Đề cương ôn tập triết học K69 | môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội
Đề cương ôn tập triết học K69 | môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40367505
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC K69 – Khoa Toán Tin
Câu 1: Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lenin và rút ra ý nghĩa của định nghĩa? Trả lời
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Theo quan điểm của triết học duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một
bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của Thượng Đế”, “ý niệm tuyệt đối”,..
- Triết học duy vật thời cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể. Ví dụ:
+ Các nhà triết học duy vật như Ta-let cho rằng nguồn gốc của thế giới là nước
+ A-na-xi-men-nit coi bản chất chung của tất thảy mọi vật là không khí +
Hê-ra-clit coi bản nguyên của thế giới là lửa.
Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết
nguyên tử của Lơ-xip và học trò của ông là Đê-mô-crit.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với khối lượng,
coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm siêu hình
về vật chất. Nhưng lại dẫn đến sự bế tắc của quan điểm trước Mác về vật chất. Từ nhu cầu của
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Leenin đã nêu định nghĩa :
- “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”. 2.
Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất Lenin
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừa tượng, vừa có tính cụ thể. + Tính
trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đăc tính tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người và cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt vật chất với
khoa học vật chất cụ thể khác. Ví dụ:
Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân và
những người lao động khác để củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ, phân biệt với
nhà nước tư bản hay xã hội chủ nghĩa.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất thông qua nghiên cứu
các sự vật hiện tượng vật chất cụ thể lOMoAR cPSD| 40367505 Ví dụ:
Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết được
nước sôi nóng ở 100 độ C
- Vât chất là “thực tại khách quan”: có đặc tính cơ bản ( cũng là đặc trưng cơ bản ) là tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được thì nó vẫn tồn tại. Ví dụ:
Thủy triều là hiện tượng nước biển hay nước sông lên xuống trong 1 chu kỳ thời gian phụ
thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại 1 cách tự nhiên,
không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
- Vật chất có tính khách thể: con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan như thị
giác, xúc giác,… Ví dụ:
Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau 1 thời gian nuôi dưỡng được người
chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,..
- Ý thức là sự chép lại, chụp lại, phản ánh lại thực tại khách quan. Bằng các giác quan của mình
con người có thể trực tiếp hoăc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có sự vật, hiện
tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết , chứ không thể không biết. Ví dụ:
Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
- Vật chất là cái có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quy định ý thức. Ý thức là cái có sau vật
chất, phụ thuộc vào vật chất. Như vậy vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức,
là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật
chất, có tác động , thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào chúng và được quần chúng vận động. Ví dụ:
Trong quá trình phát triển đất nước, khi cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về vật chất, nhưng
ý thức của con người đã vượt xa so với “vật chất hiện tại”. Điển hình là:
Nguyễn Tất Thành hay những tấm gương : Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... nghĩ lớn,
quyết tâm tìm đường cứu dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của Thực dân Pháp,.. 3.
Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa này.
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan
của cảm giác, của ý thức . Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức
được thế giới vật chất . Thế giới duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó lOMoAR cPSD| 40367505
với ý thức trong lĩnh vực xax hội đó là : tồn tại của xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị,.. Ví dụ:
Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì nước đó mạnh hơn , có tầm ảnh hưởng đến các quốc
gia khác và trong khu vực sâu sắc hơn.
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất với ý thức. Vật chất có trươc ý thức là nguồn gốc và quy định ý vốn có của sự vật. Đồng thời
cần thấy được tính năng động , tích cực của ý thức để phát huy tính năng động, chủ quan nhưng
tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hóa vai trò, tác dụng của ý thức. - Định nghĩa
chống lại quan điểm duy tâm, siêu hình trong quan niệm về vật chất, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Định nghĩa đã định hướng khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc hình thức mớicủa
vật thể trong thế giới.
Câu 2: Quan điểm của triết học Mác- Lênin về vận động? Trả lời
2.1. Vận động là gì? Quan điểm trước Mác:
Theo Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: vận động là sự thay đổi vị trí trong không
gian mà theo nghĩa chung nhất, “ vận động là mọi sự biến đổi”. Vận động, hiểu theo nghĩa chung
nhất, là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: vận động là do cái đích của Thượng Đế.
Khái niệm: Vận động là một phạm trù của triết học dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của
vật chất đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian,
vũ trụ từ đơn giản tới phức tạp
2.2. Cơ sở khách quan của vận động
Nguồn gốc của vận động là do sự biến đổi của thế giới vật chất Vận động là
phương thức tồn tại của vật chất:
Vật chất chỉ có thể tồn tại khi vận động và thong qua vận động nó biểu hiện sự tồn tại của mình lOMoAR cPSD| 40367505
Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến
2.3. Các hình thức vận động
Gồm 5 hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.
Trình độ vật chất nào thì gắn với nó là một hình thức vận động mới. Vận động cao bao hàm vận
động thấp. Vận động xã hội bao hàm cả cơ học, vật lý, hóa học và sinh học. Cơ học: là vận
động của thế giới vô cơ, sự di chuyển vị trí trong không gian
VD: Cái bàn di chuyển từ đầu lớp xuống cuối lớp
Vật lý: là quá trình vận động của các nguyên tử, các hạt cơ bản,điện trường, từ trường
VD: Sự di chuyển của các phân tử nước
Hóa học: là là quá trình phân giải và hóa hợp các chất
VD: Cho đường vào một cốc nước, đường hòa tan vào trong nước
Sinh học: là vận động của thế giới sinh vật như biến đổi di truyền, sự trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường
VD: Khi hít thở cơ thể chúng ta thực hiện quá trình trao đổi chất với môi trường
Xã hội: là sự thay đổi thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế xã hội (hoạt
động, lao động, tư duy của con người tạo ra sự biến đổi trong xã hội)
Phân biệt giữa vận động và phát triển:
+ Vận động có thể đi lên hoặc đi xuồng
+ Phát triển chắc chắn là đi lên
VD: Sự biến đổi công cụ lao động từ đồ đá sang kim loại; sự chuyển đổi nền kinh tế-xã
hội phong kiến sang kinh tế-xã hội theo chế độ tư bản chủ nghĩa
2.4. Quan hệ giữa vận động và đứng im
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im chỉ xảy ra trong một quan
hệ nhất định chứ không phải tất cả mọi mối quan hệ
VD: Khi ta đứng im ở một tư thế nào đó là đứng im trong hệ quy chiếu Trái Đất nhưng
đứng ngoài trái đất chúng ta lại đang vận động vì Trái Đất luôn chuyển động quay xung quanh mặt trời lOMoAR cPSD| 40367505
Đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động nhất định: vận động cơ giới
VD: Khi ta đứng im thì đó chỉ là đứng im trong vận động cơ học còn vận động hóa học và
sinh học trong cơ thể chúng ta vẫn đang vận động
Đứng im chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định
VD: Chúng ta có thể đứng im tạm thời nhưng không thể đứng im mãi mãi vì cơ thể chúng
ta không làm được điều này
Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động: vận động trong thăng bằng, nghĩa là
những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. VD:
Sinh viên năm nhất (2019) nằm trong đoạn thời gian 1 năm học từ tháng 8/ 2019 đến
5/2020. Như vậy trong khoảng thời gian trên, k69 vẫn là sinh viên năm nhất- Không có sự biến
đổi về tính chất. Gọi đó là vận động thăng bằng (Đứng im)
Câu 3: Phân tích nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức Trả lời
Phạm trù ý thức: Ý thức là một trong những mặt cơ bản của vấn đề triết học. Nó có mối quan hệ
gắn kết với phạm trù vật chất.Và nó chịu dưới sự quy định của phạm trù vật chất.
I. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, nguồn gốc ra đời ý thức là nguyên thể đầu tiền, tồn tại
vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
Còn theo chủ nghĩa duy vật siêu hình, họ xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc ý
thức. Nhưng còn đó là rất nhiều sai lầm và thiếu xót.
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức được bắt nguồn từ: nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội. -
Nguồn gốc tự nhiên (Não bộ con người):
+ Não bộ con người là cơ quan vật chất đặc biệt nhất so với não của các loài động vật khác. Vì
nó có khả năng sản sinh ra ý thức.
+ Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa của thuộc tính phản ánh ở mọi dạng vật chất. Phản
ánh là thuộc tính phổ biến của mọi vật chất, là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh
phụ thuộc vào 2 vật: vật tác động và vật bị tác động. lOMoAR cPSD| 40367505
Ví dụ: Thanh sắt ( vật bị tác động) để lâu trong không khí ( vật tác động là O2) sẽ xuất
hiện hiện tượng han gỉ.
+ Phản ánh sẽ phụ thuộc vào trình độ vật chất.
-Phản ánh thấp nhất là phản ánh vô sinh ( Thế giới vô cơ) là phản ánh thụ động
Ví dụ: Hai thanh kim loại chạm vào nhau sẽ phát ra tiếng kêu leng keng, và hiện tượng biến dạng.
-Phản ánh tiếp theo là phản ánh hữu sinh ( có sự sống) : phản ánh ở thực vật ;ở động vật
chưa có hệ thần kinh, não bộ và ở động vật có hệ thần kinh, trí khôn.
-Phản ánh cuối cùng là ở con người- là phản ánh cao nhất để sản sinh ra ý thức.
Như chúng ta biết, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Bộ
óc của con người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa có ý thức. Không có sự tác
động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc đó là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Ví dụ: Một người có não bộ tổn thương thì ý thức rối loạn
Một người có não bộ bị chết thì không có ý thức. -
Nguồn gốc xã hội:
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời
cùng với sự hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên nhằm
tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó con người đóng vai trò môi giới,
điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là hoạt động đặc
thù của con người, lao động luôn mang tính tập thể, xã hội.
Vai trò của lao động là hoàn thiện con người.
Ví dụ: Xét theo suốt quá trình tiến hóa từ Vượn cổ tới Người tối cổ tới Người hiện đại:
Con người quen với việc di chuyển tứ chi tới di chuyển bằng hai chân nhưng gù lưng, và cuối
cùng là thẳng lưng lOMoAR cPSD| 40367505
Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình trong quá
trình lao động. Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu, kí hiệu
mà con người ta quy ước với nhau để lưu giữ và truyền tải thông tin giữa người- người, giữa các thế hệ với nhau.
Vai trò của ngôn ngữ: Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời là công cụ
của tư duy nhằm khái quát hóa, trìu tượng hóa hiện thực.
Ví dụ: Ngôn ngữ khô cứng, nghèo nàn thì tư duy cũng hạn hẹp
Ngôn ngữ linh hoạt thì tư duy thoáng
Từ đây, Não bộ là điều kiện cần, Lao động và Ngôn ngữ là điều kiên đủ. Không thể thiếu một trong
ba yếu tố trên, vì nếu thiếu thì sẽ không tạo nên một ý thức hoàn chỉnh.
Ví dụ : Câu chuyện cô bé Người sói:
Đều là con người bình thường, não bộ phát triển bình thường nhưng lại không sống trong môi
trường người nên cô bé không có ý thức như một con người mà là một con sói.
Vậy nguồn gốc nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động là thực tiễn xã hội.
II. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách quan vào trong não người và được cải biến từ
đó. Là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan của óc người.
Ví dụ: Hình ảnh một dòng sông dưới con mắt thẩm mỹ của người nông dân khác với thi sĩ
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất thông
qua não người, nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan còn hình thức phản ánh là chủ quan,
nó phản ánh thế giới khách quan nhưng nằm trong phạm vi chủ quan
Ý thức mang đặc tính năng động, sáng tạo: Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh đơn lẻ thụ
động mà hoàn toàn có định hướng mục đích, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ nào
người nhưng đây là sự phản ánh đặc biệt gắn với thực tiễn và đi liền với nhu cầu của con người,
trên cơ sở những cái đã có thì ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật tưởng tượng ra những cái
không có trong thực tế tạo ra một “ thiên nhiên thứ hai” . lOMoAR cPSD| 40367505
Ý thức mang bản chất xã hội. Nó phụ thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh, môi trường, xã hội quy định
Ví dụ : ý thức của người sống trong xã hội phong kiến khác so với con người hiện đại ngày nay:
Để duy trì giống nòi:
+ Trong xã hội phong kiến: Lấy anh em, chị em,...họ hàng là chuyện bình thường và một phần tất
yếu để dòng máu dòng tộc không bị pha loãng bởi ngoại tộc
+ Hiện đại: Loạn luân là một vấn đề xã hội đáng bị lên án gay gắt và cần phải xóa bỏ.
