
















Preview text:
Định nghĩa: văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật, bản sắc văn hóa.
Chức năng cơ bản của văn hóa. Định nghĩa:
- Văn hóa: là thứ tạo dựng giá trị. - Văn minh:
+ Là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất,
đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại.
+ Chỉ là lát cắt đồng đại
+ Chỉ thiên về vật chất + Mang tính siêu dân tộc - Văn hiến:
+ Là truyền thống, văn hóa lâu đời, tốt đẹp.
+ Là những giá trị tinh thần do những người có tài, đức chuyển tải, thể
hiện tính dân tộc và tính lịch sử
- Văn vật: Là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử. - Bản sắc văn hóa:
+ Là đặc trưng cho cá nhân và nhóm cộng đồng nhất thể về văn hóa với
các thành viên có chung bản sắc văn hóa.
+ Là văn hóa, nhưng không phải bất cứ yếu tố nào cũng được xếp vào bản sắc.
+ Chỉ những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt cộng đồng văn hóa này
với cộng đồng văn hóa khác là bản sắc.
Chức năng cơ bản của văn hóa:
- Chức năng tổ chức xã hội
- Chức năng điều chỉnh xã hội - Chức năng giao tiếp - Chức năng giáo dục
Phân tích vai trò và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín
ngưỡng thờ thành hoàng làng trong văn hóa Việt Nam. I.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: 1. Định nghĩa: -
Thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng mà thông qua những nghi lễ
thờ cúng để xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người đã khuất, giữa
người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. -
“Thờ tổ tiên” là thể hiện sự thành kính, biết ơn tường tưởng nhớ đến tổ
tiên, thể hiện niềm tin vào sự bảo hộ, giúp đỡ của tổ tiên ở thế giới bên kia. +
“Cúng” là một yếu tố mang tính lẽ nghi, biểu hiện bằng việc dâng lễ vật cho tổ
tiên, những người đã khuất, hoặc là một loại động tác (cúng, vái , lạy..) của
người dược quyền thờ cúng. Đó là hoạt hộng dưới dạng hành lễ và được quy
định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng dồng dân tộc. -
“Thờ” và “cúng” là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thế
riêng biệt, đó là thờ phụng cho tổ tiên, cội nguồn, những người thân đã khuất của con người. 2. Biểu hiện:
“Thờ” ý nói về hành động biểu hiện sự sùng kính một đấng siêu hình như thần
thánh, tổ tiên, đồng thời cũng có thể hiểu là cách cư xửa với bề trên cho phải
như thờ cha mẹ, thờ thần hay mổ người có ơn với mình, biểu hiện tình cảm của
con cháu hướng về cội nguồn của mình.
3. Vai trò + Ý nghĩa:
1. Thể hiện sự tôn trọng đối với gia đình: -
Người Việt quan niệm “dương sao âm vậy” cho nên cúng tổ tiên bằng
hương hoa, trà rượu và cả đồ ăn lẫn đồ mặc, đồ dùng, tiền nong (làm bằng giáy,
gọi là vàng mã). Rượu có thể có hoặc không, nhưng li nước lã thì nhất thiết không bao giờ thiếu. -
Nhất thiết có, vì nó lúc nào cũng sẵn; nhất thiết có, còn vì ý nghĩa triết lý:
nước là thứ quý nhất (sau đất) của dân trồng lúa nước. Sau khi tàn tuần hương,
đồ vàng mã được đem đốt, chém rượu cũng đem rót xuống đống tàn vàng - có
như vật người chết mới nhận được đồ cúng tế. Hương khói bay lên trời, nước
(rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất - trước mắt ta là một sự hòa quyện LỬA
– NƯỚC (âm dương) và TRỜI – ĐẤT – NƯỚC (tam tài) mang tính triết lý sâu
sắc. Đối với người Việt Nam, những đồ thờ như hương án với bát hương, đài
rượu, bình hoa, chân đèn, v.v. là những vật gia bảo thiêng liêng; dù nghèo khó
mấy cũng không được bán.
