Đề cương triết thi cuối kỳ 1 | Triết học Mác Lênin | Đại học Ngoại thương

Đề cương triết thi cuối kỳ 1 của Trường Đại học Ngoại thương. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

lOMoARcPSD|44862240
Đề cương Triết 1 CK - Đề cương Triết 1 CK - Đề
cương Triết học mác 1 CK 2021/2022 - những câu
hỏi
Triết học Mác Lênin (Trường Đại học Ngoại thương)
Scan to open on Studocu
Downloaded by nguyen Kate (katenguyen1357@gmail.com)
lOMoARcPSD|44862240
Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
Downloaded by nguyen Kate (katenguyen1357@gmail.com)
lOMoARcPSD|44862240
Đề cương triết thi cuối kỳ 1
I. Ôn tập lý thuyết
Câu 1: Định nghĩa vật chất của Lê-nin. Ý nghĩa khoa học của định nghĩa.
a. Định nghĩa Vật chất:
Trong tác phẩm “chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật phê phán” Lênin đã đưa ra
đinh nghĩa về “vật chất” như sau: “vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác củ chúng ta chụp
lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
b. Phân tích định nghĩa:
Cách định nghĩa: Phạm trù vật chất la phạm trù rộng, mà cho đến nay, thực ra nhận thức
luận chưa qua được. Khi định nghĩa phạm trù này không thể quy nó về vật thể hoặc một
thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn phạm trù vật chất. Do
vậy chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thứcm phạm trù đối lập với
nó và trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
-Thứ nhất: cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm về
khoa học tự nhiên về cấu tạo và các thuộc tính cụ thể của các đối tượng, các dạng vật chất
khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô
tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn. Vì
vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung
với các dạng cụ thể của vật chất như các nhà triết học duy vật trong lịch sử Cổ đại và Cận
đại.
-Thứ hai: là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận
biết vật chất là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là “cái đang tồn tại độc lập
với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời sống xã hội, “ vật chất là cái tồn
tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức luận thì
khái niệm vật chất chính là “ thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người
và được con người phản ánh”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác động lên giác
quan của con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất.
Với những nội dung cơ bản trên, phạm trù vật chất trong quan niệm của Lênin có ý nghĩa
cô cùng to lớn.
c. Ý nghĩa của định nghĩa
- Chống chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
lOMoARcPSD|44862240
- Chống thuyết “Bất khả tri” cho rằng: con người chỉ nhận thức được bề ngoài của sự vật
hiện tượng chứ không nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng. Lênin khắng định:
con người có thể nhận thức được bản chất của thế giới.
- Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác (đó là quan điểm siêu hình
máy móc, quy vật chất nói chung về những dạng cụ thể của vật chất).
- Là thế giới quan, phương pháp luận cho các ngành khoa học hiện đại tiếp tục phát triển.
Câu 2: Nêu nguồn gốc bản chất kết cấu của ý thức và nêu phương pháp để nâng
cao vai trò ý thức
Giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức là một trong những bước
đi ban đầu để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn xã hội, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất của ý thức để rút ra
vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự hình
thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con người
với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ
đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
Phản ánh sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hóa học;
phản ánh sinh học, phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).
Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh năng động, sáng tạo hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, chỉ được thực hiện dạng vật chất phát triển cao nhất, tổ chức cao nhất
bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh
thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con
người. Đây sự phản ánh tính chủ động lựa chọn thông tin, xử thông tin để tạo ra
những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này
được gọi là ý thức.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa là nguồn gốc
vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân
con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách
quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện
thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy,
thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của
bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói
chung.
lOMoARcPSD|44862240
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thông tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển
ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà
còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế
hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai
sức kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc của con vượn dần dần biến chuyển thành bộ óc của
con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
b) Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người;
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện khả năng
hoạt động tâm sinh của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo
ra những thông tin mới phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng
động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những
ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản
chất, quy luật khách quan, xây dựng các hình tưởng, tri thức trong các hoạt động của
con người.
+Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng không còn y nguyên như thế giới khách quan đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức,
nhu cầu, v.v…) của con người. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
+Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học
mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của đời sống xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. - Kết cấu của ý thức.
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ
bản nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri
thức, tình cảm ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có
thể bao gồm các yếu tố khác.
lOMoARcPSD|44862240
Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận và
vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất ý thức tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ
đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a.Vai trò của VC đối với ý thức:
- VC là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người nên
khi có con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới VC.
