hóa Việt Nam: Về lịch sử Việt Nam có thể nói đó là
một dân tộc có một bề dày về mặt văn hóa và lịch sử. Từ thời các triều đại các Vua Hùng cho đến thời kỳ
nghìn năm Bắc thuộc, Nước Đại Việt xưa bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn minh văn hóa Trung Hoa - một
dân tộc lớn ngay cạnh chúng ta. Tuy nhiên sự ảnh hưởng đó không phải là sự tiêu cực mà nó là cơ hội để
làm cho văn hóa của dân tộc ta càng sâu sắc theo một cách riêng, những thứ mà đã được chắt lọc sau đó
làm cho phù hợp với văn hóa của người Việt. Những ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa đối với văn hóa
Việt Nam có thể khái quát bởi các nội dung sau đây.
Những ảnh hưởng về tư tưởng tôn giáo:
Theo Trung Hoa có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng, nhiều trong số đó đã ảnh hưởng sâu
sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), cá hệ tư tưởng như Nho giáo, Đạo giáo các tư tưởng về
quản lý,...ảnh hưởng sâu sắc tới nước ta, cho đến ngày nay nó vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt
động học tập nghiên cứu, quản lý nhà nước,.. Nho giáo: ra đời ở Trung Quốc, do Khổng Tử sáng lập. Du
nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc và được nhà Lý chính thức thừa nhận khi cho xây dựng Văn Miếu
thờ Khổng Tử. Từ thời Lê trở thành tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị.
Nho giáo đã trở thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dụng một thiết chế quân chủ tập
quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong biện
pháp chiến lược là chế độ khoa cử.
Về chế độ khoa cử được tổ chức mộ cách quy cũ ví dụ thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính
thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình
cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt
thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp).
a văn hóa : vùng lân Đông Nam
Việt Nam: bề dày về 2 đến thời âu sắc bởi 1g ta. Tuy nội để làm những thứ gười Việt. Việt Nam
ng, nhiều giáo (Bắc 5 về quản n ý nghĩa và nước,.. nhập vào n khi cho ưng chính cho việc Á Trung g đó
một thời Trần y do 282 đỗ : thi Đình , nguyên, là Hoàng An....nổi bật đều là những nhân tài của đất nước
như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn Những
ảnh hưởng về hội họa, kiến trúc, điêu khắc. Trung Hoa vốn nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc nổi
tiếng thế giới như Vạn Lý trường thành, các lăng tẩm của vua chúa, cung điện,.. Hội hoạ Trung Quốc có
lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh
thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết
những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỷ. Điêu khắc nổi tiếng với những pho tượng Phật,..,
Việt Nam có Kiến trúc: Văn Miếu - Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ và một số
công trình đền đài, tượng điêu khắc, tứ linh (long, ly, quy, phượng), ... có sự pha trộn phong cách kiến trúc của Trung Hoa.
Hội họa có sự tiếp thu và có những thành tựu riêng đó là Tranh Đông Hồ, Hàng Trống mang những nét khác.
Những ảnh hưởng của chữ viết và văn học nghệ thuật. Chữ Hán đã từng một thời bị thực dân Phương
bắc áp đặt đồng hóa nhưng bất thành, chữ viết trở lên quan trọng đối với dân tộc tuy nhiên chúng ta đã
sáng tạo thêm khi không hoàn toàn dùng chữ Hán mà đó là cơ sở cho chữ Nôm ra đời dựa trên cơ sở
chữ Hán nhưng có sự thay đổi đi, Chữ Hán là chữ viết chi phối rất lớn đến hệ thống văn học nghệ thuật
và đời sống văn hoá của nhân dân. Văn học nghệ thuật Trng Hoa cũng sớm du nhập vào Việt Nam với sự
ảnh hưởng của các thể thơ Đường Cổ. Văn học- nghệ thuật: Cơ sở tư tưởng của văn học nghệ thuật dựa
trên Phật giáo và Nho giáo. Trong đó, tư tưởng nho giáo ảnh hưởng đến dòng văn học yêu nước dân tộc.
Một thành tựu quan trọng của văn học nền văn minh Đại Việt là việc phổ biến chữ Nôm, vừa mang tính
dân tộc (Nam Nôm), vừa mang tính dân gian (nôm na), cải biến và Việt hóa chữ Hán. Chữ Nôm lúc bấy
giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “Quốc ẩm”. Tầng lớp Nho sỹ: tiêu biểu là Nguyễn Trãi.
Ngoài ra, các thành tựu về khoa học tự nhiên như bàn tính, lịch can chi, chữa bệnh bằng châm cứu... đều
có tác động sâu rộng đến nền văn minh Đại Việt cũng như nền văn minh nước ta trong giai đoạn hiện tại.