Ý nghĩa: Tạo nên sự đồng thuận trong gia đình giữa các thành viên:
Nó nhắc con người hướng về cội nguồn, khơi dậy những đạo lý truyền
thống cao đẹp “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Điều này đã tạo điều kiện
cho các thành viên thêm gắn bó, dù hoàn cảnh, cuộc sống thế nào, tất
cả vẫn có chung một nguồn cội, mội nơi sinh ra, đều chung tấm lòng
hướng về những tổ tiên, cha ông với sự thành kính và biết ơn vô bờ.
2. Thể hiện truyền thống cao đẹp “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân Việt: -
Khác với người phương Tây coi trọng ngày sinh, trong tục thờ cúng tổ
tiên, người Việt Nam coi trọng hơn cả là việc cúng giỗ và ngày mất (kị nhật),
bởi lẽ người ta tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Ngoài ngày
giỗ thì việc cúng tổ tiên còn được tiến hành vào các ngày mùng Một, ngày Rằm;
dịp lễ tết và bất kì khi nào trong nhà có việc (dựng vợ gả chồng, sinh con, làm
nhà, đi xa, thi cử,..). Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở gian giữa - nơi trang
trọng nhất. - Khác với người phương Tây coi trọng ngày sinh, trong tục thờ
cúng tổ tiên, người Việt Nam coi trọng hơn cả là việc cúng giỗ và ngày mất (kị
nhật), bởi lẽ người ta tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Ngoài
ngày giỗ thì việc cúng tổ tiên còn được tiến hành vào các ngày mùng Một, ngày Rằm;
dịp lễ tết và bất kì khi nào trong nhà có việc (dựng vợ gả chồng, sinh con, làm
nhà, đi xa, thi cử,..). Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở gian giữa - nơi trang trọng nhất.
Ý nghĩa: Phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, đạo hiếu của dân ta.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một biểu hiện cụ thể của truyền
thống uống nước nhớ nguồn, đạo hiếu của người Việt. Con cháu
thờ cúng tổ tiên để thể hiện lòng biết ơn, sự kính trọng đối với
những người đã có công sinh thành, dưỡng dục mình của cha mẹ,
tổ tiên. Thêm nữa, con cháu cũng có thêm động lực để nỗ lực cố
gắng, học tập, làm việc trong cuộc sống như là cách để báo đáp lại
những công đức mà cha ông để lại.
3. Thể hiện nét đẹp văn hóa riêng của nước ta: -
Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở nơi chín
suối, nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho cháu
con là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. -
Nó có mặt ở nhiểu dân tộc Đông Nam Á và là nét đặc thù của vùng văn
hóa này, nhưng, theo quan sát của nhà dân tộc học người Nga G.G Stratanovich
(1978) thì nó phổ biến và phát triển hơn cả ở người Việt. -
Ở người Việt, nó gần như trở thành một thứu tôn giáo (nhiều nơi gọi là
Đạo Ông Bà); ngay cả những gia đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà.
Ý nghĩa: Góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống của
người Việt. Tín ngưỡng này đã được lưu truyền từ đời này sang đời
khác, là giá trị văn hóa truyền thống đáng quý, là điểm dựa để chống
lại sự xâm lăng văn hóa từ bên ngoài đang có nguy cơ làm xói mòn
bản sắc văn hóa dân tộc. Người Việt Nam hằng ngày, nhất là dịp mỗi
năm mới về, dù theo tôn giáo gì, tín ngưỡng nào thì vẫn luôn hướng
về tổ tiên với tấm lòng chân thành. Đây là sự đồng thuận về nhu cầu
tâm linh của người Việt, là một đặc trưng, một yếu tố rất đặc biệt góp
phần không nhỏ cho sự đồng thuận, tạo đà cho sự phát triển đi lên của đất nước.