- VC là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý
thức là bản thân thế giới VC, hoặc là những dạng tồn tại của VC.
- Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC, là
hình ảnh về thế giới VC.
- VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những
yếu tố VC ( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết
định sự vận động, phát triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.
- Ví dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường dựa trên cơ sở hoạt động sinh lí thần
kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý
thức cũng bị rối loạn.
b. Vai trò của ý thức đối với VC:
- Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý
thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu,
đề ra phương hướng, nhằm thực hiện mục tiêu của mình.
- Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:
Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách
quan, cải tạo được thế giới.
Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành
động đi ngược lại qui luật khách quan.
- Ý thức có thể quyết định hành động của con người.
- Ví dụ: Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất
của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng
đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói “ Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong mọi hoạt động nhận thưc và thực tiễn, phải: Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
- Phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện để xác định mục đích, đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức
chúng thành lực lượng VC để hành động.
lOMoARcPSD|44862240
- Phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con
người: Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ và truyền bá
tri thức khoa học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để hình
thành, củng cố nhân sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
- Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí,
chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo
thủ, trì trệ, thụ động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
d. Vận dụng đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam
nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ
quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật
và cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế .
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên do sự lạc hậu, yếu kém về luận, do
tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự
vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự
nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan. Bài học mà Đảng ta đã nêu ra ,
trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách
quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội có tính chất quá độ .
Trong bỗi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời sống vật chất,
đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng ta chủ trương “phát triển
kinh tế là trung tâm”, “làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
“Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, không ngừng bồi
dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước, phát huy đầy
đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận thức, cải tạo và phát triển xã
hội.
Hiện nay, trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi
Đảng ta không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng,
tranh thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước ta trãi qua.
Câu 4: Phân tích nguyên lí mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận đối với
công cuộc đổi mới
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
lOMoARcPSD|44862240
-Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những
mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và
phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế
giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật và hiện
tượng khác, đều chịu sự tác động, sự quy định các hiện tượng và các sự vật khác, không sự
vật nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật và các hiện tượng khác.
- Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, yếu tố và các giai đoạn phát
triển khác nhau của mỗi sự vật đều có tác động, quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm
tiền đề tồn tại cho mình.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) cái vốn của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ thể nhận thức vận dụng các mối liên hệ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
-Tính phổ biến của các mối liên hệ.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng
hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải
một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên
trong của nó.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Các sự vật, hiện tượng khác nhau đều những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị
trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, những giai đoạn
khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng những tính chất
vai trò khác nhau.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhậnthức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức xử các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề
lOMoARcPSD|44862240
của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu
hình trong nhận thức và thực tiễn.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải
kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thứcxử các tình huống trong
hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức
tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn hiệu quả trong việc xử các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận
thức và thực tiễn không những cần phải tránh khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình
mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
- Liên hệ việc vận dụng các quan điểm trên trong cuộc sống lao động , học tập
của bản thân.
d. Vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
+ Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, tư tưởng…) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như Đại hội VII của Đảng nêu kinh
nghiệm bước đầu đổi mới “Một là phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới,
hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi hình thức và cách làm phù
hợp”. Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã
hội. Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ
chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường để tạo ra động lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế
trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư và trình độ cũng như vốn của nước ngoài, nâng cao tay
nghề, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN
ngày càng đi lên hội nhập toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào sự nghiệp cách mạng VN đặc biệt là vận dụng nguyên lý của
mối liên hệ phổ biến.
Câu 5: Phân tích nguyên lí về sự phát triển và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt
Nam
a. Khái niệm về phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ sự tăng,
giảm thuần túy về lượng, không sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời,
cũng xem sự phát triển quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước
quanh co phức tạp.
- Trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật
theo khuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm “vận động” (biến đổi) nói
chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến
lOMoARcPSD|44862240
đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà còn bao hàm cả sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
- Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự
vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
- + Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực.
- Giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố làm nảy sinh các hợp chất phức
tạp,xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu.
- Giới hữu cơ thể hiện ở khả năng thích nghi.