(Nói rõ lịch 12 con giáp,... các con vật thiêng)
Những ảnh hưởng về chính trị xã hội. Trung Quốc là một quốc gia lớn có lịch sự lâu đời, lịch sự cho thấy
nước này đã từng đêm quân chinh phạt nhiều quốc gia xung quanh trong đó có nước Đại Việt. Chính sự
các cuộc xâm chiếm ấy đã làm cho Nước ta phái gánh chịu những ảnh hưởng nhất định về văn hóa của
họ đặc biệt là chính trị xã hội. Thể chế tổ chức bộ máy tập quyền đứng đầu là vua, dưới có cá tể tướng,
tướng quân,...mỗi triều đại lại có những sự xắp xếp tổ chức bộ máy khác nhau cho phù hợp với khả năng
cai trị của đất nước nhưng thể chế quân chủ đó co nhiều nét tiếp thu theo cách của Trung Quốc. Xã hội
nước ta cũng có nhiều xáo chộn và thay đổi khi văn hóa Trung Hoa tràn vào, các chính sách đồng hóa
người Việt tuy không thành công do sức mạnh của tinh thần dân tộc được nhưng cũng đã làm cho văn
hóa gốc bị tiếp thu và cải biến.
Bốn phát minh nổi tiếng của người Trung Quốc ảnh hưởng đến Việt Nam. Nghề làm giấy, đây là phát
minh quan trọng và có ý nghĩa của người Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ III SCN nghề làm giấy truyền
sang. Trước đó thì mọi ghi chép của người Việt đều sử dụng bằng thẻ tre, gỗ, lụa,... nhưng những thứ
này có nhiều nhược điểm. Kỹ thuật làm giấy du nhập vào Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo
đó mọi ghi chép sẽ được lữu trữ tốt hơn đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Nghề in: Nghề in bắt nguồn từ việc khắc chữ cái trên các con dấu đã có trước từ thời Tần. Thời Ngụy,
Tấn, Nam Bắc triều, Đạo giáo đã in nhiều bùa chú để trừ ma. Từ đời Đường, kỹ thuật in ván khắc của
Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Philippin, Arập rồi truyền dần sang châu Phi, châu Âu.
Những ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc tới văn hóa Việt Nam là vô cùng lớn, cho đến giờ những
ảnh hưởng đó vẫn còn những tồn tại trong đời sống xã hội. Sự ảnh hưởng đó có cả yếu tố tích cực và
yếu tố tiêu cực. Dù sao nó cũng đóng góp một phần quan trọng vào lịch sử văn hiến của nước ta, làm
cho văn minh Việt Nam có thể đóng góp những phần nhỉ vào văn minh thế giới. Câu 6:
Phân tích những nội dung chủ yêu của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến văn hóa Việt Nam
* Phân tích những nội dung chủ yếu của Phật giáo
Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về khổ và diệt khổ. Đạo Phật ra đời cũng từ việc đức Phật nhìn
thây sự khổ của thế gian này và mong muốn tìm sự giải thoát khỏi nỗi khổ đó cho chúng sinh. Nói đến
Phật giáo trước hết là nói đến tư tưởng vị tha, vị nhân sinh. Bởi vậy Phật xướng lên thuyết Tứ diệu đế và
Thập nhị nhân duyên. Ây là những điều rất trọng yếu trong đạo Phật.
Khổ đế là sinh ra là khổ, có bệnh tật là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ, không ưa mà hợp là khổ, ưa mà
phải xa lìa là khổ, muốn mà không được là khổ, mất cái vinh lạc là khổ. Cái khổ ở đời thật rõ rệt, không ai
nói được là không khổ.
Tập đế là tụ hợp lại và kết tập mà thành ra. Vậy do những cái gì tụ hợp lại mà thành ra khổ.
Diệt đế là dứt bỏ đi. Ta đã thấy rõ cái căn nguyên của sự khổ, thấy rõ cái nhân và cái quả của sự khổ, thì
ta cứ lần lượt bỏ hết các nhân quả ấy. Bởi thế cho nên đạo Phật vốn gốc ở sự thấy rõ cái khổ, cho thế
gian là một bể khổ, ấy là cái quan niệm rất bi quan yếm thế. Đến khi tìm được cái đạo giải thoát, thì
thành ra cái quan niệm rất lạc quan, rất vui về việc cứu đời.
Đạo đế là con đường phải theo để được giải thoát. Vì có theo con đường ấy thì mới phá được cái khổ.
Sự thực hành ấy có 8 con đường chính gọi là bát chính đạo, tức là 8 con đường để tu cho thành chính
quả. Tám con đường ấy là: nội đô,
Chính kiến: thấy rõ, biết rõ chân lý, không để cái tà kiến che lấp sự sáng suốt của mình, khiến cho sự tin
tưởng của mình không sai lầm. Chính tư duy: lập chí theo chân lý mà suy nghĩ cho đến chỗ giác ngộ được đạo chính.
Chính ngữ: nói những điều đúng chân lý, không nói những điều gian tà, giả dối.
Chính nghiệp: làm những việc ngay chính công bình, không làm những việc tàn bạo gian ác.
lộc mà bỏ những điều nhân nghĩa.
Chính mệnh: sông theo con đường công chính, không tham lam lợi
Chính tinh tiến: cố gắng học tập tu luyện cho tới đến đạo, giữ tâm trí cho ngay chính sáng suốt, đừng để
những điêu tham lam, sân si và những tà kiên, vọng tưởng làm cho ta đi lầm đường lạc lối. Chính niệm:
đem ý niệm của mình chú vào đạo lý chân chính, không tưởng nhớ đến những điều bạo ngược gian ác.
Chính định: định cái tâm trí của mình vào đạo lý chân chính, không để cái gì lay chuyển được. Tức là thu
cái tâm trí vào đạo, không để tán Vậy theo 8 con đường chính ấy là mình tự trị lây mình, tự giác ngộ loạn ra điều khác.
lấy mình, để đem mình vào niết bàn.
Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến văn hóa Việt Nam
Phật giáo truyền sang Việt Nam từ hai hướng, từ Trung Hoa hoặc từ Ấn Độ. Và khi thâm nhập vào Việt
Nam, đạo Phật đã gắn liền với tẩm hồn người Việt, ảnh hưởng sâu sắc trong nhiều lĩnh vực sinh hoạt của
dân tộc, thậm chí gắn liền với sự tồn vong của đất nước Việt Nam.
Ngay từ buổi sơ khai, đạo Phật đã trở thành đạo lý sống cho những tâm hồn yêu nước và đóng vai trò
tích cực trong việc dựng nước và giữ nước. Đó chính là nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Lịch sử còn
ghi rõ trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, những phong trào chống giặc phương Bắc của nhân dân ta đều chịu
ảnh hưởng của Phật giáo hay xuất thân từ Phật giáo. Đặc biệt đến thời Đinh, Lê, Lý, Trần, có thể khẳng
định rằng đó là thời kỳ mà giáo lý đạo Phật đã hòa nhập sâu sắc vào nền văn hóa Việt Nam. Hai tác phẩm
nỗi tiếng còn lưu lại như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh đã thể hiện rõ nét tinh thần đạo Phật.
Đời Lý được coi là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, trong hơn 200 năm, Phật giáo đã giữ vị trí
độc tôn và góp phần chính yếu cho nền văn hóa dân tộc. Về phương diện văn học, các Tăng sĩ đều thuộc
hàng trí thức có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa đương thời. Dưới triều Lý, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt
của 8 đời vua anh minh sùng kính đạo Phật, đã mở các khoa thi chọn nhân tài, giúp cho nền văn hóa
nước nhà được phát triển tốt đẹp.
điêu khắc, đạo Phật đã là động lực hỗ trợ cho việc phát triển mạnh mẽ Về phương diện mỹ thuật, đối với
các ngành kiến trúc, hội họa, qua các công trình mỹ thuật còn lưu lại như chùa tháp, tượng thờ, pháp khí, v.v...
Đến thời nhà Trần, các vua là những chiến sĩ anh dũng dẹp tan giặc Nguyên Mông một cách vẻ vang. Khi
đất nước thái bình, trí tuệ các ngài đã xây dựng nên những tư tưởng trong sáng của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Giáo lý đạo Phật đã hòa nhập mật thiết vào nền văn hóa Việt Nam, ảnh hưởng sâu đậm đến mọi sinh
hoạt đời thường của người dân Việt. Tuy lời nói của các vị Thiền sư thật đơn giản cùng với nếp sống bình
dị thanh thản, nhưng đã ảnh hưởng mãnh liệt, đi sâu vào lòng dân, đáp ứng được yêu cầu tình cảm, tri
thức cho họ. Qua những sự kiện lịch sử còn ghi rõ dấu ấn son sắt của Phật giáo đối với nền văn hóa dân
tộc, đối với nếp suy nghĩ, nếp sống của người dân Việt từ bao đời, có thể kết luận rằng, khi nào những vị
tu sĩ tài đức hiện hữu thì đạo pháp hưng thạnh, góp phần lợi lạc cho đất nước, mang an vui cho dân tộc.
Và ngược lại, Phật giáo suy đồi vì thiếu vắng người tu đắc đạo, thiếu người có khả năng hướng dẫn quần
chúng phát huy trí tuệ và đạo đức, thì đất nước cũng bị ảnh hưởng, mất phần lợi lạc.
Câu 7. Phân tích ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ đến văn hóa Đông Nam Á
Những thành tựu văn minh của Ấn Độ đã ảnh hưởng đến văn hóa thiết chế nhà nước. Và khi du nhập
vào văn hóa bản địa, văn minh Ân Đông Nam Á trên nhiều phương diện như: ngôn ngữ, tôn giáo, văn
học, Độ đã tạo nên nhiều sắc thái đa dạng song không làm mất đi bản sắc địa phương của các quốc gia ở khu vực này. Thiết chế nhà nước
Ảnh hưởng đầu tiên của văn minh Ấn Độ đối với văn hóa Đông Nam Á được thể hiện ở phương diện
thiết chế nhà nước. Thời kỳ đầu trước khi người Ấn Độ di cư vào khu vực Đông Nam Á thì cư dân ở đây
còn đang sống trong thời kỳ mông muội, thời kỳ nông nghiệp Đông Nam Á rất phát triển nên dẫn tới xu
hướng tập quyền là phổ biến. Người Ấn Độ đã đến, mang theo một thiết chế nhà nước vốn còn rất xa lạ
với người bản xứ - thiết chế Mandala. Mandala là thiết chế nhà nước đặc biệt trong lịch sử Đông Nam Á,
là dấu ấn quan trọng nhất của người Ấn Độ trong quá trình giao thoa văn hóa với vùng Đông Nam Á lịch sử. Tôn giáo
Văn minh Ấn Độ còn ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Đông Nam Á trên phương diện tôn giáo, cụ thể là
Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Về Ấn Độ giáo thì: ngay từ khi cư dân bắt đầu di cư sang Đông Nam Á, các vị tu sĩ Balamon đã đi theo và
khi đến nơi thì đã truyền bá tôn giáo này của mình cho người dân khu vực Đông Nam Á. Cư dân Đông
Nam Á cũng như các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc đã nhanh chóng thu và ứng dụng vào việc củng cố chính
quyền; người dân cũng tiếp thu để giúp cho cuộc sống của họ được sung túc, vui vẻ hơn. Ngoài ra, các tu
sĩ Balamon còn dựng tượng các thần, nhưng đổi tên cho phù hợp; đồng thời đặt ra các lễ cúng thân,
phong tục của người Ấn Độ áp dụng vào Đông Nam Á. Thần Trời nguyên thủy của bản địa được Ấn Độ
giáo hóa thành Shiva, tôn giáo thịnh hành nhất thời đó chính là Shiva giáo.