VD: Ngày Giỗ các Vua Hùng:
Ngày Giỗ các Vua Hùng được coi là ngày Quốc giỗ của dân tộc Việt. Giỗ Tổ
Hùng Vương – Lê hội đền Hùng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống
nước nhớ nguồn”, biết ơn công đức dựng nước và giữa nước của các vua Hùng,
của những bậc anh hùng hào kiệt đã không tiếc hy sinh mạng sống của mình để
đem lại cuộc sống bình an ngày nay cho cả một dân tộc. Ngày giỗ tổ Hùng Vương
là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dù ở bất cứ nơi đâu vẫn
hòa chung một nhịp đạp, nhìn chung về một hướng:
“Dù ai đi ngả về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mưới tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non
vẫn nước non nhà nghìn năm.”
ii. Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng:
Kính lạy ngài Bản cảnh thành hoàng chư vị đại vương
Ngài bản xức thần linh thổ địa, bản gia Táo quân
Ngũ phương long mạch, Tài thần.
=> đây là mở đầu của một bài khấn Nôm được người dân Việt Nam sử
dụng trong các dịp lễ bái, là hiện thân của tín ngưỡng thờ thành hoàng
làng, một nét đẹp văn hóa riêng biệt, được nhân dân gìn giữ qua ngàn đời. 1. Định nghĩa:
- Trong phạm vi thôn xã, quan trọng nhất là việc thờ thần làng (Thành
Hoàng). Cũng như Thổ Công trong một nhà, Thành Hoàng là vị thần được
tôn thờ chính trong các đình làng, là vị thần linh cai quản quản toàn bộ thôn
xã, là thần hộ mệnh, phù hộ và che chở cũng như ban phúc cho dân làng. -
"Thành Hoàng" là một từ Hán - Việt xuất hiện sau này để chỉ một khái niệm
đã có từ lâu đời ở các làng quê Việt Nam mà người miền núi quen gọi là “ma làng”. 2. Nguồn gốc:
- Thành hoàng là một biểu tượng cổ xưa có gốc từ Trung Hoa để chỉ vị
thần đại diện cho một tòa thành lớn có hào bao quanh, vị thần này được
thờ nhằm để bảo vệ cho tòa thành đó. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng bắt
đầu du nhập vào Việt Nam từ thời nhà Đường (khoảng tk IX) rồi phát
triển qua các triều đại phong kiến độc lập của nướ cta. Các Thành hoàng
dược phong các mỹ tự, các tước vị được phong là do có công giúp dân, giúp nước.
- Thần làng phải có nguồn gốc lâu đời như thế nào thì nó mới trở thành
hiện tượng phổ biến đến như vậy: Không làng nào là không có Thành
Hoàng. Cái "lệ làng" này mạng đến mức năm 1572 (đời Lê Anh Tông),
triều đình phải ra lệnh sưu tầm và soạn ra thành tích của Thành Hoàng
các làng để vua ban sắc phong thần. 3. Vai trò + ý nghĩa:
a. Vai trò liên kết cộng đồng:
- Tín ngưỡng Thành hoàng đống vai trò liên kết cộng đồng người trong
một cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn, làm nơi quy tụ tâm linh cho cư dân.
- Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức Thành Hoàng là vị thần tối linh,
có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù
hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khỏe mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục
sinh sôi nhưng Thành Hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không
thể phủ nhận được của ột làng qua những cơn chìm nổi.
- Mọi người trong cộng động (làng,xã) tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ
luôn tâm niệm rằng thần luôn giám sát những hoạt động của mình. VD:
Thần ban phúc độ trì cho những người trung hiếu, giáng họa những kể độc ác vô luân....
Sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp
sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Các hương chức
cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc
gì đều phải có lễ cúng Thành Hoàng để xin phép trước. Làng nào cũng có
đình, để thờ Thành Hoàng đồng thời cũng trở thành nơi hội họp của chức
sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã.
- Sự thờ cúng thần Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong
cộng đồng làng, xã. Trên cơ sở những nguyện vọng, mong ước của các
thành viên trong làng hội tụ ở thần.
Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó của cộng đồng làng xã.
Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng là một biểu hiện của tinh thần đoàn
kết, gắn bó của cộng đồng làng xã. Việc thờ cúng thành hoàng làng là
dịp để người dân trong làng cùng nhau tụ họp, chung sức chung lòng
xây dựng và bảo vệ làng xã.
b. Là chỗ dựa tinh thần vững chắc:
- Thành hoàng đã trở thành biểu tượng tâm linh, chỗ dựa tinh thần vững
chắc của người dân. Bởi với họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa
thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một
thêm ổn định, thịnh vượng, nên làng xã nào không có Thành Hoàng thì làng xã đó bất an.
- Tuy ngày nay khoa học đã phát triển, nhưng con người vẫn gặp phải rất
nhiều trắc trở trong cuộc sống như các bệnh hiểm nghèo, vô sinh,…mà y
học phải bó tay. Hoặc như khi xảy ra hỏa hoạn, thiên tai bất ngờ: động
đất, sóng thần, lũ lụt,…hàng năm đã cướp đi biết bao sinh mạng con
người. Khi đó, con người có xu hướng nương nhờ, cầu xin sự che chở của thần thánh.
- Ý nghĩa: Góp phần giáo dục đạo đức, lối sống cho người dân. Tín ngưỡng
thờ thành hoàng làng góp phần giáo dục đạo đức, lối sống cho người dân.
Thông qua việc thờ cúng thành hoàng làng, người dân được giáo dục về
tinh thần yêu nước, yêu quê hương, biết ơn những người có công với làng xã.
c. Duy trì và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống:
- Đem lại cho người dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha đất tổ
bằng những biểu hiện sinh hoạt văn hoá truyền thống.
- Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá là trách nhiệm của mỗi người
và cũng là để góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hoá dân tộc.
- Mặc dù ngày nay, Thành hoàng không còn thích hợp với xã hội hiện đại
nếu vẫn giữ nguyên dạng, nhưng lễ hội làng liên quan đến Thành hoàng
đang tái diễn ở nhiều nơi đem lại sự phấn khởi, sinh hoạt văn hóa cho xóm làng.
- Việc thờ cúng thần Thành hoàng thể hiện đạo nghĩa: uống nước nhớ
nguồn, phát huy các giá trị đạo đức nhân, lễ, nghĩa,…góp phần gìn giữ,
phát huy truyền thống văn hóa.
VD: Lễ hội Thành hoàng làng Nguyệt Viên (từ ngày 20/02/2023 và ngày 01/03/2023)
- Nghè Nguyệt Viên, thôn Nguyệt Viên 1, xã Hoằng Quang, TP. Thanh Hóa.
Ý nghĩa: Góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống: Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng là một nét đẹp văn hóa
truyền thống của người Việt. Tín ngưỡng này đã được lưu truyền từ
đời này sang đời khác, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Phân tích ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Ý nghĩa của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong đời sống văn hóa người Việt
Nằm ở tâm điểm ngã ba của con đường giao lưu quốc tế theo 2 trục chính Đông - Tây
và Bắc – Nam, nước Việt có một vị trí thuận lợi để tiến tới các vùng khác ở trong nước,
lên phía Bắc hoặc ra Đông Nam Á. Đây là yếu tố tự nhiên, tạo điều kiện thuận lợi cho
cư dân trong vùng dễ dàng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa của khu vực và thế giới;
và vì thế, trên con đường truyền giáo của mình, Phật giáo đã chọn và biến Luy Lâu
(Bắc Ninh- Việt Nam) cùng với Lạc Dương và Bành Thành (Trung Quốc) trở thành 3
trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ ở bên ngoài Ấn Độ (khoảng những năm đầu
Công nguyên). I. Nho giáo: 1. Nguồn gốc:
- Nho gia là một trường phái triết học của Trung Hoa do Khổng tử sáng lập
ra vào khoảng thế kỉ thứ VI TCN. Đến thời nhà Hán thì được gọi là Nho giáo.