Sự phản ánh ý thức là sự thống nhất ba mặt
Trao đồi thông tin giữa chủ thể và đối tượng (có định hướng, chọn lọc và mang tính hai chiều)
Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới hình ảnh tinh thần (mã hóa vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất)
Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực (biến ý tưởng tinh thần phi vật chất thành vật chất)
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất ý thức
Kết quả phản ánh của ý thức phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tưỡng, điều kiện lịch sử xã hội, phẩm
chất, năng lực, kinh nghiệm,…
Ý thức hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn
Ý thức có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả
thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao
Sự sáng tạo của ý thức phải dựa vào sự phản ánh của thế giới vật chất và sự sáng tạo này hoàn toàn
thống nhất trên cơ sở của sự phản ánh
III. Kết cấu của ý thức
a) Các lớp cấu trúc của ý thức
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin,
lý trí, ý chí… trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
+Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong
tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức
ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự lOMoAR cPSD| 40367505
nhiên, về xã hội, về con người. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức – là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế, cải tạo thế giới.
+Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và
đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại; nó phản ánh
quan hệ của con người đối với nhau, cũng như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào
mọi hoạt động của con người và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người.
b) Các cấp độ của ý thức
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức. +Tự ý thức:
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân
mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý
thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư
duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội và có hành vi tự điều chỉnh bản thân theo
các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp
hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản xuất xác định,
về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình. +Tiềm thức:
Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại có liên
quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực
chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành
bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần
kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học +Vô thức: lOMoAR cPSD| 40367505
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử
của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có
sự kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản
năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác…
Mỗi hiện tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một
chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất, là những
ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng.
Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng
thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con người. Tuy
nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi vô thức là hiện
tượng tâm lý cô lập. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
c) Vấn đề “trí tuệ nhân tạo”
Ngày nay, với sự phát triển đột phá về khoa học và công nghệ hiện đại đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, sản xuất ra nhiều lạoi máy móc không những có thể thay thế lao động cơ bắp mà còn có
thể thay thế cho 1 phần lao động trí óc của con người. Ý thức được con người cài vào các robot
khiến chúng có thể suy nghĩ hành động 1 phần giống con người và tương lai sẽ thay thế khá nhiều trong ngành lao động.
Câu 4: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận
của việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Trả lời
* Khái niệm vật chất, ý thức
+ Vật chất và ý thức là 2 phạm trù cơ bản của triết học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. +
Theo quan điểm của Mác-Lenin, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan
* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quan điểm duy tâm và siêu hình
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn
có của con người thành một lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Coi ý thức là tồn tại
duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu
hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Mọi con đường mà chủ lOMoAR cPSD| 40367505
nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con người đến với thần học. Trong thực tiễn, người duy tâm phủ
nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, dẫn đến duy ý chí, hành động bất chấp
điều kiện, quy luật khách quan.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tuyệt đối hóa yếu
tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ
nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo,vai trò to lớn
của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai
lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”, thụ động ỷ lại, trông chờ không đem
lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong chủ nghĩa biện chứng duy vật -
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin do có lập trường duy vật, nắm vững phép
biệnchứng, kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, nên đã khắc phục
được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm
khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất,ý thức
và mối quan hệ giữa chúng. -
Vật chất có trước sinh ra và quyết định ý thức:
+ Khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người, thế
giới vật chất là cái có trước, còn con người và ý thức của con người là cái có sau, là sản phẩm của
một quá trình; tiến hóa lâu dài trong thế giới; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một
dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ
thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận
động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
+ Ví dụ: Đối với giáo dục hiện nay, dựa vào sự phát triển của xã hội, hoàn cảnh mà xã hội
tạo ra cho con người buộc chúng ta ngày từ nhỏ đã phải tự lập có bản lĩnh tư duy để đối mặt với
nhiều mặt trái của xã hội hơn như các tệ nạn nghiện game, nói tục chửi bậy hay nguy hiểm hơn cả
là bắt cóc, buôn người mại dâm. Từ vật chất hiện thực như vậy đã quyết định bản chất của ý thức
là chúng ta phải dạy trẻ nhiều hơn cả, giáo dục chú trọng đề cao việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
+ Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội- lịch sử
của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh.
+ Ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Triết học Mác khẳng định: Ý thức
không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức. Hoạt động thực tiễn trong quá lOMoAR cPSD| 40367505
trình phát triển của cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức. Ý thức con người đã phát triển qua các thế hệ;
qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại. Loài người nguyên thủy sống bầy đàn dựa
vào tặng vật của thiên nhiên thì “ý thức của họ chỉ là ý thức quần cư đơn thuần” và tư duy của họ
cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý
thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng phát
triển phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề
trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất,
quy luật vận động, phát triền của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự vận động, biến đổi không ngừng
của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy ý thức
của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần
thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã
hội hóa của sản xuất phát triển là tiền đề để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, hình thành và phát triển
không ngừng lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin.
- Tính độc lập của ý thức đối với vật chất:
+ Ý thức sau khi ra đời là một thực thể tinh thần, không tồn tại thụ động mà có tính độc lập
tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người,
chỉ đạo hoạt động cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con người. Vai trò của ý thức
trong cải tạo thế giới khác nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng phản ánh hiện thực khách quan là đúng
đắn hay sai lầm. Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động
thực tiễn của con người. Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt
động thực tiễn của con người trong cải tạo hiện thực khách quan ở mức độ và giới hạn nhất định.
+ Ý thức tác động đến vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con người dựa trên
những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Tính
năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt qua tính quy định của
những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan
của các chủ thể hoạt động. Nếu tuyệt đối hoá tính năng động chủ quan của ý thức sẽ rơi vào chủ
nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
+ Nắm vững lí luận khoa học về nguồn gốc, bản chất của ý thức , mỗi quan hệ giữa vật chất
và ý thức là cơ sở để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Trong hoạt động thực
tiễn, con người biết vận dụng sáng tạo lí luận khoa học đó vào giải quyết đúng đắn mối quan hệ
khách quan và chủ quan đem lại hiệu quả trong công việc. lOMoAR cPSD| 40367505
+ Khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để khẳng định vai
trò to lớn của con người- chủ thể có ý thức đó. Thế giới không thỏa mãn con người và con người
quyết định sự biến đổi thế giới bằng hành động của mình. Do đó, về thực chất, sự tồn tại của đời
sống xã hội là có tính chất thực tiễn. Con người tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới,
khi đó ý thức trở thành tiền đề cơ bản hình thành mặt chủ quan của hoạt động với tính cách là mặt
đối lập với khách quan. Biện chứng khách quan- chủ quan là vấn đề mấu chốt của mối quan hệ
giữa hiện thực đang được nhận thức và cải tạo theo nhu cầu của con người với bản thân con người-
chủ thể của hoạt động đó. Con người lao động sáng tạo để duy trì sự sống với chất lượng ngày
càng cao của mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt
động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình.
=> Tóm lại, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, trong đó vật chất giữ
vai trò quyết định ý thức, là điểm xuất phát sản sinh ra ý thức, còn ý thức cũng tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
+ Ví dụ: Ý thức có thể phát triển vượt trước vật chất và tác động hai mặt:
.) Tích cực: Ý thức trong đường lối của đảng hiện nay rất phù hợp không ngừng thúc đẩy con người phát triển bản thân.
.) Tiêu cực: cũng là chính sách của đảng nhưng vào giai đoạn 1985 lại kìm kẹp con người phát triển bản thân.
* Ý nghĩa phương pháp luận trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
+ Phải có quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vì vật chất có
trước ý thức, quyết định ý thức và sinh ra ý thức nên khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ
bản thân sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan,
không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ta chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
+ Trong nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí. Nhận thức sự
vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán
cho đối tượng cái mà nó không có. Nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng nhìn chung phải xuất phát
từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.
+ Ví dụ: trong một môi trường các bạn lớp xã hội, theo học ngành ngữ văn, các giáo viên
dạy môn toán không thể muốn là các bạn ấy giải toán nâng cao là các bạn ấy có thể giải được. Dựa
vào khả năng thực tế chúng ta nhìn nhận được khả năng của các bạn ấy chủ yếu nắm vững dạng
toán cơ bản, tiếp cận từ tử từng bước với toán nâng cao, không thể trong một thời gian ngắn mà tự
suy nghĩ tìm tòi giải đc bài toán khó. lOMoAR cPSD| 40367505
+ Vì ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn nên chúng ta cần phải phát huy vai trò của ý thức, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức.
+ Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau nên chúng ta không tuyệt đối hoá
vật chất, hoặc ý thức, tránh nhìn nhận phiến diện, một chiều.
Câu 5: Trình bày nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa phương pháp luận từ
việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn? Trả lời
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến: -
Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến: Các nhà siêu hình không thừa nhận
mốiliên hệ khách quan của các sự vật, hiện tượng; họ cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt
lập, tách rời, cô động, tĩnh lại, cái này tồn tại bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia; giữa chúng
không có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Nếu có liên hệ chỉ là ngẫu nhiên, bề ngoài. -
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ dùng để khái quát sự
quyđịnh, tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của một sự
vật, hiện tượng, hay giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới. -
Cơ sở khách quan của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới;
theo đócác sự vật, hiện tượng dù có đa dạng, phong phú và khác nhau như thế nào đi chăng nữa,
thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất. lOMoAR cPSD| 40367505
* Tính chất của các mối liên hệ phổ biến:
- Tính khách quan của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
+ Phép biện chứng duy vật luôn khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động
của bản thân thế giới vật chất. Tuy nhiên, phép biện chứng duy tâm (kể cả duy tâm khách quan và
duy tâm chủ quan) cũng thừa nhận về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, song họ đi tìm nguồn
gốc, cơ sở của các mối liên hệ ở lực lượng siêu nhiên hay ý thức, cảm giác của con người.
+ Đối lập với phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở khác
quan của mối liên hệ phổ biến ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Nhờ có mối liên hệ mà các
sự vật, hiện tượng được thể hiện, bộc lộ các thuộc tính của mình trong sự tác động giữa các sự vật,
hiện tượng vật chất khác. Tính khách quan của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là thuộc
tính vốn có không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Chẳng hạn như : sự vận động của tự nhiên như bão, lũ, ...hay sự vận động của xã hội.Ngay
cả những vật vô tri vô giác chịu sự tác động của ánh sáng, nhiệt độ... con người chúng ta cũng phải
chịu sự tác động của những người xung quanh, của tự nhiên, của xã hội.
- Tính phổ biến của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
+ Mọi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ biến chứng tác động qua lại, quy định, phụ
thuộc, chuyển hóa lẫn nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau; không có sự vật, hiện tượng nào tồn
tại riêng rẽ, tách biệt. Mối liên hệ không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
+ Chẳng hạn, mối liên hệ trong tự nhiên là mối liên hệ giữa động vật và thực vật, mối liên
hệ trong xã hội thể hiện sự tác động giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...mối liên hệ trong tư
duy là mối liên hệ giữa các giai đoạn nhận thức trước và sau của một quá trình. Đồng thời còn có
những mối liên hệ con người chưa phát hiện ra được hoặc đã phát hiện ra nhưng chưa giải thích
được dưới góc độ khoa học.
- Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mối liên hệ
+ Thế giới vật chất đa dạng, nhiều vẻ, nảy sinh nhiều mối liên hệ như mối liên hệ về mặt
không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ
chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới, có mối liên hệ riêng
chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể; có mối liên hệ bên trong và bên
ngoài; có mối liên hệ nhân quả; có mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp; có mối liên hệ tất
nhiên, cũng có mối liên hệ nhẫu nhiên; có mối liên hệ bản chất và không bản chất; có mối liên hệ
chủ yếu và liên hệ thứ yếu v.v... chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của
thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được
trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhau mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
+ Việc phân loại mối liên hệ trên chỉ mang tính tương đối, tùy theo từng quan hệ cụ thể,
thậm chí các mối liên hệ có thể chuyển hóa cho nhau. Vì thế, khi xem xét về các mối liên hệ chúng
ta phải có tư duy và cách nhìn nhận linh hoạt, không nên tuyệt đối hóa chúng. Chẳng hạn, có thể
là cái chung trong quan hệ này, nhưng lại trở thành cái riêng trong quan hệ khác; hay có thể là cái
ngẫu nhiên khi mới xuất hiện, nhưng nó lại trở thành cái tất nhiên về sau này. Ví dụ, trao đổi hàng
hóa giai đoạn cuối của thời kì công xã nguyên thủy là ngẫu nhiên, nhưng đến những giai đoạn lịch
sử sau đó lại trở thành tất nhiên.