Nam Á, và nó có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng – tôn giáo của người Phật giáo là tôn giáo thứ hai
được người Ấn Độ du nhập vào Đông dân nơi đây. Phật giáo là tôn giáo do tầng lớp vương công – đại
diện là thái tử xứ Kapilavastu Siddharta Gautama (563 – 483 TCN) – thành lập với mục đích chống lại sự
lũng đoạn, mâu thuẫn giữa nhân dân – tầng lớp Balamon vốn có từ lâu khi người Arya xâm nhập và thống trị ngườI
sự diệt khô, sự chống lại những cái ác – cái bất công để xây dựng niềm tin cho con
người), Phật giáo đã nhanh chóng lan tỏa và bắt
rễ sâu trong lòng quân chúng nhân dân. Vào thời Ashoka (273 – 232 TCN), đế quốc Magadha ở Ấn Độ
phát triển cực thịnh; ông đã thực hiện chính sách khoan dung tôn giáo, đề cao Phật giáo và tạo điều kiện
thuận lợi để nó phát huy ảnh hưởng ra bên ngoài, nhất là vùng Đông Nam Á – khu vực láng giềng và gần gũi với Ấn Độ.
Trong suốt nhiều thế kỷ sau đó, với sự hỗ trợ nhiệt tình của triều đình cũng như các sư tăng, Phật giáo
đã thâm nhập sâu và ngày càng có vai trò to lớn trong các lĩnh vực ở Đông Nam Á, đặc biệt là lĩnh vực
giáo dục. Ngôi chùa không chỉ là trung tâm văn hóa mà còn là hình tượng “chân, thiện, mỹ” đối với mọi
người dân, trở thành nơi lưu giữ văn hóa, tri thức của dân chúng. Chữ viết:
Hai ngôn ngữ cổ Ấn Độ là chữ Phạn (Sankrit) và chữ Pali góp phần quan trọng hình thành nên các ngôn
ngữ ở Đông Nam Á. Từ rất sớm, người Chăm đã dùng chữ Phạn để ghi chép các sự kiện, hiện tượng diễn
ra trong cuộc sống của con người và tình hình quốc gia mà dấu tích còn để lại đó là các văn bia, bia ký.
Bia Võ Cạnh với cách viết gần với kiểu viết của các bia ký Amaravati ở Nam Ấn Độ đã được các nhà
nghiên cứu định niên đại ở thế kỉ III - IV là bằng chứng đầu tiên về sự du nhập của chữ Phạn vào
Champa. Trên cơ sở chữ Phạn, người Chăm sáng tạo ra chữ viết cho riêng họ. Chữ viết Chăm cổ xuất
hiện lần đầu tiên trong bia Đông Yên Châu (Quảng Nam).
Chữ Khmer bắt nguồn từ miền Nam Ấn Độ và theo truyền thuyết thì xuất hiện vào khoảng thế kỷ II. Ở
nước Myanmar thì trên cơ sở chữ Pali, người Miến Điện (tức người Môn) sáng tạo ra chữ viết Môn cổ
mà dấu tích còn để lại là các văn bia viết bằng chữ Môn cổ xuất hiện ở thành phố Thaton (thế kỷ VI) ở lưu vực sông Menam..
Theo nhiều tài liệu khảo cổ đã biết, chữ Thái cổ xuất hiện khoảng thế kỷ VII – VIII ở Bắc Đông Dương, Bắc
Myanmar mà tổ tiên của nó chính là chữ Pegu cổ và chữ Shan cổ vốn có nguồn gốc ở Ấn Độ truyền sang
từ lâu đời. Từ hai loại chữ đầu tiên này, cư dân Thái vốn sinh sống ở Bắc Đông Dương vào thế kỷ X – XI
tiếp thu và cải biên thành chữ Thái Lan vào thế kỷ XIII. Trên nền tảng chữ Thái, chữ Lào có thể hình
thành muộn hơn một chút, vào cuối thế kỷ XIV. Chữ Lào bắt nguồn từ chữ Khmer và sau này chịu ảnh
hưởng của chữ Môn, đã hình thành chữ Thăm dùng để viết kinh Phật. . . Văn học Sin grub
Các tác phẩm văn học Ấn Độ như Mahabharata và Ramayana khi truyền xuống Đông Nam Á đã nhanh
chóng thâm nhập vào khu vực này, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử văn học thế giới.