- Về cơ bản, nho giáo là một học thuyết có hệ thống và phương pháp, dạy
về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm người trong gia đình và trong một xã hội Đại Đồng. 2. Ảnh hưởng:
a. Nho giáo đề cao vai trò của gia đình, dòng tộc.
- Trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, không chỉ có con
cháu mà cả những người họ hàng thân thích cũng tham gia vào các nghi lễ thờ cúng.
b. Nho giáo đề cao sự trung thành, hiếu thảo.
- Trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, con cháu phải
luôn nhớ ơn tổ tiên, không được quên nguồn cội.
c. Nho giáo đề cao sự lễ nghĩa, tôn ti trật tự
- Trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, các nghi lễ được
thực hiện một cách trang nghiêm, thành kính, thể hiện sự tôn trọng của
con cháu đối với tổ tiên. II. Phật giáo: 1. Nguồn gốc:
- Được Thái tử Sidharta (hay sau này là Thích ca mâu ni) sáng lập vào
khoảng thế kỉ thứ VI TCN tại Ấn Độ. Chứng kiến sự phân chia giai cấp
trong xã hội Ấn Độ, với mục đích giải thoát đau khổ cho con người,
Sidharta đã sáng tạo ra “Tứ Diệu đế” (4 chân lý). Trong quá trình phát
triển, Phật giáo chia làm hai tông phái lớn: Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ) và Đại thừa (cỗ xe lớn). 2. Ảnh hưởng:
a. tư tưởng quan điểm : đạo hiếu trong gia đình:
- Một trong những giá trị chủ đạo của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt là tinh thần hiếu đạo, dân gian có câu:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
- Phật giáo đã nâng cao các giá trị hiếu đạo bằng các quan điểm: “Tâm hiếu
là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”, “Tội ác lớn nhất của đời người là
bất hiếu”, v.v. .Từ sự bổ sung tư tưởng của Phật giáo, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt có thêm quan điểm: “Thứ nhất là tu tại gia,
thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”, “Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ cha kính
mẹ mới là chân tu”. Quan điểm này có ý nghĩa, chữ hiếu chính là gốc của
đạo đức, muốn tu được chùa, muốn làm được việc đời, trước hết phải tu
chữ hiếu, phải hoàn thành bổn phận đạo làm con, phải có hiếu với cha mẹ.
b. Khía cạnh nghi lễ:
- Hiện gần như 90% nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt đang mang màu sắc Phật giáo:
+ Các khoa cúng tổ tiên của người Việt được soạn theo ngôn ngữ nghi lễ Phật giáo, sử
dụng các loại hình thần chú của Phật giáo,…
+ Các nghi thức tang ma đều được thực hiện theo tinh thần Phật giáo.
+ Câu cửa miệng khi lễ tổ tiên của người Việt dù theo hay không theo đạo Phật đều là
câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, kèm theo đó là hình thức “chắp tay búp sen” (một nghi
thức, phong cách chào, lễ của Phật giáo) để khấn vái tổ tiên.
+ pháp khí thờ cúng tổ tiên như chuông mõ cũng đều thuộc Phật giáo.
- Phật giáo đã và đang đơn giản hóa các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, giảm tiện
đi những nghi thức rườm rà, tốn thời gian, tiền của, đồng thời đưa ra
những hình thức nghi lễ kết hợp giữa tinh thần Phật giáo với truyền thống
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, phong tục tập quán,… vừa đảm bảo được giá
trị truyền thống - văn hóa, lại đảm bảo được giá trị tâm linh, phù hợp với
nếp sống văn minh tiến bộ, văn hóa hội nhập mới của người Việt.
c. Về mặt thờ tự:
- Nguyên tắc thờ tự xưa của người Việt là “Đông bình tây quả” (đây cũng
là nguyên tắc độc bình – thờ một bình hoa). Như vậy, ban thờ người Việt
thường đặt hướng Nam – hướng mát. Bên trái ban thờ nhìn ra sẽ là hướng
Đông, bên phải ban thờ là hướng Tây.