- Tính phức tạp của mối liên hệ của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng không chỉ mang tính đa dạng, nhiều vẻ, nó còn thể hiện
sự phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội. Như tính phức tạp trong mối quan hệ con người với
con người trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật... chúng đan chéo, ảnh hưởng
qua lại và mang tính đa chiều, nên việc nhận diện và phân biệt chúng là hết sức khó khăn.
* Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong nhậnthức
và trong hoạt động thực tiễn.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn
diện và nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. - Nguyên tắc toàn diện
+ Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong chỉnh thể thống nhất của tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng ác mối liên hệ của chúng; trong mối liên hệ
giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các
mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải
nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và dự báo tương lai
của chúng. Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không
thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt
bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật ngụy biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản
thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên
hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
+ Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cũng phải có trọng tâm, trọng
điểm, không dàn đều một cách chung chung.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
+ Sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động và phát triển bao giờ cũng xảy ra trong những điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này được thể hiện ở mỗi sự vật xét trong những điều kiện,
hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau sẽ bộc lộ ra tính chất của mối liên hệ và sự phát
triển cũng khác nhau. Vì vậy, nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối
liên hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện
tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận động của vật chất, là
quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Câu 6: Trình bày nội dung nguyên lí của sự phát triển? Ý nghĩa phương pháp luận từ việc
nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn? Trả lời
a. Khái niệm phát triển:
* Theo quan điểm duy tâm và siêu hình: -
Những người theo quan điểm duy tâm, siêu hình đều không thừa nhận sự phát triển
củasự vật, hiện tượng; nếu có thì sự phát triển cũng chỉ là sự tăng hoặc giảm về lượng mà không
có sự thay đổi về chất; phát triển diễn ra theo chu kì và vòng tròn khép kín. Nguyên nhân của sự
phát triển là do các yếu tố bên ngoài quyết định. * Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: -
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với nguyên lý của sự phát
triển, vìliên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có phát triển. Phát triển xuất hiện
trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng là sự thống nhất
giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn lọc những cái cũ, cho ra đời
và phát triển những cái mới.
Phát triển là quá trình vận động theo chiều hướng đi lên, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt mà đặc trưng của nó là cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
Ví dụ: Quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao; quá trình thay thế lẫn
nhau của các hình thức thức tổ chức xã hội loài người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc
còn sơ khai thời nguyên thuỷ lên các hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc. -
Nhưng cái chiều hướng đi lên không phải một sớm một chiều mà nhận ra được mà
nóđòi hỏi phải trải qua 1 quá trình biến đổi lớn, lâu dài thì cái xu hướng tiến lên mới thể hiện rõ.
Ví dụ: Khi ta theo dõi biểu đổ của sự biến động trên sàn chứng khoán. Nếu ta chỉ theo dõi
trong một ngày, một tuần, một tháng thì ta có thể thấy xu hướng đi xuống, nhưng nếu ta theo dõi
trong một thời gian dài hơn như 6 tháng hay 1 năm thì ta có thể thấy xu hướng chung vẫn là đi lên.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 -
Phát triển có mối quan hệ biện chứng với vận động; phát triển là trường hợp đặc
biệtcủa vận động. Sự vật phát triển phải trải qua sự vận động, nhưng không đồng nhất với vận
động; vận động đi xuống thì không phải là sự phát triển.
b) Tính chất của sự phát triển: * Tính
khách quan của sự phát triển: -
Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng; do
mâuthuẫn bên trong sự vật hiện tượng quy định. Cách thức của sự phát triển là sự tích lũy dần về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc,
cái mới phủ định cái cũ. Vì thế, sự phát triển của sự vật là vốn có, tự thân, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. -
Ví dụ: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách
quantheo quy luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì
cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó.
* Tính phổ biến của sự phát triển: -
Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tự nhiên biểu hiện
ở sựbiến dị, di truyền, tiến hóa, thích nghi của hệ động, thực vật. Trong xã hội là sự giải phóng
con người, sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội, còn trong tư duy là khả năng chinh phục và
cải tạo thế giới của con người. Phổ biến còn là tất cả các sự vật đều phát triển. -
Ví dụ: Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu
cơ; từvật chât chưa có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá dần lên các
cơ thể có cơ cấu sự sống phức tạp hơn – sự tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống
loài thực vật và động vật mới đến mức có thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức
xã hội từ đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng với quá trình đó cũng là quá trình không
ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao…
* Tính kế thừa của sự phát triển: -
Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự phủ định có kế thừa của sự vật, hiện tượng cũ;
trongsự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp và gạt bỏ
những mặt đã lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ cản trở sự phát triển.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử với sự phát triển qua từng thời
kì. Qua mỗi thời kì phát triển ta có thể thấy chúng ta vẫn còn lưu giữ và kế thừa những truyền
thống tốt đẹp và vẫn còn giá trị, phù hợp với thời đại ngày nay của cha ông ta ví dụ như tập tục
thờ cúng tổ tiên, uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo, v.v... nhưng đồng thời ta cũng loại bỏ
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
những cái lỗi thời lạc hậu trong xã hội xa xưa như quan điểm trọng nam khinh nữ của xã hội phong
kiến hay phong tục tảo hôn, các nghi thức man rợ như chém lợn v.v... .
* Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ: -
Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực (tự nhiên, xã hội và tư duy), nhưng mỗi sự
vật,hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng và phong phú của sự
phát triển còn phụ thuộc vào không gian , thời gian, các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. -
Ví dụ: không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới tự nhiên với
sựphát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân theo tính tự phát,
còn sự phát triển của xã hội loài người lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức
* Tính quanh co, phức tạp: -
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng tắp hay vòng tròn khép kín mà diễn
ratheo đường xoáy ốc, có bước quanh co, phức tạp, thụt lùi tạm thời. Vì vậy, trong quá trình phát
triển, sự vật hiện tượng phải kiên trì, chấp nhận sự mất mát, hi sinh để đi đến thành công. -
Ví dụ: Quan sát sự phát triển của ngành giáo dục ta có thể thấy rất rõ tính quanh
co,phức tạp của sự phát triển. Nếu như tầm 5, 6 năm trở về trước ngành giáo dục có thể được coi
là một ngành “hot” với số lượng nguyện vọng học sinh đăng kí khổng lồ thì 2, 3 năm trở lại đây
trước thực trạng dư thừa giáo viên quá nhiều, nhiều sinh viên ra trường không có việc làm hay có
việc làm nhưng với mức lương bèo bọt mà số lượng sinh viên sư phạm giảm đi rất lớn. Đây có thể
được coi là sự thụt lùi tạm thời. Nhưng trong vòng 1 năm nay số lượng sinh viên đăng kí vào ngành
sư phạm đã nhiều hơn trước, như vậy ta có thể thấy rõ ngành giáo dục lại đang phát triển, lấy lại
vị trí của mình trong xã hội.
c) Tiêu chuẩn của sự phát triển:
- Cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ, nên phát triển của sự vật phải đạt tiêu
chuẩn caohơn cả về số lượng và chất lượng của cái mới so với cái cũ. Tiêu chuẩn phát
triển cuối cùng và duy nhất phải vươn tới sự hoàn thiện và tối ưu của các sự vật, hiện tượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng được xem là phát triển hay không khi ta phải có căn
cứm cơ sởđể xác định kết quả vận động đi lên của sự vật cả về lượng và chất. Nếu
không có tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển thì cách đánh giá sẽ rơi vào mò mẫm, áp đặt.
d) Ý nghĩa của phương pháp luận:
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người cần phải có quan
điểm phát triển. Nguyên tắc phát triển yêu cầu phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận
động. Trong nhận thức, khi nhận thức, đánh giá sự vật, hiện tượng không chỉ nhận thức
nó trong hiện tại như nó có mà còn phải thấy được khuynh hướng vận động, phát triển
của nó trong tương lai. Trên cơ sở đó dự báo những tình huống có thể xảy ra để chủ
động nhận thức, giải quyết.
- Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến
cao, từ đơngiản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn của
sự phát triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những
hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ
mọi sự vật,hiện tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi và phát triển. Phát triển là
khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi, do vậy, trong hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn,
thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.
- Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới
phải biết kếthừa những yếu tố tích cực đã đạt được được từ cái cũ và phát triển sáng
tạo chúng trong điều kiện mới.
- Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn;nguyên tắc này giúp ta nhận thức được rằng muốn tìm được bản chất
của sự vật, hiện tượng; nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự
vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động (...) trong sự biến đổi của nó.
Câu 7: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa “ cái riêng” và “ cái chung”. Ý nghĩa phương pháp
luận của mối quan hệ này? 1. Khái niệm
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ nhũng mặt, những thuộc tính chung không
những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự
vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác Sự
phân biệt giữa cái chung và cái riêng và cái đơn nhất chỉ là tương đối.
2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cái chung, cái riêng, thực sự tồn tại khách quan và
tồn tại trong mối quan hệ biện chứng. Cụ thể là:
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của nó.
Vì thế, không thể có cái chung thuần túy tồn tại biệt lập ngoài cái riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Bởi vậy, không có cái riêng tồn tại
tuyệt đối độc lập với cái chung.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh
những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
Còn cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì bất cứ cái riêng nào bên cạnh
những thuộc tính được lặp lại ở các sự vật khác mỗi cái riêng đều chứa đựng cái đơn nhất.
- Cái chung có thể chuyển hóa thành cái riêng trong quá trình phát triển của sự vật trong
những điều kiện nhất định khi cái chung lạc hậu và lỗi thời .
- Cái riêng chuyển hóa thành cái chung khi cái riêng là tốt.
Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc mà thoạt đầu là ở
dạng đơn nhất nhưng theo quy luật của phát triển cái đơn nhất sẽ chiến thắng cái cũ để
trở thành cái chung. Ngược lại, cái cũ từ chỗ là cái phổ biến, cái chung sẽ mất đi dần biến thành cái đơn nhất. 3. Ý nghĩa
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chỉ có thể tìm cái chung
trong cái riêng chứ không phải từ ý muốn chủ quan của con người hoặc bên ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung, trong
hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Phải thấy được mối quan hệ qua lại giữa cái chung và cái riêng để khi áp dụng cái chung
vào những trường hợp riêng biệt không rơi vào tả khuynh, giáo điều bằng cách cá biệt
hóa, không áp dụng rập khuôn, máy móc cái chung. Để khắc phục bệnh hữu khuynh xét
lại thì phải tránh tuyệt đối hóa cái đơn nhất, xem thường cái chung. Và để tránh khỏi tình
trạng mò mẫm tùy tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa thì khi giải quyết vấn đề riêng không thể
không đặt trong mối liên hệ với những vấn đề chung có liên quan đến vấn đề riêng đó
Câu 8. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa phương pháp
luận của phương pháp này?
Trả lời:
Trong quá trình nhận thức, con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để
nắm bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung cùng có ở tất
cả chúng. Và khi xét đến các cặp phạm trù cơ bản thì không thể bỏ qua cặp nguyên nhân – kết quả,
đây là mô hình tư tưởng phản ảnh mối liên hệ cũng như sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong
thế giới tự nhiên đầy tính khách quan.
Nguyên nhân được định nghĩa là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau để rồi gây ra một biến đổi nhất định
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
nào đó. Còn kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động trên sinh ra. Khi định
nghĩa chúng dưới dạng một phạm trù Triết học thì có vẻ khó để hình dung, nhưng thực chất mối
liên hệ “nhân-quả” tồn tại và mang lại cho con người cảm giác rất rõ ràng thông qua các giác quan
ở đời sống thường ngày, ví dụ như do thức khuya nên sáng mệt mỏi, ở đây đã có sự thay đổi về
mặt sinh học dẫn đến việc tác động qua lại giữa hệ thần kinh và các bộ phận khác trong cơ thể để
rồi đưa ra hiện tượng kéo theo là rối loạn sinh học nói chung (gây mệt mỏi). Nếu trên phương diện
ghi chép thì cặp phạm trù “Nguyên nhân - kết quả” được biểu hiện thường dưới các cặp quan hệ
từ hay gặp như “vì...nên”, “do...nên”.
* Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Quan hệ nhân - quả là mối quan hệ có tính tất yếu khách quan, có nghĩa là: không
cónguyên nhân nào không dẫn đến kết quả, và ngược lại không có kết quả nào được sinh ra mà
không có nguyên nhân. Đây là quan hệ có tính quy luật, trong đó nguyên nhân bao giờ cũng là cái
có trước và quyết định kết quả. Phép biện chứng cho rằng, một nguyên nhân nhất định trong hoàn
cảnh nhất định sẽ chỉ sinh ra một kết quả nhất định, nếu các nguyên nhân ít khác bao nhiêu thì các
kết quả do chúng gây ra sẽ ít khác nhau bấy nhiêu.
- Trên thực tế, mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ hết sức phứctạp,
đa chiều. Bởi một kết quả (một sự biến đổi nào đó) không chỉ sinh ra bởi một nguyên nhân duy
nhất mà nó có thể do nhiều nguyên nhân khác tác động và ngược lại, một nguyên nhân có thể sinh
một hoặc nhiều kết quả khác nhau. Nếu các nguyên nhân (chủ yếu, thứ yếu, trong, ngoài...) ấy
cùng chiều với nhau thì sẽ có xu hướng thúc đẩy quá trình tạo ra kết quả nhanh hơn, còn khi các
nguyên nhân tác động ngược chiều thì sẽ làm cho kết quả hình thành muộn hơn, thậm chí là còn
triệt tiêu vai trò của nhau. Vì thế để nhận thức một sự vật, hiện tượng phải có cái nhìn đúng đắn,
đa chiều không vội đánh giá nguyên nhân sinh ra nó cũng như không kết luận chính xác nó khi
vừa biết một chiều nguyên nhân. Ví dụ: Phát triển công nghiệp là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi
trường, nhưng không thể kết luận tất cả sự ô nhiễm đều do phát triển nhà máy công nghiệp gây
nên vì còn có nhiều nguyên nhân khác như con người xả rác ra môi trường, hay sự phát triển của
phương tiện giao thông,...
- Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối. Mối quan hệ nhân quả là một
chuỗinhững sự nối tiếp giữa nguyên nhân và kết quả, có thể trong khoảng xác định này thì đóng
vai trò là kết quả nhưng đến mâu thuẫn tiếp theo lại trở thành nguyên nhân. Chính vì thế khi xét
một mối quan hệ về cặp phạm trù nhân- quả thì cần xét rõ ràng trong điều kiện, hoàn cảnh nhất
định; đồng thời khi muốn có kết luận cuối cùng về sự vật, hiện tượng nào đó thì nên xét bao quát
cả quá trình chuyển đổi vị trí lần lượt của cả hai phạm trù. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Nói tóm lại, mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất nhiên.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần tìm ra nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong bản thân hiện thực thế
giớikhách quan để phát triển các hiện tượng theo hướng tích cực cũng như góp phần hạn chế những
nguyên nhân sinh ra hiện tượng tiêu cực. Bên cạnh đó, mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù
này đã đã đẩy lùi phép phần nào quan điểm duy tâm, siêu hình xem “nguyên nhân” của sự biến
đổi là do các yếu tố phi vật chất (siêu nhiên) hoặc có nguồn gốc xuất phát nằm ngoài sự vật, hiện tượng đó.
- Vì mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả là rất đa dạng, phức tạp nên cần nhậnthức
phân tích đúng đắn các loại nguyên nhân để có biện pháp xử lý phù hợp.
- Kết quả được nguyên nhân hình thành nên nhưng nó không tồn tại một cách thụ động,
vì vậy cần biết cách khai thác cũng như vận dụng kết quả để thúc đẩy sự phát triển của sự vật.
- Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó, phải tìm trong chính hiện
tượng đó và phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có trước đó.
Câu 9: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và
ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật lượng chất trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn? Bài làm
Vị trí và vai trò của quy luật:
• Quy luật lượng- chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
• Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển: sự tích lũy dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
• Nó chỉ ra tính chất chung của sự phát triển của sự vật, hiện tượng: vừa diễn ra từ từ, vừa diễn ra nhảy vọt. Nội dung: Chất:
• Là một phạm trù triết học để chỉ những thuộc tính, tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng
nhằm phân biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác.
• Chất biểu hiện sự thống nhất, tính toàn vẹn của sự vật; được xác định bởi cấu trúc và phương thức
liên kết của các yếu tố cấu thành lên nó.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
• Đặc điểm cơ bản: có tính tương đối, ổn định; khi sự vật hiện tượng này chưa chuyển hóa thành sự
vật hiện tượng khác thì chất không thay đổi.
• Một sự vật có rất nhiều chất, tùy thuộc vào từng mối quan hệ.
• Thay đổi chất là thay thế phương thức. Lượng:
• Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng như: kích
thước, số lượng, quy mô,tốc độ,…
• Chất phức tạp bao nhiêu thì lượng phức tạp bấy nhiêu.
• Đặc điểm cơ bản: tính khách quan.
• Lượng chia làm 2 loại: cụ thể (định lượng được) và trừu tượng (thuộc tính: tình cảm,…)
Sự phân biệt chất và lượng chỉ mang tính tương đối.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
• Độ: dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng; là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng
chưa dẫn đến sự thay đổi về chất
• Điểm nút: lượng thay đổi đạt tới phá vỡ độ cũ dẫn đến chất thay đổi; là thời điểm bắt đầu xảy ra bước nhảy.
• Bước nhảy: là giai đoạn chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác; là
bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng.
• Các hình thức của bước nhảy:
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ:
+/ bước nhảy toàn bộ: bước nhảy làm cho tất cả các mặt của sự vật, hiện tượng thay đổi.
+/ bước nhảy cục bộ: bước nhảy chỉ làm thay đổi 1 số mặt.
Sự phân biệt 2 loại bước nhảy trên chỉ là tương đối, bởi vì dù là bước nhảy toàn bộ hay cục bộ thì
cũng đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng.
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó:
+/ Bước nhay đột biến: làm cho sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả các mặt.
+/ Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra do sự tích lũy dần những yếu tố của
chất mới và loại bỏ dần yếu tố của chất cũ. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
2. Chất mới ra đời lại quy định lượng mới phù hợp:
Sự vật mới muốn tồn tại và phát triển thì phải thiết lập về quy mô, kích thước, trình độ, nhịp điệu,…
Tức là chất mới ra đời lại phải tạo ra một lượng mới phù hợp để thống nhất với chất mới trong sự vật,hiện tượng mới.
Tóm lại, bất kì sự vật,hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng. Quá
trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục trong đứt đoạn, đứt
đoạn trong liên tục làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi và phát triển.
Ý nghĩa của phương pháp luận:
Quy luật lượng đổi, chất đổi giúp nhận thức sự phát triển của sự vật,hiện tượng luôn diễn
ra theo cách tích lũy dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Chính vì vậy cần tránh 2 khuynh
hướng sai lầm là: tả khuynh (sự nóng vội, chủ quan, duy ý chí, chưa tích lũy đủ lượng đã muốn
thay đổi về chất dẫn đến sự thất bại) và hữu khuynh (bảo thủ, trì trệ, đã tích lũy đủ về lượng nhưng
lại chậm trễ, ngần ngại, không muốn thay đổi về chất)
Quy luật lượng đổi, chất đổi còn giúp nhận thức được rằng quy luật xã hội diễn ra thông
qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, khi đã tích lũy dần về lượng phải tiến hành
bước nhảy nhanh chóng, kịp thời nhằm thay đổi về chất, chuyển những thay đổi mang tính tiến
hóa sang những thay đổi mang tính cách mạng.
Ngoài ra, nó còn giúp nhận thức sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật,hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình phải biết tác động
vào cấu trúc và phương thức liện kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng đó.
Câu 10: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập? Ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong nhận và trong hoạt động nhận thức. Trả lời
a) Vị trí, vai trò của quy luật
- Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản, là hạt nhân của phép biện chứng duyvật;
nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển; là cơ sở để hiểu các quy luật khác.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Quy luật mâu thuẫn là trung tâm, bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật; bởi nóđề
cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguồn gốc của sự
vận động, phát triển; phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn và khẳng định đấu tranh
là phương thức giải quyết mâu thuẫn.
- Nắm vững được nội dung quy luật mâu thuẫn tạo cơ sở cho việc nhận thức các phạm trù vàquy
luật khác của phép biện chứng duy vật; đồng thời giúp hình thành phương pháp tư duy khoa học,
biết khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng và giải quyết mâu thuẫn nảy sinh. Theo V.I.Lênin:
“ Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập.
Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải
thích và một sự phát triển thêm”.
b) Khái niệm và các tính chất chung của mâu thuẫn - Khái niệm mâu thuẫn:
+ Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, tác
động lẫn nhau của các mặt đối lập.
+ Mặt đối lập là những mặt, thuộc tính, khuynh hướng vận động vân động trái ngược nhau. Mặt
đối lập bao gồm đối lập biện chứng và đối lập siêu hình. Mặt đối lập tồn tại siêu hình tồn tại biệt
lập, chết cứng, không tương tác qua lại lẫn nhau. Mặt đối lập biện chứng tạo thành mâu thuẫn phải
cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong cùng một thời gian, một mối liên hệ; thường xuyên
thống nhất, đấu tranh chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.
- Khái niệm thống nhất: Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa
chúng và được thể hiện ở:
+ Các mặt đối lập cần đến nhau, nương tượng vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có
mặt này thì không có mặt kia.
+ Các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện đấu tranh giữa các mới đang hình
thành với cái cũ chưa mất hẳn.
+ Giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau.
Do sự thống nhất này mà trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động ở điều
kiện phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa qua nhau. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Khái niệm đấu tranh: Chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và
sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn có một số tính chất chung:
+ Tính khách quan của mâu thuẫn là thuộc tính vốn có trong các sự vật, hiện tượng
+ Tính phổ biến của mâu thuẫn được diễn ra trong nhiêu lĩnh vực như trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Tính đa dạng của mâu thuẫn được thể hiện ở nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, mỗi sự vật hiện
tượng khavs nhau lại chứa đựng những mâu thuẫn khác biệt. Tính đa dạng đó phụ thuộc vào đặc
điểm của các mặt đối lập; vào điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển
khai; vào trình độ tổ chức vật chất của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
- Một số loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và hết sức đa dạng.
+ Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vât, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn
thành: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại
giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập, là mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng
đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau
có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn
bên trong mới phát huy tác dụng.
+ Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn
thành: mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định
bản chất của sự vật, hiện tượng, quy định sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong tất cả các giai
đoạn, từ lúc hình thành cho đến lúc kết thúc và mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình tồn tại
của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn không đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, hiện
tượng, chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản; là mâu thuẫn chỉ quy định sự vận động, phát triển
của một hoặc vài mặt nào đó của sự vật, hiện tượng.
+ Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong
một giai đoạn nhất định, người ta phân mâu thuẫn thành: mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ
yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự
vật, hiện tượng; có tác dụng quy định những mâu thuẫn khác trong cùng một giai đoạn của quá
trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết
những mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. Sự phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng sang
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu
thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy,
ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu, thức yếu chỉ là tương đối, tuy theo hoàn cảnh cụ thể; có những
mâu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ yếu và ngược lại.
+ Căn cứ vào tính chất của các lợi ích cơ bản là đối lập nhau là các giai cấp, ở một giai đoạn nhất
định, người ta phân mâu thuẫn xã hội thành: mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, giữa những xu
hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa các
giai cấp bóc lột và bị boc lột; giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị; giải quyết mâu thuẫn này
phương pháp phổ biến là phải dùng bạo lực cách mạng. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn
giữa nhũng khuynh hướng, những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi
ích cơ bản không đối lập nhau. Các mâu thuẫn đó là cục bộ, tạm thời. Giải quyết mâu thuẫn này
phải dùng phương pháp giáo dục, thuyết phục, tổ chức thực tiễn.
- Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: Theo Ph.Ănghen, nguyên nhân chính
và cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động và phát triển là sự tác động
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động. Đó là sự tác
động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong một
sự vật, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai
loại tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự
vật, hiện tượng phát triển.
c) Quá trình vận động của mâu thuẫn
Trong mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên tình
trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống nhất giữa các cặp mặt đối lập khái niệm
dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng, thể hiện: các mặt đối lập cần đến nhau; nương tượng vào nhau;
làm tiền đề cho nhau tồn tại; không có mặt này thì không có mặt kia; các mặt đối lập tác động
ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa
mất hẳn; giữa các mặt đối lập tương đồng nhau, đồng nhất ( do trong các mặt đối lập còn Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
tồn tại những yếu tố giống nhau ) với nhau thể hiện sự chung nhau đối với một số yếu tố, thuộc tính,..
Đấu tranh lẫn nhau giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ khuynh hướng bài trừ, phủ
định nhau giữa các mặt đối lập dẫn đến sự triển khai mâu thuẫn và sau đó đến sự chuyển hóa ( do
đồng nhất trên, trong những điều kiện nào đó, tạo nên ) giữa các cặp mặt đối lập.
Trong sự thống nhất và đấu tranh trên thì: sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời,
tương đối, là có điều kiện thoáng qua, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng
im tương đối của sự vật, hiện tượng. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là
sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hóa về chất
của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra
không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Tóm lại, quá trình vận động của mâu thuẫn trải qua các giai đoạn: khi sự vật, hiện tượng mới
xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác nhau giữa các mặt đối lập. Trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng và của các chính các mặt đối lập sự khác nhau đó trở thành xung đột,
chuyển hóa thành mâu thuẫn. Khi điều kiện chín muồi, các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau ( theo
các hướng hoặc bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc mặt này triệt tiêu mặt kia, cả hai mặt đều bị triệt
tiêu ). Mâu thuẫn được giải quyết làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra
đời; sự khác nhau,xung đột, mâu thuẫn lại được tái lập và giải quyết mâu thuẫn dẫn đến sự chuyển
hóa; cứ như vậy, sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong tình trạng vận động và phát triển không
ngừng. Đó là lí do để khẳng định mâu thuẫn là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn là động lực vận
động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
d) Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật:
Từ nội dung quy luật mâu thuẫn, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quy luật mâu thuẫn giúp nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm
ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn bằng con đường phát hiện mâu thuẫn
của sự vật, hiện tượng. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập
trong sự vật, hiện tượng.
Quy luật mâu thuẫn giúp việc phân tích mâu thuẫn phải bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát
sinh, phát triển của từng mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt
mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Quy luật mâu thuẫn giúp nhận thức được
rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn, không được
điều hòa mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi; không
nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Sự vận dụng qui luật mâu thuẫn của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quy luật này trong từng
thời kì lịch sử để đưa ra phương pháp cách mạng giải quyết mâu thuẫn đúng đắn.
Trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền, khi mới ra đời Đảng ta đã phân tích cụ thể thực tiễn
đất nước thuộc địa nửa phong kiến bao gồm hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân ta và
đế quốc Pháp; giữa nông dân và địa chủ phong kiến. Nhận định mâu thuẫn nhân dân với đế quốc
Pháp là cơ bản nhất, nên Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đấu
tranh chống đế quốc và phong kiến giành độc lập và dân chủ. Đất nước bị chia cắt hai miền Nam,
Bắc, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn phức tạp. Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản
trong tiến trình cách mạng là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai để đề
ra đường lối cách mạng mang tính chiến lược cho từng miền để hướng tới mục tiêu chung là độc
lập và thống nhất đất nước, xây dựng thành công chủ ngahĩ xã hội; để đạt được mục tiêu đó, Đảng
lãnh đạo miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân để đi đến hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước.
`Từ năm 1975 đến nay, Đảng ta đã phân tích và chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: tự giác đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và tự phát theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Việc xác định được mâu thuẫn cơ bản đó, tạo nên cơ sở khoa học cho
việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục… để giải quyết mâu
thuẫn trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 11: Trình bày quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên
cứu quy luật phủ định của phủ định trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trả lời 1.
Nội dung quy luật phủ định của phủ định: 1.1.
Vị trí vai trò của quy luật
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy
luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thông
qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển theo đường xoáy ốc từ
thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. 1.2.
Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
Phủ định là khái niệm dùng để chỉ sự thay thế lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong quá trình
vận động và phát triển không ngừng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hay có thể hiểu phủ định là Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
sự thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Phủ định bao gồm hai loại đó là
phủ định biện chứng và phủ định siêu hình.
Quan điểm siêu hình quan niệm phủ định là sự loại bỏ hoàn toàn cái cũ, chấm dứt cái cũ, không
có tác dụng gì cho quá trình tạo lập cái mới. Hoặc khi cần kế thừa thì là sự lắp ghép một cách
nguyên xi cái cũ vào cái mới.
Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, lực lượng phủ định ở bên trong sự vật, hiện tượng. Mọi sự
vật, hiện tượng đều diễn ra thông qua những phủ định, trong đó có những phủ định chấm dứt sự
tôn tại, vận động và phát triển gọi là phủ định siêu hình; nhưng cũng có những phủ định tạo tiền
đề, điều kiện cho quá trình phát triển tiếp theo của sự vật, hiện tượng; sự phủ định đó được gọi là
phủ định biện chứng. Nói cách khác, phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển,
là mắt xích trong sợi xích dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
*Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng:
Tính khách quan, là sự vật tự thân phủ định, do các mâu thuẫn bên trong chúng gây ra, phương
thức phủ định không phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính kế thừa của phủ định biện chứng: Phủ định biện chứng là cầu nối giữa sự vật, hiện tượng bị
phủ định (cũ) với sự vật, hiện tượng mới (phủ định); là sự phủ định có kế thừa, chọn lọc yếu tố
tích cực và loại bỏ yếu tố tiêu cực của cái cũ làm cho sự vật mới ra đời tiến bộ hơn. Phủ định biện
chứng là vòng khâu tất yếu của quá trình phát triển.
Đường xoáy ốc của sự phát triển. Vì còn những yếu tố mang tính kế thừa nên sự phát triển của sự
vật, hiện tượng không phát triển theo đường thẳng mà diễn ra theo đường xoáy ốc. Đường xoáy
ốc là hình thức diễn đat rõ nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng là tính kế thừa,
tính lặp lại nhưng không quay lại mà tịnh tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển của sự vật dường
như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của
phủ định. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển và sự nối
tiếp nhau của các vòng của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
Tĩnh chu kì trong quá trình phủ định biện chứng, qua ít nhất hai lần phủ định, sự vật dường như
được quay trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng phát triển hơn cả về số lượng và chất lượng. Nói
cách khác, quá trình phát triển mang tính giai đoạn và tính chu kì, qua một số giai đoạn hình thành
một chu kì phát triển, mở ra một chu kì mới cho sự phát triển tiếp theo. Phủ đinh lần thứ nhất làm
cho sự vật, hiện tượng chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó. Phủ định lần thứ hai dẫn
đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng bị
phủ định, nhưng cũng mang nhiều nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Như vậy, phủ định
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
của phủ định mới hoàn thành được một chu kì phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của chu
kì phát triển tiếp theo tạo nên đường xoáy ốc của sự phát triển. Kết quả là, về hình thức, sự vật,
hiện tượng mới (ra đời do kết quả của sự phủ định lần thứ hai) sẽ lại trở thành sự vật, hiện tượng
xuất phát (chưa bị phủ định lần nào); về nội dung, không phải trở lại sự vật, hiện tượng xuất phát
nguyên như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. 2.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
Quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật, giúp người học và nghiên cứu rút
ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nắm
được khuynh hướng tiến lên của sự vận động của các sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa các
tính chất tiến bộ và kế thừa của sự phát triển. Sau khi đã trải qua các mắt xích của sự chuyển hoá,
chúng ta đã có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển và nhận thức quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách thẳng tắp, ngược lại, quá trình đó diễn ra quanh
co, phức tạp, “cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va vấp, không đôi khi nhảy lùi
những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lí luận ". Điều đó
giúp chúng ta tránh được cách nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện
tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội, và do vậy cần phải kiên trì đổi mới, khắc phục khuynh
hướng bi quan, chán nản, dao động trước những khó khăn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới ra đời phù
hợp với quy luật phát triển, luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong thế
giới tự nhiên, sự xuất hiện cái mới diễn ra tự phát, trong lĩnh vực xã hội, cái mới xuất hiện gắn
liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người. Tuy cái mới chiến thắng cái cũ, những
trong một thời gian nào đó, cái cũ còn mạnh hơn cái mới. Vì vậy quan điểm chung là ủng hộ cái
mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc từ cái cũ, làm cho
nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của cái mới.
Quy luật phủ định của phủ định giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới ra đời phù
hợp với quy luật phát triển; nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong
giới tự nhiên, sự xuất hiện cái mới diễn ra một cách tự phát; nhưng trong lĩnh vực xã hội, cái mới
xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người. Tuy cái mới chiến thắng
cái cũ, nhưng trong một thời gian nào đó, cái cũ còn mạnh hơn cải mới; vì vậy, quan điểm chung
là ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những
yếu tố tích cực và hợp lí của cái cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của cái mới. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu
tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.
Lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu bản chất, tính quy luật, những
hình thức và phương pháp nhận thức, vấn đề chân lý. Nó giải đáp một cách đúng đắn và đầy đủ
mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học.
Câu 12: Trình bày quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất của nhận thức. Trả lời
Trước hết, nhận thức luận đã được định hình cùng với sự xuất hiện của triết học với tư cách là một
trong những phân môn triết học nền tảng. Mọi nhận thức luận trong đó có nhận thức luận duy vật
biện chứng đều nghiện cứu về bản chất của nhận thức, khả năng nhận thức của con người về các
đối tượng hiện thực, các thuộc tính, các mối liên hệ giữa chúng , về các tính quy luật cơ bản của
quá trình nhận thức từ quan niệm hời hợt vè đối tượng đến việc nắm bắt được bản chất của nó, về
nguồn gốc và các phương pháp nhận thức, về các hình thức diễn ra trong quá trình nhận thức, và
liên quan đến điều này nó nghiên cứu các con đường đạt tới chân lí, các tiêu chuẩn của chân lí.
Trình bày những nguyên tắc xuất phát điểm của lí luận nhận thức, Lênin viết: “Sự sống sinh ra bộ
óc. Giới tự nhiên được phản ánh trong bộ óc của người. Trong khi kiểm nghiệm và áp dụng sự
đúng đắn của những phản ánh ấy vào thực tiễn của mình và trong kĩ thuật, con người đạt tới chân
lí khách quan”. Nhưng con người không thể nhận thức được chân lí như là chân lí, nếu chưa mắc
phải những sai lầm, vì thế lí luận nhận thức nghiên cứu cả việc, con người rơi vào sai lầm như thế
nào và làm cách nào để khắc phục chúng.
Cuối cùng, vấn đề quan trọng nhất đối với toàn bộ nhận thức luận vẫn đã và đang là vấn đề về tri
thức đáng tin cậy về thế giới, về bản thân con người và xã hội loài người có ý thức thực tiễn như
thế nào. Tất cả những vấn đề đó và những vấn đề nảy sinh trong các lĩnh vực khoa học khác và
trong thực tiễn xã hội, đã làm hình thành hệ vấn đề rộng lớn của nhận thức luận mà kết hợp lại cần
phải trả lời câu hỏi: tri thức là gì. Chỉ có tri thức về bản chất đối tượng mới cho phép con người
sử dụng chúng phù hợp với nhu cầu và lợi ích của mình.