Từ các tác phẩm như Mahabharata và Ramayana khi du nhập vào đời sống của cư dân Đông Nam Á, vốn
rất hiền hòa và sống động thì nó được dân gian hóa, được tái sinh trong dân gian, chúng làm giàu thêm
cho kho tàng văn học vùng này. Một số tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu: Punha – Nhunhơ của Lào,
Prah Thong của Khmer, Đẻ đất đẻ nước của người Mường Việt Nam.... Cũng từ các tác phẩm như
Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, khi du nhập vào Đông Nam Á thì tạo ra những tác phẩm văn học
viết dù có dấu ấn của Ấn Độ, nhưng vẫn mang tính dân tộc cao, nhưng đa dạng về thể loại. Tiêu biểu cho
văn học Đông Nam Á là tác phẩm Riêmkê (thế kỷ IX−XIV) của Campuchia. Tác phẩm thứ hai cũng rất hấp
dẫn người đọc là Ramakien (Thái Lan) được sáng tác (chuyển thể thành Iakhon – một dạng vũ kịch) vào
cuối thế kỷ XVIII. Thể loại trường ca (Malaysia là truyện sử - na ná như trường ca) và sử thi cũng rất
thịnh hành ở các quốc gia mang dấu ấn của Ấn Độ ở các nơi này: ở Champa là các trường ca Đăm Săn – Xinh Nhã; ... Nghệ thuật kiến trúc
Kinh Cùng với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng nhiều đến Đông Nam Á qua các lĩnh vực tôn
giáo, âm nhạc, lễ hội... nhưng có lẽ nghệ thuật và kiến trúc là lĩnh vực ở Đông Nam Á chịu nhiều ảnh
hưởng nhất từ Ấn Độ; cụ thể nhất đó là qua kiến trúc Angkor Wat, Angkor Thom, Borobudur... Mặc dù
chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, nhưng ta không thể nói rằng những công trình kiến trúc Đông Nam Á đều
sao chép hoàn toàn của kiến trúc Ấn Độ, nhưng kiến trúc Ấn Độ đã được đồng hóa và biến thành tài sản riêng của Đông Nam Á.
Kiến trúc của Ấn Độ khi du nhập vào Đông Nam Á thì được người dân nơi ấy tiếp thu, và họ không tiếp
thu một cách thụ động, một chiều mà tiếp thu chủ động; chọn lọc những cái hay, cái tinh túy và cái đẹp
nhất của nghệ thuật Ẩn Độ đưa vào tác phẩm nghệ thuật của mình; đồng thời dùng nghệ thuật Ấn Độ
kết hợp với nghệ thuật bản địa rồi sáng tạo, để hình thành nền nghệ thuật kiến trúc mang đậm dấu ấn
của Ấn Độ, nhưng mang đậm tính dân tộc cao. Mỗi quốc gia thì hình thành sẽ kéo theo hình thành các
trường phái nghệ thuật Các trường phái thường đặt theo tên của triều đại, tên địa điểm phát tích ra nền
nghệ thuật đó; ví dụ: theo địa điểm phát tích thì có trường phái Mỹ Sơn, Hòa Lai, Đồng Dương ở vương
quốc Champa cổ; Sự kết hợp Ẩn + bản địa đã tạo nên cho nghệ thuật Đông Nam Á một sức phát triển
vượt bậc mà ít có nền nghệ thuật nào sánh kịp, làm cho nền nghệ thuật Đông Nam Á vốn đã phát triển
đa dạng thì lại càng đa dạng và phong phú hơn nhiều.
Ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ đến văn hóa Đông Nam Á, thành tựu tiêu biểu nhất là kiến trúc và điêu khắc.
Về kiến trúc thì ở Đông Nam Á có nhiều kiểu, loại nhưng rõ rệt nhất là các kiểu kiến trúc đền – núi, tháp và chùa... Lễ hội, ẩm thực
Dưới ảnh hưởng của Ấn Độ, lễ hội Đông Nam Á vốn đã hình thành từ thời cổ xưa thì đến thời gian này
vẫn phát triển và ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Do ảnh hưởng từ Phật giáo của Ấn Độ nên người
dân Đông Nam Á tổ chức nhiều lễ hội đa dạng, phong phú; nhất là lễ Tết. Lễ hội ở Đông Nam Á chịu ảnh
hưởng của Ấn Độ nhiều nhất là lễ hội Deepvali, Diwali có nghĩa là lễ hội ánh sáng, tượng trưng cho nền
văn hóa lâu đời của Ấn Độ. Ý nghĩa của hai lễ hội này là dạy cho con người biết vượt qua sự ngu dốt và
tìm đến ánh sáng của tri thức.
Ngoài lễ hội, ẩm thực của Ấn Độ cũng được lan truyền và để lại dấu ấn cho người dân Đông Nam Á từ
lâu đời. Món cà ri (kari: tiếng Ấn nghĩa là nước sốt) vốn nổi tiếng ở Ấn Độ từ lâu mà khi sang Đông Nam
Á thì được phổ biến rộng rãi. Nếu người Việt dùng cơm làm món ăn hàng ngày thì người Ấn cũng dùng
cà ri làm món ăn hàng ngày. Cà ri kiểu Ấn du nhập vào Việt Nam được người dân ta cải biên phù hợp
khẩu vụ từng vùng miền.
Tóm lại, trong suốt 15 thế kỷ sau Công nguyên, Đông Nam Á đã trở thành và đã là một khu vực văn hóa,
chính trị - xã hội thống nhất với nét đặc trưng lớn nhất là chịu tác động và ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ.
