Đề cương triết HK1 | môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội

Đề cương triết HK1 | môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội  với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 1
Câu 1: Vấn đề cơ bản của Triết học?
Bài làm
Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề
cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nên tảng và là điểm
xuất phát đề giải quyết tất cả những vấn đề còn lại – vấn đề về mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức. Đây cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph. Ăngghen đã trả
lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo ông: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết vấn đề
khác của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất,cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào giữ
vai trò quyết định?
- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái
triết học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất (giới tự nhiên) là cái có
trước, ý thức có sau và vật chất quyết định ý thức được gọi là những nhà duy vật.
Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm là cái có trước vật chất và
quyết định vật chất được gọi là những nhà duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường
gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là quá trình đúc
kết khái quát những kinh nghiệm để vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã
đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến
bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thứ của các nhà triết học thời cổ đại, có
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 2
tính thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay
một số chất cụ thể của vật chất. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đưa ra những kết luận
mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác; tuy nhiên
những quan điểm này về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải
thích về thế giới, không viện đến các thần linh, thượng đế hay các lực lượng siêu
nhiên nào. Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp thời cổ, và
người đầu tiên diễn đạt được rõ rằng quan điểm đó là Héraclite: mọi vật đều tồn tại
nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng
thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trính xuấ hiện và biến đi”.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ 2 trong lịch sử chủ nghĩa duy
vật, thể hiện khá rõ ở cac nhà triết học thế kỷ XV – XVIII và điển hình là ở thế kỷ
XVII, XVIII. Chủ nghĩa duy vật thời kì này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương
pháp tư duy siêu hình, cơ giới – phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng
lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh
tại. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kì chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ
sang thời phục hưng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được
V.I. Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã kế thừa những tinh hoa của
các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để những thành tựu khoa học
đương thời. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được
hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế
kỉ XVII, XVIII và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra,
chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản
thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hưu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong
xã hội cải tạo hiện thực ấy.
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 3
Ngược lại với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một
mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cung thương có mối liên hệ mật thiết với
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy tâm có hai trường phái: chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ
là phức hợp những cảm giác của cá nhân. Tiêu biểu là Gioócgiơ Béccli ông là nhà
triết học duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh. Triết học của ông chứa đầy tư
tưởng thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan
điểm của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm những
vật chất không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những vật thể cụ thể, riêng rẽ; sự
tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi
thuần túy mà thôi.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng lại coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con
người. Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác
nhau nhưu ý niệm, tinh thần, tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v... Tiêu biểu là Platôn là
một nhà triết học duy tâm và nổi bật trong hệ thống triết học của ông là “học thuyết
về ý niệm”. Trong học thuyết này, ông đã đưa ra quan điểm về hai thế giới: thế giới
các sự vật cảm biến là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không
nghững sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có gì là
bền vững, ổn định và hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới của đúng đắn, chân
thực sự cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người, thoe Platôn
không phải là phản ánh các sự vật cảm biến của thế giới khách quan, mà là nhận
thức về ý niệm.
Ngoài 2 trường phái triết học lớn ở trên, để giải quyết cho mặt thứ nhất của các vấn
đề cơ bản của triết học, các nhà triết học còn chia ra thành các học thuyết: học
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 4
thuyết nào chỉ thừa nhận một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là bản
nguyên (nguồn gốc) của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là
nhất nguyên luận (nhân nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm)
Song, trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả 2
bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể
cùng quyết định sự vận động của thế giới thì gọi là trường phái nhị nguyên luận.
Điển hình là Descartes.
Ngoài ra còn những nhà triết học cho rằng sự vận động của thế giới còn do sự tác
động của nhiều yếu tố khác bên cạnh vật chất và tinh thần được gọi là trường phái
đa nguyên luận
Và đề trả lời cho câu hỏi của mặt thứ 2 “con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không?” tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật và duy tâm)
đều khẳng định: thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Thuyết
khả tri luận (thuyết có thể biết) là học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận
thức của con người. Thuyết khả tri về nguyên tắc con người có thể hiểu được bản
chất của sự vật. Nói cách khác, càm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý
thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp vs bản thân sự vật
Bên cạnh đó, thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết) là học thuyết triết học phủ
nhận khả năng nhận thức của con người. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm,... của
đối tượng mà các giác quan của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức,
cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối
tin cậy.
Thuyết bất khả tri luận không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực
tại được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể
đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều
nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới.
Thuyết hoài nghi luận ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri luận, những người
theo hoài nghi luận luôn nâng cao sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong viêc xem
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 5
xét tri thức đã đạt và cho rằng con người không thể đạt tới chân lí khách quan. Tuy
cực đoan về mặt nhận thức, nhưng hoài nghi luận thời Phục Hưng đã giữ vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội Trung
cổ.
Câu 2: Định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa của nó
Bài Làm
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể và xem
chúng là khởi nguyên của vật chất, tức là đồng nhất vật chất với dạng vật chất c
thể. Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi
là không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời
cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của
ông là Đê--crít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỉ XVII- XVIII đồng nhất vật chất với khối
lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thế thêm bớt và giải
thích mọi hiện tượng của thế giới theo chuẩn mực thuần túy cơ học. Nói cách khác,
các nhà triết học thời kì cận đại đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể và
tính chất của chúng.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm
đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất
của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Năm 1895, Wilhelm Conrad Rontgen
phát hiện tia X. Năm 1896, Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của
nguyên tố urani. Năm 1897, Joseph John Thomson phát hiện ra điện tử. Năm 1901,
Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà
thay đổi theo vận tốc của nguyên tử. Năm 1898-1902, nhà nữ vật lý Marie
Sklodowska cùng chồng là Pierre Curie đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh poloni
và radium. Và đến năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 6
tổng quát của Albert Einstein ra đời đã chứng minh: Không gian, thời gian, khối
lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Trước những phát hiện trên của khoa học tự nhiên, nhiều nhà khoa học và triết học
đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi
tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng nguyên tử không phải là phần tử
nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”. Do đó vật chất cũng có thể biến
mất; thế giới tồn tại không có quy luật; khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có
trước, cái còn lại duy nhất là chúng ta và cảm giác cùng tư duy của ta để tổ chức
những cảm giác đó. Theo đó, Ernst Mach phủ nhận tính hiện thực khách quan của
điện tử. Wilhelm Ostwald phủ nhận sự tồn tại thực tế của nguyên tử và phân tử. Còn
Henri Bergson thì định nghĩa: Vật chất là cái phi vật chất đang vận động. Đây chính
là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại mà như V.I. Lê-nin khẳng định. Tình hình
trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc,
siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy
tâm thắng thế. Để khắc phục cuộc khủng hoảng, Lê-nin đã tổng kết khoa học tự
nhiên, kế thừa quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ và đưa ra định nghĩa về vật chất.
Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”.
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khác quan, nghĩa là nó tồn tại bên ngoài ý thức,
không lệ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay
chưa nhận thức được. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất. Đưa ra
tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Trong đó, vật
chất và ý thức song song tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vật chất phải là cái
sinh ra và có trước. Nó xuất hiện từ khi chưa xuất hiện loài người và chưa có cái gọi
là ý thức. Con người có nhận thức được hay không thì vật chất vẫn tồn tại. Ví dụ
như thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ
thời gian phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 7
tồn tại một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người. Như vậy
để thấy rằng ý thức có mặt và vận động, phát triển sau đó. Qua đó vật chất mang đến
các chức năng, tác dụng cần thiết đối với con người. Đặc biệt là vẫn phản ánh thông
qua mắt nhìn, tay sờ,.. Nghĩa là thông qua các tiếp cận từ cảm giác và nhu cầu từ ý
thức.
Thứ hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác
động lên giác quan của con người. Không phải mọi sự vật tác động lên giác quan
đều gây nên cảm giác, có những sự vật phải cần đến sự trợ giúp của những dụng c
tinh vi, hiện đại, thậm chí có những sự vật bằng dụng cụ hiện đại vẫn chưa nhận biết
được nó, nhưng trong trình hạn nó tồn tại khách quan thì chính là vật chất. Ví dụ
như con vi khuẩn có thể là nó đã xâm nhập vào cơ thể con người nhưng ta không hề
có cảm giác khi nó tiếp xúc vào ta, mà phải soi dưới kính hiển vi, ta mới có thể nhìn
thấy sự tồn tại của nó. Điều này hoàn toàn đối lập với ý thức- cái tồn tại không cảm
giác được.
Thứ ba, cảm giác, tư duy và ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Chỉ có một thế
giới duy nhất là thế giới vật chất, còn ý thức chỉ là sự phản ánh lại thế giới vật chất,
là thuộc tính của vật chất. Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại
khách quan. Bằng các giác quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp
nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại
khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết. Giống như kiến thức của
nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới khách
quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
Ngày nay khi khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển
càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, cho
thấy định nghĩa vật chất của Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó chủ nghĩa duy
vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp
luận đúng đắn của khoa học hiện đại. Chính vì vậy, quan niệm vật chất của triết học
Mác Lê-nin một mang ý nghĩa sâu sắc. Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện
chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 8
Trước hết, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết
không thể biết, khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Tiếp đó là khắc
phục cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên, mở đường cho khoa học tự nhiên
phát triển, tiếp tục tìm kiếm các dạng thức mới của vật chất và cấu trúc vật chất.
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất
với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn
chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất. Cuối cùng, là cơ sở để xác định
vật chất trong xã hội, là nền tảng lý luận khoa học để phân tích một cách duy vật
biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nói cách khác định nghĩa vật
chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã
hội.
Câu 3: Phân tích phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Bài làm
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm.
Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không
khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen cũng như tổng kết những thành tựu
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”.
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 9
Phương thức tồn tại của vật chất tức là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật
chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là cách thức tồn
tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất. Ph.Ănghen viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động
không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ
thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự
thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất. Ví dụ như sự di
chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế, sự giảm
sút trong học tập, giảm cân,…
Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô, trình
độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại
mình, Ph.Ănghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học,
vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không
gian của các vật thể. Ví dụ như di chuyển trên đường phố khi tham gia giao thông.
Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt,
điện,... Ví dụ, thanh sắt nóng sinh ra nhiệt. Vận động hóa học: sự biến đổi các chất
hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải. Ví dụ, quá trình tạo ra một phân
tử nước (2H2 + O2→2H2O). Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống,
biến thái cấu trúc gen, v.v… Ví dụ như sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v… của
đời sống xã hội. Ví dụ, xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa
có giai cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình
thành nhà nước. Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp
đến cao tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 10
nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của
mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó
bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn.
Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân
bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất
đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động. Đứng im là tương đối
vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra
với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động
chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im là tạm thời vì
đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất
định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn
diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận
động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn
bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật. Ví dụ, thời bao cấp, nền kinh tế
trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng chỉ là đứng im trong hình
thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay tiền tệ, chứng
khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất định
(1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến
đổi: nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên
của mặt này bù khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự
tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác
nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh
hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 11
thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Giống như việc dựa trên sự vận động
của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học: Hóa học, Vật lí học,
Sinh học,…
Bên cạnh đó, dựa trên những thành tựu khoa học thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Mọi dạng cụ thể của vật chất
đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều
dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay
dưới, bên phải hay bên trái,…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn
tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể
hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,… Những hình
thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Tính chất của không gian và sự
biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và
ngược lại. Do đó, về thực chất không gian và thời gian là một thể thống nhất không
gian- thời gian. Vật chất có ba chiều không gian: chiều cao, chiều rộng, chiều dài và
một chiều thời gian: chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian của
một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn. Quan niệm đúng đắn của
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan
coi không gian và thời gian là hình thức trực quan tiên nghiệm, là sự sắp xếp các
cảm giác mà con người thu được theo một trình tự nhất định hoặc chỉ là là hệ thống
liên kết chặt chẽ của những chuỗi cảm giác do con người gây ra.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý
luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không
gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm trên đòi hỏi phải quán triệt
nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử- cụ thể trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 12
Câu 4: Nguồn gốc của ý thức
Bài làm
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức
cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có.
Tác động của ý thức đối với đời sống xã hội là vô cùng to lớn. Nó không những là
kim chỉ nam cho hoạt động của thực tiễn mà còn là động lực của thực tiễn. Sự thành
công hay thất bại của thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự
phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà
biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hóa và tư tưởng.
Theo triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết
học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong
não người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
Về nguồn gốc của ý thức, theo các quan niệm lịch sử, quan điểm chủ nghĩa duy tâm
khách quan cho rằng “Ý thức là thực thể tồn tại vĩnh viễn, là nguồn gốc sinh thành
các sự vật, hiện tượng”, còn theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan “Ý thức là do cảm
giác của con người sinh ra và cảm giác là sự phản ánh lại của cái vốn có trong tâm
trí của mỗi con người”
Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguồn gốc của ý thức được
biểu hiện qua nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc tự nhiên, ý
thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người.
Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới
hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt
động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não
càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng
phong phú và sâu sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác
động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có
ý thức. Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có
kiến thức về thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay,
lOMoARcPSD| 40367505
P a g e | 13
con người dần phát triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người
hoàn thiện dần, ghi lại những kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người
phong phú, văn minh. Từ đó, con người làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên
phục vụ mình.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của
mọi đối tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ
hình thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất. Ví dụ
như sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là ở kết quả cao
trong các kì thi.
Có 4 trình độ phản ánh: phản ánh vật lý, phản ánh hóa học là hình thức phản ánh
thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lí, hóa học thể hiện qua
những biến đổi về cơ, lí, hóa, tức là, thay đổi về kết cấu, vị trí, tính chất lí hóa qua
quá trình kết hợp, phân giải các chất khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định
hướng, chưa có lựa chọn của vật nhận tác động (đinh gỉ sét khi để lâu ngoài trời),
(hiện tượng đóng băng của nước)
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh, tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh. Phản ánh sinh
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 14
14
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. (cây cối vươn lên để
đón lấy ánh sáng để quang hợp),
Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ là
có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện
đối với những tác động của môi trường sống. (khi chúng ta quan sát một bức tranh
và sau đó chúng ta có thể phản ánh lại hình ảnh của bức tranh đó trong trí óc)
Và trong đó phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là
hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người, là sự phản ánh năng động, sáng tạo
hiện thực khách quan bởi bộ não của con người. Ví dụ về sự phản ánh sáng tạo của ý
thức dựa trên thực tiễn như tác phẩm Tây Du Kí - 1 tác phẩm hư cấu với những nhân
vật hư cấu, tình tiết hư cấu nhưng được viết dựa trên một câu chuyện có thật về một
vị sự đã trải qua quãng đường cực kỳ dài, gian truân, vất vả để lấy cuốn kinh về
truyền dạy cho người trong quốc gia. Năm thầy trò là sự sáng tạo từ 5 tính cách có
thật trong con người.
Về nguồn gốc xã hội, ý thức được biểu hiện qua hình thức lao động và ngôn ngữ của
con người. Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
thế giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu tồn tại và phát triển của
mình. Lao động giúp cho sự hình thành và phát triển ý thức. Lao động giúp hoàn
thiện thân thể, hoàn thiện các giác quan của con người làm cho ý thức hình thành và
phát triển. Và trong quá trình lao động, con người đã sử dụng công cụ lao động tác
động vào thế giới tự nhiên, khiến cho thế giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, kết
cấu, quy luật vận động của nó, từ đó làm hình thành nên tri thức cho con người.
Trong lao động, ngôn ngữ được hình thành, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ý thức.
Ví dụ như Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên
nhiên: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng
mười chưa cười đã tối.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 15
15
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) là những hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý
thức. Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan
hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên
ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Với tư cách là
công cụ để tư duy, con người sử dụng ngôn ngữu trong việc khái quát hóa, tổng kết
thực tiễn những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Với tự cách là phương tiện giao
tiếp, ngôn ngữ được sử dụng trao đổi thông tin, trao đổi tri thứcc từ người này qua
người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thông qua đó, ý thức được hình thành
và phát triển. Ví dụ con người đã sáng tạo ra ngôn ngữ và ghi chép lại trên các phiến
đá, thẻ tre hay bây giờ là ghi trên giấy để truyền lại cho các thế hệ ngày nay để tìm
tòi, nghiên cứu và phát triển.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, thực tiễn xã hội.
Câu 5: Bản chất và kết cấu của ý thức
Bài làm
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không
còn y nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông
qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu,… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện
thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được
tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ - cái mà con người có
thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại
được. Ví dụ, mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới
có chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 16
16
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng
vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác
động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo
đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các
mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu.
Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới
khách quan. Ví dụ, con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng
động trong việc đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo
trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và
các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo
nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng
một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau -
theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
Ví dụ, ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ
hội phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự
phát triển của xã hội (Thời kì bao cấp con người khi trao đổi hàng hóa đều phải sử
dụng tem phiếu, còn sau khi Đổi mới thì người dân có thể tự do buôn bán, trao đổi
hàng hóa với nhau).
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn: Một là trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể
với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là mô
hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách
thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần
phi vật chất. Ba là Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực
hoá tư tưởng. Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 17
17
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
khách quan để thực hiện mục đích. Ví dụ, khi giải 1 bài toán ta làm theo các bước:
đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài → suy nghĩ cách làm, hình dung
đề bài theo ý hiểu của mình → tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả.
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó.
Các lớp cấu trúc của ý thức là: tri thức, tình cảm, ý chí và niềm tin.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn
ngữ. Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi
biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó
ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ vào
lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri
thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri
thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm
và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… Ví dụ, các kiến thức về tự
nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…Các kiến thức về xã
hội: thể chế chính trị, giai cấp,…Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, lá lành đùm
lá rách,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các mối quan hệ .
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh.
Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một
yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi
chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản
và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng. Tùy vào
từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các
quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 18
18
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,… Ví dụ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn
kết một lòng giúp nhân dân và quân đội Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ.
Niềm tin bao gồm hai gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức kết hợp với tình cảm hình
thành nên. Để có niềm tin không phải có tri thức là đủ, mà còn cần phải có cảm xúc,
tức năng lực cảm nhận của thế giới nội tâm của con người. Xúc cảm phản ánh nhu
cầu tâm lý, thẩm mỹ, là hình thức phản ánh thế giới riêng có của con người có ý
thức. Sự tích hợp tri thức, xúc cảm tạo nên niềm tin cho chủ thể nhận thức.Tri thức
có cấp độ khác nhau, thể hiện trình độ của nhận thức; tình cảm cũng có cung bậc,
tùy thuộc độ thỏa mãn nhu cầu. Bên cạnh đó, niềm tin còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: thế giới quan, kết quả hoạt động thực tiễn, điều kiện kinh tế- xã hội,…song kết
cấu của nó luôn bao gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức và tình cảm. Ví dụ, trong
những cuộc đấu tranh giành lại độc lập, dân tộc Việt Nam luôn có niềm tin về một
tương lai tươi sáng phía trước. Bỡi lẽ họ luôn có những hiểu biết, tri thức cơ bản về
tính chất của cuộc đấu tranh và họ có tình cảm là lòng nồng nàn yêu nước.
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong q
trình thực hiện mục đích của con người. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người
đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích
một cách tự giác; cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán
trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý c
không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý
nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những
yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại. Ví dụ, dù gặp vô vàn
thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến nhưng ý chí chiến
đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 19
19
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu t
khác.
Các cấp độ của ý thức có ba cấp độ. Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản
thân, hoạt động của tinh thần, ở đó diễn ra sự thay đổi và tranh luận nội tâm. Tự ý
thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội
khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng
của mình. Cấp độ tiếp theo là tiềm thức. Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã
có từ trước nhưng đã trở thành kỹ năng, kỹ xảo nằm trong tầng sâu ý thức của chủ
thể. Cuối cùng là vô thức. Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh
sự suy nghĩ, hành vi của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm hay sự
kiểm tra, tính toán của lý trí
Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (vận
dụng vào quá trình học tập và lao động)
Bài làm
Theo Lênin vật chất “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất tồn tại bằng
cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có
vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất
vận động trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội. Bản chất
của ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực
tiễn.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 20
20
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không
thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước, cái sinh ra và
quyết định sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có trước,
nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não
ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào
bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ
viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình
thành,tồn tại và phát triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội
dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức . -Tác động trở lại của ý
thức Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương
đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới
vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người . Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục
tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì
vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng
đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự
phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ
làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ
kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất
cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoăc tiêu diệt các quy 
luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa
trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất . Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 21
21
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực
tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức
cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại
xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ
những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ
đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho
nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh
thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và
giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng
thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các
nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt
hiệu quả cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc
phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy
ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Là một sinh viên năm nhất, em thấy bản thân mình cần phải xác định rõ các nhân tố
vật chất như điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật khách quan. Trong học tập,
nếu em được tiếp xúc với những cơ sở vật chất, phương pháp dạy tốt chúng ta sẽ cố
gắng học tập tốt, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn. Cụ thể hơn, một tiết học Triết của một
giảng viên tâm huyết, truyền đạt bài thú vị, dễ hiểu sẽ khiến bản thân mình yêu môn
Triếtkhông sợ nó, thúc đẩy mình tìm hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng
viên môn Triết của mình thiếu tâm huyết, truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó
hiểu thì mình sẽ sinh ra tâm lý chán nản, không thích học môn Triết. Đó chính là vật
chất quyết định ý thức. Em đã vận dụng để nâng cao năng suất học tập của bản thân
bằng cách tạo ra những cơ sở vật chất tốt để thúc đẩy tinh thần học như : tìm kiếm
một phương pháp học tập phù hợp bản thân, trang trí sắp xếp góc học tập thật gọn
gàng,…Bên cạnh đó em còn đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động
theo các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như không
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 22
22
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
cúp tiết, tham gia đầy đủ các buổi học, làm theo giáo viên hướng dẫn,…Cuối cùng,
khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu t
tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Trước đây khi em đăng kí
nguyện vọng vào các trường đại học. Việc quan trọng nhất mà em xét đến chính là
năng lực của bản thân và điều kiện tài chính của gia đình để sắp xếp nguyện vọng
một cách thông minh và hợp lí nhất. Tránh trường hợp ngành học không phù hợp với
bản thân về cả năng lực lẫn tài chính
Câu 7: Hãy phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến
Bài làm
Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác lẫn nhau, qua đó thể hiện các
thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là những đối tượng thực
tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm tối tượng, các thuộc tính của nó thay đổi,
và một trong số trường hợp có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng
khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các
tương tác giữa nó có liên hệ với các đối tượng khác.
Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa hai đối tượng trong đó sự thay đổi
của đối tượng này nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi của đối tượng kia. Và mối liên hệ
là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng háy giữa các mặt của một sự vật hiện tượng. Ví dụ
như con người và cây xanh, cây xanh hấp thụ lượng khí CO2 và giải phóng khí ôxi
trong lành cần thiết cho con người. Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học
dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện tượng của thế giới. Trong
tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới; cây tơ
hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nói rằng các sự vật, hiện tượng
trong thế giới tồn tại độc lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 23
23
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
không có sự liên hệ ràng buộc, quy định, chuyển hóa lẫn nhau hoặc nếu có thì chỉ là
mối liên hệ mang tính ngẫu nhiên, bề ngoài.