Tri thức là sợi dây gắn kết giữa tự nhiên, tinh thần con người và hoạt động thực tiễn.Tri thức là
những mô hình về các đối tượng của thế giới bên ngoài; thế giới khách quan, vật chất, giới tự
nhiên đều là nguồn gốc của cảm giác, ý thức, tư duy, tức của nhận thức. Không thể có bất kì nhận
thức nào nếu thiếu sự tác động của các đối tượng, các điều kiện bên ngoài lên ý thức con người.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Chỉ nhờ vào kết quả sự tác động như thế mới làm xuất hiện trong đầu óc những mô hình của đối
tượng. Từ đó suy ra, quá trình nhận thức diễn ra dưới hình thức liên hệ và tương tác biện chứng
lẫn nhau giữa chủ thể nhận thức và khách thể được nhận thức.
Câu 13: Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Trả lời
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác – Lênin
nói chung và của lý luận nhận thức Mácxít nói riêng. Trong lịch sử triết học không phải mọi trào
lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về phạm trù này. Các nhà triết học duy tâm cho
hoạt động nhận thức, hoạt động của tinh thần nói chung là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học
tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thượng đế là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết
học duy vật trước Mác lại nhận thức sự vật, hiện thực, cái cảm giác được chỉ dưới hình thứ khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không nhận thức bằng hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong
những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó C. Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một
quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Quan điểm của triết học Marx – Lenin cho rằng: thực
tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ. Thực tiễn có 3 đặc trưng cơ bản là
hoạt động vật chất cảm tính, hoạt động mang tính lịch sử - xã hội, hoạt động có tính mục đích.
Ví dụ: hoạt động xây nhà, xây các công trình công cộng: thủy điện, nhà máy, công viên, ...
Khác với hoạt động tư duy, hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người sử dụng những
công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích
của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người qua các
thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử.
Thực tiễn biển hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phú, song có ba hình thức
cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để cải tạo ra những của cải và
các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Ví dụ: hoạt động
trồng lúa, gặt lúa của nông dân, hoạt động lao động của các công nhân nhà máy, xí nghiệp,....
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của con người
nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội,... tạo ra môi
trường xã hội thuận lợi cho con người phát triển. Ví dụ: hoạt động bầu cử Đại biểu Quốc hội, tiến
hành Đại hội Đoàn thanh niên trường học, Hội nghị công đoàn,....
Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động
được tiến hành trong những điều kiện do con ngươi tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những
trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng
nghiên cứu. Ví dụ: hoạt động nghiên cứu, thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật liệu
mới, nguồn năng lượng mới, vacxin phòng ngừa dịch mới,... Dạng hoạt động thực tiễn này ngày
càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại.
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Trong đó hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai hình thức kia. Ngược
lại, hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt
động sản xuất phát triển.
Ví dụ: Trong lịch sử, khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của sản
xuất xã hội, phân công lao động xã hội được hình thành, của cải tương đối thừa dư dẫn đến sự
phân hóa giai cấp mạnh mẽ, nhà nước ra đời.
Ví dụ: Trong thời đại công nghệ 4.0, khoa học đặc biệt là trí tuệ nhân tạo phát triển, con
người có công cụ lao động hiện đại, hoạt động sản xuất, lao động dễ dàng thuận tiện hơn. Từ đó
dẫn tới chính trị, xã hội đi lên, các nghề thủ công dần được thay thế bởi các máy móc hiện đại thì
hoạt động sản xuất lại quay trở lại vai trò của nó là sản xuất ra công cụ, máy móc này.
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực
tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Vai
trò của thực tiến đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: thực tiễn là cơ sở của nhận thức,
là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động và phát triển của nhận thức và là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý.
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức: Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết
được cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng.
Thực tiễn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào
đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc
lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại con người những
tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Ví
dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt
động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
Thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận đông, phát triển của nhận
thức: Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạt bén,
chính xác, tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người, có tác động
“nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. Thực tiễn luôn vận đông, phát
triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Những tri thức được áp dụng
và thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
Ví dụ: xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, con người cần phải đo đạc diện tích và đo lường
sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời than và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và phát triển.
Ví dụ: Những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người xuất phát
từ mục đích chữa trị những căn bệnh nan y và từ mục đích tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí
ẩn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý: Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức
đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phá
triển và hoàn thiện nhận thức. Như C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.”
Ví dụ: Trong thí nghiệm nổi tiếng tháp nghiêng Pisa của Galileo Galilei, ông đã bác bỏ
quan niệm của những nhà vật lý học thời cổ đại khi tin rằng vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ. Galileo
đã thả rơi tự do cùng lúc nhiều vật khác nhau và chứng minh được rằng nếu sức cản của không khí
rất nhỏ, các viên đã sẽ rơi xuống đất cùng lúc, nghĩa là chúng có cùng gia tốc. Nhờ thí nghiệm của
Galileo, người ta đã rút ra kiến thức khoa học từ các quy luật khách quan của tự nhiên, chứ không phải từ niềm tin.
Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đới với sự hình thành và
phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn, yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của nhận thức. Việc
nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới bệnh chủ quan, duy ý
chí, giáo điều, máy móc; ngược lại nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa
thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Câu 14 : Phân tích các giai đoạn của quá trình nhận thức . Trả lời
- Tất cả các nhà Triết hoc dù thuộc trường phái nào thì cũng đều thừa nhận rằng quá
trìnhnhận thức của con người bao gồm nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính, việc xác định xác
định rõ vai trò, vị trí, mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng rất khác nhau .
- Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của nhận thức chân lý như sau:
“Từtrực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan.”
- Hai quá trình nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn nhận thức cónhững
thuộc tính khác nhau, kế tiếp nhau, bổ sung cho nhau trong quá trinh nhận thức thống nhất con người với thế giới.
- Thực tiễn ở đây vừa là cơ sở, mục đích, động lực của quá trình nhận thức, vừa là mắtkhâu
kiểm tra chân lý khách quan, vừa kết thúc một vòng khâu của sự nhận thức, vừa là điểm bắt đầu
của vòng khâu mới của nhận thức
Nhận thức của con người không có điểm cuối.
*Nhận thức cảm tính .
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn. Ở giai đoạn này,
nhận thức phản ánh trực tiếp các khách thể thông qua các giác quan, được diễn ra với 3 hình thức:
cảm giác, tri giác và biểu tượng.
+ Cảm giác: Là hình thức đầu tiên, giản đơn nhất của quá trình nhận thức ở giai đoạn cảm
tính, sinh ra do tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan của con người, đem lại cho con
người những thông tin giản đơn nhất của con người về thuộc tính riêng lẻ của sự vật.
Cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan TGKQ chính là nội dung, nguồn
gốc của cảm giác Nguồn gốc hiểu biết của con người .
+ Tri giác: Là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều giác quan
của con người Nói tri giác là tổng hợp nhiều cảm giác. Nhưng tri giác vẫn là hình ảnh trực tiếp,
cảm tính về sự vật. Từ tri giác, nhận thức chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
+ Biểu tượng: Là hình thức cao nhất, phức tạp nhất của nhận thức cảm tính, là hình ảnh
được tái hiện trong óc nhờ trí nhớ, khi sự vật không trực tiếp tác động vào giác quan cảu con người.
Biểu tượng giống tri giác ở chỗ vẫn là hình ảnh tương đối hoàn chỉnh biểu tượng không phải là
hình thức của nhận thức lý tính mà chỉ là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức chưa đem lại hiểu biết sâu sắc, khái quát trong
tính chỉnh thể của sự vật, chưa phân biệt được cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,
nguyên nhân và kết quả,… của sự vật. Các nấc thang khác nhau của giai đoạn này trong quá trình
nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất của sự vật, hiện tượng.
VD: Khi nhìn cây hoa sen, ta nhận thấy “Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”, hương thơm,…
Tổng hợp tất cả các cảm giác trên được tri giác về cây hoa sen. Từ đó, ta hình thành được nhận
thức biểu tượng về cây hoa sen. Nhưng đó chỉ là bên ngoài, ta chưa thể nắm được các đặc tính
khác như: hạt sen ngọt hay đắng, trong hạt sen có những chất gì, hương thơm hạt sen được tạo thành từ chất.
* Nhận thức lý tính
- Bắt nguồn từ trực quan sinh động, thông qua tư duy trừu tượng, con người phản ánh sự
vật một cách gián tiếp, khái quát hơn, đầy đủ hơn dưới các hình thức: Khái niệm, phán đoán và suy lý .
+ Khái niệm: Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát, gián tiếp
một, hoặc một số thuộc tính chung có tính bản chất nào đó của một sự vật, hiện tượng được biểu
thị bằng một từ hay một cụm từ . Khái niệm là kêt quả của sự tổng hợp, khái quát biện chứng
những tài liệu thi nhận được trong hoạt động thực tiễn Khái niệm là chủ quan trong tính trừu
tượng của chúng, trong sự tách rời cảu chúng nhưng là khách quan trong chỉnh thể, quá trình,
khuynh hướng, nguồn gốc .
VD: Định nghĩa về gió: là luồng khí chuyển động từ đai áp cao xuống đai áp thấp.
+ Phán đoán: Là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối quan hệ giữa các sự vật,
hiện tượng của thế giới trong ý thức của con người. Phán đoán là một hình thức của tư duy trừu
tượng, bằng cách liên hệ các khái niệm, lại để khẳng định hay phủ định một thuộc tính hay mối
liên hệ nào đó của sự vật. Dựa vào nội dung và mức độ phổ quát của tri thức về đối tượng logic
biện chứng phân chia phán đoán thành ba loại cơ bản là: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù, phán đoán phổ biến.
VD: “Chuồn chuồn bay thấp trời mưa, bay cao trời nắng, bay vừa trời râm.” Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
+ Suy lý : Là hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó các phán đoán liên kết với nhau
theo quy tắc: Phán đoán cuối cùng được suy ra từ phán đoán đã biết làm tiền đề . Có 2 loại suy
luận chính: Quy nạp và diễn dịch; chúng liên kết chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau . Quy
Đi t tri th c riếng l c a t ng s v t đếến khái quát chung ---- v n ừ ứ ẻ ủ np
ừ ự ậ ậ đ ng t cái đ n nhấết đếnế cái chung. ộ ừ ơ Suy lun Diếễn
Đi t tri th c chung, ph biếến đếến các tri th c riếền l t ng đốếi ừ dch
ứ ổ ứ ẻ ừ tượng ---- Chung, ph biếnế => Riếngổ
Nhận thức lý tính đã khác với nhận thức cảm tính ở chỗ nó phản ánh, khái quát, trừu
tượng, gián tiếp sự vật, hiện tượng trong tính tất yếu, chỉnh thể toàn diện. Nhận thức lý tính có thể
phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, phản ánh sự vật, hiện tượng
sâu sắc hơn nhận thức cảm tính; đồng thời nó chứa nguy cơ xa hơn hiện thực.
Nhận thức lý tính phải gắn liền với thực tiễn và phải kiểm tra bởi thực tiễn.
Câu 16: Phân tích khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng; mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Trả lời
16.1 Khái niệm
a) Cơ sở hạ tầng: -
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội hợp thành cơ cấu kinh tế củaxã hội đó. -
Cơ sở hạ tầng bao gồm ba loại quan hệ sản xuất cơ bản sau:
· Quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, và đặc
trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
· Quan hệ sản xuất tàn dư là quan hệ sản xuất của xã hội trước, thể chế xã hội đó đã mất đi;
· Quan hệ sản xuất mầm mống là kiểu quan hệ sản xuất đang manh nha. - VD:
• Trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam, về cơ bản có các kiểu quan hệ sản xuất sau: quan hệ sản
xuất cũ là kiểu quan hệ sản xuất phong kiến, tư bản chủ nghĩa; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
là quan hệ sản xuất thống trị và mầm mống của quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa định hướng
cho sự phát triển cơ sơ hạ tầng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam
• Cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là một kết cấu kinh
tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản….). Trong đó, thành
phần kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo.
- Các yếu tố của cơ sở hạ tầng – hệ thống các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất nhất định có vai trò:
· Trong quan hệ với lực lượng sản xuất: giữ vai trò là hình thức kinh tế cho sự duy trì, phát triển
lực lượng sản xuất đang tồn tại.
· Trong quan hệ với các quan hệ chính trị - xã hội, giữ vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế,
cơ sở cho sự thiết lập kiến trúc thượng tầng của xã hội.
b) Kiến trúc thượng tầng: -
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội (chính trị, pháp quyền, tôn
giáo…) cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (chính đảng, nhà nước, giáo hội) và
những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó có kiến trúc thượng tầng.