Tuy cùng chịu ảnh hưởng chung của Ấn Độ, nhưng mỗi quốc gia cổ đại Đông Nam Á lại tạo ra cho mình
một nền văn hóa, một mẫu hình tổ chức chính trị - xã hội riêng rất đặc trưng của mình. Câu 8:
Phân tích tính thống nhất và đa dạng của văn minh Đông Nam Á
Văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng
- Tính thống nhất, tính khu vực của Đông Nam Á trước hết được thể hiện ở chủ thể của văn hóa Đông
Nam Á. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử _ Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành loài
người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương Nam (Australoid).
Vào khoảng 10.000 năm trước (thời đại đồ đá giữa), có một dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ
phía dảy Himalaya thiên di về hướng Đông Nam, tới vùng Đông Nam Á thì dừng lại và hợp chủng với cư
dân Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien (cổ Mã
Lai - Đông Nam Á tiền sử). Với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ đây chủng này lan
tỏa, họ có mặt trên toàn bộ Đông Nam Á cổ đại. Đông Nam Á cổ đại được xác định trên một khu vực địa
lý rộng lớn. Ngoài 11 nước Đông Nam Á hiện nay thì Đông Nam Á cổ đại được xác định phía Bắc gồm
toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc (phía Nam sông Dương Tử), đảo Đài Loan, một số lãnh thổ ở Đông Bắc
Ấn Độ, quần đảo Andaman và Nicoba trong vịnh Bengal, châu Đại Dương và cả đảo Madagasca ở Đông
Nam châu Phi (tổ tiên chính là người Mã Lai di cư sang).Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất
cao độ của khu vực văn hóa Đông Nam Á. Sự thống nhất do cùng một cội nguồn là một loại hình
Indonesien, chính điều đó đã tạo ra bản sắc chung cho văn hóa Đông Nam Á.
- Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các tộc người lại làm nên những đặc
trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao hàm trong
nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đông Nam Á. Đơn nhiên, trong quá trình
phát triển, văn hóa Đông Nam Á đã tiếp thu nhều yếu tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Trung
Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đông Nam đạt được những thành tựu
mới mẻ trong quá trình phát triển của mình. Sau đây là một số điểm tiêu biểu được thể hiện:
Về ngôn ngữ - chữ viết: Sự đa dạng của ngôn ngữ được thể hiện ở chổ các quốc gia Đông Nam Á hiện có
tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc
khác nhau cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngôn ngữ dân tộc khác nhau (1998). Tương tự, các
quốc gia Đông Nam Á khác củng là các quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ Đông Nam Á đều
chi thuộc về một trong số 4 ngữ hệ sau đây: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng
đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Đó là một sự thống nhất cao
độ. Về chữ viết, từ đầu công nguyên, khi cần ghi chép các dân tộc Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán
(như ở Việt Nam) và chữ Pali – Sanskrit (ở các nước khác) của Trung Hoa, Ấn Độ để xây dựng chử viết
riêng cho dân tộc mình. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII, chử viết Ả Rập đã ảnh hưởng mạnh mẻ đến các quốc
gia hải đảo như Malaysia, Indonesia. Từ thế kỷ XVI, với sự can thiệp của các quốc gia phương tây, chử
viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo hướng Latinh hóa (chữ viết Brunay, Malaysia,
Indonesia, Philippin và Việt Nam) được sử dụng ngày nay.
Về phong tục tập quán: Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập quán
rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những tập tục ấy vẫn có nét gần
gủi, tương đồng nhau, là mẫu số chung quy tụ, giao thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông
Nam Á Một nền tảng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang phục
chung là Sàrông (váy), khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,... Đó là tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm,
rau, cá và hoa quả (hiện nay, thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là tục ăn hỏi trước
khi tổ chức đám cưới linh đình. Tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn
sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả các trò vui
chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền,... Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc
Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng
ẩm của khu vực Đông Nam Á.
- Về lễ hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở mỗi dân tộc mùa nào,
tháng nào trong năm củng có lễ hội. Nếu thống kê con số lễ hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng
trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lễ hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính:
Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ
dựng chòi cày của người Chăm,...), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa Keo, chùa Hương ở Việt Nam,...), lễ
tết (như tết nguyên đán, tết phật,...).
- Về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu vực địa lí,
văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ
nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt
Nam, Lào, Campuchia, Myanma, Indonesia,... thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,...), tín ngưỡng phồn thực
(thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh
đu,...), tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ
thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.
Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hóa Đông Nam Á, chúng ta đều có thể thấy một sự thống nhất trong
muôn hình muôn vẽ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á.
Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống vừa là
sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng
văn hóa đồ sộ của Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng
có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nói cách khác văn
hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.
Có thể khẳng định Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và ngày càng tiến bộ. Đông Nam Á hiện
nay đang phát triển kinh tế, đất nước hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Mà văn hóa là động lực quan
trọng nhất của của sự phát triển một nước, một khu vực. Với bề dày văn hóa mang bản sắc chung, đặc
sắc, các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều thành
tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa bình, ổn định, một khu vực phát
triển, thịnh vượng của thế giới.
Câu 9: Phân tích vai trò của văn minh Hy Lạp đối với sự phát triển của văn minh thế giới:
Những thành tựu rực rỡ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của người Hy Lạp là cơ sở đầu tiên và cũng là
mẫu mực của nền văn minh phương * Chữ viết của người Hy Lạp xuất hiện hiện từ thời Crét – Myxen.
