Đề tài Làng Nam Bộ | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Đề tài Làng Nam Bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

Thông tin:
23 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề tài Làng Nam Bộ | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Đề tài Làng Nam Bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học tốt, ôn tập hiệu quả, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.

31 16 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|44862240
lOMoARcPSD|44862240
DANH SÁCH NHÓM
Mở đầu:
Đối với một nền văn hóa gốc nông nghiệp điển hình như Việt Nam thì tổ chức
nông thôn là lĩnh vực quan trọng nhất. Nó chi phối cả truyền thống tổ chức quốc
gia lẫn đô thị, cả diện mạo xã hội lẫn tính cách con người. Vậy thì các bạn hãy
cùng mình đi tìm hiểu nội dung về tổ chức nông thôn nha.
1.2. Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng
Những người sống gần nhau có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm
của lối liên kết này là khái niệm LÀNG, XÓM.
ST
T
HỌ VÀ TÊN MÃ SỐ SINH VIÊN
1 Huỳnh Lê Thanh Huyền (Nhóm trưởng) 21092961
2 Nguyễn Bảo Thuỵ Khanh 21076081
3 Nguyễn Hoàng Khải 21066401
4 Nguyễn Đăng Khoa 21041251
5 Tiêu Nhật Khiêm 21013561
6 Nguyễn Vĩnh Khang 21115921
7 Nguyễn An Khải 20009651
8 Trần Gia Khang 21072321
lOMoARcPSD|44862240
Hình: Làng xóm Việt Nam
Việc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú cũng chính là bước thứ hai trong lịch sử
phát triển của làng xã Việt Nam: Khi công xã thị tộc tan rã và chuyển thành công
xã nông thôn thì các thành viên của làng không chỉ gắn bó với nhau bằng các quan
hệ máu mủ mà còn gắn bó cả bằng những quan hệ sản xuất. (đây cũng là lí do cho
câu hỏi ở dưới.) Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất này ở việt Nam khác hẳn ở
phương Tây.
Câu hỏi: Vì sao hàng xóm thường có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau?
Ở phương Tây, các gia đình sống gần nhau cũng có quan hệ với nhau, nhưng họ
sống theo kiểu trang trại, quan hệ lỏng lẻo, phần nhiều mang tính chất xã giao. K.
Mark đã từng nhận xét một cách dỉ dỏm rằng nông thôn phương Tây là “cái bao tải
khoai tây” (mà trong đó mỗi gia đình là 1 củ khoai tây!). Ở Việt Nam thì khác: thứ
nhất, để đối phó với môi trường tự nhiên, đáp ứng nhu cầu đông người của nghề
trồng lúa nước mang tính thời vụ, người dân Việt Nam truyền thống không chỉ cần
đẻ nhiều mà còn làm đổi công cho nhau. Thứ hai, để đối phó với môi trường xã hội
(nạn trộm cướp...), cả làng phải hợp sức mới có hiệu quả. Chính vì vậy mà người
Việt Nam liên kết với nhau chặt chẽ tới mức bán anh em xa, mua láng giềng gần.
lOMoARcPSD|44862240
Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc Một gọt máu đào hơn ao nước lã: Người
Việt Nam không thể thiếu được anh em họ hàng, nhưng đồng cũng không thể thiếu
được bà con hàng xóm. (này là lí do của câu hỏi trên) Mặt tích cực :
- Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú dựa trên quan hệ hàng ngang,
theo không gian.
- nguồn gốc của tính dân chủ, bởi lẽ muốn giúp đỡ nhau, muốn
quan
hệ lâu dài thì phải tôn trọng, bình đẳng với nhau.
- Đó là loại hình dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc; trong lịch sử, nền dân
chủ nông nghiệp này trước nền dân chủ tư sản của xã hội phương Tây.
Mặt trái:
- Tính dân chủ bình đẳng kéo theo mặc trái là thói dựa dẫm ỷ lại và thói đố kị, cào
bằng.
1.3 Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường, Hội
Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp; tuy nhiên nhiều làng
có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, họ liền kiết chặc chẽ với nhau,
khiến cho nông thôn Việt Nam có thiêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ chức
theo nghề nghiệp, tạo thành đơn vị gọi là PHƯỜNG. Ở nông thôn có thể gặp hàng
loạt phường như phường gốm làm sành sứ, phường nề là nghề xây cất, phường
chài làm nghề đánh cá, phương vải làm nghề dệt vải, rồi những phường nón,
phương giấy, phường mộc, phường thợ tiện, phường đúc đồng...