- Vấn đề xã hội: sự phát triển của tư duy thể hiện khả năng con người làm chủ thế giới.
b. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết
mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách
quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi
quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực
hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
b. Ý nghĩa phương pháp luận
-
-
-
-
c. vận
dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam
- Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của
thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá
trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết,
đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và
đang đạt những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung
ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách,
mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần
Trong nhận thức và hành động thực tiễn phải có quan điểm phát triển khi xem xét đánh
giá các hiện tượng, phải đặt chúng trong sự vận động, sự biến đổi.
Phải nhìn thấy cái mới, xu thế tất yếu của sự phát triển, có thái độ ủng hộ cái mới tạo
điều kiện cho cái mới ra đời.
Quan điểm phát triển là cơ sở và niềm tin cho thái độ lạc quan khoa học của người cách
mạng.
Cần chống lại quan điểm nóng vội duy ý chí muốn xóa bỏ cái cũ khi chưa có đủ điều
kiện, quan điểm bảo thủ trì trệ gây cản trở cho sự phát
triển.
lOMoARcPSD|44862240
thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường
quốc trên thế giới.
- Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho
thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này
cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn
ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại
khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định
“CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trãi
qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó
là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Câu 6: Quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của nhà nước ta
Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại là qui luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển
trong tự nhiên, XH và tư duy.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật chỉ biến đổi về lượng chứ không biến đổi về chất.
Quan điểm duy vật cho rằng sự vật biến đổi về cả lượng và chất.
a. Khái niệm chất, lượng :
Chất dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng ; là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. Con người chỉ có khả năng
nhận thức chứ không thay đổi được chất.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc
tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi
thì chất của nó thay đổi.
Chất còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua những
mối liên hệ cụ thể.
Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
Lượng dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, qui mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật.
Vậy chất và lượng là 2 phương diện khác nhau của cùng 1 sự vật, hiện tượng, hay 1 quá
trình nào đó trong tự nhiên, XH và tư duy. Lượng là lượng của chất, chất được thể hiện thông
qua lượng. Lượng và chất tồn tại khách quan.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng :
Trong 1 sự vật bao giờ cũng có sự gắn bó chặt chẽ giữa lượng và chất. Trong quá trình vận
động, lượng biến đổi liên tục, ít nhiều ảnh hưởng đến chất.
Độ : là giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi. Sự vật hiện tượng vẫn còn
là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
lOMoARcPSD|44862240
Điểm nút : là điểm đánh dấu khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhât định sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất.
Bước nhảy : dùng để chỉ sự thay đổi của chất : sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút,
với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau : lớn và nhỏ, cục bộ
và toàn bộ, tự phát và tự giác, dần dần và đột biến,...
Về qui mô :
Bước nhảy cục bộ : là thay đổi từng mặt, từng phần và dẫn đến thay đổi toàn bộ bước
nhảy toàn bộ.
Bước nhảy toàn bộ : là thay đổi toàn diện.
Về nhịp điệu :
Bước nhảy dần dần : là bước nhảy diễn ra từ từ, dẫn đến sự biến hóa XH bước nhảy đột
biến.
Bước nhảy đột biến : diễn ra nhanh chóng
Khi chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và
lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối
quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn.
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song
không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc,
mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ
khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về
chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến
điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay
thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại
xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách
thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá
trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận
động, phát triển.
+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách
thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra
một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định
này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận :
lOMoARcPSD|44862240
- Phải coi trọng cả chất và lượng của sự vật, tạo nên nhận thức toàn diện về sự vật. Không
được tuyệt đối hóa vai trò của lượng hoặc chất. Chỉ biến đổi về lượng thì là bảo thủ, chỉ
biến đổi về chất thì là chủ quan duy ý chí.
- Tùy mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật ; đồng thời có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng
của sự vật.
- Trong công tác thực tiễn, cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh ( bất chấp qui luật,
chủ quan, duy ý chí) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh ( bảo thủ, trì trệ).
- Trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Cần nâng cao tính tích cực chủ động
của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất 1 cách hiệu quả nhất.
D. vận dụng của nhà nước ta
Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội xây dựng quan hệ
sản xuất một thành phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần
kinh tế khác bị coi là một bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải
tạo, xóa bỏ, làm như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ SX đi quá xa so với trình độ phát triển của
lượng lực sản xuất. Tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một
bên là quan hệ sản xuất đã được xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Hay nói cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém,chưa tích lũy đủ về lượng (tính chất
và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ sản xuất) làm cho đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoàng kinh tế - xã hội.