+ Hướng Đông là hướng mặt trời mọc – mùa xuân, ngày mới, sự sinh sôi,
nên đặt bình hoa, với mong ước tâm linh đặt cây bên phía mặt trời mọc, cây sẽ
đơm chồi, gia đình được phúc lộc.
+ Hướng Tây là hướng mặt trời lặn, biểu trưng cho chiều mùa Đông, nên
đặt mâm ngũ quả, với mong muốn cuộc sống gia đình ngày càng sung túc đủ
đầy, cuộc sống sẽ luôn đơm hoa kết trái.
Ảnh hưởng của Phật giáo về cách thờ này, Phật giáo điều chỉnh là
nguyên tắc từ “độc bình” – thờ một bình hoa, thành “song bình” – thờ
hai bình hoa, đảm bảo tính cân đối trên ban thờ, gần như mọi đồ thờ
trên ban thờ đều có đôi đối xứng nhau – biểu trưng giáo lý trung đạo của Phật giáo.
III. Lão giáo : 1. Nguồn gốc:
- Đạo giáo được hình thành ở Trung Quốc. Khác với Đạo nho, Đạo gia và Đạo
giáo có sự khác biệt. Đạo gia do Lão Tử sáng lập, chủ trương sống thuận theo
quy luật tự nhiên, xóa bỏ mọi ràng buộc của xã hội.
- Trong khi Đạo giáo là một hệ thống thần linh phức tạp, gồm những lực lượng
tự nhiên được nhân cách hóa, những vĩ nhân đức hạnh được tôn làm thần, và
các Đạo sĩ đã trở thành bất từ nhờ đắc đạo. Đạo giáo lấy tư tưởng về Đạo của
Lão tử để đặt tên và đưa vào trong tôn giáo của mình.
- Đạo giáo gồm hai phái: đạo giáo phù thủy và đạo giáo thần tiên. 2. Ảnh hưởng:
a. Lão giáo đề cao sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, giữa
con cháu và tổ tiên.
- Trong nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, thường có các nghi
thứcnhư thắp hương, dâng hoa, cúng rượu, cúng cơm, cúng trái cây,... để thể
hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên.
b. Lão giáo đề cao sự giản dị, tiết kiệm.
- Trong nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, thường không quá cầu
kỳ, phô trương, mà chỉ cần trang nghiêm, thành kính.
c. Lão giáo đề cao sự bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo - Trong
nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, tất cả các thành viên trong gia
đình, dòng tộc đều có quyền tham gia, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội.
IV. Ý nghĩa thờ cúng tổ tiên trong đời sống văn hóa Việt Nam:
1. Phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, đạo hiếu của dân ta:
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một biểu hiện cụ thể của truyền thống uống
nước nhớ nguồn, đạo hiếu của người Việt. Con cháu thờ cúng tổ tiên để thể
hiện lòng biết ơn, sự kính trọng đối với những người đã có công sinh thành,
dưỡng dục mình của cha mẹ, tổ tiên. Thêm nữa, con cháu cũng có thêm động
lực để nỗ lực cố gắng, học tập, làm việc trong cuộc sống như là cách để báo
đáp lại những công đức mà cha ông để lại. 2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
cũng có giá trị văn hóa và tinh thần quan trọng trong việc bảo vệ và duy
trì các giá trị truyền thống của người Việt Nam:
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống của người
Việt. Tín ngưỡng này đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác, là giá trị
văn hóa truyền thống đáng quý, là điểm dựa để chống lại sự xâm lăng văn
hóa từ bên ngoài đang có nguy cơ làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc.
Người Việt Nam hằng ngày, nhất là dịp mỗi năm mới về, dù theo tôn giáo gì,
tín ngưỡng nào thì vẫn luôn hướng về tổ tiên với tấm lòng chân thành. Đây
là sự đồng thuận về nhu cầu tâm linh của người Việt, là một đặc trưng, một
yếu tố rất đặc biệt góp phần không nhỏ cho sự đồng thuận, tạo đà cho sự
phát triển đi lên của đất nước.