Có thể chia thành: Loại tượng hình thuần túy, ghi lại hình người, động thiên niên kỷ II TCN. Loại thứ 2
bao gồm những chữ có dạng thức đơn vật, cây cỏ và đồ vật. Đó là loại chữ cổ nhất, xuất hiện vào khoảng
đầu giản, được cấu tạo bởi một số đường nét ngăn gọn khá đều đặn, thống nhất về kiểu thức.
Trên cơ sở văn tự của người Phoenicia, đến năm 403 TCN Nhà nước Aten hùng mạnh chính thức thống
nhất quy định thể thức chữ viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống 27 chữ (sau này rút còn 24
chữ). Đây là một trong những cống hiến lớn lao của người Hy Lạp vào kho tàng văn hóa chung của nhân
loại. Hệ thống mẫu tự này chính là nguồn gốc của hệ thống chữ viết Slav và chữ cái Latinh ngày nay. *
Văn học của người Hy Lạp rất phong phú +Thần thoại
Kho tàng thần thoại Hy Lạp vô cùng phong phú và hấp dẫn với những quan điểm về các hệ thần. Bên
cạnh hệ thống các thần đó, còn có các thần bảo hộ, các ngành nghề và lĩnh vực trong cuộc sống của
người Hy Lạp cổ đại điển hình như:
Những câu chuyện thần thoại vừa mang tính lịch sử xác thực phản ánh thực trạng xã hội, vừa đậm đà
chất hoang đường, duy lí, triết lí. Thần thoại Hy Lạp phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong cuộc đấu
tranh với thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên, phản ánh cuộc sống lao động đời thường của người dân.
Thần thoại Hy Lạp có ảnh hưởng rất quan trọng đối với nền văn học nghệ thuật Hy Lạp, là đề tài, nguồn
ảnh hưởng cho thơ ca, điêu khắc, hội họa.
+.Thơ ca: Là thể loại văn học xuất hiện sớm và được yêu thích. Tiêu biểu là hai tập sử thi nổi tiếng: Iliat
và Odixe của Hôme (giữa thế kỷ IX TCN) được coi là “bộ bách khoa toàn thư” về đời sống Hy Lạp. Đề tài
của Iliat và Odixe đều khai thác từ cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở Hy Lạp với thành Tơroa ở Tiểu Á. * Kịch
Hy Lạp nổi tiếng với các tác phẩm kịch sân khấu và các trường ca bất hủ:
Kịch Hy Lạp bắt nguồn từ các hình thức ca múa, hóa trang vào các ngày lễ hội, đặc biệt là lễ hội thần
rượu nho Điônixốt. Kịch Hy Lạp bao gồm hai loại: bi kịch và hài kịch.
Bi kịch với những nhà soạn kịch tiêu biểu nhất là: Etsin, Xophoclo, Oripit.
- - Etsin (525 – 426? TCN) đã sáng tác 70 vở bi kịch, 20 vở hài kịch với 10 lần đạt giải nhất. Chủ đề tư
tưởng của Etsin là vấn đề số phận. Những vở kịch tiêu biểu của ông là Orexte, Promete.
Hài kịch thường viết về những chuyện lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày. Nhà sáng tác tiêu biểu là
Arixtophan với các vở: Những kị sĩ, Đàn ong bò vẽ... * Sử học
Từ thế kỉ VIII – VI TCN, lịch sử Hy Lạp được truyền bá lại bằng truyền thuyết và sử thi. Đến thế kỉ V TCN,
người Hy Lạp bắt đầu có lịch sử thành văn và xuất hiện những nhà viết sử chuyên nghiệp, sử học Hy Lạp
được coi là cội nguồn của sử học phương Tây. Tiêu biểu nhất là các nhà sử học:
Herodot (484 – 425 TCN) nhà sử học lớn đầu tiên của Hy Lạp cô đại, ông được coi là: “người cha của sử
học phương tây”. Tuxidit (460 – 395 TCN) là tác giả bộ sử nổi tiếng “Cuộc chiến tranh Peloponedo”. * Tôn giáo - tín ngưỡng.
Tín ngưỡng của người Hy Lạp không nghiêm ngặt như các dân tộc của phương Đông, mỗi người có thể
quan niệm về thế giới bên kia theo cách của mình mà không bị phê phán là tà giáo. Mục đích của việc
thờ thần là cầu xin che chở cho gia đình, bộ lạc hoặc cả thành bang.
Mỗi thành bang đều có vị thần bảo hộ riêng: Athena ở Athens, Hera ở Argos, Artemis ở Ephese...
Tín ngưỡng của người Hy Lạp cổ đại là đa thần giáo. Bên vị thần, người Hy Lạp còn thờ các vị anh hùng
lập nên những chiến công giáo. Bên cạnh các phi thường chẳng kém gì các thần linh.
Tín ngưỡng của người Hy Lạp cổ đại có một đặc điểm khác là các vị thần đều mang hình người với đầy
đủ những đức tính tốt và xấu của con người, gần gũi với đời thường.