Bên cạnh phường để liên kết những người cùng nghề, ở nông thôn Việt Nam và
mở rộng ra là xã hội Việt Nam nói chung, còn có HỘI là tổ chức nhằm liên kết
những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: Hội tư văn liên kết các văn cùng
làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong làng không ra làm quan, hội võ phả
liên kết những người theo nghề võ, hội bô lão liên kết các cụ ông, hội chư bà liên
kết các cụ bà đi chùa, rồi hội vật, hội tổ tôm, hội chọi gà, hội cờ tướng, v.v.
“Phường” và “hội” rất gần nhau, nhưng phường thì mang tính chất chuyên sâu hơn
và bao giờ cũng giới hạn trong quy mô nhỏ.
Cũng giống như tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, tổ chức theo nghề nghiệp
và sở thích là sự liên kết theo chiều ngang, cho nên đặc trưng của phường hội là
lOMoARcPSD|44862240
tính dân chủ - những người cùng phường hội có trách nhiệm tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau.
Câu hỏi: Hình thức buôn bán theo phường nào còn tồn tại trong giai đoạn
hiện nay?
1.4 Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới : Giáp
1.4.1 Khái niệm và Đặc điểm
Đây là hình thức tổ chức có lẽ xuất hiện muộn sau này. Nó tạo nên các đơn vị gọi
là GIÁP. Đứng đầu giáp là ông cai giáp (câu đương); giúp việc cho các cai giáp là
các ông lềnh – liền nhất, liền hai, liền ba (từ chữ lệnh mà ra).
Đặc điểm của Giáp là:
lOMoARcPSD|44862240
- Chỉ có đàn ông tham gia
- Mang tính chất “cha truyền con nối”, cha ở giáp nào thì con cũng vào giáp ấy.
Trong nội bộ giáp phân biệt ba lớp tuổi chủ yếu: ti ấu (từ nhỏ đến 18 tuổi), đinh
(hoặc tráng: đinh = đứa; tráng = khỏe mạnh) và lão.
Câu hỏi: Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới : Giáp đã ảnh hưởng
như thế nào đến văn hóa của người Việt?
1.4.2 Tục lên não
Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp
lên lão. Thông thường tuổi lên lão 60
có nơi 49,50,55 . Tuy nhiên, nhiều làng có lệ
riêng quy định tuổi lên lão 55 hoặc 50.
Thậm chí làng hạ tuổi lên lão xuống 49,
bởi lẽ 49 thường tuổi hạn, tỗ chức lên lão
sớm cho chắc chắn.
Lên lão là lên ngồi chiếu trên, được cả giáp,
cả làng trọng vọng.
Cách tổ chức nông thôn theo “giáp” ra đời muộn, nhưng nó lại xây dựng trên
nguyên tắc trọng tuổi già là truyền thống rất lâu đời. Sở dĩ như vậy là vì, khác với
nền văn hóa gốc du mục trọng sức mạnh, dân nông nghiệp sống phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên cần những người có kinh nghiệm, mà càng già thì càng
giàu.
1.4.3 Hiện trạng
các cộng đồng dân tộc miền núi, nơi hầu như không chịu ảnh ởng của văn
hóa của Trung Hoa, từ ngàn xưa đến tận ngày nay già làng, hội đồng già làng vẫn
thực sự nắm toàn bộ quyền hành. vùng người Việt (miền xuôi), quyền hành thực
sự trong làng đã được chuyển giao cho lớp trẻ hơn; tuy nhiên, truyền thống trọng
lão vẫn được duy trì người ta vẫn kính lão đắc thọ; kính già, già để tuổi cho. Khi
làng có việc, các cụ già tùy theo tuổi tác, được ngồi ngan hàng với các quan viên
của cư
lOMoARcPSD|44862240
1.4.4 Ý nghĩa
Giáp tổ chức mang nh hai mặc vừa được tổ chức theo chiều dọc (theo
lớp tuổi), lại vừa tổ chức theo chiều ngang (những người cùng làng). Cho nên, một
mặc, giáp mang tính tôn ti, một môi trường tiến thân bằng tuổi tác: sống lâu
lên lão làng. Mặt khác, giáp lại cũng tính dân ch: tất cả các thành viên cùng
lớp tuổi điều bình đẵng như nhau, cứ đến tổi ấy thì sẽ có địa vị ấy.
1.5 Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã
Về mặt hành chính, làng được gọi là xã (đôi khi một xã cũng có thể gồm vài làng),
xóm được gọi là thôn (đôi khi một thôn cũng có thể gồm vài xóm). Nông thôn
Nam Bộ còn có ấp (ấp – xã thôn lập ra ở nơi mới khai khẩn hoặc thôn ở biệt lập).
chức sắc; quy định phổ biến là các cụ già 60 tuổi ngang với tú tài, 70 tuổi ngang
với cử nhân, 80 tuổi ngang với tiến sĩ. Có nơi tôn xưng gọi các cụ già là quan lão.