Ngược lại, theo Chủ nghĩa duy vật biện chứng, họ cho rằng các sự vật, hiện tượng
trong thế giớ tồn tại trong sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, không
tách rời nhau. Cơ sở của mối liên hệ phố biến chính là tính thống nhất vật chất của
thế giới. Đây là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Về tính chất của các mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy vật khẳng định tính
khách quan của các mối liên hệ, tác động trong thế giới. Các mối liên hệ đều là tự
thân, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, hoàn toàn không bị lệ thuộc
và ý thức của con người mà hình thành. Minh chứng cho điều này, ta có thể thấy
rằng sự liên hệ giữa cây xanh và cơ thể sống của con người là sự liên hệ tự thân,
hoàn toàn không do sự tác động của ý thức con người; hay có những tình huống
“oan gia ngõ hẹp”, không hẹn mà gặp hoàn toàn không do ý thức của con người tác
động lên.
Tính phổ biến của nguyên lý thể hiện ở chỗ mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển
hóa lẫn nhau khôgn những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã
hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi
sự vật, hiện tượng. Ví dụ trong buôn bán hàng hóa, dịch vụ thì giữa cung và cầu có
mối liên hệ với nhau. Giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình
tác động qua lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không
ngừng của cả cung và cầu. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về
mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu. Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ
biến. Khi chúng ta làm đề kiểm tra toán, lý, hóa, chúng ta phải vận dụng kiến thức
văn học để đánh giá đề thi.
Mối liên hệ phổ biến còn có tính đa dạng, phong phú. Các mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng, có thể chia thành nhiều loại; và trong điều kiện, hoàn cảnh khác
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 24
24
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng khác nhau. Ví dụ như cô A vừa
là một người mẹ, người vợ khi ở nhà, là người giáo viên khi ở trường, là một Đảng
viên khi ngoài xã hội...
Từ nội dung và các tính chất của mối liên hệ phổ biến, chúng ta có thể rút ra những
ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ này. Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem
xét sự vật hiện tượng: trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các
yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng. Trong mối liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các
mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. Trong không gian, thời gian nhất định,
nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ,
hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan
điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến
nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản chất của sự vật,
hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành
không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các
mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến). VD: Để đánh giá phẩm
chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó trong mọi MQH khác
nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự thay đổi của cả một q
trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không đàng
hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có
cái nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm
ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên
hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự
vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận
động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. dụ: khi tham gia giao thông, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu,
cảnh sát giao thông phải cho ta đi; kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu,
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 25
25
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến
tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa thể ép
người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 8: Hãy phân tích nguyên lý về sự phát triển
Bài làm
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau:
quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng. Quan điểm siêu hình xem sự phát
triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi
gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi
ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới
với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là
một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một
quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt,
đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay
trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất
quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm
biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật
lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn
gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự
phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy
định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng
quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 26
26
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực,
quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng
để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Theo quan điểm này, phát triển không bao
quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận
động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ.
Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát
triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về
chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức
năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất
cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển
bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo quan điểm
duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó
là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận
động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn pt triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. VD: Sự phát triển của xã
hội loài người: Công xã nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -
> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con người không thể quay về được dù
có muốn hay không.
Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó
diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào
của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực
cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển,
mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản
ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển. Như xã hội loài người đã có ựu
phát triển qua các nền văn minh: nông nghiệp – công nghiệp – tri thức. Hay về tư
duy, năng lực nhận thức của con người về thế giưới tự nhiên ngày càng sâu sắc.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 27
27
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Sự phát triển còn mang tính kế thừa. Trong quá trình phát triển của sự vật, cái mới sẽ
ra đời thay thế cho cái cũ, trong đó cái mới không đoạn tuyệt hoàn toàn cái cũ mà sẽ
kế thừa những yếu tố tích cực, còn giá trị của cái cũ, đồng thời loại bỏ những yếu t
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ. Nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thay đổi
từng ngày, du nhập thêm những nét văn hóa mới (như Haloween, valentine, noel,...)
nhưng vẫn giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc (như ca trù, quan
họ,...)
Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát
triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự
vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật
còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện.
Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí
tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả,
những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém
phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa
hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ,
sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn
vào những nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm phát triển và kém phát
triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng có thể có những giai
đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng xem xét toàn bộ q
trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi khi
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 28
28
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái
động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi
không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh
hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên
cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát
những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức
và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm
sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của
con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song
để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn,
nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung
của các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan
duy ý chí ... dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn
khẳng định “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như
từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội”. Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 29
29
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như
tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những
căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở,
thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm
trọng.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là
căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin
tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện
nay CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước XHCN.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các sự
vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy
được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự
phát triển vào thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, trong điều kiện CNXH
đã thoái trào và sụp đổ; CNĐQ và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các
nước XHCN còn lại thì quan điểm của Đảng CSVN là kiên quyết chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước
quanh co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy
luật tất yếu.
Qua những số liệu và đánh giá thực tế cho thấy được hiện tượng bạo lực học đường
ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Vậy nguyên nhân do đâu mà dẫn đến hiện
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 30
30
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
tượng bạo lực học đường trên? Bài viết xin Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết
quả vào cuộc sống về bạo lực học đường để giải đáp. Bạo lực học đường do một số
nguyên nhân như sau:
Thứ nhất: Có thể thấy tình trạng bạo lực diễn ở môi trường học tập chủ yếu ở độ tuổi
12-17 tuổi. Đây là độ tuổi thay đổi tâm sinh lý của của học sinh – độ tuổi vô cùng
nhạy cảm. Bản thân các em chưa làm chủ được nhận thức và hành động của bản
thân mà dễ cáu gắt, bực tức và có những hành vi gây bạo lực học đường.
Thứ hai: Từ phía gia đình, cuộc sống ngày nay ngày càng đòi hỏi vật chất nên ph
huynh bận rộn kiếm tiền, ít quan tâm đến con cái, thậm chí vù áp lực cuộc sống hay
trút giận lên chính đứa con của mình. Nhiều gia đình lục đục nên con cái chứng kiến
và bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Từ nhà trường, nhiều trường học chỉ chú trọng đào tạo giáo dục mà ko để ý
giáo dục nhân cách, kĩ năng cư xử phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi có bạo lực
không có hướng giải quyết nên học sinh không sợ.
Thứ tư: Từ phía xã hội, sự ảnh hưởng do thời đại 4.0 internet phát triển mạnh mẽ
không được kiểm duyệt. Văn hóa bạo lực trong các bộ phim ảnh, sách báo và các trò
chơi, game mang xu hướng bạo lực tràn lan trên mạng và không được kiểm duyệt
đàng hoàng dẫn đến những đối tượng ở độ tuổi vị thành niên này bị tò mò và tiếp
xúc nên có tâm lý bạo hành học đường ở ngoài đời.
Thứ năm: Do biến chất về mặt tâm lý, nhiều học sinh, giáo viên suy thoái đạo đức
nghề nghiệp, có những cách nhìn nhận méo mó, lệch lạc biến thái.
Kết quả là nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng với sự phức tạp. Các hành vi
đánh đập, bứt tóc, xô đẩy, dứt tóc, xé quần áo, đổ đồ ăn lên người, trấn lột cướp đồ
giữa học sinh với nhau hết sức phổ biến trong các trường. Không chỉ vậy mà học
sinh còn sử dụng những hành vi hoặc lời nói gây xúc phạm, gán ghép hoặc bôi nhọ,
sỉ nhục, chế nhạo hoặc bắt người khác làm theo ý mình. Hành vi này có thể ở giáo
viên đối với học sinh hoặc học sinh với nhau. Việc xâm phạm tình dục, có thể động
chạm những bộ phận nhạy cảm hoặc thậm chí có những hành vi cưỡng ép tình dục,
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 31
31
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
hiếp dâm, … gây rúng động dư luận thời gian qua cũng rất báo động và cần được xử
lý nghiêm.
Có thể thấy mối quan hệ giữa nguyên nhân của bạo lực học đường dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc trên thực tế. Từ những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan
mà học sinh có các hành vi đánh đập, chế nhạo hoặc xâm phạm, xúc phạm,… bạn bè
thầy cô. Từ đó mà bỏ học, nghỉ học đuổi học kéo theo hệ lụy phía sau.
Câu 9: Hãy phân tích cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Rút
ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với học tập và cuộc
sống
Bài làm
Trong quá trình nhận thức con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối
tượng để nắm bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên
hệ giữa chúng cùng có ở tất cả chúng. Đó là vận động, không gian, thời gian, nhân
quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn,... Chúng
là những đặc trung của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến
của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm trù triết học. Như
vậy, phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là
những mô hình tư tưởng phản ảnh những thuộc tỉnh và mối liên hệ vốn có ở tất cả
các đối tượng hiện thực
Về cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ
một sự vật, hiện tượng nhất định. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các
mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự
vật, hiện tượng nào khác. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp
lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác nữa (người dân Việt Nam đều sửu dụng tiếng
nói và chữ viết Tiếng Việt). Còn cái đơn nhất là khái niệm dùng để chỉ những đặc
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 32
32
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
tính, tính chất chỉ tồn tại ở 1 sự vật hiện tượng mà không lặp lại ở các sự vật hiện
tượng khác.
Trong lịch sử triết học đã có hai xu hướng – duy thực và duy danh – đối lập nhau
giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực cho rằng,
cái chung tồn tại chân thật, cái riêng chỉ tồn tại lệ thuộc vào cái chung thôi. Còn các
nhà duy danh lại khẳng định, chỉ có cái riêng mới tồn tại chân thật, cái chung chỉ có
truong trí tưởng tượng của con người. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực,
song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số
(như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số khác
(Béccli) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ cái chung – cái riêng. Cả cái chung, cái
riêng và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan và chân thật. Cụ thể:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nó thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của nó. Điều đó có nghĩa là không có cái chung thuần túy, trừu tượng tồn
tại bên ngoài cái riêng. Ví dụ như thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận
động lại tồn tại dưới các hình thức riêng biệt như vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động xã hội, v.v...
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng
độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Các chế độ kinh tế - chính trị riêng biệt đều b
chi phối với các quy luật chung của xã hội như quy luật sản xuất phù hợp với lực
lượng sản xuất.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Người nông dân Việt Nam ngoài đặc
điểm chung với những người nông dân khác trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ
tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của làng xã, có
tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại có những đặc điểm khác nhau. Cái chung sâu
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 33
33
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu
khó.
Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. Sự chuyển hóa có thể diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất diến
thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái đơn
nhất làm cho sự vật dần dần mất đi. Ví dụ như một sáng kiến của một anh hùng lúc
đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở thành cái phổ biến; Khoán sản
phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở thành cái phổ biến; Vận
động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo thực hiện ở một
số ngành kinh tế - sau trở thành chung.
Như vậy, có thể rút ra được những ý nghĩa phương pháp luận như sau: Thứ nhất, để
nhận thức được cái chung thì cần phải xuất phát từ cái riêng, vì bản thân cái chung
trong mọi sự vật hiện tượng không phải là một và giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là
biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái
chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biết hóa
cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp. Thứ hai, trong nhận thức phải tìm ra
cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải vận dụng linh hoạt sự chuyển hóa giữa cái
chung và cái đơn nhất: cần tạo điều kiện cho cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung
và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất. Ví dụ, khi các nhà khoa học nghiên cứu
về quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người thì cũng cần thông qua việc
nghiên cứu nhiều xã hội qua từng thời kì cụ thể, qua đó thấy được những nét đặc
biệt có lợi để xã hội phát triển và kế thừa thành cái chung của loài người, và khắc
phục, bài trừ những điều không tốt và dần trở thành cái đơn nhất chỉ còn tồn tại ở
một vài nơi, ở một vài cá thể.
Từ việc nắm rõ được cặp phạm trù cái chung và cái riêng, bản thân em đã có thể vận
dụng vào trong việc quản lí các hoạt động của lớp, cụ thể, khi xem xét một phong
trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần thi đua đó ở từng tổ, từng
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 34
34
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
người sau đó liên hệ lại với nhau và từ đó rút ra được những quy định chung để phát
huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa những hạn chế còn tồn
đọng.
Câu 10: Hãy phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.
Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với học tập và cuộc
sống
Bài làm
Trong quá trình nhận thức con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối
tượng để nắm bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên
hệ giữa chúng cùng có ở tất cả chúng. Đó là vận động, không gian, thời gian, nhân
quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn,... Chúng
là những đặc trung của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến
của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm trù triết học. Như
vậy, phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là
những mô hình tư tưởng phản ảnh những thuộc tỉnh và mối liên hệ vốn có ở tất cả
các đối tượng hiện thực
Nhận thức về sự tác động, tương tác giữa các mặt, các yếu tố hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau như là nguyên nhân cuối cùng dẫn đến sự xuất hiện của các
mặt, các yếu tố, các sự vật, hiện tượng mới về chất, chính là khâu quyết định dẫn
đến việc phát hiện ra tính nhân quả như là yếu tố quan trọng của mối liên hệ phổ
biến.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất dịnh nào đó. Còn kết quả là
phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa sự vật với nhau gây ra. Ví dụ như trời mưa là nguyên nhân,
sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 35
35
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Nhận thức về nguyên nhân, kết quả như trên vừa giúp khắc phục được hạn chế coi
nguyên nhân của mỗi sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất định, nằm bên
ngoài sự vật, hiện tượng đó; vừa khắc phục được thiếu xót coi nguyên nhân cuối
cùng của dự vận động, chuyển hóa của toàn bộ thế giới vật chất nằm ngoài nó, trọng
lực lượng phi vật chất nào đó.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Tính khách quan được
thể hiện mối quan hệ này là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc và ý
thức của con người. Tính phổ biến ở chỗ mối liên hệ nhân quả xảy ra trong mọi sự
vật, hiện tượng, và trong mọi lĩnh vực và cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
tính tất yếu là cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau
sẽ gây ra kết quả như nhau.
Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ nhân quả không cứng nhắc, tĩnh tại.
Thứ nhất, Trong quá trình vận động, phát triển, nguyên nhân có thể chuyển hóa
thành kết quả, không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định và ngược
lại không có kết quả nào không có nguyên nhân (có nhân ắt sẽ có quả).
Thứ hai, nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết
quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ
trước sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả. Như câu
tục ngữ “Không có lửa làm sao có khói”; hay như cuộc đấu tranh giai cấp vô sản
mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có trước để dẫn đến cuộc
cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng có sau)
Thứ ba, trong hiện thực mối liên hệ nhân quả được biểu hiện rất phức tạp: một kết
quả có thể do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết
quả. Và trong đó, nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến
kết quả nhanh hơn. Ngược lại, nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm
cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
dụ như trong công cuộc cách mạng của chúng ta thắng kợi, giải phóng miền nam
thống nhất đất nước là kết quả của nhiều nguyên nhân tạo thành như tinh thần quyết
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 36
36
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
chiến quyết thắng của nhân dân “dân tộc ta thà quyết hy sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ”, đường lối lãnh đạo sáng suốt và anh minh của
Đảng và nhà nước, cùng với đó là sự ủng hộ củ các nước, các dân tộc yêu chuộng
hòa bình trên toàn thế giới.
Thứ tư, giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau tùy theo từng
mối quan hệ. Trong thế giới, không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết
quả cuối cùng. Ví dụ như sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần,
nhưng tinh thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất
Từ những đặc điểm và tính chất ở trên, mối liên hệ nguyên nhân kết quả có những ý
nghĩa phương pháp luận như sau: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn
trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân quả. Muốn cho hiện tượng nào đó xuất
hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác
dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn
tại của nó. Ví dụ, để học tập tốt thì cần tạo điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau. Ví dụ, đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc
thực phẩm, nhiễm giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có
phương án điều trị phù hợp,... Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó,
trong hoạt động thực tiễn cần khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc
đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực. Ví dụ, học tập tốt thì đạt được kết
quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt nhiều kết quả cao hơn nữa – phấn
đấu học tập tốt hơn.
Câu 11: Hãy phân tích khái niệm lượng và chất
Bài làm
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 37
37
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Trong lịch sử triết học đã xuất
hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng cũng như quan hệ giữa
chúng. Những quan điểm đó phụ thuộc, trước hết và chủ yếu vào thế giới quan
phương pháp luận của các nhà triết học hay của các trường phái triết học.
Quy luật lượng - chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất
chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt
đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng - chất cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển,
khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có
bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự,
vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có
liên quan.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự
vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật,
hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Ví dụ như nước là
một dạng vật chất tồn tại ở chất lỏng, không màu, không mùi, không vị.
Chất có những đặc tính cơ bản. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính:
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chất của sự vật được tạo nên từ những thuộc
tính cơ bản của sự vật. Khi có những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật
cũng sẽ thay đổi theo. Ví dụ, đường được tạo nên từ những thuộc tính của nó như có
công thức hóa học là C12H22O11, tồn tại dưới dạng các tinh thể nhỏ, có vị ngọt
tan trong nước; hay muối cũng có những thuộc tính như công thức hóa học là NaCl,
dễ tan trong nước...
Thứ hai, mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có một chất mà còn có nhiều chất, tùy
thuộc vào mối quan hệ cụ thể của chứng. Chẳng hạn như sắt là một nguyên tố hóa
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 38
38
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
học có công thức là Fe, số hiệu nguyên tử là 26, thuộc nhóm VIIIB, chu kỳ 4. Hay
một bạn trẻ có thể sống ở nhiều vị trí khác nhau như là một sinh viên, là một người
con hay là một người bạn.
Thứ ba, chất của sự vật không những được quy định bởi những thuộc tính cấu thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các thuộc tính ấy. Ví dụ như chì và kim cương
đều được cấu tạo từ các phân tử Cacbon nhưng kim cương lại có cách liên kết khác
với chì.
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựu vật, hiện
tượng về các phương diện: số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
phát triển của sự vật hiện tượng. Ví dụ, lớp A có 50 sinh viên, gia đình bạn B có 4
người....
Lượng của sự vật có những đặc tính sau. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng tồn tại
nhiều loại lượng khác nhau. Chẳng hạn, một nguyên tử nước gồm hai nguyên tử
Hidro liên kết với một nguyên tử Oxi, thì lượng nguyên tử hidro và lượng nguyên tử
oxi là hai loại lượng tồn tại trong phân tử nước.
Thứ hai, lượng cũng được biểu thị bởi những đơn vị đo lường cụ thể với những con
số chính xác. Ví dụ một lớp 12A có 30 học sinh. Nhưng cũng có thể lượng được
biểu thị dưới dạng khái quát, và phải dùng đến khả năng trừu tượng để nhận thức. Ví
dụ như lượng trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người. Hay lượng
được biểu thị bởi những yếu tố bên ngoài như chiều cao, chiều dài của con người, sự
vật. Và lượng được biểu thị bởi yếu tố quy định kết cấu bên trong như số lượng
nguyên tử tồn tại trong một nguyên tố hóa học.
Câu 12: Hãy phân tích quy luật lượng và chất, rút ra ý nghĩa
phương pháp luận và liên hệ với bản thân em
Bài làm
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 39
39
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Trong lịch sử triết học đã xuất
hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng cũng như quan hệ giữa
chúng. Những quan điểm đó phụ thuộc, trước hết và chủ yếu vào thế giới quan
phương pháp luận của các nhà triết học hay của các trường phái triết học.
Quy luật lượng - chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất
chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt
đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng - chất cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển,
khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có
bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự,
vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có
liên quan.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự
vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật,
hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Ví dụ như nước là
một dạng vật chất tồn tại ở chất lỏng, không màu, không mùi, không vị.
Chất có những đặc tính cơ bản. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính:
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chất của sự vật được tạo nên từ những thuộc
tính cơ bản của sự vật. Khi có những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật
cũng sẽ thay đổi theo. Thứ hai, mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có một chất mà còn
có nhiều chất, tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể của chứng. Thứ ba, chất của sự vật
không những được quy định bởi những thuộc tính cấu thành mà còn bởi phương
thức liên kết giữa các thuộc tính ấy.
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựu vật, hiện
tượng về các phương diện: số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 40
40
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
phát triển của sự vật hiện tượng. Ví dụ, lớp A có 50 sinh viên, gia đình bạn B có 4
người....
Lượng của sự vật có những đặc tính sau. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng tồn tại
nhiều loại lượng khác nhau. Thứ hai, lượng cũng được biểu thị bởi những đơn vị đo
lường cụ thể với những con số chính xác. Nhưng cũng có thể lượng được biểu thị
dưới dạng khái quát, và phải dùng đến khả năng trừu tượng để nhận thức. Hay lượng
được biểu thị bởi những yếu tố bên ngoài như chiều cao, chiều dài của con người, sự
vật. Và lượng được biểu thị bởi yếu tố quy định kết cấu bên trong.
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện
tượng là một thể thống nhất giữa chất và lượng, chúng không ngừng vận động, tác
động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và
lượng thống nhất với nhau ở một độ; nhưng cũng trong phạm vi độ đó, chất và
lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần dần biến đổi. Ví dụ, sự
chuyển đổi từ thể lỏng sang thể rắn, thể khí của nước, nước ở 0 độ C chuyển từ thể
rắn sang thể lỏng, nước ở 100 độ C chuyển từ thể lỏng sang thể khí (hơi). Quá trình
vận động và phát triển ấy có liên quan đến các khái niệm sau:
Thứ nhất,“Độ” là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến
sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi
về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Độ
cũng thể hiện được sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật. Ví dụ, dưới 0 độ C,
từ 0 độ C đến 100 độ C, trên 100 độ C
Thứ hai, sự thay đổi về lượng của một sự vật vẫn tiếp tục diễn ra, khi tới điểm nút sẽ
dẫn đến ựu chuyển hóa về chất của sự vật. “Điểm nút” là khái niệm dùng để chỉ thời
điểm (điểm giới hạn) mà tại đó sự tích lũy về lượng đã đủ dẫn đến sự chuyển hóa
(thay đổi) về chất của sự vật. Ví dụ, 0 độ C, 100 độ C.
Thứ ba, “Bước nhảy” là khái niệm dùng để chỉ sự chuyển hóa về vật chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng trước đó gây nên. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển của sự vật và là sự khởi đầu cho một giai đoạn vận động, phát triển
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 41
41
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
mới của sự vật ấy. Bước nhảy có 4 hình thức: Bước nhảy đột biến là bước nhảy làm
thay đổi về chất của sự vật nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật (núi
lửa phun trào); Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất được diễn ra trong
một khoảng thời gian dài (tích lũy tư duy, phát triển kiến thức theo các cấp học từ
cấp 1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học...); Bước nhảy toàn bộ làm thay đổi căn bản về chất
của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật (Chiến thắng
mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn, đất nước bước sang thời kì mới); Bước nhảy
cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật của chất (Dù
xã hội đã hiện đại, bình đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay đổi,tồn tại tư tưởng
trọng nam khinh nữ,…). Ví dụ, từ rắn sang lỏng, từ lỏng sang khí (hơi).
Thứ tư, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, làm cho lượng của sự
vật tiếp tục thay đổi và sự thay đổi về lượng lại dẫn đến sự thay đổi về chất của sự
vật. Quá trình đó diễn ra liên tục, vì thế sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất
với lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở những điều sau. Những thay đổi dần về
lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất
mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng mới lại tiếp
tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó. Quá trình tác
động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục trong đứt đoạn,
đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi
lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Và từ đây, có những ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mối quan hệ biện chứng
giữa lượng và chất như sau:
Thứ nhất, quy luật lượng và chất giúp nhận thức được sự phát triển của sự vật, hiện
tượng baogiờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng. Vì vậy, phải biết từng
bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 42
42
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Thứ hai, khắc phục tư tưởng vội vàng, nôn nóng cũng như tư tưởng bảo thủ, trì trệ
(vội vàng thực hiện bước nhảy khi chưa tích lũy đủ về lượng hoặc không dám thực
hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng).