* Nghệ thuật: bao gồm ba mặt chủ yếu: Kiến trúc, Điêu khắc, Hội
Trong đó kiến trúc và điêu khắc là phát triển rực rỡ và để lại dấu ấn hơn cả. Các công trình đó thể hiện
sự thánh thoát, hài hòa, chân thực và sự đơn giản. Những tượng hình thú, thần thánh không còn nữa,
thay Vào đó là con người và hình thức cân đối và hài hòa về thể xác và tinh thần. + Kiến trúc
Kiến trúc Hy Lạp thường có đặc điểm là các công trình được xây trên nền móng hình chữ nhật với những
dãy cột đá tròn ở 4 mặt. Qua nhiều thế kỷ, người Hy Lạp phát triển 3 kiểu cột mà hiện nay người ta vẫn
dùng trong trường phái “cổ điển”... + + Điêu khắc
Từ thế kỷ V.TCN điêu khắc Hy Lạp đã phát triển tới sự hoàn mĩ và mẫu mực. Những nhà điêu khắc tiêu
biểu của Hy Lạp là Phidias, Miron, Polykleitos... với những tác phẩm nổi tiếng như tượng thần Zeus,
tượng thần Aprodit (thần vệ nữ), tượng nữ thần Athena, tượng người lực sĩ ném đĩa và lực sĩ vác giáo
được đánh giá là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc.
Hy Lạp có những sáng tạo, thành công với các bức vẽ trên vải, trên tường và trên đồ gốm sứ. * Khoa học tự nhiên
Hy Lạp cổ đại đóng góp nhiều thành tựu lớn lao cho kho tàng khoa học của nhân loại trên các lĩnh vực
như: Toán học, Thiên văn học, Vật lí, Y học... Những thành tựu của Hy Lạp trong các lĩnh vực này được
thể hiện qua đóng góp của các nhà bác học lừng danh như: Talet, Pitago, Acsimet,...
Về y học: y học ở Hy Lạp cổ đại đã đạt những thành tựu lớn về lí luận và thực hành trong việc chăm sóc
sức khỏe và chữa trị bệnh. Người được suy tôn là sư tổ của y học phương Tây là Văn minh Hy Lạp cổ đại
Hypocrat (469 - 377 TCN). Oâng đã giải phóng y học ra khỏi mê tín dị đoan, đề ra những phương pháp trị bệnh hiệu quả * Triết học
Trên cơ sở phát triển của kinh tế và những thành tựu củøa khoa học tự nhiên, triết học Hy Lạp xuất hiện
sớm và trở thành quê hương của triết học phương Tây.
Triết học Hy Lạp có những đặc điểm như có tính tổng hợp cao, gồm nhiều trường phái, trào lưu, cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra quyết liệt.
Từ thế kỷ VII – VI.TCN là giai đoạn hình thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm đầu tiên ở Hy Lạp.
* Luật pháp và Nhà nước tình t
Luật pháp: từ thời cổ đại, người Hy Lạp đã có một hệ thống luật pháp tương đối phát triển và có ảnh
hưởng không nhỏ đến luật pháp của người La Mã sau này:
Luật Đracong (621 TCN): nổi tiếng vì những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử.
Đạo luật Đracong thường khắc trên những bia đá và đặt ở nơi công cộng giúp cho người dân theo dõi
việc xét xử và tránh được việc xét xử tùy tiện của tòa án.
Những pháp lệnh của Xolong (Solon) với các pháp lệnh sau: • Pháp lệnh về ruộng đất;
Pháp lệnh về nô lệ vì nợ;
• Pháp lệnh phân chia đẳng cấp và quyền lợi nghĩa vụ của mỗi đẳng
• Pháp lệnh về thành lập “Hội đồng 400 người” và Tòa án nhận
Ngoài ra còn có pháp lệnh về việc thừa nhận quyền chuyển nhượng tài sản, về việc cấm xuất khẩu nông phẩm...
Những pháp lệnh của Xolong đã hạn chế một phần quyền lợi của quý tộc, mang lại nhiều quyền lợi cho nông dân.
Nhà nước: Các hình thức Nhà nước: chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa – cũng xuất hiện và phát triển
từ thời Hy Lạp cổ. Chính thể quân chủ tức là chính quyền do một người nắm quyền lực; chính thể cộng
hòa là chính thể trong đó chính quyền được lập nên do bầu cử. Tuy vậy, chính thể cộng hòa thời đó đã
gồm 2 thể chế với 2 mức độ dân chủ khác nhau: cộng hòa quý tộc, trong đó chỉ một số ít người có đặc
quyền tham gia bầu cử – tức là chính quyền của một thiểu số tương đối nhỏ; và cộng hòa dân chủ, trong
đó mỗi công dân đều có quyền bầu cử (nền dân chủ theo tiếng Hy Lạp đã có nghĩa là chính quyền của nhân dân).
Tất nhiên, nô lệ, tầng lớp chiếm số đông dân cư, không được tham gia bầu cử. Cho nên: Nhà nước trong
thời đại chiếm hữu nô lệ dù quân chủ hay cộng hòa quý tộc hay cộng hòa dân chủ đều là Nhà nước chủ nô.
Hy Lạp là một trong những nền văn minh rực rỡ nhất thời cổ đại, có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn
minh khu vực Địa Trung Hải. Đây là nơi ra đời của nền dân chủ, triết học phương Tây và các khoa học hiệ
đại đều ít nhiều có ảnh hưởng từ văn minh Hy Lạp.