Nhờ có nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của phát
triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, kiên trì
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và
tích cực tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực
và hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng
tốt vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao
năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh đạo và kiểm tra về phát
triển kinh tế.
Câu 7: Quy luật thống nhất và mâu thuẫn của mặt đối lập, ý nghĩa liên hệ với công cuộc
đổi mới ở nước ta
- Vị trí của qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là qui luật mâu thuẫn)
qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng, là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc bên
trong, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển.
lOMoARcPSD|44862240
a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất
đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau. Đây quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với quan
niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn cái đối lập phản
lôgich, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
- K hái n i ệ m m ặt đối lập dùng để c hỉ những m ặ t, những thuộc tính, những
k h u y nh hư ớ ng v ận động t r ái ngư ợ c nhau nhưng đồng th ờ i lại là đi ề
u ki ệ n , ti ề n đề
tồn tại c ủa nha u. Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng
hóa dị hóa của một thể sống, sản xuất tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của
hội, chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức, v.v…
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sinh vật.
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan : Mâu thuẫn là tự nó và được sinh ra từ sự vận động
đấu tranh của các mặt đối lập. Nó tồn tại độc lập bên ngoài ý thức, vận động và phát
triển theo những quy luật của chính nó.
Mâu thuẫn có tính phổ biến: Trong cả sự sống và tư duy, mâu thuẫn thường xuyên
nảy sinh và tự giải quyết. Mâu thuẫn trong sự sống: “ Một sinh vật trong mỗi lúc vừa là
nó nhưng vừa là cái khác… khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống không còn nữa và cái
chết xảy đến…”
Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể
bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử,
cụ thể khác nhau. Các mâu thuẫn giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và
phát triền của sự vật, hiện tượng, Đó là mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không
cơ bản, chủ yếu và thứ yếu,… Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn
với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự biểu hiện của mâu
thuẫn.
b) Quá trình vận động của mâu thuẫn: Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và
sự phát triển
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với
nhau, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Các mặt
đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan phổ biến trong tự nhiên, hội và
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duyphản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn
gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải ngẫu nhiên, chủ quan,
cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgich hình thức là sai
lầm trong tư duy. Sự thống nhất :
- Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Khái
niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau,
quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.
lOMoARcPSD|44862240
- Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố
giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý
nghĩa đó,” sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “ đồng nhất” của các mặt
đó. - Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến
một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song
đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân
bằng của các mặt đối lập. Sự đấu tranh:
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
- Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính
chất,vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu
tranh giữa chúng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là
tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất(…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng
như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
- Đấu tranh diễn ra ngay trong cơ thể thống nhất của sự vật, hiện tượng, Chính thế thống nhất
đó là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh diễn ra không ngừng. Chừng nào thể thống nhất đó
chưa bị phá vỡ thì đấu tranh giữa các mặt đối lập vẫn còn tiếp diễn. Đấu tranh làm cho thể
thống nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới ra đời, đồng thời với nó là sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời thay thế.
- Đấu tranh là một quá trình diễn ra phức tạp, quá trình đó có thể chia thành nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng, thông thường lúc đầu các mặt đấu tranh chưa gay
gắt với nhau. Nhưng trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, đấu tranh giữa các mặt đối lập
diễn ra ngày càng gay gắt và quyết liệt. Cuối cùng, các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau
trong những điều kiện nhất định. Sự chuyển hóa các mặt đối lập diễn ra theo hai hướng:
+ Các mặt đối lập chuyển đổi vị trí cho nhau cùng phát triển
+ Các mặt đối lập cùng chuyển trang dạng mới cao hơn
Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới ; sự vật cũ mất đi sự vật mới
ra đời thay thế.
V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên,
không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự
vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật .
Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
c) Phân loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài.
lOMoARcPSD|44862240
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.d) Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu
thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của
sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự
nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó… đó là thực chất… của phép biện chứng”.
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết mâu
thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn
và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần
phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất
định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu
thuẫn một cách đúng đắn nhất.
- Phương pháp giải quyết mâu thuẫn: Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải
quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải
phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều
kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn
khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết
mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều
kiện cụ thể..
e. Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta
Như vậy, trong điều kiện lịch sử của thời kỳ quá độ, V. I. Lê-nin đã không ngừng làm phong
phú và phát triển học thuyết mác-xít về mâu thuẫn lên một tầm cao mới, xây dựng cơ sở khoa
học vững chắc cho đường lối lãnh đạo cách mạng của các đảng cộng sản trên thế giới. Đối với
Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con đường hoàn toàn mới nhưng “phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (16). Do đó, cần có sự vận dụng
một cách sáng tạo học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói chung và những tư tưởng của V. I.