Thứ ba, khi đã tích lũy đủ về lượng thì phải quyết tâm thực hiện bước nhảy, kịp thời
sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất.
Thứ tư, trong hoạt động thực tiễn, cần phải vận dụng linh hoạt các hinh thức bước
nhảy: tùy từng điều kiện trường hợp cụ thể mà chúng ta lựa chọn hình thức bước
nhảy cho phù hợp.
Thứ năm, do chất của sự vật còn bị quy định bởi phương thức liên kết giữa các yếu
tố cấu thành nên trong thực tiễn cần có phương pháp phù hợp để tác động đến
phương thức liên kết nhằm tạo ra sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp.
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc
học tập và rèn luyện của em như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, em
phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, em phải
tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài
kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước
nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá
trình học tập rèn luyện của em. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật
khác, em phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập
(chất) theo quy luật.
Câu 13: Hãy phân tích quy luật phủ định của phủ định
Bài làm
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy
vật, quy luật này chỉ ra khuynh hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc), kết quả (sự vật,
hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ) của sự phát triển của chúng thông qua
sự thống nhất giữ tính thay đổi vưới tính kế thừa trong sự phát triển; nghĩa là sự vật,
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 43
43
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của sự vật
hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. Phủ định siêu hình là sự diệt
vong hoàn toàn của cái cũ, là phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự phát triển
của sự vật (ví dụ như người nông dân sang vụ mùa mới sẽ phá bỏ hoàn toàn những
cây giống cũ để thay thế bằng cây giống mới). Còn phủ định biện chứng là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá
trình dẫn đến sự ra đời của sụ vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ. Mọi quá trình vận động
và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự
thay thế, trong đó của sự thay thế chấn dựt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế
tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Những sự thay thế tạo ra
điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng.
Ví dụ như hiện tượng tre già măng mọc, khi cây tre già đi, măng non sẽ mọc thay
thế, kế thừa cho cây tre già và tiếp tục phát triển tốt hơn.
Phủ định biện chứng có tính khách quan, nguyên nhân của phủ định nằm trong bản
thân sự vật, hiện tượng nó là quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên
trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu
hướng phát triển của chính bản thân sự vật. Ví dụ như Chủ nghĩa xã hội phủ định
chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản, khách quan, vốn
có trong lòng xã hội tư bản; mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được biểu
hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Bên cạnh đó, phủ định biện chứng còn có tính phổ biến, quy luật này diễn ra trong
mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội, tư duy. Sự phát triển của cây lúa
sinh ra hạt lúa chính lạ sự phát triển, thay thế và kế thừa từ cây lúa đó, hay trong tư
duy, những quan điểm, ý nghĩ đều sẽ tiếp tục phát triển, phủ định cho những quan
điểm, ý nghĩ cũ...
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 44
44
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Ngoài ra, phủ định biện chứng còn có tính đa dạng, phong phú vì nó thể hiện trong
nội dung, hình thức của phủ định. Ví dụ như hạt lúa là phủ định của cây lúa, nó thay
đổi hình dáng, hình thức khác so với cây lúa ban đầu
Cuối cùng, tính kế thừa của phủ định biện chứng được thể hiện là sự phủ định mà
cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị tích cực của cái cũ, bổ sung thêm
những cái mới phù hợp hơn. Như trong sinh vật, các giống loài đều phát triển theo
quy luật di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ
bố mẹ, học thuyết “gen” đã chứng minh điều đó. Trong lĩnh vực nhận thức, triết học
Mác ra đời giữa thế kỷ XIX, đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ, mà trực
tiếp là các giá trị của nền triết học cổ điển Đức.
Phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản
thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa
các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ
định lần thứ nhất diễn ra là sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ
định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề, cái phủ định là cái mới
xuất hiện. Cái phủ định sau khi phủ định cái bị phủ định, tiếp tục biến đổi và tạo ra
phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra
đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường n
lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Ví dụ như từ một con sâu bướm, cuốn tơ thành con nhộng, rồi con nhộng nở ra con
bướm.
Nội dung của quy luật phủ định của phủ định được thể hiện đầu tiên ở quá trình vận
động và phát triển của các sinh vật luôn hàm chứa sự kế thừa biện chứng. Kế thừa
có 2 loại bao gồm: kế thừa siêu hình là giữ lại nguyên si những đặc điểm, thuộc tính
mà bản thân sự vật có ở hai giai đoạn phát triển trước, không bỏ đi bất cứ yếu tố
nào; và kế thừa biện chứng là sự chọn lọc, giữ lại và cải tạo những đặc điểm, thuộc
tính còn thích hợp cho sự phát triển của sự vật, đồng thời bổ sung những yếu tố tích
cực mới làm cho sự vật phát triển ở trình độ cao hơn, tiến bộ hơn.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 45
45
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Thứ hai, quá trình vận động, phát triển của sự vật là một quá trình phủ định của phủ
định, nghĩa là phải trải qua nhiều lần phủ định. Sau 2 lần phủ định hoặc nhiều hơn 2
lần phủ định thì sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Một chu kì phát triển của
sự vật được hình thành, đồng thời mở ra 1 chu kì phát triển tiếp theo. Và khi cái
khẳng định cho ra phủ định lần 1, phủ định lần 2 và phủ định lần 3,... thì sự vật mới
ra đời thay thế cho sự vật cũ. Ví dụ như Hạt thóc – cây mạ - cây lúa: thì hạt thóc cho
ra đời cây mạ (là phủ định lần 1), tiếp đó cây mạ lại cho ra đời cây lúa (là phủ định
lần 2) và rồi cây lúa lại cho ra đời bông lúa (phủ định lần 3)...
Thứ ba, quá trình vận động, phát triển của các sự vật diễn ra theo đường xoáy ốc. Nó
không theo một đường thẳng tịnh tiến liên tục mà diễn ra quanh co, phức tạp. Quá
trình đó có sự tiến lên, có sự gián đoạn và thậm chí có những bước lùi tạm thời. Con
đường xoáy ốc thể hiện tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên của sự phát triển.
Cái mới ra đời dường như quy trở lại cái cũ ở trình độ cao hơn về vật chất.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng
duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự
phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong
sự vật, hiện tượng cũ, phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu
kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: " ..
phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến vả chính vì vậy mà có
một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của
lịch sử và của tư duy".
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định được thể hiện như
sau, thứ nhất, vì sự vật không phát triển theo 1 đường thẳng, mà theo đường xoáy
ốc, qua nhiều giai đoạn nên phải nắm được đặc trưng của từng giai đoạn để tác động
cho phù hợp. Thứ hai, tránh thái độ phụ định sạch trơn, phải biết kế thừa những ưu
điểm, tích cực của cái cũ để phát triển cái mới, lọc bỏ, cải tạo cái tiêu cực. Thứ ba,
khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, kìm hãm, sự phát triển của cái mới, cần phải biết
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 46
46
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
phát hiện cái mới, tích cực, tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Qua đây, có thể vận
dụng quy luật này của Việt Nam trong việc lựa chọn con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã
hội: quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật
dường như quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử xã hội loài
người tất yếu sẽ phủ đinh các chế độ tư hữu xây dựng chế độ công hữu, giải phóng
con người khỏi áp bức bất công… Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy
ốc, quá trình phát triển có bước quanh co phức tạp thậm chí có bước thụt lùi tam
thời nên khi Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ nhưng Đảng và Nhà
nước ta không do dự mà lựa chọn lại con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội... Hiện
nay Chủ Nghĩa Xã Hội hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ,
nhưng những
khó khăn đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của nhân loại tiến bộ sẽ
xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội…
Câu 14: Hãy phân tích khái niêm thực tiễn và vai trò của thực
tiễn
Bài làm
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật chất
có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội”. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng
vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Ví dụ như Trồng
lúa, nuôi gà, buôn bán thực phẩm…; Xây nhà, sửa ô tô, sửa xe máy, quét rác... Còn
phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý
luận nhận thức Mác – xít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung.
Thực tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử - tự nhiên và tính
mục đích. Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất – cảm tính. Đó là hoạt động mà
con người sử dụng công cụ lao động vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 47
47
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
thay đổi thế giới vật chất. Đó là hoạt động có thể cảm giác được, có thể quan sát trực
quan được. Thứ hai, thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội. Hoạt động
thực tiễn luôn diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể; bị quy định trục tiếp bởi
điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa lịch sử; nảy sinh do nhu cầu xã hội và hướng đến
cải biến xã hội. Thứ ba, là hoạt động có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ con người. Nếu như hoạt động của động vật là bản năng, tự phát, thụ động
để thích nghi với môi trường sống thì hoạt động thực tiễn của con người có tính mục
đích rõ ràng. Nó trực tiếp, chủ động, tích cực cải biến tự nhiên, xã hội để phục vụ
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau,
nhưng gồm những hình thức cơ bản sau: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn,
hoạt động trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo
ra của cải vật chất và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sựu tồn tại, phát triển của
bản thân mình. Lao động là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con
người; là hoạt động đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người,
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người nói riêng và xã hội loài người nói
chung. Ví dụ như từ thời nguyên thủy, con người lao động, biến đá thành công cụ
lao động sản xuất để phục vụ cuộc sống, biết sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, không
ăn tươi nuốt sống như động vật ăn thịt.
Hoạt động chính trị - xã hội (cải tạo xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực
hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã
hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng xã hội. Chẳng hạn như làm cách mạng, tiến
hành xây dựng nông thôn mới,…
Hoạt động thực nghiệm là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động được
tiến hành trong những điều kiện do con ngươi tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại
những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 48
48
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò
quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Ví dụ, hoạt động nghiên cứu, thí nghiệm của các n
khoa học để tìm ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vacxin phòng ngừa dịch
mới,...
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Trong đó hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai
hình thức kia. Ngược lại, hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học có tác
động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển.
Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Cụ thể: Thứ nhất, thực tiễn là cơ
sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu
trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và
phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới
buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình.
Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối
liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức,
giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Chẳng hạn, khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi chúng ta
sẽ biết rằng kính có thuộc tính dễ vỡ.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển
của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng
nhu cầu nâng cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác
quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác; tạo ra các công cụ, phương tiện
để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Thực tiễn luôn vận động,
phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Những tri
thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 49
49
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
theo. Ví dụ, công nghệ tiên tiến, thay đổi từng ngày từng giờ, đòi hỏi con người phải
luôn luôn trau dồi, tìm hiểu, bắt kịp với xu thế phát triển của công nghệ. Việc học
tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải những bài khó, học kiến thức mới nâng cao
hơn, mỗi khi giải quyết được những vấn đề đó, nhận thức của học sinh được tăng
lên.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thức
thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là
tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung,
phát triển và hoàn thiện nhận thức. dụ, qua 2 cuộc kháng chiến trường kì chống
Pháp và Mỹ, Bác Hồ đã chứng minh chân lí: Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Nhà thám hiểm Ma-gien-lăng đã đi vòng quanh thế giới, phát hiện ra Thái Bình
Dương và khẳng định Trái Đất có hình cầu, bác bỏ tư tưởng Trái Đất hình dẹt.
Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình
thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi
chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn: yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn nhận thức. Việc nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan,
duy ý chí, giáo điều, máy móc; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ
rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. (liên hệ với chính sách của
Đảng để phục vụ cuộc sống nhân dân)
Câu 15: Hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất
Bài làm
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 50
50
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định,
tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng, đó là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thứ con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Trong sản xuất con người
có quan hệ song trùng tức là quan hệ giữa con người với tự nhiên (lực lượng sản
xuất) và quan hệ giữa người với người (quan hệ sản xuất). Phương thức sản xuất là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất là tổng hợp những yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức
mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất.
Người lao động là con người, có sức mạnh, tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo nhất định sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao
động trong quá trình sản xuất của xã hội. Công cụ lao động là những phương tiện vật
chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến
đổi chúng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Tư liệu sản
xuất gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu
(là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản
xuất xã hội); quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất (là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc tổ chức và phân công lao động); quan hệ phân phối sản phẩm (là quan hệ
giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩ lao động xã hội). Cả ba mặt
đều có sự tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
giữ vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm phương
tiện vật chất chru yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình
sản xuất và phân phối sản phẩm.
Lưc lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ biện
chững giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chịu sự tác động của nhiều quy
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 51
51
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
luật xã hội, trong đó quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất” là quy luật phổ biến chung nhất. Lực lượng sản xuất và quan h
sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, có quan hệ biện chứng với nhau, trong
đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Đầu tiên, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Sự vận
động và phát triển của lực lượng sản xuất sẽ quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy, quan hệ
sản xuất luôn bị quy định bởi trình độ phát triẻn của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của
phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức. Ví dụ như trong xã hội nguyên thủy, với lực lượng sản xuất là
trình độ con người còn thấp, cùng với công cụ lao động thô sơ thì năng suất sản xuất
thấp từ đó sẽ hình thành quan hệ sản xuất như công hữu về tư liệu sản xuất, quản lý
công xã hay phân phối bình đẳng. Khi xã hội loài người ngày càng phát triển, con
người ngày càng phát triển về kĩ năng, tri thức, cùng với công cụ lao động cũng
ngày càng tiên tiến, từ đó năng suất lao động tăng cao. Như vậy thì quan hệ sản xuất
cùng thay đổi để phù hợp với lực lượng sản xuất, như là có thêm nhiều các hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất, có thể quản lý và phân phối sản phẩm theo khả năng lao
động của con người.
Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức
sản xuất mới xuất hiện. Chẳng hạn, trình độ con người thấp, công cụ thô sơ, quan hệ
sản xuất là công hữu về tư liệu sản xuất, chia đều cho mọi người, đó là sự thống nhất
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 52
52
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
giữa lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất, tạo ra phương thức công xã nguyên
thủy. Và dần dần, lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, con người biết
chế tạo những công cụ lao động bằng đồ đồng, đồ sắt, từ đó tạo ra nhiều của cải hơn,
từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng về quản lý và phân chỉa sản phẩm lao động, dẫn đến
sự phân chia giai cấp, và phát triển thêm nhiều hơn sự mâu thuẫn giữa các giai cấp,
từ đó công xã nguyên thủy đó tan rã và phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ra
đời.
Tiếp theo, quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Do
quan hệ sản xuất là hinh thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương đối
nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ sản
xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chững
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là sự phản ánh lực
lượng sản xuất nhưng chính nó là khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi
ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi
khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu
tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Sự phù hợp diễn ra trong sự vận động phát triển là một quá trình
thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu hướng phát triển của nền sản
xuất xã hội, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển đem lại năng xuất, chất lượng
cho sản xuất.
Sự tác động này sẽ diễn ra theo chiều hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuẩt. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành xiềng xích chính, kiềm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Ví dụ, trong một doanh nghiệp, nếu người quản lý có những
chính sách tổ chức sản xuất hiệu quả và đảm bảo được lợi ích của người lao động thì
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 53
53
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
điều đó sẽ kích thích người lao động có thể phát huy hết khả năng từ đó tăng năng
suất lao động, ổn định đời sống xã hội và ngược lại.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có
ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội. Để phát triển nền kinh tế, một mặt, phải
bắt đầu từ việc phát triển lực lượng sản xuất (trước hết là người lao động và công c
lao động); mặt khác, không ngừng cải tiến, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp
với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Đảng và nhà nước đã vận dụng sáng tạo quy
luật này: muốn phát triển đất nước thì trước hết phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; đồng thời phải cải tạo quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thể hiện trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều phần.
Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát
triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong công cuộc đổi mới kể từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX
(2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa
không đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây
dựng một quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực
lượng sản xuất vốn có. Vì vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng h
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản
xuất, năng lực sáng tạo, ch động, kích thích lợi ích… đối với các chủ thể lao động
trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục
đích “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 54
54
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và phân phối”
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố quan hệ sản xuất là phát
triển lực lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta
đã khẳng định: “về thực chất, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao”. Vấn đề then chốt của quá trình này là cải biến lao động thủ công thành
lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất
lao động xã hội cao. Song, đó không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ
và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình
chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng
bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn
và phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với
quá trình hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy phải thật sự lấy
phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát
triển giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của công cuộc đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh”.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 55
55
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Câu 16: Hãy phân tích khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
Bài làm
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hẹ xã hội, bao gồm quan hệ vật
chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa quan hệ vật
chất với quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ
bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Cơ sở hạ tầng là khái niệm để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội
trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định. Ví dụ như cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản, kinh tế nhà nước...) trong đó thành phần kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Kết cấu đó được xác lập trên cơ sở hệ thống ba loại hình
sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, sở hữu
tập thể của những người lao động, sở hữu tư nhân với nhiều hình thức cụ thể khác
nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn
hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: quan hệ sản suất thống trị (là quan hệ sản xuất
bao chùm xã hội, quyết định bản chất của cơ sở hạ tầng), quan hệ sản xuất tàn dư (
quan hệ sản xuất của xã hội cũ còn rơi rớt lại), quan hệ sản xuất mầm mống (là mầm
mống của phương thức sản xuất mới trong tương lai sẽ xuất hiện). Mỗi quan hệ sản
xuất có một vị trí, vai trò khác nhau; trong đó quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa vị
chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất
định. Chẳng hạn như trong mô hình kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã
hội trước) và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của tương lai). Kiến
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 56
56
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã
hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ
sở hạ tầng nhất định. Ví dụ như Việt Nam đang phát triển theo những quan điểm,
tưởng như Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh...
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những hình thái ý thức xã hội
(bao gồm quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
triết học...); cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể, các tổ chức xã hội...). Ví dụ, trong nhà nước Việt Nam hiện
nay, những hình thái ý thức tư tưởng Hồ Chí Minh, chính trị, pháp luật, đạo đức đều
do các thiết chế xã hội là Đảng và nhà nước đứng đầu và ban hành.
Trong số đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có dấu hiệu và quy luật tăng
trưởng riêng. Nhưng chúng đều liên lạc với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng,
phản ánh cơ sở hạ tầng, trong số đó nhà nước là tiêu chí có quyền lực mãnh liệt nhất.
Chủ đạo nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở nên tư tưởng
thống trị toàn xã hội.
Trong xã hội đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng bao gồm các hệ tư tưởng
các thiết chế của giai cấp thống trị (như chủ nô, địa chủ, tư sản...); các quan điểm và
tổ chức của giai cấp bị trị (như nô lệ, tá điền, công nhân...); những tàn dư của các
quan điểm xã hội đã lỗi thời; quan điểm của tầng lớp trung gian (như tri thức,...)
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy định
tính chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc
thượng tầng trong xã hội có giai cấp là nhà nước; công cụ vật chất cụ thể của giai
cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng
của giai cấp thống trị mới được truyền bá và thống trị được đời sống xã hội. Giai cấp
nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và các thể
chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã hội. Thời kỳ quá độ từ Chủ Nghĩa
Tư Bản lên Chủ Nghĩa Cộng Sản, những tàn dư tư tưởng của các giai cấp thống trị
bóc lột vẫn còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong kiến trúc thượng
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 57
57
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
tầng của các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng
xã hội chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, tính
giai cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ.
Câu 17: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng
Bài làm
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hẹ xã hội, bao gồm quan hệ vật
chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa quan hệ vật
chất với quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ
bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định, bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan
hệ sản xuất mầm mống. Còn kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm xã
hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với
những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v)
và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện
thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình
thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong
đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, nhưng kiến trúc thượng tầng có
tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 58
58
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Với chiều đầu tiên, cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng
tầng. Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy: Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc
thượng tầng, cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra
sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo
đức, triết học, v.v.. và các quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy
cũng như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Ví dụ,
những biến đổi trong kết cấu và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường các nước
tư bản chủ nghĩa ở đầu thế kỷ XX đòi hỏi phải có sự thay đổi chức năng của nhà
nước tư sản xuất hiện chức năng kinh tế của nhà nước đó so với trước đây (thế kỷ
XIX). Sự biến đổi đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, việc cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế xã
hội. Ngoài ra, khi cơ sở thượng tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng sớm hay
muộn cũng thay đổi theo. Ví dụ trong xã hội phong kiến, phù hợp với quan hệ sản
xuất phong kiến đã làm hình thành nên nhà nước phong kiến, pháp luật, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật phong kiến...Hay như cách mạng tư sản thành công, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập thì nhà nước, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo, triết học của xã hội tư bản chủ nghĩa được hình thành và phát triển...
Với chiều ngược lại, kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng, nhưng
kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng có vai trò bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sửo hạ tầng
đã sinh ra nó, ngăn chặn xóa bỏ những cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh loại bỏ cơ sở hạ
tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ
tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan
trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn, n
nước, pháp luật, tôn giáo, đạo đức, triết học, nghệ thuật của xã hội phong kiến sẽ bảo
vệ quan hệ sản xuất phong kiến: chế độ sở hữu, cách thức tổ chức, quản lý và phân
phối của giai cấp quý tộc, địa chủ. Tiếp theo, sự tác động của kiến trúc thượng tầng
đến cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 chiều: nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở
hạ tầng thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển; nếu kiến trúc thượng tầng không phù
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 59
59
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
hợp với cơ sở hạ tầng thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Như hệ thống pháp
luật rườm rà, không phù hợp sẽ kìm hãm nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, các yếu tố
khác nhau của kiến trúc thượng tầng có tác động đến cơ sở hạ tầng theo những cách
khác nhau. Nhà nước, đảng phái, pháp luật tác động trực tiếp, còn tôn giáo, đạo đức,
nghệ thuật... tác động gián tiếp tới cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn, cải cách tôn giáo Tin
lành của Cavan và Luther thế kỷ XVI – XVII đã thúc đẩy cho nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa phát triển, hay như nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ do sự nở rộ của chủ
nghĩa thực dụng Mỹ cùng với triết học khai sáng Pháp.
Về ý nghĩa của quy luật đối với đời sống xã hội, thứ nhất, quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là sơ sở lý luận khoa học để
nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế vè chính trị. Kinh tế và chính trị có
quan hệ biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, con chính trị tác động trở
lại to lớn đối với kinh tế. Thứ hai, trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc
tuyệt đối hóa một yếu tố nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hóa
kinh tế là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường. Tuyệt đối hóa chính trị dẫn đến
duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Thứ ba, trong thời kì đối mới đất nước, Đảng Cộng
Sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới
kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng, vững chắc;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vừng định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Liên hệ với tình hình xã hội Việt Nam ngày nay, Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở
nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản
xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về
vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết, bổ sung với nhau.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 60
60
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Về kiến trúc thượng tầng, đất nước ta đang từng bước hoàn thiện và phát triển: về
chính trị, về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho
đường lối phát triển; giữ vừng vai trò lãnh đạo của Đảng; xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; Cải tiến, hoàn thiện hệ thống pháp luật; Hướng tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học... vào mục tiêu phát triển kinh tế; xây dựng nền đạo đức mới
hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Câu 18: Tại sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội
là một quá trình ý thức xã hội
Bài làm
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó
có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân
tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản
xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 61
61
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội,
C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một
quá trình lịch sử – tự nhiên”. Nguyên nhân của sự phát triển của những hình thái
kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tư nhiên vì:
Thứ nhất, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của
con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản
thân cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,… Trong đó quan trọng và cơ bản nhất
là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân
loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội suy đến cùng, xét đến
cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất của xã hội.