VD: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh…. -
Các yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng:
· Quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị. (VD: bản chất của nhà
nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
quy định. Do đó, bản chất của nhà nước CNXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân)
· Tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
· Quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời.
· Quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian.
Kiến trúc thượng tầng phản ánh bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội. Trong xã hội có đối kháng
giai cấp nên kiến trúc thượng tầng mang tính chất đối kháng. Tính đối kháng của kiến trúc
thượng tầng phản ánh tính đối kháng của cơ sơ hạ tầng, biểu hiện ở sự xung đột, đấu tranh về tư
tưởng của các giai cấp đối kháng. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy định tính chất
kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có
giai cấp là Nhà nước - công cụ vât chất cụ thể của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và
pháp luật. Nhờ có Nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới được truyền bá và thống trị
được đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền nhà nước thì hệ
tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã hội.
16.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng:
Vai trò, vị trí:
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản của sự
vận động phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của
xã hội gắn bó hữu cơ, có mối quan hệ biện chứng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng:
• Cơ sở hạ tầng là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội nên nó sẽ quyết định kiểu kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy.
• Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho
nó thế nào thì hệ thống tư tưởng, chính trị, pháp quyền, đạo đức, … và các quan hệ thể chế tương
ứng cũng như vậy. (VD: quan hệ sản xuất phong kiến sinh ra nhà nước phong kiến)
- Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng:
• Sự biến đổi đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, diễn
ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp. (VD: đấu tranh chuyển từ quan hệ sản xuất phong kiến sang
quan hệ sản xuất TBCN, đồng thời chuyển từ nhà nước phong kiến sang nhà nước TBCN)
• Nguyên nhân của các biến đổi là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất trực tiếp gây ra biến đổi của cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng biến đổi thì kiến trúc
thượng tầng cũng biến đổi căn bản.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
a) Bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng vàkiến
trúc thượng tầng cũ; định hướng, tổ chức và xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng.
b) Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiềuhình
thức khác nhau. Trong đó, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác động to lớn nhất và trực
tiếp với cơ sở hạ tầng.
Sự tác động của các bộ phận như triết học, đạo đức, tôn giáo… đều phải thông qua nhà nước, pháp luật.
c) Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến đổi nhất
định.Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó với cơ sở hạ tầng càng
hiệu quả và ngược lại. Sự tác động giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thực hiện
theo nguyên tắc phù hợp, tuy nhiên cũng chỉ tương đối, tạm thời trong giai đoạn nhất định với điều kiện nhất định.
d) Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt với tư cách là một yếutố
tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song, nếu quá nhấn mạnh và thổi phồng vai trò của kiến
trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã hội thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí. VD:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kì quá độ ở nước ta:
- Bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thànhphần
kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
- Xây dựng kiến trúc thượng tầng XHCN ở nước ta là hệ thống chính trị xã hội mang tính chấtgiai
cấp công nhân, do đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam. Các tổ chức, bộ máy Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân, mà vì phục vụ con
người, thực hiện quyền lợi và mục đích thuộc về nhân dân lao động
Ý nghĩa phương pháp luận:
• Nhận thức được sự thống nhất biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá
trình vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
• Biết vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào việc giải
quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
• Đấu tranh phê phán các quan điểm tách rời giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh
tế và chính trị hoặc cường điệu, tuyệt đối hóa một mặt, một yếu tố.
Câu 17: Trình bày khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội; Mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội. Trả lời
A. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1. Tồn tại xã hội:
- Chỉ các mặt sinh hoạt và điều kiện sinh hoạt vật chất của con người.
- Vật chất khách quan quy định sự sinh tồn và phát triển của xã hội.
- Điều kiện vật chất khách quan đó bao gồm:
+ Tự nhiên (VD: khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh
tồn của cộng đồng xã hội.
+ Dân cư (Cách thức tổ chức dân cư, tính chất dân cư)
+ Phương thức sản xuất, tạo ra vật chất (cơ bản nhất) (VD: Kỹ thuật canh tác trồng lúa nước).
2. Ý thức xã hội.
- Mặt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội.
- Bao gồm đời sống tư tưởng và tâm lý xã hội.
- Biểu hiện trong sinh hoạt tư tưởng văn hóa, tập quán xã hội
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
B. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội:
- Sự đối lập giữa quan điểm duy vật biện chứng với quan điểm duy tâm và siêu hình trong
việcgiải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
+ Chủ nghĩa duy tâm muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức,
tư tưởng; xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển
xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế và điều kiện khách quan của xã hội.
+ Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhận định rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và
phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất; không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, nghĩ là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
- Nội dung cơ bản của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý nghĩa phương phápluận của nó.
+ Thứ nhất, bản chất và nội dung của ý thức xã hội suy đến cùng chỉ là sự phản ánh
đối với tồn tại xã hội và có nguồn gốc từ tồn tại xã hội.
Khẳng định nguồn gốc hình thành ý thức xã hội từ tồn tại xã hội là khẳng định mọi hiện tượng
trong đời sống tinh thần của các cộng đồng người đều phát sinh từ điều kiện sinh tồn, từ hoàn cảnh
khách quan trong cuộc sống của nó; phát sinh một cách tự phát và tự giác từ hoàn cảnh ấy. Các
hiện tượng thuộc đời sống tâm lý xã hội được hình thành trực tiếp, tự phát từ hoàn cảnh sống khách
quan của cộng đồng, còn nguồn gốc ra đời của các quan điểm hay các học thuyết trong đời sống
tư tưởng của xã hội lại thông qua phương thức tự giác và gián tiếp.
VD: Xuất phát từ nhu cầu việc làm, nghề nghiệp tốt trong tương lai mà học sinh mới có tư tưởng
phấn đấu tiến bộ để đạt kết quả trúng tuyển đại học. Ở đây, hiện tượng đời sống tâm lí được hình
thành trực tiếp dựa trên nhu cầu cuộc sống. Ngoài nhu cầu việc làm, các hoàn cảnh khách quan
khác trong cuộc sống có thể phát sinh như: hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà xa, bệnh tật… sẽ
gián tiếp ảnh hưởng đến đời sống tư tưởng, tâm lí của con người.
+ Thứ hai, sự biến đổi, phát triển của ý thức xã hội có nguyên nhân căn bản từ sự biến
đổi phát triển tồn tại xã hội mà đặc biệt là sự biến đổi, phát triển của phương thức sản xuất của xã hội. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Với nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội do C.Mác phát hiện, một khi tồn tại xã hội
thay đổi thì nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Sự thay đổi đó có thể dẫn diễn ra
nhanh hoặc chậm. Nhưng rốt cuộc vận động và phát triển thì ý thức xã hội cũng sẽ phải thay đổi
đó là một nguyên nhân khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội.
Trong sự biến đổi của tồn tại xã hội thì sự biến đổi phát triển của phương thức sản xuất có vai trò
tác động lớn nhất, có ý nghĩa quyết định đến sự biến đổi trong đời sống tâm lý và tư tưởng xã hội.
VD: Trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, vào thời kì đầu của lịch sử khi đời sống kinh
tế còn khó khăn, nhu cầu lớn nhất của người dân là được "ăn no mặc ấm". Tức là, nét tâm lý chính
của họ là bỏ qua các vấn đề hình thức hay tận hưởng, chỉ cần thỏa mãn nhu cầu cơ bản. Sau đó khi
nền kinh tế được nâng cao hơn, nguồn sản phẩm không còn quá thiếu thốn thì nhu cầu của người
dân trở thành "ăn ngon mặc đẹp". Tức là, nét tâm lý giờ đây đã phát triển cao hơn, đã để ý tới vấn
đề thưởng thức, thẩm mỹ. Hiện nay, khi nền kinh tế càng phát triển và nguồn sản phẩm đã có xu
hướng được sản xuất thừa ra so với nhu cầu chung, đại đa số người dân đã xuất hiện nhu cầu "ăn
kiêng mặc mốt". Tức là, nét tâm lý đã phát triển cao hơn nhu cầu thưởng thức, mà còn quan tâm
tới chất lượng: yêu cầu đảm bảo sức khỏe tốt nhất thông qua ăn uống hàng ngày và yêu cầu thể
hiện cá tính, "đẳng cấp" của con người thông qua trang phục.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
- Tính lạc hậu của ý thức xã hội
Trong lịch sử xã hội cho thấy, nhiều xã hội cũ đã mất đi, thậm chí mất đi từ rất lâu rồi
nhưng những tư tưởng, ý thức do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng, đặc biệt là trong các lĩnh
vực tâm lý xã hội như: phong tục, tập quán, truyền thống, thói quen,...Nhiều hiện tượng ý thức có
nguồn gốc sâu xa tồn tại trong xã hội cũ như thói ăn bám, lười lao động, nạn tham nhũng,..
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do ba nguyên nhân chính:
+ Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những
hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra rất nhanh mà ý thức xã hội không thể phản ánh
kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên chúng chỉ có thể
nảy sinh khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội
+ Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như tính lạc hậu, bảo thủ.
+ Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích của nhóm, những tập đoàn người, những giai
cấp nhất định trong xã hội. Do vậy, những tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ vẫn được lưu giữ, truyền
bá nhằm chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ
- Tính tiên tiến của ý thức xã hội
Trái ngược với tính lạc hậu của ý thức xã hội là tính chất tiên tiến. Một số yếu tố trong đời
sống tinh thần của xã hội có thể có những phương diện phản ánh sự vượt trước điều kiện vật chất
hiện thời của xã hội đó. Đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiến bộ có thể vượt trước sự phát
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
triển của tồn tại của xã hội, dự báo được tương lai và có tác động tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
VD: ngày nay con người đã ý thức tìm ra được những hành tinh có sự sống ngoài Trái Đất, chẳng hạn như Sao Hỏa.
- Tính kế thừa trong quá trình vận động, phát triển của ý thức xã hội
Trong đời sống tinh thần của cộng đồng người, có những nhân tố xã hội không được nảy
sinh ra từ điều kiện sinh hoạt vật chất khách quan mà từ sự lưu truyền, kế tiếp những tư tưởng văn
hóa của cộng đồng người trong quá khứ. Ý thức xã hội mới có tính kế thừa xã hội cũ sau đó bổ
sung hoàn chỉnh cho phù hợp với tồn tại xã hội đang phát triển.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng
nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển
tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết
học, văn học, nghệ thuật,... nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh
hoặc suy tàn của kinh tế. Tính chất kế thừa trong phát triển của tư tưởng là một trong những nguyên
nhân nói rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở
trình độ phát triển cao.
VD: Ở nửa đầu thế kỷ XIX so với pháp thì Đức có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nhưng lại
có trình độ cao về triết học.
Bên cạnh đó thì những tư tưởng lạc hậu như “ nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” và một
loạt những thủ tục cổ hủ cũng sẽ dần bị bài trừ.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn trong sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phát huy những
thành tựu và truyền thống tốt đẹp. Bởi vậy trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta luôn quán
triệt tư tưởng xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại
và làm giàu nền văn hóa Việt Nam, hòa nhập nhưng không hòa tan
- Tính tương tác nội tại của các hình thái ý thức xã hội
Trong đời sống tinh thần của một cộng đồng người thường có sự tác động, ảnh hưởng qua
lại giữa các hình thái, ý thức xã hội, cũng như giữa đời sống tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
tạo nên sự biến đổi ý thức xã hội.
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì
các bộ phận không tách rời nhau. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở
mỗi hình thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng
tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất trực tiếp của nó. Lịch sử phát triển của ý thức xã hội
cho thấy, thông thường mỗi thời đại. tùy vào hoàn cảnh lịch sử có những ý thức hình thái nào đó
nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
VD : Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật có vai trò đặc biệt to lớn, còn ở Tây Âu trung cổ thì
tôn giáo lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị,...
-Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội không phải chỉ là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội mà nó còn có thể tác
động trở lại tồn tại xã hội và trở thành một nguyên nhân quan trọng, thúc đẩy sự biến đổi và phát
triển tồn tại xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng về xã hội, sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn học,... đều ảnh hưởng đến kinh tế nhưng chúng có ảnh hưởng lẫn nhau và
ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.