Phân tích nguồn gốc và giá trị nhân sinh quan của Phật giáo
trong đời sống văn hóa Việt Nam. i. Nguồn gốc:
- Ra đời ở Ấn Độ cách đây khoảng 2.600 năm khi một thái tử của một quốc
gia tại Tây Bắc Ấn Độ là Tất-Đạt-Đa (Siddhattha) giác ngộ thành đạo, trở
thành một vị Phật (Buddha) - “người giác ngộ”
- Sau nhiều năm tu hành gian khổ để đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “làm thế
nào để con người thoát khỏi khổ - đau và sinh - tử”. - Sau này Ngài đổi niên
hiệu thành Thích Ca Mâu Ni.
- Theo nhiều các tài liệu kinh điển của Phật giáo, cũng như các tài liệu khoa
họcvà khảo cổ đã chứng minh rằng, ông đã sống và thuyết giảng ở vùng
đông bắc ẤnĐộ ngày nay từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 5 TCN.
- Sau việc Đức Phật nhập niết-bàn (nibbāna) được khoảng hơn 100 năm, khi
Đạihội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai diễn ra thì Phật giáo bắt đầu
phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, với nhiều sự
khác biệt, mặc dù cùng có xuất phát từ tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy của Đức Phật.
- Những lời dạy của Phật đã được ghi chép và bảo tồn bởi đại đa số tu sĩ đệ tử
của Người trong tàng thư “Tam Tạng Kinh” (Tipitaka), mà nghĩa đen của từ
này là “Ba Rổ Kinh”. Ba rổ kinh (hay quen gọi là Tam Tạng Kinh” theo từ Hán Việt), bao gồm:
+ Luật Tạng (Vinaya-pitaka): những giới luật đối với tăng ni, và một số
giới luật dành cho Phật tử tại gia.
+ Kinh Tạng (Suttanta-pitaka): tập hợp những bài thuyết giảng của Đức
Phật và những vị đại đệ tử của Phật)
+ Diệu Kinh Tạng (Abhidhamma-pitaka): đây là phần triết lý cao học của Phật giáo.
- Phật giáo là tôn giáo vô - thần, không theo hữu thần, không đề cao thần
thánh là quyết định vận mệnh con người, chỉ coi trọng về lý nhân - quả và
mọi sự của một người là do chính người ấy làm và nhận lãnh. Hai trường phái Phật giáo:
+ Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) được truyền bá và phát triển các
nước Đông Nam Á như Sri Lanka, Thái Lan, Myanmar, Miến Điện, Lào,
Cambodia và một phần ở miền nam Việt Nam. Ngày nay có rất nhiều người
theo Phật giáo Nguyên Thủy ở Ấn Độ, khắp các nước châu Âu, châu Úc và châu Bắc Mỹ.
+ Phật giáo Đại Thừa phát triển ở các nước Đông Á như Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Việt Nam, và Tây Tạng (thuộc tỉnh Thanh Hải
của Trung Quốc ngày nay). ii. Giá trị:
a. Thể hiện tinh thần nhân đạo, lòng từ bi, bác ái -
Nhân sinh quan Phật giáo đề cao tinh thần nhân đạo, lòng từ bi, bác ái. Phật
giáo chorằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng giác ngộ. Vì vậy,
con người cần phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, hướng đến sự giác ngộ, giải thoát. b.
Góp phần hình thành và phát triển bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam- Nhân sinh quan Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống văn hóa Việt Nam, góp phần hình thành và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. -
Phật giáo đã mang đến cho người Việt những giá trị nhân văn cao đẹp, như
lòng nhân ái, vị tha, tinh thần khoan dung, hòa giải,... c.