Thứ ba, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự
phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ
quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật
khách quan
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất
toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình
thái kinh tế – xã hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến,
nh thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái
kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều
kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 62
62
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết một cách
khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế
xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình
thái kinh tế – xã hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất định
lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào nước ta có lúc đã mắc phải
những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ công
nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành phần kinh tế
tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp v.v…
Câu 19: Hãy phân tích tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Bài làm
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối
quan hệ biện chứng; rằng, các hình thái ý thức xã hội không phải là những yếu tố thụ
động; trái lại, mỗi hinh thái ý thức xã hội đều có sự tác động trở lại tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau. Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên
và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những
mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức xã hội. dụ, thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm,
dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến
lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời
kì này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét,
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 63
63
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng
của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú.
Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm, một là, các yếu tố thuộc về điều
kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo
nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội. Hai là, các yếu
tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, môhình tổ chức
dân cư,... Ba là, phương thức sản xuất cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Ví dụ, phương thức kỹ thuật
canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền
thống của người Việt Nam.
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau
tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào
sẽ quyết định sự tác động của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát
triển dân số như thế ấy. Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa,
nhiều sông ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là
thích hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành được phương thức đó, người
Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ mặt tinh thần của đời sông xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh xã hội. Ý thức xã hội bao gồm toàn bộ đời sống tư tưởng
và tâm lý xã hội, được biểu hiện phong phú trong sinh hoạt hoặc tư tưởng, văn hóa,
tập quán,... của mỗi cộng đồng xã hội. Ví dụ, dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu
nước, nhân đạo nhân nghĩa; truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời
khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong
nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Chúng ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý
thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức của
các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau. Do đó, nó
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 64
64
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã
hội, một thời đại xã hội nhất định. Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần,
những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những
phương thức khác nhau. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ
hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là
phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Những hệ tư
tưởng xã hội không nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự biểu hiện
trực tiếp của tâm lý xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận ý thức xã hội phả ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, tự
phát, được cấu thành từ các yếu tố tình cảm, khát vọng, ý chí,...của các cộng đồng
người nhất định. Ví dụ như tâm lý xã hội trong thời gian dịch bệnh Covid – 19 là
luôn lo lắng, cẩn thận, có ý thức phòng tránh dịch bệnh; hay là cảm xúc vui sướng,
tự hào, phấn khởi khi đất nước được thống nhất.
Tư tưởng xã hội là bộ phận ý thức xã hội phản ánh một cách tự giác, gián tiếp:
chúng tồn tại dưới hình thức là những quan niệm, quan điểm mang tinh chất phổ
biến, khái quát của một cộng đồng người. Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng,
quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội, được
hình thành một cách tự giác. Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng
có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. Chẳng hạn n
Chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản, cộng sản,....
Ý thức xã hội bao gồm các hình thức sau: ý thức chính trị; ý thức pháp quyền; ý thức
đạo đức; ý thức thẩm mĩ; ý thức tôn giáo; ý thức khoa học; ý thức triết học. Trong xã
hội có giai cấp xã hội có tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội thể hiện cả
trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp có
tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai cấp thể hiện
sâu sắc hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các quan điểm chính trị, đạo đức,
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 65
65
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
pháp luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Ví dụ, các quan điểm chính trị, pháp
luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị thường đối lập nhau. Tư tưởng của
thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó. Ý
thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác động lẫn nhau.
Câu 20: Hãy phân tích mối quan hệ biện chững giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội
Bài làm
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối
quan hệ biện chứng; rằng, các hình thái ý thức xã hội không phải là những yếu tố thụ
động; trái lại, mỗi hinh thái ý thức xã hội đều có sự tác động trở lại tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau. Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên
và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những
mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức xã hội. dụ, thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm,
dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến
lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời
kì này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét,
xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng
của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú.
Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm, một là, các yếu tố thuộc về điều
kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo
nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội. Hai là, các yếu
tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, môhình tổ chức
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 66
66
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
dân cư,... Ba là, phương thức sản xuất cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Ví dụ, phương thức kỹ thuật
canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền
thống của người Việt Nam.
Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ mặt tinh thần của đời sông xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh xã hội. Ý thức xã hội bao gồm toàn bộ đời sống tư tưởng
và tâm lý xã hội, được biểu hiện phong phú trong sinh hoạt hoặc tư tưởng, văn hóa,
tập quán,... của mỗi cộng đồng xã hội. Ví dụ, dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu
nước, nhân đạo nhân nghĩa; truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời
khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong
nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là
phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Tâm lý xã hội là
bộ phận ý thức xã hội phả ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, tự phát, được cấu
thành từ các yếu tố tình cảm, khát vọng, ý chí,...của các cộng đồng người nhất định.
Tư tưởng xã hội là bộ phận ý thức xã hội phản ánh một cách tự giác, gián tiếp:
chúng tồn tại dưới hình thức là những quan niệm, quan điểm mang tinh chất phổ
biến, khái quát của một cộng đồng người. Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng,
quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội, được
hình thành một cách tự giác. Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng
có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp.
Ý thức xã hội bao gồm các hình thức sau: ý thức chính trị; ý thức pháp quyền; ý thức
đạo đức; ý thức thẩm mĩ; ý thức tôn giáo; ý thức khoa học; ý thức triết học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt của
vật chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại
của họ, mà ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ" và khẳng định "ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội". Sự phản ánh đó là quá trình biện chứng phức
tạp, là kết quả của mối liên hệ tích cực giữa con người với thực tiễn.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 67
67
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Đầu tiên, tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
Một là, tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy
định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản
ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ
không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó, mà phải giải
thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện
có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ xã hội. Ví dụ, những người
dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền văn hóa sông nước và
kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được từ sông nước.
Hai là, tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi
khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý
luận xã hội cũng dần biến đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau,
nếu có những quan điểm, tư tưởng, học thuyết xã hội khác nhau về cùng một vấn đề
thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất của các thời kỳ lịch sử
khác nhau quy định. Ví dụ, trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản
xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên
chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã
nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giầu nghèo, bóc lột và bị
bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột,
chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện.
Ba là, tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình
thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của
thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được
phản ánh trong các tư tưởng ấy. Ví dụ, trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng
sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái công lý, không phù hợp với lý tính con người
phải được thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 68
68
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
tư bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng
phê phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản.
Tiếp theo, tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội.
Một là, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với
tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của
thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội
v.v… tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu;
do lợi ích nên không chịu thay đổi. Ví dụ, một số hủ tục lạc hậu: chữa bệnh bằng
bùa chú, người Mông phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai táng.
Tiếp theo, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý
thức, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật
có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất
định. Đó cũng là vai trò to lớn của những tư tưởng tiên tiến, khoa học; tuy nhiên, sự
vượt trước này cũng có khả năng là ảo tưởng. Chẳng hạn, Chủ nghĩa Mác Lênin là
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra
đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ
rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản
nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội. Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí
lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội hoàn
toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực,
vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 69
69
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Bên cạnh đó, ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại
được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế
thừa có tính tất yếu khách quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan
điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát
triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước được kế thừa trong ý thức xã hội mới,
thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. Ví dụ, chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa
tinh hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ
điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở
Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn
của tư tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và
suy tàn của nền kinh tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình độ kinh tế
kém phát triển, nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. VD: Nước Pháp thế kỷ
XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn
nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn
về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Ngoài ra, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng
tới tồn tại xã hội. Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi
phối các hình thái ý thức xã hội khác. Ví dụ, ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật
đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng
mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo
đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng
vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Hai là, sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện
quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Đó là
sự tác động nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này thể hiện
mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức xã hội vào
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 70
70
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả năng hiện thực hoá ý thức
xã hội của giai cấp và đảng phái. Ví dụ, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển
của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan
điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức
XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động
ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
Như vậy, ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội
và tồn tại xã hội được thể hiện như sau. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai
phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội.Vì vậy công cuộc cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã
hội và ý thức xã hội. Tiếp theo, cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều
kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất
yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại,
những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Cần thấy rằng chỉ có
thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập,
phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hộinhập
quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong quá trình
điều chỉnh theo cơ chế thị trường, dễ dẫn đến cuộc cạnh tranh, ganh đua làm giàu
bằng mọi thủ đoạn, làm phá vỡ những giá trị văn hóa. Ví dụ, toàn cầu hoá kinh tế tạo
ra lối sống hưởng thụ, xa hoa, lãng phí và cũng hình thành nên tâm lí sính ngoại của
người dân. Bên cạnh đó, vấn đề chính trị, tôn giáo còn nhiều bất cập, xuất hiện cả
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 71
71
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
những hệ tư tưởng lệch lạc. Ví dụ như tình trạng tham gia biểu tình, chống đối gây
bất ổn chính trị trong nước. Để xây dựng ý thức xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 chúng ta cần: Đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời
sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới. Không ngừng hoàn thiện ý thức xã
hội mới theo hướng khoa học, cách mạng,tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội
mới, con người mới. Bên cạnh đó phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục,
phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên
truyền, giáo dục ý thức xã hội mới. Không chỉ vậy ta phải tập trung phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động,tự giác của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc
văn hoá dân tộc, kế thừa vàphát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng
tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền
văn hoá Việt Nam.
Câu 21: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của nhà
nước
Bài làm
Về vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, nó chỉ ra
đời và tồn tại trong một giai đọan nhất định của sự phát triển xã hội. Nhà nước sẽ tự
tiêu vong khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sự ra đời và tồn
tại của nhà nước chính là sự xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 72
72
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Tổ
chức đầu tiên của xã hội loài người, phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém lúc
bấy giờ là chế độ thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc trưởng,
hội đồng các tộc trưởng; những người và những cơ quan này do nhân dân bầu ra, họ
chịu trách nhiệm trước nhân dân, coi sóc các công việc chung và có thể bị bãi miễn
nếu không còn sự tín nhiệm trong nhân dân. Những tộc trưởng và hội đồng các tộc
trưởng điều chỉnh các quan hệ xã hội duy trì các quy tắc đời sống xã hội và điều
khiển các công việc của công xã dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội và uy tín của
họ đối với xã hội. Trong tay họ không có và không cần có một công cụ cưỡng bức
đặc biệt nào. Quyền hành và chức năng của cơ quan đứng đầu thị tộc và bộ lạc
không mang tính chất chính trị, mang tính tự quản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vào thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy đã dẫn
tới chế độ tư hữu xuất hiện, và xã hội bắt đầu phân chia thành những giai cấp đối
kháng: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ; quan hệ người áp bức người thay thế quan
hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị
bóc lột ngày càng sâu sắc và không thể điều hòa được. Để bảo vệ địa vị thống trị của
mình, để duy trì ách áp bức bóc lột đối với những người nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập
ra bộ máy bạo lực, trấn áp buộc giai cấp nô lệ phải phục tùng tuân theo những trật tự
do mình đặt ra, bộ máy đó là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà
nước không phải là cơ quan để điều hòa mâu thuẫn giai cấp; mà ngựơc lại, nhà nước
ra đời chính là do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc không thể điều hòa được. Ở
đâu, lúc nào mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của một ai hay của
một giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu khách quan để
“khống chế những đối kháng giai cấp”, để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, làm cho
sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự ”; trật tự ấy hoàn toàn cần thiết để
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 73
73
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước - “đó là
sự kiến lập một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng
cách làm dịu xung đột giai cấp ”. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn
nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không
còn nữa.
Về vấn đề bản chất của nhà nước. Nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này
đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đó là nền chuyên chính của giai cấp
nắm quyền thống trị về kinh tế trong xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng
qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác” . Nhà nước
chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá
và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử
dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích
của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước
của giai cấp bóc lột. Không có nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên dùng để trấn
áp, thì giai cấp thống trị không thể duy trì ách áp bức bóc lột của nó đối với giai cấp
bị thống trị. Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp
khác, nhà nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích
chung cho các giai cấp trong xã hội.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. N
nước xã hội chủ nghĩa cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên
chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà nước”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trên cơ sở nguyên tắc công hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu và lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm của nhân dân lao động nhằm
thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội không còn áp bức bóc lột, không
còn giai cấp.
Như vậy, bản chất của nhà nước được thể hiện trong các đặc trưng và chức năng của
nó.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 74
74
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Về những đặc trưng cơ bản của nhà nước. Các nhà nước trong lịch sử có sự khác
nhau về bản chất, nhưng tất cả các nhà nước đều có những đặc trưng (dấu hiệu) cơ
bản chung. Những đặc trưng này để phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị –
xã hội, với tổ chức thị tộc nguyên thủy trước kia. Hiện nay có nhiều quan niệm khác
nhau về những đặc trưng chủ yếu của nhà nước, nhưng về cơ bản có hai luồng quan
điểm cơ bản sau.
Quan niệm thứ nhất có tính truyền thống thể hiện trong các giáo trình Lý luận nhà
nước và pháp luật nêu rõ nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt với bộ máy
thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội. Khi xuất hiện nhà nước đã lập nên
quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, không còn hoà
nhập với dân cư nữa. Không những thế, nhà nước còn có bộ máy cưỡng chế gắn liền
vớiquân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam và những cơ quan cưỡng chế khác. Đây là
những cơ quan mà không tồn tại trong chế độ thị tộc nguyên thủy cũng như trong
các tổ chức khác. Bản chất của quyền lực chính trị của nhà nước thuộc về một thiểu
số giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, bộ máy nhà nước đã được
hoàn thiện để thực hiện quản lý xã hội.
Thứ hai, Nhà nước có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư theo theo các đơn vị
hành chính lãnh thổ (dấu hiện dân cư và lãnh thổ). Phạm vi thực hiện quyền lực của
nhà nước là trên toàn bộ lãnh thổ nhà nước. Nhà nước quản lý dân cư theo các đơn
vị hành chính, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị, giới tính, huyết thống, nghề
nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước. Mối quan
hệ giữa người dân với nhà nước được thể hiện rõ nhất thông qua chế định quốc tịch,
một chế định xác lập sự phụ thuộc của công dân vào một nhà nước nhất định và
tương ứng, nhà nước cũng phải có những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của
mình. Việc quản lý dân cư theo lãnh thổ ở đây không giản đơn chỉ áp dụng đối với
người mang quốc tịch nước sở tại mà cả với người nước ngoài, cho dù quy chế pháp
lý của người nước ngoài hạn chế và khác với công dân nước sở tại.
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 75
75
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
Thứ ba, Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của
nhà nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Hay nói cách khác, chủ quyền quốc gia
là quyền tự quyết của quốc gia đó về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Nhà nước là
người đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối
ngoại. Chủ quyền quốc gia thể hiện tính độc lập và không phụ thuộc của nhà nước
trong việc giải quyết các công việc đối nội và đối ngoại của mình. Khái niệm chủ
quyền quốc gia cũng chỉ là khái niệm tương đối. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia không đồng nhất với đóng cửa
không giao lưu với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác. Ngược lại, việc tham gia
hợp tác quốc tế cũng không có nghĩa là đánh mất chủ quyền quốc gia. Nhà nước
cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn tại trong sự tách rời, biệt lập
với các quốc gia khác. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay cho thấy nhà nước nào cũng
tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế và cùng chia sẻ lợi ích, cùng
gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. dụ: Việt Nam đang tham gia các tổ chức
quốc tế như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO, IMF, UN, UNCTAD, UNESCO, WFTU,
WHO, WIPO, WMO, APEC, ASEM…; Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi sự
chung sức của nhiều quốc gia: AIDS, Cúm gia cầm H5N1, Nạn khủng bố, môi
trường…
Thứ tư, Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và đảm bảo sự
thực hiện pháp luật. Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội. Chỉ có nhà
nước mới có quyền ban hành pháp luật và quản lý dân cư, các hoạt động xã hội bằng
pháp luật. Pháp luật có tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước
với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước và
những điều kiện khách quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy và với các t
chức phi nhà nước không có đặc trưng này..
Thứ năm, Nhà nước có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
Nhà nước nào cũng có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
Thuế được sử dụng để nuôi sống bộ máy nhà nước, thực hiện các hoạt động chung
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 76
76
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
của toàn xã hội. Mục đích cơ bản của việc thu thuế là để nuôi sống một bộ máy nhà
nước, những cán bộ công chức, những người không trực tiếp làm ra của cải vật chất
cho xã hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức khác không phải là nhà
nước không có đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học thu quĩ lớp để phục vụ cho
công việc của lớp; Đoàn thanh niên thu đoàn phí để tri trả cho hoạt động Đoàn; Câu
lạc bộ bóng đá thu tiền để tri trả cho hoạt động chung…đó không phải là thu thuế.
Từ vấn đề bộ máy nhà nước, dân cư và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thực chất đều
do pháp luật và đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy, đây là những vấn đề quan trọng,
cần thiết và đều là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên mục đích của việc
đưa ra 5 đặc trưng cuối cùng là để chỉ ra những đặc điểm riêng của nhà nước mà các
tổ chức, đơn vị phi nhà nước không có được.
Quan niệm thứ hai về ba đặc trưng cấu thành nhà nước:
Từ đầu thế kỷ XX, một học giả người Đức có tên là Georg Jellinek đã đưa ra luận
thuyết ba yếu tố (Drei-Elemente-Lehre) trong đó khẳng định một nhà nước có ba
điều kiện cấu thành bao gồm dân cư (Staatsvolk), lãnh thổ (Staatsgebiet) và chủ
quyền (Staatsgewalt).68 Đây cũng là ba đặc trưng riêng có của nhà nước để phân
biệt với các tổ chức khác.
Luận thuyết ba yếu tố của Georg Jellinek được nhắc đến rất nhiều trong các công
trình khoa học về nhà nước. Nhiều cuốn từ điển luật học nổi tiếng trên thế giới cũng
dựa trên luận thuyết này để đưa ra khái niệm nhà nước. Chẳng hạn, theo Từ điển luật
học) ở Đức của tác giả Creifelds, nhà nước được hiểu là “một cộng đồng của các các
cá nhân trong một tổ chức chính trị của mình, tổ chức ấy bao gồm lãnh thổ (ein
Staatsgebiet), dân cư (ein Staatsvolk) và hệ thống chính quyền có chủ quyền (eine
Staatsgewalt).”69 Tương tự, theo Từ điển lịch sử pháp luật Châu Âu của tác giả
Koebler, nhà nước là một tổ chức thỏa mãn ba điều kiện dân cư, lãnh thổ và quyền
lực. Nhà nước trước hết phải có dân cư, bao gồm những người có cùng chung một
quốc tịch. Ngoài ra, nhà nước nào cũng có một lãnh thổ giới hạn, trong đó dân cư
sinh sống và tổ chức quyền lực. Bên cạnh đó, nhà nước phải có chủ quyền, chủ
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 77
77
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
quyền ấy thể hiện ở việc quản lý của nhà nước đối với dân cư theo lãnh thổ, thể hiện
ởquyền tự quyết của nhà nước đó trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Nhà nước
có thể được gọi tắt, thông qua những đại diện như các cơ quan nhà nước, nhân viên
nhà nước hoặc các tổ chức. Nhà nước theo nghĩa là pháp nhân của luật công như ở
Đức hiện nay bao gồm liên bang và tiểu bang. Tùy cách giải thích về chính trị mà
nhà nước có thể được giải thích thành nhà nước cảnh sát, nhà nước pháp quyền, nhà
nước xã hội, Nhà nước phúc lợi chung.
Câu 22: Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin
(Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về bản
chất con người)
Bài làm
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Con người được thể hiện qua hai
bản tính: tự nhiên và xã hội.
Về bản tính tự nhiên của con người: thứ nhất, con người là kết quả của quá trình tiến
hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được
chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên,
đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Thứ hai, con người là
một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của
con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự
nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã
hội loài người; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người tác động trở lại
môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng
giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Ví dụ,
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 78
78
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
vùng ven sông có điều kiện tự nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn thức ăn, nguồn nước
đầy đủ nên con người tập trung sinh sống tại đây, khai thác các nguồn tài nguyên và
nguồn lợi từ sông nước mang lại. Nhưng trong quá trình đó, con người sản xuất, khi
khai thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn kiệt, xói mòn, sạt lở, xuống cấp, ô
nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó
mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong
mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc
gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện
khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
Về bản tính xã hội của con người: thứ nhất, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành,
loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất là nhân tố lao động. Nhờ lao động mà
con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Ví dụ, người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống trong các hang đá nguyên thủy và hoang dã
như các loài động vật. Qua lao động, con người biết chế tạo và sử dụng các công cụ
lao động, sử dụng lửa,… để chinh phục thiên nhiên. Thứ hai, xét từ giác độ tồn tại
và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội
và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương
ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã
hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực
thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. Ví dụ, xã
hội phong kiến buộc con người sống trong khuôn khổ, luật lệ, giáo điều với những
tư tưởng khắt khe, nhưng khi con người được giải phóng, bước sang chế độ XHCN
thì con người văn minh hơn, tân tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy
định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế,
nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 79
79
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định
cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Bản chất
của con người được thể hiện ở hai mặt. Đầu tiên, con người là một thực thể thống
nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự nhiên
là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả
của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc trưng quy
định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật,
như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính
hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ
vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa
nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một
cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao
động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý
thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt
đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Thông qua hoạt động sản xuất vật
chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản
thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". Ví dụ, người
nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết trồng trọt, canh tác,
chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa động vật phục vụ cuộc
sống cá nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 80
80
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội
của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Chẳng hạn, nghề giáo viên định hình con người mô phạm, nghiêm túc, chỉn chu;
nghề cảnh sát, bộ đội hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn,… Là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với
nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi
trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành
và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát
vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội, cũng
như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội của con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó,
bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối
quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế;
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình. Ví dụ như Người sói, người vượn, người gà… Một người đàn ông ở quốc
đảo Fipji, bị cha mẹ nhốt vào chuồng gà trong một khoảng thời gian dài. Sau khi
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 81
81
Downloaded by
oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
trốn ra được thì người đàn ông này ảnh hưởng hầu hết những tập tính của gà như mổ
thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy…
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại
trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở
con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách
hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Thứ hai, con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản
phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải
được giáo dục". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở
nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh
thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do
con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật
xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở, tương
lOMoARcPSD| 40367505
P a
g e | 82
82
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)
ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội",
con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc
không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người. Ví dụ,
người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến quằn lưng lao động phục vụ cho
giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của những quan hệ xã hội trong xã hội phong
kiến nửa thực dân thối nát; còn người nông dân trong XHCN đã chủ động, tích cực,
dân chủ và văn minh hơn.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn
cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển
nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại
hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử,
hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy
luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối
quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội
loài người.
| 1/82

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 1
Câu 1: Vấn đề cơ bản của Triết học? Bài làm
Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các vấn đề
cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nên tảng và là điểm
xuất phát đề giải quyết tất cả những vấn đề còn lại – vấn đề về mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức. Đây cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph. Ăngghen đã trả
lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo ông: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết vấn đề
khác của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất,cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào giữ vai trò quyết định?
- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái
triết học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất (giới tự nhiên) là cái có
trước, ý thức có sau và vật chất quyết định ý thức được gọi là những nhà duy vật.
Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm là cái có trước vật chất và
quyết định vật chất được gọi là những nhà duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường
gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là quá trình đúc
kết khái quát những kinh nghiệm để vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã
đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến
bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thứ của các nhà triết học thời cổ đại, có lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 2
tính thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng lại đồng nhất vật chất với một hay
một số chất cụ thể của vật chất. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đưa ra những kết luận
mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác; tuy nhiên
những quan điểm này về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải
thích về thế giới, không viện đến các thần linh, thượng đế hay các lực lượng siêu
nhiên nào. Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp thời cổ, và
người đầu tiên diễn đạt được rõ rằng quan điểm đó là Héraclite: mọi vật đều tồn tại
nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng
thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trính xuấ hiện và biến đi”.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ 2 trong lịch sử chủ nghĩa duy
vật, thể hiện khá rõ ở cac nhà triết học thế kỷ XV – XVIII và điển hình là ở thế kỷ
XVII, XVIII. Chủ nghĩa duy vật thời kì này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương
pháp tư duy siêu hình, cơ giới – phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng
lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh
tại. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã góp phần không nhỏ vào việc đẩy lùi thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, đặc biệt là ở thời kì chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được
V.I. Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật thời kì này đã kế thừa những tinh hoa của
các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để những thành tựu khoa học
đương thời. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được
hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế
kỉ XVII, XVIII và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra,
chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản
thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hưu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong
xã hội cải tạo hiện thực ấy. lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 3
Ngược lại với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một
mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cung thương có mối liên hệ mật thiết với
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy tâm có hai trường phái: chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ
là phức hợp những cảm giác của cá nhân. Tiêu biểu là Gioócgiơ Béccli ông là nhà
triết học duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh. Triết học của ông chứa đầy tư
tưởng thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan
điểm của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm những
vật chất không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những vật thể cụ thể, riêng rẽ; sự
tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần túy mà thôi.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng lại coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con
người. Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái tên khác
nhau nhưu ý niệm, tinh thần, tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v... Tiêu biểu là Platôn là
một nhà triết học duy tâm và nổi bật trong hệ thống triết học của ông là “học thuyết
về ý niệm”. Trong học thuyết này, ông đã đưa ra quan điểm về hai thế giới: thế giới
các sự vật cảm biến là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không
nghững sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có gì là
bền vững, ổn định và hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới của đúng đắn, chân
thực sự cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người, thoe Platôn
không phải là phản ánh các sự vật cảm biến của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm.
Ngoài 2 trường phái triết học lớn ở trên, để giải quyết cho mặt thứ nhất của các vấn
đề cơ bản của triết học, các nhà triết học còn chia ra thành các học thuyết: học lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 4
thuyết nào chỉ thừa nhận một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là bản
nguyên (nguồn gốc) của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới được gọi là
nhất nguyên luận (nhân nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm)
Song, trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả 2
bản nguyên vật chất và tinh thần, xem vật chất và tinh thần là hai bản nguyên có thể
cùng quyết định sự vận động của thế giới thì gọi là trường phái nhị nguyên luận. Điển hình là Descartes.
Ngoài ra còn những nhà triết học cho rằng sự vận động của thế giới còn do sự tác
động của nhiều yếu tố khác bên cạnh vật chất và tinh thần được gọi là trường phái đa nguyên luận
Và đề trả lời cho câu hỏi của mặt thứ 2 “con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không?” tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật và duy tâm)
đều khẳng định: thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Thuyết
khả tri luận (thuyết có thể biết) là học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận
thức của con người. Thuyết khả tri về nguyên tắc con người có thể hiểu được bản
chất của sự vật. Nói cách khác, càm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý
thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp vs bản thân sự vật
Bên cạnh đó, thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết) là học thuyết triết học phủ
nhận khả năng nhận thức của con người. Các hình ảnh, tính chất, đặc điểm,... của
đối tượng mà các giác quan của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức,
cho phép con người đồng nhất chúng với đối tượng. Đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy.
Thuyết bất khả tri luận không tuyệt đối phủ nhận những thực tại siêu nhiên hay thực
tại được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý thức con người không thể
đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó vốn có, vì mọi thực tại tuyệt đối đều
nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới.
Thuyết hoài nghi luận ít nhiều liên quan đến Thuyết bất khả tri luận, những người
theo hoài nghi luận luôn nâng cao sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong viêc xem lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 5
xét tri thức đã đạt và cho rằng con người không thể đạt tới chân lí khách quan. Tuy
cực đoan về mặt nhận thức, nhưng hoài nghi luận thời Phục Hưng đã giữ vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng và quyền uy của Giáo hội Trung cổ.
Câu 2: Định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa của nó Bài Làm
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể và xem
chúng là khởi nguyên của vật chất, tức là đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ
thể. Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi
là không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời
cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê-mô-crít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỉ XVII- XVIII đồng nhất vật chất với khối
lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thế thêm bớt và giải
thích mọi hiện tượng của thế giới theo chuẩn mực thuần túy cơ học. Nói cách khác,
các nhà triết học thời kì cận đại đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể và tính chất của chúng.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm
đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất
của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Năm 1895, Wilhelm Conrad Rontgen
phát hiện tia X. Năm 1896, Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của
nguyên tố urani. Năm 1897, Joseph John Thomson phát hiện ra điện tử. Năm 1901,
Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến mà
thay đổi theo vận tốc của nguyên tử. Năm 1898-1902, nhà nữ vật lý Marie
Sklodowska cùng chồng là Pierre Curie đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh poloni
và radium. Và đến năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 6
tổng quát của Albert Einstein ra đời đã chứng minh: Không gian, thời gian, khối
lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Trước những phát hiện trên của khoa học tự nhiên, nhiều nhà khoa học và triết học
đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi
tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng nguyên tử không phải là phần tử
nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”. Do đó vật chất cũng có thể biến
mất; thế giới tồn tại không có quy luật; khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có
trước, cái còn lại duy nhất là chúng ta và cảm giác cùng tư duy của ta để tổ chức
những cảm giác đó. Theo đó, Ernst Mach phủ nhận tính hiện thực khách quan của
điện tử. Wilhelm Ostwald phủ nhận sự tồn tại thực tế của nguyên tử và phân tử. Còn
Henri Bergson thì định nghĩa: Vật chất là cái phi vật chất đang vận động. Đây chính
là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại mà như V.I. Lê-nin khẳng định. Tình hình
trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc,
siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy
tâm thắng thế. Để khắc phục cuộc khủng hoảng, Lê-nin đã tổng kết khoa học tự
nhiên, kế thừa quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ và đưa ra định nghĩa về vật chất.
Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khác quan, nghĩa là nó tồn tại bên ngoài ý thức,
không lệ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay
chưa nhận thức được. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất. Đưa ra
tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Trong đó, vật
chất và ý thức song song tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vật chất phải là cái
sinh ra và có trước. Nó xuất hiện từ khi chưa xuất hiện loài người và chưa có cái gọi
là ý thức. Con người có nhận thức được hay không thì vật chất vẫn tồn tại. Ví dụ
như thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ
thời gian phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 7
tồn tại một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người. Như vậy
để thấy rằng ý thức có mặt và vận động, phát triển sau đó. Qua đó vật chất mang đến
các chức năng, tác dụng cần thiết đối với con người. Đặc biệt là vẫn phản ánh thông
qua mắt nhìn, tay sờ,.. Nghĩa là thông qua các tiếp cận từ cảm giác và nhu cầu từ ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác
động lên giác quan của con người. Không phải mọi sự vật tác động lên giác quan
đều gây nên cảm giác, có những sự vật phải cần đến sự trợ giúp của những dụng cụ
tinh vi, hiện đại, thậm chí có những sự vật bằng dụng cụ hiện đại vẫn chưa nhận biết
được nó, nhưng trong trình hạn nó tồn tại khách quan thì chính là vật chất. Ví dụ
như con vi khuẩn có thể là nó đã xâm nhập vào cơ thể con người nhưng ta không hề
có cảm giác khi nó tiếp xúc vào ta, mà phải soi dưới kính hiển vi, ta mới có thể nhìn
thấy sự tồn tại của nó. Điều này hoàn toàn đối lập với ý thức- cái tồn tại không cảm giác được.
Thứ ba, cảm giác, tư duy và ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Chỉ có một thế
giới duy nhất là thế giới vật chất, còn ý thức chỉ là sự phản ánh lại thế giới vật chất,
là thuộc tính của vật chất. Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại
khách quan. Bằng các giác quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp
nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại
khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết. Giống như kiến thức của
nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới khách
quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
Ngày nay khi khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển
càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, cho
thấy định nghĩa vật chất của Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó chủ nghĩa duy
vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp
luận đúng đắn của khoa học hiện đại. Chính vì vậy, quan niệm vật chất của triết học
Mác Lê-nin một mang ý nghĩa sâu sắc. Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện
chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 8
Trước hết, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết
không thể biết, khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Tiếp đó là khắc
phục cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên, mở đường cho khoa học tự nhiên
phát triển, tiếp tục tìm kiếm các dạng thức mới của vật chất và cấu trúc vật chất.
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất
với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn
chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất. Cuối cùng, là cơ sở để xác định
vật chất trong xã hội, là nền tảng lý luận khoa học để phân tích một cách duy vật
biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nói cách khác định nghĩa vật
chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
Câu 3: Phân tích phương thức và hình thức tồn tại của vật chất Bài làm
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm.
Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không
khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen cũng như tổng kết những thành tựu
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 9
Phương thức tồn tại của vật chất tức là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật
chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là cách thức tồn
tại, đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất. Ph.Ănghen viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất –
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động
không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ
thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự
thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất. Ví dụ như sự di
chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế, sự giảm
sút trong học tập, giảm cân,…
Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô, trình
độ và tính chất hết sức khác nhau. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại
mình, Ph.Ănghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học,
vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không
gian của các vật thể. Ví dụ như di chuyển trên đường phố khi tham gia giao thông.
Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt,
điện,... Ví dụ, thanh sắt nóng sinh ra nhiệt. Vận động hóa học: sự biến đổi các chất
hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải. Ví dụ, quá trình tạo ra một phân
tử nước (2H2 + O2→2H2O). Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống,
biến thái cấu trúc gen, v.v… Ví dụ như sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v… của
đời sống xã hội. Ví dụ, xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa
có giai cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình
thành nhà nước. Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp
đến cao tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 10
nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với
nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của
mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó
bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn.
Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân
bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất
đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động. Đứng im là tương đối
vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra
với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động
chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im là tạm thời vì
đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất
định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn
diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận
động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn
bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật. Ví dụ, thời bao cấp, nền kinh tế
trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng chỉ là đứng im trong hình
thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay tiền tệ, chứng
khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất định
(1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến
đổi: nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên
của mặt này bù khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự
tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác
nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh
hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 11
thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Giống như việc dựa trên sự vận động
của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học: Hóa học, Vật lí học, Sinh học,…
Bên cạnh đó, dựa trên những thành tựu khoa học thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Mọi dạng cụ thể của vật chất
đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều
dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay
dưới, bên phải hay bên trái,…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn
tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể
hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,… Những hình
thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Tính chất của không gian và sự
biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và
ngược lại. Do đó, về thực chất không gian và thời gian là một thể thống nhất không
gian- thời gian. Vật chất có ba chiều không gian: chiều cao, chiều rộng, chiều dài và
một chiều thời gian: chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian của
một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn. Quan niệm đúng đắn của
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan
coi không gian và thời gian là hình thức trực quan tiên nghiệm, là sự sắp xếp các
cảm giác mà con người thu được theo một trình tự nhất định hoặc chỉ là là hệ thống
liên kết chặt chẽ của những chuỗi cảm giác do con người gây ra.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý
luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không
gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm trên đòi hỏi phải quán triệt
nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử- cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 12
Câu 4: Nguồn gốc của ý thức Bài làm
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức
cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có.
Tác động của ý thức đối với đời sống xã hội là vô cùng to lớn. Nó không những là
kim chỉ nam cho hoạt động của thực tiễn mà còn là động lực của thực tiễn. Sự thành
công hay thất bại của thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự
phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà
biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hóa và tư tưởng.
Theo triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết
học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong
não người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
Về nguồn gốc của ý thức, theo các quan niệm lịch sử, quan điểm chủ nghĩa duy tâm
khách quan cho rằng “Ý thức là thực thể tồn tại vĩnh viễn, là nguồn gốc sinh thành
các sự vật, hiện tượng”, còn theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan “Ý thức là do cảm
giác của con người sinh ra và cảm giác là sự phản ánh lại của cái vốn có trong tâm
trí của mỗi con người”
Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguồn gốc của ý thức được
biểu hiện qua nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc tự nhiên, ý
thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người.
Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới
hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt
động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não
càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng
phong phú và sâu sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác
động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có
ý thức. Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có
kiến thức về thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 13
con người dần phát triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người
hoàn thiện dần, ghi lại những kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người
phong phú, văn minh. Từ đó, con người làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của
mọi đối tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ
hình thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất. Ví dụ
như sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là ở kết quả cao trong các kì thi.
Có 4 trình độ phản ánh: phản ánh vật lý, phản ánh hóa học là hình thức phản ánh
thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lí, hóa học thể hiện qua
những biến đổi về cơ, lí, hóa, tức là, thay đổi về kết cấu, vị trí, tính chất lí hóa qua
quá trình kết hợp, phân giải các chất khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định
hướng, chưa có lựa chọn của vật nhận tác động (đinh gỉ sét khi để lâu ngoài trời),
(hiện tượng đóng băng của nước)
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh, tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh. Phản ánh sinh lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 14
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. (cây cối vươn lên để
đón lấy ánh sáng để quang hợp),
Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ là
có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện
đối với những tác động của môi trường sống. (khi chúng ta quan sát một bức tranh
và sau đó chúng ta có thể phản ánh lại hình ảnh của bức tranh đó trong trí óc)
Và trong đó phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là
hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người, là sự phản ánh năng động, sáng tạo
hiện thực khách quan bởi bộ não của con người. Ví dụ về sự phản ánh sáng tạo của ý
thức dựa trên thực tiễn như tác phẩm Tây Du Kí - 1 tác phẩm hư cấu với những nhân
vật hư cấu, tình tiết hư cấu nhưng được viết dựa trên một câu chuyện có thật về một
vị sự đã trải qua quãng đường cực kỳ dài, gian truân, vất vả để lấy cuốn kinh về
truyền dạy cho người trong quốc gia. Năm thầy trò là sự sáng tạo từ 5 tính cách có thật trong con người.
Về nguồn gốc xã hội, ý thức được biểu hiện qua hình thức lao động và ngôn ngữ của
con người. Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
thế giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu tồn tại và phát triển của
mình. Lao động giúp cho sự hình thành và phát triển ý thức. Lao động giúp hoàn
thiện thân thể, hoàn thiện các giác quan của con người làm cho ý thức hình thành và
phát triển. Và trong quá trình lao động, con người đã sử dụng công cụ lao động tác
động vào thế giới tự nhiên, khiến cho thế giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, kết
cấu, quy luật vận động của nó, từ đó làm hình thành nên tri thức cho con người.
Trong lao động, ngôn ngữ được hình thành, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ý thức.
Ví dụ như Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên
nhiên: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng
mười chưa cười đã tối. 14
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 15
Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) là những hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý
thức. Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan
hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên
ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Với tư cách là
công cụ để tư duy, con người sử dụng ngôn ngữu trong việc khái quát hóa, tổng kết
thực tiễn những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Với tự cách là phương tiện giao
tiếp, ngôn ngữ được sử dụng trao đổi thông tin, trao đổi tri thứcc từ người này qua
người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thông qua đó, ý thức được hình thành
và phát triển. Ví dụ con người đã sáng tạo ra ngôn ngữ và ghi chép lại trên các phiến
đá, thẻ tre hay bây giờ là ghi trên giấy để truyền lại cho các thế hệ ngày nay để tìm
tòi, nghiên cứu và phát triển.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, thực tiễn xã hội.
Câu 5: Bản chất và kết cấu của ý thức Bài làm
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không
còn y nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông
qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu,… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện
thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được
tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ - cái mà con người có
thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại
được. Ví dụ, mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới
có chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm 15 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 16
nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng
vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác
động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo
đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các
mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu.
Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới
khách quan. Ví dụ, con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng
động trong việc đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo
trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và
các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo
nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng
một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau -
theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
Ví dụ, ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã
hội phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự
phát triển của xã hội (Thời kì bao cấp con người khi trao đổi hàng hóa đều phải sử
dụng tem phiếu, còn sau khi Đổi mới thì người dân có thể tự do buôn bán, trao đổi hàng hóa với nhau).
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn: Một là trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể
với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là mô
hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách
thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần
phi vật chất. Ba là Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực
hoá tư tưởng. Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực 16
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 17
khách quan để thực hiện mục đích. Ví dụ, khi giải 1 bài toán ta làm theo các bước:
đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài → suy nghĩ cách làm, hình dung
đề bài theo ý hiểu của mình → tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả.
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó.
Các lớp cấu trúc của ý thức là: tri thức, tình cảm, ý chí và niềm tin.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn
ngữ. Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi
biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó
ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ vào
lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri
thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri
thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm
và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,… Ví dụ, các kiến thức về tự
nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…Các kiến thức về xã
hội: thể chế chính trị, giai cấp,…Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, lá lành đùm lá rách,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các mối quan hệ .
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh.
Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một
yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi
chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản
và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng. Tùy vào
từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các
quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình 17 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 18
cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,… Ví dụ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn
kết một lòng giúp nhân dân và quân đội Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Niềm tin bao gồm hai gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức kết hợp với tình cảm hình
thành nên. Để có niềm tin không phải có tri thức là đủ, mà còn cần phải có cảm xúc,
tức năng lực cảm nhận của thế giới nội tâm của con người. Xúc cảm phản ánh nhu
cầu tâm lý, thẩm mỹ, là hình thức phản ánh thế giới riêng có của con người có ý
thức. Sự tích hợp tri thức, xúc cảm tạo nên niềm tin cho chủ thể nhận thức.Tri thức
có cấp độ khác nhau, thể hiện trình độ của nhận thức; tình cảm cũng có cung bậc,
tùy thuộc độ thỏa mãn nhu cầu. Bên cạnh đó, niềm tin còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: thế giới quan, kết quả hoạt động thực tiễn, điều kiện kinh tế- xã hội,…song kết
cấu của nó luôn bao gồm hai yếu tố cơ bản là tri thức và tình cảm. Ví dụ, trong
những cuộc đấu tranh giành lại độc lập, dân tộc Việt Nam luôn có niềm tin về một
tương lai tươi sáng phía trước. Bỡi lẽ họ luôn có những hiểu biết, tri thức cơ bản về
tính chất của cuộc đấu tranh và họ có tình cảm là lòng nồng nàn yêu nước.
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Có thể coi ý chí là quyền lực của con người
đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích
một cách tự giác; cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán
trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí
không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý
nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những
yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại. Ví dụ, dù gặp vô vàn
thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến nhưng ý chí chiến
đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố 18
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 19
định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
Các cấp độ của ý thức có ba cấp độ. Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản
thân, hoạt động của tinh thần, ở đó diễn ra sự thay đổi và tranh luận nội tâm. Tự ý
thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội
khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng
của mình. Cấp độ tiếp theo là tiềm thức. Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã
có từ trước nhưng đã trở thành kỹ năng, kỹ xảo nằm trong tầng sâu ý thức của chủ
thể. Cuối cùng là vô thức. Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh
sự suy nghĩ, hành vi của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm hay sự
kiểm tra, tính toán của lý trí
Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (vận
dụng vào quá trình học tập và lao động) Bài làm
Theo Lênin vật chất “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất tồn tại bằng
cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có
vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất
vận động trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội. Bản chất
của ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn. 19 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 20
Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không
thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước, cái sinh ra và
quyết định sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có trước,
nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não
ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào
bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ
viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình
thành,tồn tại và phát triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội
dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức . -Tác động trở lại của ý
thức Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương
đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới
vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người . Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục
tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì
vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng
đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự
phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ
làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ
kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất
cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoăc tiêu diệt các quy ̣
luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa
trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất . Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 20
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 21
còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực
tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức
cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại
xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ
những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ
đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho
nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh
thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và
giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng
thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các
nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt
hiệu quả cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc
phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy
ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Là một sinh viên năm nhất, em thấy bản thân mình cần phải xác định rõ các nhân tố
vật chất như điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật khách quan. Trong học tập,
nếu em được tiếp xúc với những cơ sở vật chất, phương pháp dạy tốt chúng ta sẽ cố
gắng học tập tốt, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn. Cụ thể hơn, một tiết học Triết của một
giảng viên tâm huyết, truyền đạt bài thú vị, dễ hiểu sẽ khiến bản thân mình yêu môn
Triết và không sợ nó, thúc đẩy mình tìm hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng
viên môn Triết của mình thiếu tâm huyết, truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó
hiểu thì mình sẽ sinh ra tâm lý chán nản, không thích học môn Triết. Đó chính là vật
chất quyết định ý thức. Em đã vận dụng để nâng cao năng suất học tập của bản thân
bằng cách tạo ra những cơ sở vật chất tốt để thúc đẩy tinh thần học như : tìm kiếm
một phương pháp học tập phù hợp bản thân, trang trí sắp xếp góc học tập thật gọn
gàng,…Bên cạnh đó em còn đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động
theo các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như không 21 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 22
cúp tiết, tham gia đầy đủ các buổi học, làm theo giáo viên hướng dẫn,…Cuối cùng,
khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố
tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Trước đây khi em đăng kí
nguyện vọng vào các trường đại học. Việc quan trọng nhất mà em xét đến chính là
năng lực của bản thân và điều kiện tài chính của gia đình để sắp xếp nguyện vọng
một cách thông minh và hợp lí nhất. Tránh trường hợp ngành học không phù hợp với
bản thân về cả năng lực lẫn tài chính
Câu 7: Hãy phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến Bài làm
Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác lẫn nhau, qua đó thể hiện các
thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là những đối tượng thực
tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm tối tượng, các thuộc tính của nó thay đổi,
và một trong số trường hợp có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng
khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các
tương tác giữa nó có liên hệ với các đối tượng khác.
Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa hai đối tượng trong đó sự thay đổi
của đối tượng này nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi của đối tượng kia. Và mối liên hệ
là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng háy giữa các mặt của một sự vật hiện tượng. Ví dụ
như con người và cây xanh, cây xanh hấp thụ lượng khí CO2 và giải phóng khí ôxi
trong lành cần thiết cho con người. Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học
dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện tượng của thế giới. Trong
tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới; cây tơ
hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật siêu hình, nói rằng các sự vật, hiện tượng
trong thế giới tồn tại độc lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng 22
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 23
không có sự liên hệ ràng buộc, quy định, chuyển hóa lẫn nhau hoặc nếu có thì chỉ là
mối liên hệ mang tính ngẫu nhiên, bề ngoài.