Chẳng hạn như hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến các nước Tây Âu thế kỷ XVII,
XVIII. hệ tư tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản để xóa bỏ xã
hội tư bản. Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu
ý thức xã hội tiến bộ thì thúc đẩy toàn xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu thì sẽ cản trở sự
phát triển của tồn tại xã hội.
Ý thức tư tưởng tiến bộ tác động trở lại tồn tại xã hội góp phần thúc đẩy tồn tại xã hội phát
triển theo đúng quy luật của nó. Ngược lại, ý thức tư tưởng phát triển không tiến bộ sẽ kìm hãm
sự phát triển của xã hội.
Câu 18: Phân tính tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội? Phân tích ý
nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Trả lời
A. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội 1.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Tính lạc hậu của ý thức xã hội biểu hiện rõ nét nhất trong tâm lý xã hội các hiện tượng ý
thức xã hội có nguồn và nảy sinh từ xã hội cũ vẫn tồn tại giai dẳng trong xã hội mới mặc dù xã hội
đã mất đi thậm chí mất rất lâu.
Không chỉ ở cấp độ tâm lý mà ngay cả cấp độ lý luận ý thức xã hội vẫn có thể bị tồn tại xã
hội bỏ xa nếu lý luận đó không chuyển đổi kịp thời so với sự biến đổi của xã hội.
Ví dụ : ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi xã hội phong kiến đã
thay đổi thì những tư tưởng ấy vẫn tồn tại trong xã hội: “Trọng nam khinh nữ”,“ép duyên”,“gia trưởng”... Nguyên nhân:
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Do sự tác động mạnh mẽ của thói quen tập quán đến đời sống tinh thần của nhân dân nên
khitồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội khó có thể dễ dàng thay đổi theo.
- Tồn tại xã hội thường xuyên thay đổi với tốc độ nhanh trong khi đấy ý thức xã hội lại chậmthay
đổi nên không thể phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu.
- Ý thức xã hội luôn gắn bó với lợi ích của một giai cấp, tập đoàn người nên các tư tưởng cổ
hủ,lạc hậu được duy trì trong lực lượng này để níu giữ lợi ích của họ.
Ví dụ: Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được hơn 30 năm song ý thức tự giác, làm
chủ tập thể, lao động tập thể, cũng như trách nhiệm với công việc, với cộng đồng chưa cao đã làm
cho xã hội ta không thể lớn mạnh được. Điều đó là bởi vì thói quen, tư tưởng, lối sống cũ từ các
thế hệ trước đang còn và thế hệ sau lại tiếp tục có cái tư tưởng ấy, đó là sự ỷ lại, ngại đổi mới,
chậm đổi mới, ý thức trách nhiệm công dân kém... → Ý nghĩa:
- Những tư tưởng lạc hậu không tự mất đi mà phải trải qua các cuộc đấu tranh cải tạo.
- Phải xây dựng lý luận khoa học trên cơ sở tổng kết thực tiễn đảm bảo phản ánh kịp thời
nhữngthay đổi của cuộc sống tạo dựng cơ sở vật chất để hình thành xã hội mới.
2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội trong những điều
kiện nhất định tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiến bộ có thể vượt
trước xã hội chỉ ra chính xác sự vận động của tương lai có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Ví dụ: Như khi phát minh ra bảng tuần hoàn hóa học, Mendeleev đã dự đoán được trước sẽ có
những nguyên tố hóa học mới, nên ông đã để chừa ra một số ô trong bảng tuần hoàn để các thế
hệ sau có thể tiếp tục thêm vào… Từ định hướng ấy của ông, mà các nhà khoa học sau này đã tìm
ra được nhiều nguyên tố hóa học mới.
Tuy nhiên nếu ý thức xã hội không phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động phát triển,
bị chi phối bởi mong muốn chủ quan thì sẽ rơi vào ảo tưởng, tác động xấu đến xã hội. Ví dụ: Hồ
Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị chìm đắm trong nô lệ, với thân phận là
người dân bị mất nước. Ngay từ rất sớm người đã ý thức về con đường cứu nước giải phóng dân
tộc. Người nói:”Tôi muốn ra nước ngoài sang nước Pháp và một số nước khác xem họ làm ăn ra
sao để về giúp đỡ đồng bào ta khỏi đói nghèo. Chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa tôi đến với Lênin,
tin và đi theo Lênin, theo Quốc tế III, Quốc tế cộng sản. Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không
còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và sau đó tư tưởng vĩ đại ấy của Bác đã
đem lại hòa bình độc lập cho nước ta. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
→ Ý nghĩa: Muốn có ý thức xã hội mới chúng ta phải phát huy huy cao tính năng động, sáng tạo
của nó vào trong nhận thức, cải tạo thế giới tránh tư tưởng bảo thủ, ỷ lại.
3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó.
Kế thừa là một trong những đặc điểm của quy luật về sự phát triển, một tư tưởng mới bao
giờ cũng có sự chọn lọc tiếp thu những tinh hoa của quá khứ. Quan hệ kế thừa làm cho sự phát
triển trong lĩnh vực ý thức xã hội diễn ra như một dòng chảy tự nhiên nối tiếp liên tục tư duy giữa các thế hệ.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa nên không thể giải thích một quan điểm tư tưởng nếu chỉ
dựa vào quan hệ về kinh tế xã hội mà phải chú ý đến tính kế thừa của nó.
Ví dụ: Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, chăm lo tới đời sống của người dân luôn là tư tưởng chủ
đạo, “sách lược ngàn năm” dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng ấy,
chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. → Ý nghĩa:
- Chủ động lựa chọn kế thừa những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại để xây dựng xã hộimới.
- Làm cơ sở đấu tranh chống quan điểm phủ định sạch trơn đối với quá khứ cũng như thái độ
bảothủ bê nguyên si những yếu tố tinh thần của thế hệ trước trong quá trình kế thừa di sản văn hóa.
4.Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định
của tồn tại xã hội , nhưng giữa chúng có mối liên hệ với nhau, không thể tách rời nhau.
Tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng
đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.
Ví dụ: Ở Hy Lạp thời cổ đại, trim ết học và nghệ thuật đã từng đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của
xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Các nước Tây Âu ở giai đoạn
lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến các hình thái ý
thức xã hội khác. Ở Pháp từ nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học
là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh
chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình
thái ý thức xã hội, ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai
cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
5.Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội không chỉ chịu sự phân phối quy định của tồn tại xã hội mà nó còn tác động
trở lại đối với tồn tại xã hội, sự tác động này phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người và
diễn ra theo 2 phương hướng: tích cực và tiêu cực → Ý nghĩa:
- Là cơ sở để chống lại chủ nghĩa duy vật tầm thường là những quan điểm không thấy hoặc
phủđịnh tác động tích cực của xã hội.
- Cần phát huy vai trò của yếu tố ý thức xã hội vào công cuộc xây dựng xã hội mới, loại bỏ tưtưởng lạc hậu
B. Ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a- Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Tồn tại XH: là phạm trù chỉ toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội. TỒN TẠI XH bao gồm 3 yếu tố: PTSX vật chất, điều kiện tự nhiên- hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân cư. Trong 3 yếu tố trên, PTSX vật chất là yếu tố quyết định.
Câu 19. Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người? Trả lời
1. Khái niệm con người
- Con người là một thực tế tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa
haiphương diện tự nhiên và xã hội
- Bản tính tự nhiên của con người:
+ Con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa
học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và
khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết Darwin về sự tiến hóa của các loài.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ
của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực
tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người; ngược
lại, sự biến đổi và hoạt động của con người tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi
trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn
tại khác của giới tự nhiên. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Ví dụ: Vùng ven sông có điều kiện tự nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn thức ăn, nguồn nước đầy đủ
nên con người tập trung sinh sống tại đây, khai thác các nguồn tài nguyên và nguồn lợi từ sông
nước mang lại. Nhưng trong quá trình đó, con người sản xuất, khi khai thác quá đà khiến thiên
nhiên nơi đó cạn kiệt, xói mòn, sạt lở, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
+ Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính
xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét trong mối quan hệ của các cộng
đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại,… Vì vậy, bản
tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản
tính đặc thù của con người.
- Bản tính xã hội của con người
+ Xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất là nhân tố lao
động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Ví dụ: Người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống trong các hang đá nguyên thủy và hoang dã như các loài
động vật. Qua lao động, con người biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động, sử dụng lửa,…
để chinh phục thiên nhiên
+ Xét từ giác độ tồn tại và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân
tố và quy luật của xã hội. Xã hôi biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược
lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã
hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là “con
người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Ví dụ: Xã hội phong kiến buộc con người sống trong khuân khổ, luật lệ, giáo điều với những tư
tưởng khắt khe, nhưng khi con người được giải phóng, bước sang chế độ xã hội chủ nghĩa thì con
người văn minh hơn, tân tiến hơn.
+ Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định lẫn
nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của
con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lí giải bản tính sáng tạo của con
người đơn thuần chỉ từ giác độ, bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện,
không triệt để và cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Con người là thực thể sinh học - xã hội:
+ Là sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất.
+ Về sinh học, con người là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội: “Bản thân cái sự
kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn
toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”
+ Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin, không thể tách rời hai
phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
+ Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng là một bộ phận của giới tự nhiên. “Giới
tự nhiên… là thân thể vô cơ của con người… đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”
+ Về phương diện thực thể sinh học: Con người phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các
quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên.
+ Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới
tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt
đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác.
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
+ Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự nhiên là “thân thể
vô cơ của con người”; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển
và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người với
thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau
phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là “một
động vật có tính xã hội”, hoặc con người là động vật có tư duy,… Những quan niệm trên đều phiến
diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên
được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
+ Với phương pháp biên chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn
diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của
cải vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay
đổi, cái biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra
toàn bộ giới tự nhiên”.
Ví dụ: Người nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết trồng trọt, canh tác,
chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa động vật phục vụ sản xuất cá nhân, từ
đó làm thay đổi giới tự nhiên
+ Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật
chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản
xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Nghề giáo viên định hình con người mô phạm, nghiêm túc, chỉn chu; nghề cảnh sát, bộ đội
hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn,…
+ Là sản phẩm của xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết
định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự
nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể, với môi trường, quy luật về sự troa đổi chất, về di truyền,
biến dị, tiến hóa,… quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lí ý
thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học con người như hình thành tình cảm, khát vọng,
niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ
thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất, hoàn chỉnh trong đời sống con người
bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội của con người.
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
+ Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng: “Bản chất
con người không phải là cái trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
+ Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trìu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
Chỉ trong toàn bộ mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính
trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội,…) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Ví dụ: Người sói, người vượn, người gà,… Người đàn ông ở quốc đảo Fipji bị cha mẹ nhốt vào
chuồng gà trong một khoảng thời gian dài. Sau khi trốn ra được thì người đàn ông này ảnh hưởng
hầu hết các tập tính của gà như mổ thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy,…
+ Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự
nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với
mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội.
Quan niệm bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức
đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người
- Con người là chủ thể và sản phẩm của lịch sử
+ Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con
người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng
hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định rằng: “Học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục,
… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà
giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt
động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội.
+ Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động
lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến
đổi đời sống và là bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông
qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục
tiêu và nhu cầu con người đặt ra. Không có hoạt động con người thì cũng không tồn tại quy luật
xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
+ Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi,
phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại
của con người. Mặc dù là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Ví dụ: Người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến quằn lưng lao động phục vụ cho giai
cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của những quan hệ xã hội phong kiến nửa thực dân thối nát;
còn người nông dân trong xã hội chủ nghĩa đã chủ động, tích cực, dân chủ và văn minh hơn.
+ Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày
càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác
động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự
giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích
cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật
nhận thức hướng của con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
* Quan niệm trước Mác
a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông
- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Cuộc sống vĩnh
cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
- Khổng Tử: Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là giá trị cao
nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử.
- Mạnh Tử: quy tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục,
tập quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tư tưởng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính đa
dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức… Nhìn chung
con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính chất duy vật.
b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước K.C.Mác.
- Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì mất đi nhưng linh hồn tồntại vĩnh cửu.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống trần thế là tạm
bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, còn L.Feuerbach
lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống
nhất, không thể tách rời.
=> Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước C.Mác, dù là đứng trên nền tảng thế
giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con người.
Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hoá
mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh
học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)