Vai trò định hướng tư tưởng: -
“Những ai cho rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến những ý tưởng cao vời, đến tư
tưởngtriết học và luân lý cao siêu mà quên đi lợi ích kinh tế và xã hội của conngười là
sai lầm”19. Từ bao đời nay, sự tồn tại của Phật giáo trong lòng dân đóng vai trò như
ngọn hải đăng định hướng tư tưởng xã hội. Thông qua việc tuân thủ những nguyên tắc
và thấm nhuần tinh thần cao cả của đạo Phật, con người được dẫn lối tới an yên, thoát
khỏi dục vọng. Nhiều hoạt động được tổ chức trên tinh thần giác hóa, giác ngộ cho
Phật tử, mưu cầu cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp. d.
Góp phần giáo dục đạo đức, lối sống cho con người -
Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần giáo dục đạo đức, lối sống cho con
người. Từ vị trí của một tôn giáo ngoại sinh, những giá trị đạo đức của Phật giáo dần
đồng nhất với tư duy truyền thống của dân tộc Việt. Xuyên suốt tiến trình phát triển
của Tổ Quốc, lòng yêu nước, nhân ái, nghĩa hiệp, đoàn kết, đạo đức lao động đã trở
thành những chuẩn mực cao nhất trong sự hòa quyện giữa tinh thần dân tộc và triết lý
Phật giáo. Đặc biệt, lòng yêu nước của nhân dân ta không chỉ biểu hiện qua sự kiên
quyết, lòng tự tôn dân tộc, mà còn là thái độ “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người
chạy lại”, vị tha, bao dung, hòa hảo. Thông qua những giáo lý của Phật giáo, con
người được giáo dục về lòng nhân ái, vị tha, tinh thần khoan dung, hòa giải,...
e. Trong đời sống hằng ngày -
Nhân sinh quan Phật giáo đã được thể hiện trong đời sống hằng ngày của
người Việt, thông qua những lễ nghi, phong tục, tập quán,... Ví dụ, người Việt thường
đi chùa lễ Phật, cầu mong sự bình an, may mắn. Người Việt cũng thường ăn chay,
phóng sinh,... để thể hiện lòng từ bi, bác ái.
Phân tích nguồn gốc và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc từ lâu
đời của người Việt. Tín ngưỡng này dựa trên quan niệm rằng nữ giới
có sức mạnh linh thiêng, có khả năng sinh sản, nuôi dưỡng và che chở cho con người.
Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu. Một giả
thuyết cho rằng, tín ngưỡng này có nguồn gốc từ thời kỳ nguyên thủy,
khi người Việt còn sống theo chế độ mẫu hệ. Trong thời kỳ này, phụ
nữ được coi là trụ cột của gia đình và xã hội, vì vậy họ được tôn kính
như những vị thần linh.
Một giả thuyết khác cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc từ
thời kỳ cổ đại, khi người Việt tiếp thu những tín ngưỡng của các dân
tộc khác, như tín ngưỡng thờ Nữ Oa, thờ Mẫu Âu Cơ,...
Cũng có giả thuyết cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc từ
thời kỳ phong kiến, khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam. Nho giáo đề
cao vai trò của nam giới, nhưng tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn được lưu
truyền trong dân gian, thể hiện niềm tin của người Việt vào sức mạnh của nữ giới.
Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam:
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một biểu hiện của truyền thống trọng nữ, tôn
trọng vai trò của phụ nữ trong xã hội. Tín ngưỡng này thể hiện niềm
tin của người Việt vào sức mạnh của nữ giới, vào vai trò của phụ nữ
trong việc sinh sản, nuôi dưỡng và che chở cho con người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một nét đẹp văn hóa truyền thống của người
Việt. Tín ngưỡng này đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác,
góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Các lễ hội thờ Mẫu thường được tổ chức ở phạm vi làng xã, cộng
đồng. Qua đó, tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần tạo dựng và duy trì mối
quan hệ gắn bó, đoàn kết trong cộng đồng.
Thông qua các lễ hội thờ Mẫu, con cháu được giáo dục về truyền
thống trọng nữ, tôn trọng vai trò của phụ nữ, về tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng,...
Tóm lại, tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian quan trọng,
có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống văn hóa người Việt. Tín
ngưỡng này góp phần hình thành và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.