Ngược lại, theo Chủ nghĩa duy vật biện chứng, họ cho rằng các sự vật, hiện tượng
trong thế giớ tồn tại trong sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, không
tách rời nhau. Cơ sở của mối liên hệ phố biến chính là tính thống nhất vật chất của
thế giới. Đây là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Về tính chất của các mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy vật khẳng định tính
khách quan của các mối liên hệ, tác động trong thế giới. Các mối liên hệ đều là tự
thân, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, hoàn toàn không bị lệ thuộc
và ý thức của con người mà hình thành. Minh chứng cho điều này, ta có thể thấy
rằng sự liên hệ giữa cây xanh và cơ thể sống của con người là sự liên hệ tự thân,
hoàn toàn không do sự tác động của ý thức con người; hay có những tình huống
“oan gia ngõ hẹp”, không hẹn mà gặp hoàn toàn không do ý thức của con người tác động lên.
Tính phổ biến của nguyên lý thể hiện ở chỗ mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển
hóa lẫn nhau khôgn những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã
hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi
sự vật, hiện tượng. Ví dụ trong buôn bán hàng hóa, dịch vụ thì giữa cung và cầu có
mối liên hệ với nhau. Giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình
tác động qua lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không
ngừng của cả cung và cầu. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về
mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu. Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ
biến. Khi chúng ta làm đề kiểm tra toán, lý, hóa, chúng ta phải vận dụng kiến thức
văn học để đánh giá đề thi.
Mối liên hệ phổ biến còn có tính đa dạng, phong phú. Các mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng, có thể chia thành nhiều loại; và trong điều kiện, hoàn cảnh khác 23 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 24
nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng khác nhau. Ví dụ như cô A vừa
là một người mẹ, người vợ khi ở nhà, là người giáo viên khi ở trường, là một Đảng viên khi ngoài xã hội...
Từ nội dung và các tính chất của mối liên hệ phổ biến, chúng ta có thể rút ra những
ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ này. Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem
xét sự vật hiện tượng: trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các
yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng. Trong mối liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các
mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. Trong không gian, thời gian nhất định,
nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ,
hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan
điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến
nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản chất của sự vật,
hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành
không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các
mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến). VD: Để đánh giá phẩm
chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó trong mọi MQH khác
nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự thay đổi của cả một quá
trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không đàng
hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có
cái nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên
hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự
vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận
động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Ví dụ: khi tham gia giao thông, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu,
cảnh sát giao thông phải cho ta đi; kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, 24
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 25
yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến
tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa thể ép
người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 8: Hãy phân tích nguyên lý về sự phát triển Bài làm
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau:
quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng. Quan điểm siêu hình xem sự phát
triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi
gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi
ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới
với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là
một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một
quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt,
đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay
trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất
quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm
biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật
lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về nguồn
gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự
phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy
định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng là
quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật. 25 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 26
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực,
quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng
để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Theo quan điểm này, phát triển không bao
quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận
động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ.
Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát
triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về
chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức
năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất
cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển
bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo quan điểm
duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó
là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận
động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. VD: Sự phát triển của xã
hội loài người: Công xã nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -
> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con người không thể quay về được dù có muốn hay không.
Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó
diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào
của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực
cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển,
mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản
ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển. Như xã hội loài người đã có ựu
phát triển qua các nền văn minh: nông nghiệp – công nghiệp – tri thức. Hay về tư
duy, năng lực nhận thức của con người về thế giưới tự nhiên ngày càng sâu sắc. 26
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 27
Sự phát triển còn mang tính kế thừa. Trong quá trình phát triển của sự vật, cái mới sẽ
ra đời thay thế cho cái cũ, trong đó cái mới không đoạn tuyệt hoàn toàn cái cũ mà sẽ
kế thừa những yếu tố tích cực, còn giá trị của cái cũ, đồng thời loại bỏ những yếu tố
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ. Nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thay đổi
từng ngày, du nhập thêm những nét văn hóa mới (như Haloween, valentine, noel,...)
nhưng vẫn giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc (như ca trù, quan họ,...)
Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát
triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự
vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật
còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện.
Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí
tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả,
những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém
phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa
hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ,
sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn
vào những nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng có thể có những giai
đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng xem xét toàn bộ quá
trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi khi 27 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 28
nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái
động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi
không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh
hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên
cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát
những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức
và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm
sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song
để thực hiện được chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn,
nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung
của các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan
duy ý chí ... dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn
khẳng định “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như
từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội”. Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan 28
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 29
điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như
tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những
căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở,
thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai”
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là
căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin
tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện
nay CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước XHCN.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các sự
vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy
được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự
phát triển vào thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, trong điều kiện CNXH
đã thoái trào và sụp đổ; CNĐQ và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các
nước XHCN còn lại thì quan điểm của Đảng CSVN là kiên quyết chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước
quanh co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tất yếu.
Qua những số liệu và đánh giá thực tế cho thấy được hiện tượng bạo lực học đường
ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Vậy nguyên nhân do đâu mà dẫn đến hiện 29 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 30
tượng bạo lực học đường trên? Bài viết xin Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân kết
quả vào cuộc sống về bạo lực học đường để giải đáp. Bạo lực học đường do một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất: Có thể thấy tình trạng bạo lực diễn ở môi trường học tập chủ yếu ở độ tuổi
12-17 tuổi. Đây là độ tuổi thay đổi tâm sinh lý của của học sinh – độ tuổi vô cùng
nhạy cảm. Bản thân các em chưa làm chủ được nhận thức và hành động của bản
thân mà dễ cáu gắt, bực tức và có những hành vi gây bạo lực học đường.
Thứ hai: Từ phía gia đình, cuộc sống ngày nay ngày càng đòi hỏi vật chất nên phụ
huynh bận rộn kiếm tiền, ít quan tâm đến con cái, thậm chí vù áp lực cuộc sống hay
trút giận lên chính đứa con của mình. Nhiều gia đình lục đục nên con cái chứng kiến và bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Từ nhà trường, nhiều trường học chỉ chú trọng đào tạo giáo dục mà ko để ý
giáo dục nhân cách, kĩ năng cư xử phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi có bạo lực
không có hướng giải quyết nên học sinh không sợ.
Thứ tư: Từ phía xã hội, sự ảnh hưởng do thời đại 4.0 internet phát triển mạnh mẽ và
không được kiểm duyệt. Văn hóa bạo lực trong các bộ phim ảnh, sách báo và các trò
chơi, game mang xu hướng bạo lực tràn lan trên mạng và không được kiểm duyệt
đàng hoàng dẫn đến những đối tượng ở độ tuổi vị thành niên này bị tò mò và tiếp
xúc nên có tâm lý bạo hành học đường ở ngoài đời.
Thứ năm: Do biến chất về mặt tâm lý, nhiều học sinh, giáo viên suy thoái đạo đức
nghề nghiệp, có những cách nhìn nhận méo mó, lệch lạc biến thái.
Kết quả là nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng với sự phức tạp. Các hành vi
đánh đập, bứt tóc, xô đẩy, dứt tóc, xé quần áo, đổ đồ ăn lên người, trấn lột cướp đồ
giữa học sinh với nhau hết sức phổ biến trong các trường. Không chỉ vậy mà học
sinh còn sử dụng những hành vi hoặc lời nói gây xúc phạm, gán ghép hoặc bôi nhọ,
sỉ nhục, chế nhạo hoặc bắt người khác làm theo ý mình. Hành vi này có thể ở giáo
viên đối với học sinh hoặc học sinh với nhau. Việc xâm phạm tình dục, có thể động
chạm những bộ phận nhạy cảm hoặc thậm chí có những hành vi cưỡng ép tình dục, 30
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 31
hiếp dâm, … gây rúng động dư luận thời gian qua cũng rất báo động và cần được xử lý nghiêm.
Có thể thấy mối quan hệ giữa nguyên nhân của bạo lực học đường dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc trên thực tế. Từ những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan
mà học sinh có các hành vi đánh đập, chế nhạo hoặc xâm phạm, xúc phạm,… bạn bè
thầy cô. Từ đó mà bỏ học, nghỉ học đuổi học kéo theo hệ lụy phía sau.
Câu 9: Hãy phân tích cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Rút
ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với học tập và cuộc sống Bài làm
Trong quá trình nhận thức con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối
tượng để nắm bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên
hệ giữa chúng cùng có ở tất cả chúng. Đó là vận động, không gian, thời gian, nhân
quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn,... Chúng
là những đặc trung của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến
của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm trù triết học. Như
vậy, phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là
những mô hình tư tưởng phản ảnh những thuộc tỉnh và mối liên hệ vốn có ở tất cả
các đối tượng hiện thực
Về cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ
một sự vật, hiện tượng nhất định. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các
mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự
vật, hiện tượng nào khác. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp
lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác nữa (người dân Việt Nam đều sửu dụng tiếng
nói và chữ viết Tiếng Việt). Còn cái đơn nhất là khái niệm dùng để chỉ những đặc 31 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 32
tính, tính chất chỉ tồn tại ở 1 sự vật hiện tượng mà không lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác.
Trong lịch sử triết học đã có hai xu hướng – duy thực và duy danh – đối lập nhau
giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực cho rằng,
cái chung tồn tại chân thật, cái riêng chỉ tồn tại lệ thuộc vào cái chung thôi. Còn các
nhà duy danh lại khẳng định, chỉ có cái riêng mới tồn tại chân thật, cái chung chỉ có
truong trí tưởng tượng của con người. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực,
song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số
(như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số khác
(Béccli) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ cái chung – cái riêng. Cả cái chung, cái
riêng và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan và chân thật. Cụ thể:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nó thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của nó. Điều đó có nghĩa là không có cái chung thuần túy, trừu tượng tồn
tại bên ngoài cái riêng. Ví dụ như thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận
động lại tồn tại dưới các hình thức riêng biệt như vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động xã hội, v.v...
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng
độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Các chế độ kinh tế - chính trị riêng biệt đều bị
chi phối với các quy luật chung của xã hội như quy luật sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Người nông dân Việt Nam ngoài đặc
điểm chung với những người nông dân khác trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ
tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của làng xã, có
tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại có những đặc điểm khác nhau. Cái chung sâu 32
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 33
sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. Sự chuyển hóa có thể diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất diến
thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái đơn
nhất làm cho sự vật dần dần mất đi. Ví dụ như một sáng kiến của một anh hùng lúc
đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở thành cái phổ biến; Khoán sản
phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở thành cái phổ biến; Vận
động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo thực hiện ở một
số ngành kinh tế - sau trở thành chung.
Như vậy, có thể rút ra được những ý nghĩa phương pháp luận như sau: Thứ nhất, để
nhận thức được cái chung thì cần phải xuất phát từ cái riêng, vì bản thân cái chung
trong mọi sự vật hiện tượng không phải là một và giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là
biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái
chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biết hóa
cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp. Thứ hai, trong nhận thức phải tìm ra
cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải vận dụng linh hoạt sự chuyển hóa giữa cái
chung và cái đơn nhất: cần tạo điều kiện cho cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung
và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất. Ví dụ, khi các nhà khoa học nghiên cứu
về quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người thì cũng cần thông qua việc
nghiên cứu nhiều xã hội qua từng thời kì cụ thể, qua đó thấy được những nét đặc
biệt có lợi để xã hội phát triển và kế thừa thành cái chung của loài người, và khắc
phục, bài trừ những điều không tốt và dần trở thành cái đơn nhất chỉ còn tồn tại ở
một vài nơi, ở một vài cá thể.
Từ việc nắm rõ được cặp phạm trù cái chung và cái riêng, bản thân em đã có thể vận
dụng vào trong việc quản lí các hoạt động của lớp, cụ thể, khi xem xét một phong
trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xe 33
m xét tinh thần thi đua đó ở từng tổ, từng Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 34
người sau đó liên hệ lại với nhau và từ đó rút ra được những quy định chung để phát
huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa những hạn chế còn tồn đọng.
Câu 10: Hãy phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.
Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ với học tập và cuộc sống Bài làm
Trong quá trình nhận thức con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối
tượng để nắm bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên
hệ giữa chúng cùng có ở tất cả chúng. Đó là vận động, không gian, thời gian, nhân
quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu thuẫn,... Chúng
là những đặc trung của các đối tượng vật chất, là những hình thức tồn tại phổ biến
của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm trù triết học. Như
vậy, phạm trù triết học là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là
những mô hình tư tưởng phản ảnh những thuộc tỉnh và mối liên hệ vốn có ở tất cả
các đối tượng hiện thực
Nhận thức về sự tác động, tương tác giữa các mặt, các yếu tố hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau như là nguyên nhân cuối cùng dẫn đến sự xuất hiện của các
mặt, các yếu tố, các sự vật, hiện tượng mới về chất, chính là khâu quyết định dẫn
đến việc phát hiện ra tính nhân quả như là yếu tố quan trọng của mối liên hệ phổ biến.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất dịnh nào đó. Còn kết quả là
phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa sự vật với nhau gây ra. Ví dụ như trời mưa là nguyên nhân,
sinh ra kết quả là đường trơn và ướt. 34
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 35
Nhận thức về nguyên nhân, kết quả như trên vừa giúp khắc phục được hạn chế coi
nguyên nhân của mỗi sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất định, nằm bên
ngoài sự vật, hiện tượng đó; vừa khắc phục được thiếu xót coi nguyên nhân cuối
cùng của dự vận động, chuyển hóa của toàn bộ thế giới vật chất nằm ngoài nó, trọng
lực lượng phi vật chất nào đó.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Tính khách quan được
thể hiện mối quan hệ này là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc và ý
thức của con người. Tính phổ biến ở chỗ mối liên hệ nhân quả xảy ra trong mọi sự
vật, hiện tượng, và trong mọi lĩnh vực và cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Và
tính tất yếu là cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau
sẽ gây ra kết quả như nhau.
Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ nhân quả không cứng nhắc, tĩnh tại.
Thứ nhất, Trong quá trình vận động, phát triển, nguyên nhân có thể chuyển hóa
thành kết quả, không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định và ngược
lại không có kết quả nào không có nguyên nhân (có nhân ắt sẽ có quả).
Thứ hai, nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết
quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ
trước sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả. Như câu
tục ngữ “Không có lửa làm sao có khói”; hay như cuộc đấu tranh giai cấp vô sản
mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có trước để dẫn đến cuộc
cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng có sau)
Thứ ba, trong hiện thực mối liên hệ nhân quả được biểu hiện rất phức tạp: một kết
quả có thể do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết
quả. Và trong đó, nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến
kết quả nhanh hơn. Ngược lại, nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm
cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Ví
dụ như trong công cuộc cách mạng của chúng ta thắng kợi, giải phóng miền nam
thống nhất đất nước là kết quả của nhiều nguyên nhân tạo thành như tinh thần quyết 35 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 36
chiến quyết thắng của nhân dân “dân tộc ta thà quyết hy sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ”, đường lối lãnh đạo sáng suốt và anh minh của
Đảng và nhà nước, cùng với đó là sự ủng hộ củ các nước, các dân tộc yêu chuộng
hòa bình trên toàn thế giới.
Thứ tư, giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau tùy theo từng
mối quan hệ. Trong thế giới, không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết
quả cuối cùng. Ví dụ như sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần,
nhưng tinh thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất
Từ những đặc điểm và tính chất ở trên, mối liên hệ nguyên nhân kết quả có những ý
nghĩa phương pháp luận như sau: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn
trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân quả. Muốn cho hiện tượng nào đó xuất
hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác
dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn
tại của nó. Ví dụ, để học tập tốt thì cần tạo điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau. Ví dụ, đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc
thực phẩm, nhiễm giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có
phương án điều trị phù hợp,... Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó,
trong hoạt động thực tiễn cần khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc
đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực. Ví dụ, học tập tốt thì đạt được kết
quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt nhiều kết quả cao hơn nữa – phấn
đấu học tập tốt hơn.
Câu 11: Hãy phân tích khái niệm lượng và chất Bài làm 36
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 37
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Trong lịch sử triết học đã xuất
hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng cũng như quan hệ giữa
chúng. Những quan điểm đó phụ thuộc, trước hết và chủ yếu vào thế giới quan và
phương pháp luận của các nhà triết học hay của các trường phái triết học.
Quy luật lượng - chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất
chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt
đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng - chất cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển,
khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có
bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự,
vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự
vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật,
hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Ví dụ như nước là
một dạng vật chất tồn tại ở chất lỏng, không màu, không mùi, không vị.
Chất có những đặc tính cơ bản. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính:
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chất của sự vật được tạo nên từ những thuộc
tính cơ bản của sự vật. Khi có những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật
cũng sẽ thay đổi theo. Ví dụ, đường được tạo nên từ những thuộc tính của nó như có
công thức hóa học là C12H22O11, tồn tại dưới dạng các tinh thể nhỏ, có vị ngọt và
tan trong nước; hay muối cũng có những thuộc tính như công thức hóa học là NaCl, dễ tan trong nước...
Thứ hai, mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có một chất mà còn có nhiều chất, tùy
thuộc vào mối quan hệ cụ thể của chứng. Chẳng hạn như sắt là một nguyên tố hóa 37 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 38
học có công thức là Fe, số hiệu nguyên tử là 26, thuộc nhóm VIIIB, chu kỳ 4. Hay
một bạn trẻ có thể sống ở nhiều vị trí khác nhau như là một sinh viên, là một người
con hay là một người bạn.
Thứ ba, chất của sự vật không những được quy định bởi những thuộc tính cấu thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các thuộc tính ấy. Ví dụ như chì và kim cương
đều được cấu tạo từ các phân tử Cacbon nhưng kim cương lại có cách liên kết khác với chì.
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựu vật, hiện
tượng về các phương diện: số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng. Ví dụ, lớp A có 50 sinh viên, gia đình bạn B có 4 người....
Lượng của sự vật có những đặc tính sau. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng tồn tại
nhiều loại lượng khác nhau. Chẳng hạn, một nguyên tử nước gồm hai nguyên tử
Hidro liên kết với một nguyên tử Oxi, thì lượng nguyên tử hidro và lượng nguyên tử
oxi là hai loại lượng tồn tại trong phân tử nước.
Thứ hai, lượng cũng được biểu thị bởi những đơn vị đo lường cụ thể với những con
số chính xác. Ví dụ một lớp 12A có 30 học sinh. Nhưng cũng có thể lượng được
biểu thị dưới dạng khái quát, và phải dùng đến khả năng trừu tượng để nhận thức. Ví
dụ như lượng trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người. Hay lượng
được biểu thị bởi những yếu tố bên ngoài như chiều cao, chiều dài của con người, sự
vật. Và lượng được biểu thị bởi yếu tố quy định kết cấu bên trong như số lượng
nguyên tử tồn tại trong một nguyên tố hóa học.
Câu 12: Hãy phân tích quy luật lượng và chất, rút ra ý nghĩa
phương pháp luận và liên hệ với bản thân em Bài làm 38
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 39
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Trong lịch sử triết học đã xuất
hiện nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất, lượng cũng như quan hệ giữa
chúng. Những quan điểm đó phụ thuộc, trước hết và chủ yếu vào thế giới quan và
phương pháp luận của các nhà triết học hay của các trường phái triết học.
Quy luật lượng - chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất
chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt
đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng - chất cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển,
khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có
bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự,
vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự
vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật,
hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Ví dụ như nước là
một dạng vật chất tồn tại ở chất lỏng, không màu, không mùi, không vị.
Chất có những đặc tính cơ bản. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính:
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chất của sự vật được tạo nên từ những thuộc
tính cơ bản của sự vật. Khi có những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật
cũng sẽ thay đổi theo. Thứ hai, mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có một chất mà còn
có nhiều chất, tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể của chứng. Thứ ba, chất của sự vật
không những được quy định bởi những thuộc tính cấu thành mà còn bởi phương
thức liên kết giữa các thuộc tính ấy.
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựu vật, hiện
tượng về các phương diện: số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và 39 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 40
phát triển của sự vật hiện tượng. Ví dụ, lớp A có 50 sinh viên, gia đình bạn B có 4 người....
Lượng của sự vật có những đặc tính sau. Thứ nhất, mỗi sự vật hiện tượng tồn tại
nhiều loại lượng khác nhau. Thứ hai, lượng cũng được biểu thị bởi những đơn vị đo
lường cụ thể với những con số chính xác. Nhưng cũng có thể lượng được biểu thị
dưới dạng khái quát, và phải dùng đến khả năng trừu tượng để nhận thức. Hay lượng
được biểu thị bởi những yếu tố bên ngoài như chiều cao, chiều dài của con người, sự
vật. Và lượng được biểu thị bởi yếu tố quy định kết cấu bên trong.
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện
tượng là một thể thống nhất giữa chất và lượng, chúng không ngừng vận động, tác
động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và
lượng thống nhất với nhau ở một độ; nhưng cũng trong phạm vi độ đó, chất và
lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần dần biến đổi. Ví dụ, sự
chuyển đổi từ thể lỏng sang thể rắn, thể khí của nước, nước ở 0 độ C chuyển từ thể
rắn sang thể lỏng, nước ở 100 độ C chuyển từ thể lỏng sang thể khí (hơi). Quá trình
vận động và phát triển ấy có liên quan đến các khái niệm sau:
Thứ nhất,“Độ” là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến
sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi
về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Độ
cũng thể hiện được sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật. Ví dụ, dưới 0 độ C,
từ 0 độ C đến 100 độ C, trên 100 độ C
Thứ hai, sự thay đổi về lượng của một sự vật vẫn tiếp tục diễn ra, khi tới điểm nút sẽ
dẫn đến ựu chuyển hóa về chất của sự vật. “Điểm nút” là khái niệm dùng để chỉ thời
điểm (điểm giới hạn) mà tại đó sự tích lũy về lượng đã đủ dẫn đến sự chuyển hóa
(thay đổi) về chất của sự vật. Ví dụ, 0 độ C, 100 độ C.
Thứ ba, “Bước nhảy” là khái niệm dùng để chỉ sự chuyển hóa về vật chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng trước đó gây nên. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển của sự vật và là sự khởi đầu cho một giai đoạn vận động, phát triển 40
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 41
mới của sự vật ấy. Bước nhảy có 4 hình thức: Bước nhảy đột biến là bước nhảy làm
thay đổi về chất của sự vật nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật (núi
lửa phun trào); Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất được diễn ra trong
một khoảng thời gian dài (tích lũy tư duy, phát triển kiến thức theo các cấp học từ
cấp 1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học...); Bước nhảy toàn bộ làm thay đổi căn bản về chất
của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật (Chiến thắng
mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn, đất nước bước sang thời kì mới); Bước nhảy
cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật của chất (Dù
xã hội đã hiện đại, bình đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay đổi,tồn tại tư tưởng
trọng nam khinh nữ,…). Ví dụ, từ rắn sang lỏng, từ lỏng sang khí (hơi).
Thứ tư, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, làm cho lượng của sự
vật tiếp tục thay đổi và sự thay đổi về lượng lại dẫn đến sự thay đổi về chất của sự
vật. Quá trình đó diễn ra liên tục, vì thế sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất
với lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở những điều sau. Những thay đổi dần về
lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất
mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng mới lại tiếp
tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó. Quá trình tác
động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục trong đứt đoạn,
đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi
lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Và từ đây, có những ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mối quan hệ biện chứng
giữa lượng và chất như sau:
Thứ nhất, quy luật lượng và chất giúp nhận thức được sự phát triển của sự vật, hiện
tượng baogiờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng. Vì vậy, phải biết từng
bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. 41 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 42
Thứ hai, khắc phục tư tưởng vội vàng, nôn nóng cũng như tư tưởng bảo thủ, trì trệ
(vội vàng thực hiện bước nhảy khi chưa tích lũy đủ về lượng hoặc không dám thực
hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng).