Lênin về nhận định và giải quyết các mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nói riêng vào điều kiện nước ta để tạo ra động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể trên một số vấn đề sau đây:
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là
một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi ảo tưởng về một thế giới không có
mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. Lê-nin đã dạy: “tính chất biện chứng của sự phát triển xã
hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn” (17). Những mâu thuẫn tồn tại
trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để xã hội luôn luôn vận động và phát triển
đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất, phân tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu
thuẫn không phải là phủ nhận, tìm cách xóa bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu,
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển. Mâu
thuẫn xã hội chỉ có thể được giải quyết khi đã đến độ chín muồi và những điều kiện tồn tại
của nó không còn trong xã hội. Đó là một quá trình khách quan không phụ thuộc ý muốn chủ
lOMoARcPSD|44862240
quan của con người. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển khi con người
nhận thức được nó và có cách giải quyết đúng đắn.
Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn giữa
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là mặt đối lập với
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại trong tàn dư của
xã hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong công cuộc đổi mới. Mâu thuẫn cơ
bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh vực chính trị là mâu thuẫn giữa chủ thuyết
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu
và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa quá trình hoàn
thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha hóa, xuống cấp về văn
hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa tăng trưởng
kinh tế và mục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu thuẫn
giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện của hệ thống tổ
chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu với tình
trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng với đó, ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa
dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế có lợi ích khác biệt. Tất nhiên, sự đối lập
đó chỉ có tính chất cục bộ, còn sự thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính chỉnh thể của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường “có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,
hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật...” (18).
Những nhận thức đó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V. I. Lê-nin về phương pháp
kết hợp các mặt đối lập. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong suốt thời
kỳ quá độ ở Việt Nam, về bản chất, là thừa nhận sự đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Song, do nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn được xem là một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy đã và đang đem lại hiệu quả tích cực, góp phần
to lớn vào thành tựu của 30 năm đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, vận dụng tư tưởng của V. I. Lê-nin phải phân biệt rõ giữa mâu thuẫn đối kháng và
mâu thuẫn không đối kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn.
Trong xã hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không đối kháng.
Đó là mâu thuẫn giữa các giai tầng, các nhóm xã hội có lợi ích cục bộ, tạm thời khác biệt. Để
giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa
thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng sức mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề
xây dựng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, việc nhận thức và giải quyết các mâu
thuẫn không đối kháng trên cơ sở thống nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu,
góp phần hoàn thiện nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một động lực to lớn để phát
triển xã hội.
Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ta không phải đã mất đi. Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn đối lập “một mất, một còn”
với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch cũng
hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy, trong suốt thời kỳ quá độ,
lOMoARcPSD|44862240
cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa các lực lượng đối kháng này chính là quá
trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn đối kháng.
Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã hội là
thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Cùng với những cống hiến của V. I. Lê-nin, học thuyết mác-xít về mâu thuẫn được
bồi đắp, phát triển lên một tầm cao mới. Việc vận dụng, nhận định, phân tích, làm rõ các mâu
thuẫn xã hội ở Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ
nghĩa Mác về mâu thuẫn trong đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa
xã hội./.
Câu 8:
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính LS-XH của con người
nhằm cải biến tự nhiên và XH.
Trong đó:
HĐVC là HĐ con người tham gia vào, tác động vào thế giới nói chung với mục
đích duy trì sự tồn tại và phát triển của con người trong XH, sản xuất ra XH.
Thực tiễn là phương thức cơ bản của HĐ, HĐ là thông điệp giữa con người và con
vật.
HĐ mang tính LS-XH vì gắn liền với môi trường quan hệ XH, vì HĐ có sự vận
động, phát triển. HĐ thực tiễn qui định cho tính chất khác nhau của các thời đại LS.
3 hình thức cơ bản của thực tiễn:
HĐSXVC: là hình thức HĐ cơ bản, đầu tiên của thực tiễn,chi phối những HĐ thực
tiễn khác, là HĐ con người sử dụng những công cụ LĐ tác động vào thế giới tự nhiên để
tạo ra của cải VC nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
HĐ chính trị XH: là HĐ của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong XH
nhằm cải biến những quan hệ chính trị XH để thúc đẩy XH phát triển.