Thứ ba, khi đã tích lũy đủ về lượng thì phải quyết tâm thực hiện bước nhảy, kịp thời
sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất.
Thứ tư, trong hoạt động thực tiễn, cần phải vận dụng linh hoạt các hinh thức bước
nhảy: tùy từng điều kiện trường hợp cụ thể mà chúng ta lựa chọn hình thức bước nhảy cho phù hợp.
Thứ năm, do chất của sự vật còn bị quy định bởi phương thức liên kết giữa các yếu
tố cấu thành nên trong thực tiễn cần có phương pháp phù hợp để tác động đến
phương thức liên kết nhằm tạo ra sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp.
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc
học tập và rèn luyện của em như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, em
phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, em phải
tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài
kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết quả thi (bước
nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá
trình học tập rèn luyện của em. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật
khác, em phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật.
Câu 13: Hãy phân tích quy luật phủ định của phủ định Bài làm
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy
vật, quy luật này chỉ ra khuynh hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc), kết quả (sự vật,
hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ) của sự phát triển của chúng thông qua
sự thống nhất giữ tính thay đổi vưới tính kế thừa trong sự phát triển; nghĩa là sự vật, 42
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 43
hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của sự vật
hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. Phủ định siêu hình là sự diệt
vong hoàn toàn của cái cũ, là phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự phát triển
của sự vật (ví dụ như người nông dân sang vụ mùa mới sẽ phá bỏ hoàn toàn những
cây giống cũ để thay thế bằng cây giống mới). Còn phủ định biện chứng là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá
trình dẫn đến sự ra đời của sụ vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ. Mọi quá trình vận động
và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự
thay thế, trong đó của sự thay thế chấn dựt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế
tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Những sự thay thế tạo ra
điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng.
Ví dụ như hiện tượng tre già măng mọc, khi cây tre già đi, măng non sẽ mọc thay
thế, kế thừa cho cây tre già và tiếp tục phát triển tốt hơn.
Phủ định biện chứng có tính khách quan, nguyên nhân của phủ định nằm trong bản
thân sự vật, hiện tượng nó là quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên
trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu
hướng phát triển của chính bản thân sự vật. Ví dụ như Chủ nghĩa xã hội phủ định
chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản, khách quan, vốn
có trong lòng xã hội tư bản; mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được biểu
hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Bên cạnh đó, phủ định biện chứng còn có tính phổ biến, quy luật này diễn ra trong
mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội, tư duy. Sự phát triển của cây lúa
sinh ra hạt lúa chính lạ sự phát triển, thay thế và kế thừa từ cây lúa đó, hay trong tư
duy, những quan điểm, ý nghĩ đều sẽ tiếp tục phát triển, phủ định cho những quan điểm, ý nghĩ cũ... 43 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 44
Ngoài ra, phủ định biện chứng còn có tính đa dạng, phong phú vì nó thể hiện trong
nội dung, hình thức của phủ định. Ví dụ như hạt lúa là phủ định của cây lúa, nó thay
đổi hình dáng, hình thức khác so với cây lúa ban đầu
Cuối cùng, tính kế thừa của phủ định biện chứng được thể hiện là sự phủ định mà
cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị tích cực của cái cũ, bổ sung thêm
những cái mới phù hợp hơn. Như trong sinh vật, các giống loài đều phát triển theo
quy luật di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ
bố mẹ, học thuyết “gen” đã chứng minh điều đó. Trong lĩnh vực nhận thức, triết học
Mác ra đời giữa thế kỷ XIX, đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ, mà trực
tiếp là các giá trị của nền triết học cổ điển Đức.
Phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản
thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa
các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ
định lần thứ nhất diễn ra là sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ
định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề, cái phủ định là cái mới
xuất hiện. Cái phủ định sau khi phủ định cái bị phủ định, tiếp tục biến đổi và tạo ra
phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra
đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như
lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Ví dụ như từ một con sâu bướm, cuốn tơ thành con nhộng, rồi con nhộng nở ra con bướm.
Nội dung của quy luật phủ định của phủ định được thể hiện đầu tiên ở quá trình vận
động và phát triển của các sinh vật luôn hàm chứa sự kế thừa biện chứng. Kế thừa
có 2 loại bao gồm: kế thừa siêu hình là giữ lại nguyên si những đặc điểm, thuộc tính
mà bản thân sự vật có ở hai giai đoạn phát triển trước, không bỏ đi bất cứ yếu tố
nào; và kế thừa biện chứng là sự chọn lọc, giữ lại và cải tạo những đặc điểm, thuộc
tính còn thích hợp cho sự phát triển của sự vật, đồng thời bổ sung những yếu tố tích
cực mới làm cho sự vật phát triển ở trình độ cao hơn, tiến bộ hơn. 44
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 45
Thứ hai, quá trình vận động, phát triển của sự vật là một quá trình phủ định của phủ
định, nghĩa là phải trải qua nhiều lần phủ định. Sau 2 lần phủ định hoặc nhiều hơn 2
lần phủ định thì sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Một chu kì phát triển của
sự vật được hình thành, đồng thời mở ra 1 chu kì phát triển tiếp theo. Và khi cái
khẳng định cho ra phủ định lần 1, phủ định lần 2 và phủ định lần 3,... thì sự vật mới
ra đời thay thế cho sự vật cũ. Ví dụ như Hạt thóc – cây mạ - cây lúa: thì hạt thóc cho
ra đời cây mạ (là phủ định lần 1), tiếp đó cây mạ lại cho ra đời cây lúa (là phủ định
lần 2) và rồi cây lúa lại cho ra đời bông lúa (phủ định lần 3)...
Thứ ba, quá trình vận động, phát triển của các sự vật diễn ra theo đường xoáy ốc. Nó
không theo một đường thẳng tịnh tiến liên tục mà diễn ra quanh co, phức tạp. Quá
trình đó có sự tiến lên, có sự gián đoạn và thậm chí có những bước lùi tạm thời. Con
đường xoáy ốc thể hiện tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên của sự phát triển.
Cái mới ra đời dường như quy trở lại cái cũ ở trình độ cao hơn về vật chất.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng
duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự
phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong
sự vật, hiện tượng cũ, phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu
kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: " ..
phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến vả chính vì vậy mà có
một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của
lịch sử và của tư duy".
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định được thể hiện như
sau, thứ nhất, vì sự vật không phát triển theo 1 đường thẳng, mà theo đường xoáy
ốc, qua nhiều giai đoạn nên phải nắm được đặc trưng của từng giai đoạn để tác động
cho phù hợp. Thứ hai, tránh thái độ phụ định sạch trơn, phải biết kế thừa những ưu
điểm, tích cực của cái cũ để phát triển cái mới, lọc bỏ, cải tạo cái tiêu cực. Thứ ba,
khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, kìm hãm, sự phát triển của cái mới, cần phải biết 45 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 46
phát hiện cái mới, tích cực, tạo điều kiện cho cái mới phát triển. Qua đây, có thể vận
dụng quy luật này của Việt Nam trong việc lựa chọn con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã
hội: quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật
dường như quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử xã hội loài
người tất yếu sẽ phủ đinh các chế độ tư hữu xây dựng chế độ công hữu, giải phóng
con người khỏi áp bức bất công… Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy
ốc, quá trình phát triển có bước quanh co phức tạp thậm chí có bước thụt lùi tam
thời nên khi Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ nhưng Đảng và Nhà
nước ta không do dự mà lựa chọn lại con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội... Hiện
nay Chủ Nghĩa Xã Hội hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ, nhưng những
khó khăn đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của nhân loại tiến bộ sẽ
xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội…
Câu 14: Hãy phân tích khái niêm thực tiễn và vai trò của thực tiễn Bài làm
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật chất
có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã
hội”. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng
vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Ví dụ như Trồng
lúa, nuôi gà, buôn bán thực phẩm…; Xây nhà, sửa ô tô, sửa xe máy, quét rác... Còn
phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý
luận nhận thức Mác – xít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung.
Thực tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật chất cảm tính, lịch sử - tự nhiên và tính
mục đích. Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất – cảm tính. Đó là hoạt động mà
con người sử dụng công cụ lao động vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm 46
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 47
thay đổi thế giới vật chất. Đó là hoạt động có thể cảm giác được, có thể quan sát trực
quan được. Thứ hai, thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội. Hoạt động
thực tiễn luôn diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể; bị quy định trục tiếp bởi
điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa lịch sử; nảy sinh do nhu cầu xã hội và hướng đến
cải biến xã hội. Thứ ba, là hoạt động có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
phục vụ con người. Nếu như hoạt động của động vật là bản năng, tự phát, thụ động
để thích nghi với môi trường sống thì hoạt động thực tiễn của con người có tính mục
đích rõ ràng. Nó trực tiếp, chủ động, tích cực cải biến tự nhiên, xã hội để phục vụ
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau,
nhưng gồm những hình thức cơ bản sau: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn, là
hoạt động trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo
ra của cải vật chất và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sựu tồn tại, phát triển của
bản thân mình. Lao động là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con
người; là hoạt động đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người,
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người nói riêng và xã hội loài người nói
chung. Ví dụ như từ thời nguyên thủy, con người lao động, biến đá thành công cụ
lao động sản xuất để phục vụ cuộc sống, biết sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, không
ăn tươi nuốt sống như động vật ăn thịt.
Hoạt động chính trị - xã hội (cải tạo xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã
hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã
hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng xã hội. Chẳng hạn như làm cách mạng, tiến
hành xây dựng nông thôn mới,…
Hoạt động thực nghiệm là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động được
tiến hành trong những điều kiện do con ngươi tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại
những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát 47 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 48
triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò
quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Ví dụ, hoạt động nghiên cứu, thí nghiệm của các nhà
khoa học để tìm ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vacxin phòng ngừa dịch mới,...
Ba hình thức thực tiễn này có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Trong đó hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai
hình thức kia. Ngược lại, hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học có tác
động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất phát triển.
Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Cụ thể: Thứ nhất, thực tiễn là cơ
sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu
trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và
phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới
buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình.
Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối
liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức,
giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Chẳng hạn, khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi chúng ta
sẽ biết rằng kính có thuộc tính dễ vỡ.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển
của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng
nhu cầu nâng cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác
quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác; tạo ra các công cụ, phương tiện
để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Thực tiễn luôn vận động,
phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Những tri
thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp 48
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 49
theo. Ví dụ, công nghệ tiên tiến, thay đổi từng ngày từng giờ, đòi hỏi con người phải
luôn luôn trau dồi, tìm hiểu, bắt kịp với xu thế phát triển của công nghệ. Việc học
tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải những bài khó, học kiến thức mới nâng cao
hơn, mỗi khi giải quyết được những vấn đề đó, nhận thức của học sinh được tăng lên.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thức
thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là
tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung,
phát triển và hoàn thiện nhận thức. Ví dụ, qua 2 cuộc kháng chiến trường kì chống
Pháp và Mỹ, Bác Hồ đã chứng minh chân lí: Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Nhà thám hiểm Ma-gien-lăng đã đi vòng quanh thế giới, phát hiện ra Thái Bình
Dương và khẳng định Trái Đất có hình cầu, bác bỏ tư tưởng Trái Đất hình dẹt.
Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình
thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi
chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn: yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn nhận thức. Việc nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan,
duy ý chí, giáo điều, máy móc; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ
rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. (liên hệ với chính sách của
Đảng để phục vụ cuộc sống nhân dân)
Câu 15: Hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất Bài làm 49 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 50
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định,
tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng, đó là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thứ con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Trong sản xuất con người
có quan hệ song trùng tức là quan hệ giữa con người với tự nhiên (lực lượng sản
xuất) và quan hệ giữa người với người (quan hệ sản xuất). Phương thức sản xuất là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất là tổng hợp những yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức
mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất.
Người lao động là con người, có sức mạnh, tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo nhất định sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao
động trong quá trình sản xuất của xã hội. Công cụ lao động là những phương tiện vật
chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến
đổi chúng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội. Tư liệu sản
xuất gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu
(là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản
xuất xã hội); quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất (là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc tổ chức và phân công lao động); quan hệ phân phối sản phẩm (là quan hệ
giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩ lao động xã hội). Cả ba mặt
đều có sự tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
giữ vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm phương
tiện vật chất chru yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình
sản xuất và phân phối sản phẩm.
Lưc lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ biện
chững giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chịu sự tác động của nhiều quy 50
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 51
luật xã hội, trong đó quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất” là quy luật phổ biến chung nhất. Lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, có quan hệ biện chứng với nhau, trong
đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Đầu tiên, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Sự vận
động và phát triển của lực lượng sản xuất sẽ quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất ấy, quan hệ
sản xuất luôn bị quy định bởi trình độ phát triẻn của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của
phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức. Ví dụ như trong xã hội nguyên thủy, với lực lượng sản xuất là
trình độ con người còn thấp, cùng với công cụ lao động thô sơ thì năng suất sản xuất
thấp từ đó sẽ hình thành quan hệ sản xuất như công hữu về tư liệu sản xuất, quản lý
công xã hay phân phối bình đẳng. Khi xã hội loài người ngày càng phát triển, con
người ngày càng phát triển về kĩ năng, tri thức, cùng với công cụ lao động cũng
ngày càng tiên tiến, từ đó năng suất lao động tăng cao. Như vậy thì quan hệ sản xuất
cùng thay đổi để phù hợp với lực lượng sản xuất, như là có thêm nhiều các hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất, có thể quản lý và phân phối sản phẩm theo khả năng lao động của con người.
Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức
sản xuất mới xuất hiện. Chẳng hạn, trình độ con người thấp, công cụ thô sơ, quan hệ
sản xuất là công hữu về tư liệu sản xuất, chia đều cho mọi người, đó là sự thống nhất 51 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 52
giữa lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất, tạo ra phương thức công xã nguyên
thủy. Và dần dần, lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, con người biết
chế tạo những công cụ lao động bằng đồ đồng, đồ sắt, từ đó tạo ra nhiều của cải hơn,
từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng về quản lý và phân chỉa sản phẩm lao động, dẫn đến
sự phân chia giai cấp, và phát triển thêm nhiều hơn sự mâu thuẫn giữa các giai cấp,
từ đó công xã nguyên thủy đó tan rã và phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời.
Tiếp theo, quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Do
quan hệ sản xuất là hinh thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương đối
nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ sản
xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chững
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là sự phản ánh lực
lượng sản xuất nhưng chính nó là khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi
ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi
khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu
tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Sự phù hợp diễn ra trong sự vận động phát triển là một quá trình
thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu hướng phát triển của nền sản
xuất xã hội, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển đem lại năng xuất, chất lượng cho sản xuất.
Sự tác động này sẽ diễn ra theo chiều hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuẩt. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành xiềng xích chính, kiềm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Ví dụ, trong một doanh nghiệp, nếu người quản lý có những
chính sách tổ chức sản xuất hiệu quả và đảm bảo được lợi ích của người lao động thì 52
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 53
điều đó sẽ kích thích người lao động có thể phát huy hết khả năng từ đó tăng năng
suất lao động, ổn định đời sống xã hội và ngược lại.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có
ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội. Để phát triển nền kinh tế, một mặt, phải
bắt đầu từ việc phát triển lực lượng sản xuất (trước hết là người lao động và công cụ
lao động); mặt khác, không ngừng cải tiến, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp
với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Đảng và nhà nước đã vận dụng sáng tạo quy
luật này: muốn phát triển đất nước thì trước hết phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; đồng thời phải cải tạo quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thể hiện trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều phần.
Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát
triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong công cuộc đổi mới kể từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX
(2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa
không đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây
dựng một quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực
lượng sản xuất vốn có. Vì vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản
xuất, năng lực sáng tạo, chủ động, kích thích lợi ích… đối với các chủ thể lao động
trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục
đích “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản 53 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 54
xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và phân phối”
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố quan hệ sản xuất là phát
triển lực lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta
đã khẳng định: “về thực chất, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao”. Vấn đề then chốt của quá trình này là cải biến lao động thủ công thành
lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất
lao động xã hội cao. Song, đó không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ
và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình
chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng
bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn
và phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với
quá trình hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy phải thật sự lấy
phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát
triển giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của công cuộc đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh”. 54
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 55
Câu 16: Hãy phân tích khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng Bài làm
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hẹ xã hội, bao gồm quan hệ vật
chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa quan hệ vật
chất với quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ
bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Cơ sở hạ tầng là khái niệm để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội
trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định. Ví dụ như cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản, kinh tế nhà nước...) trong đó thành phần kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Kết cấu đó được xác lập trên cơ sở hệ thống ba loại hình
sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, sở hữu
tập thể của những người lao động, sở hữu tư nhân với nhiều hình thức cụ thể khác
nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn
hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: quan hệ sản suất thống trị (là quan hệ sản xuất
bao chùm xã hội, quyết định bản chất của cơ sở hạ tầng), quan hệ sản xuất tàn dư (là
quan hệ sản xuất của xã hội cũ còn rơi rớt lại), quan hệ sản xuất mầm mống (là mầm
mống của phương thức sản xuất mới trong tương lai sẽ xuất hiện). Mỗi quan hệ sản
xuất có một vị trí, vai trò khác nhau; trong đó quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa vị
chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất
định. Chẳng hạn như trong mô hình kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã
hội trước) và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩ55
a (mầm mống của tương lai). Kiến Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 56
trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã
hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ
sở hạ tầng nhất định. Ví dụ như Việt Nam đang phát triển theo những quan điểm, tư
tưởng như Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh...
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những hình thái ý thức xã hội
(bao gồm quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
triết học...); cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể, các tổ chức xã hội...). Ví dụ, trong nhà nước Việt Nam hiện
nay, những hình thái ý thức tư tưởng Hồ Chí Minh, chính trị, pháp luật, đạo đức đều
do các thiết chế xã hội là Đảng và nhà nước đứng đầu và ban hành.
Trong số đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có dấu hiệu và quy luật tăng
trưởng riêng. Nhưng chúng đều liên lạc với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng,
phản ánh cơ sở hạ tầng, trong số đó nhà nước là tiêu chí có quyền lực mãnh liệt nhất.
Chủ đạo nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở nên tư tưởng
thống trị toàn xã hội.
Trong xã hội đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng bao gồm các hệ tư tưởng và
các thiết chế của giai cấp thống trị (như chủ nô, địa chủ, tư sản...); các quan điểm và
tổ chức của giai cấp bị trị (như nô lệ, tá điền, công nhân...); những tàn dư của các
quan điểm xã hội đã lỗi thời; quan điểm của tầng lớp trung gian (như tri thức,...)
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy định
tính chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc
thượng tầng trong xã hội có giai cấp là nhà nước; công cụ vật chất cụ thể của giai
cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng
của giai cấp thống trị mới được truyền bá và thống trị được đời sống xã hội. Giai cấp
nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và các thể
chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã hội. Thời kỳ quá độ từ Chủ Nghĩa
Tư Bản lên Chủ Nghĩa Cộng Sản, những tàn dư tư tưởng của các giai cấp thống trị
bóc lột vẫn còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, trong kiến trúc thượng 56
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 57
tầng của các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn còn sự đấu tranh giữa tư tưởng
xã hội chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ đến chủ nghĩa cộng sản, tính
giai cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị xoá bỏ.
Câu 17: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng Bài làm
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hẹ xã hội, bao gồm quan hệ vật
chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa quan hệ vật
chất với quan hệ tinh thần của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ
bản tác động ở mọi hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định, bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan
hệ sản xuất mầm mống. Còn kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm xã
hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với
những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v)
và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện
thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình
thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hạ tầng hiện thực đó.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong
đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, nhưng kiến trúc thượng tầng có
tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. 57 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 58
Với chiều đầu tiên, cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng
tầng. Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy: Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc
thượng tầng, cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra
sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo
đức, triết học, v.v.. và các quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy
cũng như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Ví dụ,
những biến đổi trong kết cấu và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường các nước
tư bản chủ nghĩa ở đầu thế kỷ XX đòi hỏi phải có sự thay đổi chức năng của nhà
nước tư sản xuất hiện chức năng kinh tế của nhà nước đó so với trước đây (thế kỷ
XIX). Sự biến đổi đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, việc cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế xã
hội. Ngoài ra, khi cơ sở thượng tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng sớm hay
muộn cũng thay đổi theo. Ví dụ trong xã hội phong kiến, phù hợp với quan hệ sản
xuất phong kiến đã làm hình thành nên nhà nước phong kiến, pháp luật, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật phong kiến...Hay như cách mạng tư sản thành công, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập thì nhà nước, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo, triết học của xã hội tư bản chủ nghĩa được hình thành và phát triển...
Với chiều ngược lại, kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng, nhưng
kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng có vai trò bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sửo hạ tầng
đã sinh ra nó, ngăn chặn xóa bỏ những cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh loại bỏ cơ sở hạ
tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ
tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan
trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn, nhà
nước, pháp luật, tôn giáo, đạo đức, triết học, nghệ thuật của xã hội phong kiến sẽ bảo
vệ quan hệ sản xuất phong kiến: chế độ sở hữu, cách thức tổ chức, quản lý và phân
phối của giai cấp quý tộc, địa chủ. Tiếp theo, sự tác động của kiến trúc thượng tầng
đến cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 chiều: nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở
hạ tầng thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển; nếu kiến trúc thượng tầng không phù 58
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 59
hợp với cơ sở hạ tầng thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Như hệ thống pháp
luật rườm rà, không phù hợp sẽ kìm hãm nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, các yếu tố
khác nhau của kiến trúc thượng tầng có tác động đến cơ sở hạ tầng theo những cách
khác nhau. Nhà nước, đảng phái, pháp luật tác động trực tiếp, còn tôn giáo, đạo đức,
nghệ thuật... tác động gián tiếp tới cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn, cải cách tôn giáo Tin
lành của Cavan và Luther thế kỷ XVI – XVII đã thúc đẩy cho nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa phát triển, hay như nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ do sự nở rộ của chủ
nghĩa thực dụng Mỹ cùng với triết học khai sáng Pháp.
Về ý nghĩa của quy luật đối với đời sống xã hội, thứ nhất, quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là sơ sở lý luận khoa học để
nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế vè chính trị. Kinh tế và chính trị có
quan hệ biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, con chính trị tác động trở
lại to lớn đối với kinh tế. Thứ hai, trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc
tuyệt đối hóa một yếu tố nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hóa
kinh tế là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường. Tuyệt đối hóa chính trị dẫn đến
duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Thứ ba, trong thời kì đối mới đất nước, Đảng Cộng
Sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới
kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng, vững chắc;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vừng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Liên hệ với tình hình xã hội Việt Nam ngày nay, Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở
nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản
xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về
vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết, bổ sung với nhau. 59 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 60
Về kiến trúc thượng tầng, đất nước ta đang từng bước hoàn thiện và phát triển: về
chính trị, về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho
đường lối phát triển; giữ vừng vai trò lãnh đạo của Đảng; xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; Cải tiến, hoàn thiện hệ thống pháp luật; Hướng tôn giáo,
nghệ thuật, khoa học... vào mục tiêu phát triển kinh tế; xây dựng nền đạo đức mới xã
hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Câu 18: Tại sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội
là một quá trình ý thức xã hội Bài làm
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó
có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân
tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản
xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau. 60
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 61
Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội,
C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một
quá trình lịch sử – tự nhiên”. Nguyên nhân của sự phát triển của những hình thái
kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tư nhiên vì:
Thứ nhất, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của
con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản
thân cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,… Trong đó quan trọng và cơ bản nhất
là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân
loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội suy đến cùng, xét đến
cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.
Thứ ba, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự
phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ
quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất
toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình
thái kinh tế – xã hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến,
hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái
kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều
kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định. 61 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 62
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết một cách
khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế –
xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình
thái kinh tế – xã hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất định
lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào nước ta có lúc đã mắc phải
những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ công
nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành phần kinh tế
tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp v.v…
Câu 19: Hãy phân tích tồn tại xã hội và ý thức xã hội Bài làm
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối
quan hệ biện chứng; rằng, các hình thái ý thức xã hội không phải là những yếu tố thụ
động; trái lại, mỗi hinh thái ý thức xã hội đều có sự tác động trở lại tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau. Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên
và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những
mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức xã hội. Ví dụ, thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm,
dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến
lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời
kì này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, 62
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 63
xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng
của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú.
Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm, một là, các yếu tố thuộc về điều
kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo
nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội. Hai là, các yếu
tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, môhình tổ chức
dân cư,... Ba là, phương thức sản xuất cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Ví dụ, phương thức kỹ thuật
canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền
thống của người Việt Nam.
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau
tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào
sẽ quyết định sự tác động của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát
triển dân số như thế ấy. Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa,
nhiều sông ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là
thích hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành được phương thức đó, người
Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ mặt tinh thần của đời sông xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh xã hội. Ý thức xã hội bao gồm toàn bộ đời sống tư tưởng
và tâm lý xã hội, được biểu hiện phong phú trong sinh hoạt hoặc tư tưởng, văn hóa,
tập quán,... của mỗi cộng đồng xã hội. Ví dụ, dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu
nước, nhân đạo nhân nghĩa; truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời
khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong
nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Chúng ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý
thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức của
các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau. Do đó, nó 63 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 64
hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã
hội, một thời đại xã hội nhất định. Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần,
những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những
phương thức khác nhau. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ
hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là
phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Những hệ tư
tưởng xã hội không nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự biểu hiện
trực tiếp của tâm lý xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận ý thức xã hội phả ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, tự
phát, được cấu thành từ các yếu tố tình cảm, khát vọng, ý chí,...của các cộng đồng
người nhất định. Ví dụ như tâm lý xã hội trong thời gian dịch bệnh Covid – 19 là
luôn lo lắng, cẩn thận, có ý thức phòng tránh dịch bệnh; hay là cảm xúc vui sướng,
tự hào, phấn khởi khi đất nước được thống nhất.
Tư tưởng xã hội là bộ phận ý thức xã hội phản ánh một cách tự giác, gián tiếp:
chúng tồn tại dưới hình thức là những quan niệm, quan điểm mang tinh chất phổ
biến, khái quát của một cộng đồng người. Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng,
quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội, được
hình thành một cách tự giác. Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng
có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp. Chẳng hạn như
Chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản, cộng sản,....
Ý thức xã hội bao gồm các hình thức sau: ý thức chính trị; ý thức pháp quyền; ý thức
đạo đức; ý thức thẩm mĩ; ý thức tôn giáo; ý thức khoa học; ý thức triết học. Trong xã
hội có giai cấp xã hội có tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội thể hiện cả
trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp có
tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai cấp thể hiện
sâu sắc hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các quan điểm chính trị, đạo đức, 64
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 65
pháp luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Ví dụ, các quan điểm chính trị, pháp
luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị thường đối lập nhau. Tư tưởng của
thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó. Ý
thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác động lẫn nhau.
Câu 20: Hãy phân tích mối quan hệ biện chững giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội Bài làm
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối
quan hệ biện chứng; rằng, các hình thái ý thức xã hội không phải là những yếu tố thụ
động; trái lại, mỗi hinh thái ý thức xã hội đều có sự tác động trở lại tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau. Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên
và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những
mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức xã hội. Ví dụ, thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm,
dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến
lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời
kì này con người nhận biết và tận dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét,
xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng
của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú.
Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm, một là, các yếu tố thuộc về điều
kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo
nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội. Hai là, các yếu
tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, môhình tổ chức 65 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 66
dân cư,... Ba là, phương thức sản xuất cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Ví dụ, phương thức kỹ thuật
canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền
thống của người Việt Nam.
Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ mặt tinh thần của đời sông xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh xã hội. Ý thức xã hội bao gồm toàn bộ đời sống tư tưởng
và tâm lý xã hội, được biểu hiện phong phú trong sinh hoạt hoặc tư tưởng, văn hóa,
tập quán,... của mỗi cộng đồng xã hội. Ví dụ, dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu
nước, nhân đạo nhân nghĩa; truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời
khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong
nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là
phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Tâm lý xã hội là
bộ phận ý thức xã hội phả ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, tự phát, được cấu
thành từ các yếu tố tình cảm, khát vọng, ý chí,...của các cộng đồng người nhất định.
Tư tưởng xã hội là bộ phận ý thức xã hội phản ánh một cách tự giác, gián tiếp:
chúng tồn tại dưới hình thức là những quan niệm, quan điểm mang tinh chất phổ
biến, khái quát của một cộng đồng người. Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng,
quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội, được
hình thành một cách tự giác. Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng
có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của giai cấp.
Ý thức xã hội bao gồm các hình thức sau: ý thức chính trị; ý thức pháp quyền; ý thức
đạo đức; ý thức thẩm mĩ; ý thức tôn giáo; ý thức khoa học; ý thức triết học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt của
vật chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại
của họ, mà ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ" và khẳng định "ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội". Sự phản ánh đó là quá trình biện chứng phức
tạp, là kết quả của mối liên hệ tích cực giữa con người với thực tiễn. 66
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 67
Đầu tiên, tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
Một là, tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy
định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản
ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ
không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó, mà phải giải
thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện
có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ xã hội. Ví dụ, những người
dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền văn hóa sông nước và
kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được từ sông nước.
Hai là, tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi
khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý
luận xã hội cũng dần biến đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau,
nếu có những quan điểm, tư tưởng, học thuyết xã hội khác nhau về cùng một vấn đề
thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất của các thời kỳ lịch sử
khác nhau quy định. Ví dụ, trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản
xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên
chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã
nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giầu nghèo, bóc lột và bị
bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột,
chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện.
Ba là, tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình
thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của
thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được
phản ánh trong các tư tưởng ấy. Ví dụ, trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng
sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái công lý, không phù hợp với lý tính con người
phải được thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa 67 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 68
tư bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng
phê phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản.
Tiếp theo, tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội.
Một là, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với
tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của
thói quen, truyền thống, tập quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội
v.v… tiếp tục tồn tại sau khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu;
do lợi ích nên không chịu thay đổi. Ví dụ, một số hủ tục lạc hậu: chữa bệnh bằng
bùa chú, người Mông phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai táng.
Tiếp theo, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý
thức, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và
có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất
định. Đó cũng là vai trò to lớn của những tư tưởng tiên tiến, khoa học; tuy nhiên, sự
vượt trước này cũng có khả năng là ảo tưởng. Chẳng hạn, Chủ nghĩa Mác Lênin là
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra
đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ
rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản
nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội. Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí
lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội hoàn
toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực,
vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 68
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 69
Bên cạnh đó, ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại
được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế
thừa có tính tất yếu khách quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan
điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát
triển tư tưởng của các giai đoạn lịch sử trước được kế thừa trong ý thức xã hội mới,
thì khó giải thích được một tư tưởng nhất định. Ví dụ, chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa
tinh hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ
điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn
của tư tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và
suy tàn của nền kinh tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình độ kinh tế
kém phát triển, nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. VD: Nước Pháp thế kỷ
XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn
nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn
về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Ngoài ra, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng
tới tồn tại xã hội. Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi
phối các hình thái ý thức xã hội khác. Ví dụ, ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật
đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng
mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo
đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng
vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Hai là, sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện
quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Đó là
sự tác động nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này thể hiện
mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức xã hội vào 69 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 70
quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả năng hiện thực hoá ý thức
xã hội của giai cấp và đảng phái. Ví dụ, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển
của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan
điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động
ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
Như vậy, ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội
và tồn tại xã hội được thể hiện như sau. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai
phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội.Vì vậy công cuộc cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã
hội và ý thức xã hội. Tiếp theo, cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều
kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất
yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại,
những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Cần thấy rằng chỉ có
thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập,
phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hộinhập
quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong quá trình
điều chỉnh theo cơ chế thị trường, dễ dẫn đến cuộc cạnh tranh, ganh đua làm giàu
bằng mọi thủ đoạn, làm phá vỡ những giá trị văn hóa. Ví dụ, toàn cầu hoá kinh tế tạo
ra lối sống hưởng thụ, xa hoa, lãng phí và cũng hình thành nên tâm lí sính ngoại của
người dân. Bên cạnh đó, vấn đề chính trị, tôn giáo còn nhiều bất cập, xuất hiện cả 70
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 71
những hệ tư tưởng lệch lạc. Ví dụ như tình trạng tham gia biểu tình, chống đối gây
bất ổn chính trị trong nước. Để xây dựng ý thức xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 chúng ta cần: Đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời
sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới. Không ngừng hoàn thiện ý thức xã
hội mới theo hướng khoa học, cách mạng,tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội
mới, con người mới. Bên cạnh đó phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục,
phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên
truyền, giáo dục ý thức xã hội mới. Không chỉ vậy ta phải tập trung phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động,tự giác của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc
văn hoá dân tộc, kế thừa vàphát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng
tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam.
Câu 21: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của nhà nước Bài làm
Về vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, nó chỉ ra
đời và tồn tại trong một giai đọan nhất định của sự phát triển xã hội. Nhà nước sẽ tự
tiêu vong khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sự ra đời và tồn
tại của nhà nước chính là sự xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. 71 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 72
Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Tổ
chức đầu tiên của xã hội loài người, phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém lúc
bấy giờ là chế độ thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc trưởng,
hội đồng các tộc trưởng; những người và những cơ quan này do nhân dân bầu ra, họ
chịu trách nhiệm trước nhân dân, coi sóc các công việc chung và có thể bị bãi miễn
nếu không còn sự tín nhiệm trong nhân dân. Những tộc trưởng và hội đồng các tộc
trưởng điều chỉnh các quan hệ xã hội duy trì các quy tắc đời sống xã hội và điều
khiển các công việc của công xã dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội và uy tín của
họ đối với xã hội. Trong tay họ không có và không cần có một công cụ cưỡng bức
đặc biệt nào. Quyền hành và chức năng của cơ quan đứng đầu thị tộc và bộ lạc
không mang tính chất chính trị, mang tính tự quản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vào thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy đã dẫn
tới chế độ tư hữu xuất hiện, và xã hội bắt đầu phân chia thành những giai cấp đối
kháng: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ; quan hệ người áp bức người thay thế quan
hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị
bóc lột ngày càng sâu sắc và không thể điều hòa được. Để bảo vệ địa vị thống trị của
mình, để duy trì ách áp bức bóc lột đối với những người nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập
ra bộ máy bạo lực, trấn áp buộc giai cấp nô lệ phải phục tùng tuân theo những trật tự
do mình đặt ra, bộ máy đó là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà
nước không phải là cơ quan để điều hòa mâu thuẫn giai cấp; mà ngựơc lại, nhà nước
ra đời chính là do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc không thể điều hòa được. Ở
đâu, lúc nào mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của một ai hay của
một giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu khách quan để
“khống chế những đối kháng giai cấp”, để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, làm cho
sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự ”; trật tự ấy hoàn toàn cần thiết để 72
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 73
duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước - “đó là
sự kiến lập một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng
cách làm dịu xung đột giai cấp ”. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn
nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Về vấn đề bản chất của nhà nước. Nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này
đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đó là nền chuyên chính của giai cấp
nắm quyền thống trị về kinh tế trong xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng
qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác” . Nhà nước
chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá
và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử
dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích
của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước
của giai cấp bóc lột. Không có nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên dùng để trấn
áp, thì giai cấp thống trị không thể duy trì ách áp bức bóc lột của nó đối với giai cấp
bị thống trị. Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp
khác, nhà nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích
chung cho các giai cấp trong xã hội.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên
chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà nước”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trên cơ sở nguyên tắc công hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu và lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm của nhân dân lao động nhằm
thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội không còn áp bức bóc lột, không còn giai cấp.
Như vậy, bản chất của nhà nước được thể hiện trong các đặc trưng và chức năng của nó. 73 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 74
Về những đặc trưng cơ bản của nhà nước. Các nhà nước trong lịch sử có sự khác
nhau về bản chất, nhưng tất cả các nhà nước đều có những đặc trưng (dấu hiệu) cơ
bản chung. Những đặc trưng này để phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị –
xã hội, với tổ chức thị tộc nguyên thủy trước kia. Hiện nay có nhiều quan niệm khác
nhau về những đặc trưng chủ yếu của nhà nước, nhưng về cơ bản có hai luồng quan điểm cơ bản sau.
Quan niệm thứ nhất có tính truyền thống thể hiện trong các giáo trình Lý luận nhà
nước và pháp luật nêu rõ nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt với bộ máy
thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội. Khi xuất hiện nhà nước đã lập nên
quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, không còn hoà
nhập với dân cư nữa. Không những thế, nhà nước còn có bộ máy cưỡng chế gắn liền
vớiquân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam và những cơ quan cưỡng chế khác. Đây là
những cơ quan mà không tồn tại trong chế độ thị tộc nguyên thủy cũng như trong
các tổ chức khác. Bản chất của quyền lực chính trị của nhà nước thuộc về một thiểu
số giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, bộ máy nhà nước đã được
hoàn thiện để thực hiện quản lý xã hội.
Thứ hai, Nhà nước có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư theo theo các đơn vị
hành chính lãnh thổ (dấu hiện dân cư và lãnh thổ). Phạm vi thực hiện quyền lực của
nhà nước là trên toàn bộ lãnh thổ nhà nước. Nhà nước quản lý dân cư theo các đơn
vị hành chính, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị, giới tính, huyết thống, nghề
nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước. Mối quan
hệ giữa người dân với nhà nước được thể hiện rõ nhất thông qua chế định quốc tịch,
một chế định xác lập sự phụ thuộc của công dân vào một nhà nước nhất định và
tương ứng, nhà nước cũng phải có những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của
mình. Việc quản lý dân cư theo lãnh thổ ở đây không giản đơn chỉ áp dụng đối với
người mang quốc tịch nước sở tại mà cả với người nước ngoài, cho dù quy chế pháp
lý của người nước ngoài hạn chế và khác với công dân nước sở tại. 74
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 75
Thứ ba, Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của
nhà nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Hay nói cách khác, chủ quyền quốc gia
là quyền tự quyết của quốc gia đó về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Nhà nước là
người đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối
ngoại. Chủ quyền quốc gia thể hiện tính độc lập và không phụ thuộc của nhà nước
trong việc giải quyết các công việc đối nội và đối ngoại của mình. Khái niệm chủ
quyền quốc gia cũng chỉ là khái niệm tương đối. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia không đồng nhất với đóng cửa
không giao lưu với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác. Ngược lại, việc tham gia
hợp tác quốc tế cũng không có nghĩa là đánh mất chủ quyền quốc gia. Nhà nước
cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn tại trong sự tách rời, biệt lập
với các quốc gia khác. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay cho thấy nhà nước nào cũng
tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế và cùng chia sẻ lợi ích, cùng
gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ: Việt Nam đang tham gia các tổ chức
quốc tế như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO, IMF, UN, UNCTAD, UNESCO, WFTU,
WHO, WIPO, WMO, APEC, ASEM…; Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi sự
chung sức của nhiều quốc gia: AIDS, Cúm gia cầm H5N1, Nạn khủng bố, môi trường…
Thứ tư, Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và đảm bảo sự
thực hiện pháp luật. Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội. Chỉ có nhà
nước mới có quyền ban hành pháp luật và quản lý dân cư, các hoạt động xã hội bằng
pháp luật. Pháp luật có tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước
với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước và
những điều kiện khách quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy và với các tổ
chức phi nhà nước không có đặc trưng này..
Thứ năm, Nhà nước có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
Nhà nước nào cũng có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
Thuế được sử dụng để nuôi sống bộ máy nhà nước, thực hiện các hoạt động chung 75 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 76
của toàn xã hội. Mục đích cơ bản của việc thu thuế là để nuôi sống một bộ máy nhà
nước, những cán bộ công chức, những người không trực tiếp làm ra của cải vật chất
cho xã hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức khác không phải là nhà
nước không có đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học thu quĩ lớp để phục vụ cho
công việc của lớp; Đoàn thanh niên thu đoàn phí để tri trả cho hoạt động Đoàn; Câu
lạc bộ bóng đá thu tiền để tri trả cho hoạt động chung…đó không phải là thu thuế.
Từ vấn đề bộ máy nhà nước, dân cư và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thực chất đều
do pháp luật và đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy, đây là những vấn đề quan trọng,
cần thiết và đều là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên mục đích của việc
đưa ra 5 đặc trưng cuối cùng là để chỉ ra những đặc điểm riêng của nhà nước mà các
tổ chức, đơn vị phi nhà nước không có được.
Quan niệm thứ hai về ba đặc trưng cấu thành nhà nước:
Từ đầu thế kỷ XX, một học giả người Đức có tên là Georg Jellinek đã đưa ra luận
thuyết ba yếu tố (Drei-Elemente-Lehre) trong đó khẳng định một nhà nước có ba
điều kiện cấu thành bao gồm dân cư (Staatsvolk), lãnh thổ (Staatsgebiet) và chủ
quyền (Staatsgewalt).68 Đây cũng là ba đặc trưng riêng có của nhà nước để phân
biệt với các tổ chức khác.
Luận thuyết ba yếu tố của Georg Jellinek được nhắc đến rất nhiều trong các công
trình khoa học về nhà nước. Nhiều cuốn từ điển luật học nổi tiếng trên thế giới cũng
dựa trên luận thuyết này để đưa ra khái niệm nhà nước. Chẳng hạn, theo Từ điển luật
học) ở Đức của tác giả Creifelds, nhà nước được hiểu là “một cộng đồng của các các
cá nhân trong một tổ chức chính trị của mình, tổ chức ấy bao gồm lãnh thổ (ein
Staatsgebiet), dân cư (ein Staatsvolk) và hệ thống chính quyền có chủ quyền (eine
Staatsgewalt).”69 Tương tự, theo Từ điển lịch sử pháp luật Châu Âu của tác giả
Koebler, nhà nước là một tổ chức thỏa mãn ba điều kiện dân cư, lãnh thổ và quyền
lực. Nhà nước trước hết phải có dân cư, bao gồm những người có cùng chung một
quốc tịch. Ngoài ra, nhà nước nào cũng có một lãnh thổ giới hạn, trong đó dân cư
sinh sống và tổ chức quyền lực. Bên cạnh đó, nhà nước phải có chủ quyền, chủ 76
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 77
quyền ấy thể hiện ở việc quản lý của nhà nước đối với dân cư theo lãnh thổ, thể hiện
ởquyền tự quyết của nhà nước đó trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Nhà nước
có thể được gọi tắt, thông qua những đại diện như các cơ quan nhà nước, nhân viên
nhà nước hoặc các tổ chức. Nhà nước theo nghĩa là pháp nhân của luật công như ở
Đức hiện nay bao gồm liên bang và tiểu bang. Tùy cách giải thích về chính trị mà
nhà nước có thể được giải thích thành nhà nước cảnh sát, nhà nước pháp quyền, nhà
nước xã hội, Nhà nước phúc lợi chung.
Câu 22: Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
(Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về bản
chất con người) Bài làm
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Con người được thể hiện qua hai
bản tính: tự nhiên và xã hội.
Về bản tính tự nhiên của con người: thứ nhất, con người là kết quả của quá trình tiến
hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được
chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên,
đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Thứ hai, con người là
một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của
con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự
nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã
hội loài người; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người tác động trở lại
môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường. Đây chính là mối quan hệ biện chứng
giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Ví dụ, 77 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 78
vùng ven sông có điều kiện tự nhiên thuận lợi, dồi dào nguồn thức ăn, nguồn nước
đầy đủ nên con người tập trung sinh sống tại đây, khai thác các nguồn tài nguyên và
nguồn lợi từ sông nước mang lại. Nhưng trong quá trình đó, con người sản xuất, khi
khai thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn kiệt, xói mòn, sạt lở, xuống cấp, ô
nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó
mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong
mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc
gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện
khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
Về bản tính xã hội của con người: thứ nhất, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành,
loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất là nhân tố lao động. Nhờ lao động mà
con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Ví dụ, người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống trong các hang đá nguyên thủy và hoang dã
như các loài động vật. Qua lao động, con người biết chế tạo và sử dụng các công cụ
lao động, sử dụng lửa,… để chinh phục thiên nhiên. Thứ hai, xét từ giác độ tồn tại
và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội
và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương
ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã
hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực
thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó. Ví dụ, xã
hội phong kiến buộc con người sống trong khuôn khổ, luật lệ, giáo điều với những
tư tưởng khắt khe, nhưng khi con người được giải phóng, bước sang chế độ XHCN
thì con người văn minh hơn, tân tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy
định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế,
nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự 78
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 79
nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định
cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Bản chất
của con người được thể hiện ở hai mặt. Đầu tiên, con người là một thực thể thống
nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự nhiên
là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả
của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc trưng quy
định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật,
như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã
hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ
vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa
nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một
cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao
động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý
thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt
đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Thông qua hoạt động sản xuất vật
chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản
thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". Ví dụ, người
nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết trồng trọt, canh tác,
chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa động vật phục vụ cuộc
sống cá nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua 79 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 80
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội
của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Chẳng hạn, nghề giáo viên định hình con người mô phạm, nghiêm túc, chỉn chu;
nghề cảnh sát, bộ đội hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn,… Là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với
nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi
trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành
và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát
vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội, cũng
như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội của con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó,
bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối
quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế;
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình. Ví dụ như Người sói, người vượn, người gà… Một người đàn ông ở quốc
đảo Fipji, bị cha mẹ nhốt vào chuồng gà trong một khoảng thời gian dài. Sau khi 80
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 81
trốn ra được thì người đàn ông này ảnh hưởng hầu hết những tập tính của gà như mổ
thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy…
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại
trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở
con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách
hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Thứ hai, con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản
phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải
được giáo dục". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở
nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh
thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do
con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật
xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở, tương 81 Downloaded by oanh ngo
(ngothikimoanhvtath5@gmail.com) lOMoAR cPSD| 40367505 P a g e | 82
ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội",
con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc
dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người. Ví dụ,
người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến quằn lưng lao động phục vụ cho
giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của những quan hệ xã hội trong xã hội phong
kiến nửa thực dân thối nát; còn người nông dân trong XHCN đã chủ động, tích cực,
dân chủ và văn minh hơn.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn
cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển
nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại
hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử,
hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy
luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối
quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. 82
Downloaded by oanh ngo (ngothikimoanhvtath5@gmail.com)