HĐ thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của HĐ thực tiễn, ngày càng có vai
trò quan trọng trong sự phát triển XH, đặc biệt trong thời kì CM khoa học và công nghệ
hiện đại. Đây là HĐ được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và XH nhằm xác định những qui luật
biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu, giúp con người rút ngắn quá trình nhận
thức, nâng cao hiệu quả của LĐSX và cải tạo phục vụ XH.
HĐ chính trị XH và HĐ thực nghiệm khoa học 1 mặt phục vụ cho HĐSXVC, mặt
khác kiềm hãm hoặc thúc đẩy HĐSXVC. Sự tác động qua lại này làm cho HĐ thực tiễn
vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối với HĐ nhận thức.
b. Nhận thức và các trình độ nhận thức
Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn , nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan
đó.
lOMoARcPSD|44862240
Chủ thể và khách thể là các yếu tố cơ bản của nhận thức. Khách thể nhận thức quyết
định chủ thể nhận thức.
Các trình độ nhận thức:
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự
vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, XH hay trong các thí nghiệm khoa học.Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa
học.
Nhận thức lí luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc
khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:
Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lí luận.
Nhận thức lí luận không hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lí luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn
những kinh nghiệm hợp lí để phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ
trong hoạt động hằng ngày của con người, phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả
những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Nó mang tính
phong phú và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hằng ngày nên có vai trò thường
xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong XH.
Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự giác và gián tiếp từ sự
phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu diễn ra dưới
dạng trừu tượng, logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật khoa học. Nó vừa có
tính khách quan, trừu tượng, khái quát, vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân
thực. Nó có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa
học và công nghệ hiện đại.
Mối quan hệ giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
Nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu
để xây dựng nội dung của các khoa học.
Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển,
tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
Tóm lại, nhận thức phải là 1 quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình
độ nhận thức lí luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.
Đi từ cảm tính đến lí tính.
lOMoARcPSD|44862240
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vì thực tiễn là điểm xuất phát
trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và
phát triển của nhận thức.
- Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy nhận
thực phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức,chẳng hạn:từ nhu cầu chữa trị
các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con người khám phá ra bản đồ gen
người...,từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người sáng
tạo ra các kính hiển vi.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm phục vụ hoạt
động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn.
-Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của quá trình nhận thức.
vì các tri thức của con người đc khái quát,tổng kết chưa chắc đã đúng do vậy các tri thức ấy
phải đc kiểm tra đối chứng
trong thực tiễn nếu đó là đúng thì đó là chân lý.
- Nhận thức giúp con người nâng cao giá trị sống, để nâng cao giá trị sống thì phải kinh
qua thực tiễn.
Tuy nhiên, nhận thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ với thực tiễn:
Nhận thức giúp con người nắm bắt những thuộc tính, qui luật, bản chất của sự vật, hiện
tượng, từ đó đề ra những phương án để giải quyết nó.
Nhận thức phản ánh đúng hiện thưc khách quan, tác động vào hiện thực, cải tạo hiện
thực, nếu phản ánh sai hiện thực khách quan thì sẽ ngăn cản quá trình cải tạo hiện thực. d. Ý
nghĩa phương pháp luận:
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực
tiễn.
Mọi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lí luận phải liện hệ thực tiễn (vì thế học
phải đi đôi với hành). Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn hay vai trò của nhận thức.
Phát huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại
khoa học công nghệ hiện nay. Thực tiễn mà không có lí luận khoa học sẽ là thực tiễn mù
quáng. Trong hoạt động Đảng, xa rời thực tiễn sẽ mắc bệnh giáo điều, máy móc, quan liêu.
Tóm lại nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lí luận là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
thực tiễn và hoạt động lí luận.
Do vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và tác động trở lại của nhận thức đối với thực
tiễn, triết học Mác Lênin đề ra nguyên tắc thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn, trong đó
thực tiễn có ý nghĩa quyết định.
Tuy nhiên, có lúc thực tiễn mâu thuẫn với nhận thức. Khi nhận thức không phù hợp với thực
tiễn, ta phải thay đổi nhận thức. Ta phải xuất phát từ hiện thực vì thực tiễn cao hơn nhận
thức và lí luận, nhưng không hạ thấp vai trò nhận thức mà phải tạo điều kiện thúc đẩy nhận
| 1/35