Vị trí do tuổi tác mang lại gọi là xỉ tước (xỉ = răng – người già gãy răng) hoặc thiên
tước (tước vị trời cho).
lOMoARcPSD|44862240
Trong xã, sự phân biệt rõ rệt nhất là phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư (còn gọi
là dân nội tịch và dân ngoại tịch).
+ Dân chính cư là dân gốc ở làng ấy, có đủ quyền lợi
+ Dân ngụ cư là dân từ nơi khác đến trú ngụ, luôn bị khinh rẻ.
Sự đối lập này không phải là con đẻ của chế độ phong kiến như người ta thường
nghĩ mà chính là sản phẩm của cơ chế văn hóa nông nghiệp: đó là một phương tiện
duy trì sự ổn định của làng xã. Nó nhằm hạn chế việc người nông dân bỏ làng đi ra
ngoài, cũng như hạn chế không cho người ngoài vào sống ở làng. Bất kì ai, ở bất
làng nào, nếu bỏ làng mình ra đi thì sẽ không đâu dung nạp, sẽ rơi vào thân phận
đáng sợ của dân ngụ cư.
lOMoARcPSD|44862240
Việc phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư như một công cụ để duy trì sự ổn định
của làng xã còn thể hiện rõ ở những điều kiện cho phép chuyển dân ngụ cư thành
dân chính cư. Muốn chuyển thành dân chính cư, dân ngụ cư phải thỏa mãn 2 điều
kiện: đã cư trú ở làng từ 3 đời trở lên và phải có ít điền sản (tài sản dưới dạng ruộn
đất). Điều kiện thứ nhất đảm bảo con cháu kẻ ngụ cư đã yên tâm với cuộc sống ở
đây. Điều kiện thứ hai đảm bảo sự gắn bó với đất đai – ruộng đất không dễ gì bỏ
vào túi mà mang theo như tiền được.
Câu hỏi: Dân chính cư gồm mấy hạng và đó là những hạng nào ?
Dân chính cư trong xã chia làm 5 hạng:
lOMoARcPSD|44862240
1) Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc phẩm
hàm;
2) Chức dịch gồm những người đang làm việc trong
xã;
3) Lão gồm những người thuộc hạng lão trong các
giáp;
4) Đinh gồm những trai đinh trong các
giáp;
5) Ti ấu hạng trẻ con của các
giáp.
- Hai hạng trên cùng – chức sắc, chức dịch (và một phần hạng thứ ba – những
người cao tuổi nhất trong hạng lão) tạo thành một bộ phận gọi là quan viên
hàng xã.
- Quan viên hàng xã thường lại chia thành ba nhóm: kì mục, kì dịch (lí dịch) và
kì lão.
+ Nhóm kì lão bao gồm những người cao tuổi nhất trong xã đóng vai trò tư vấn cho
hội đồng kì mục.
lOMoARcPSD|44862240
+ Nhóm kì mục (ở miền Bắc và Trung gọi là Hội đồng kì mục, do Tiên chỉ và Thứ
chỉ đứng đầu; ở các thôn ấp Miền Nam sau này gọi là hội tề, do Hương cả đứng
đầu) có trách nhiệm bàn bạc tập thể và quyết định các công việc của xã.
+ Nhóm kì dịch, hay lí dịch thường do hội đồng kì mục cử ra, có nhiệm vụ thi hành
mọi quyết định của hội đồng kỳ mục.
- Trực tiếp làm việc, tiếp xúc với dân, với quan trên là lí dịch. Đối tượng quản lí
chủ yếu của lí dịch là ba hạng dân bên dưới – lão, đinh và ti ấu – đó chính là
ba lớp tuổi trong các giáp, do các giáp cai quản. Chính nhờ biết dựa vào giáp
như một tổ chức truyền thuống hoàn toàn tự nguyện và rất ổn định (do mang
tính cha truyền con nối) nên bộ máy hành chính các làng xã Việt Nam cổ
truyền rất gọn nhẹ.
- Đứng đầu ban lí dịch là Lí trưởng (hay Xã trưởng); dưới ông ta có phó lí (giúp
việc), Hương trưởng (lo việc công ích) và Trương tuần (thay Xã tuần, lo việc
an ninh tuần phòng).
- Phương tiện quản lí chủ yếu của lí dịch chỉ có hai loại sổ - sổ đinh và sổ
lOMoARcPSD|44862240
điền: một tay nắm nhân lực (trai đinh), và một tay nắm kinh tế (ruộng đất).
Cách thức tổ chức bộ máy hành chính xã thôn Việt Nam như vậy đã được hình
thành dần dần như một sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển văn hóa dân tộc.
1.6 Tính cộng đồng và tính tự trị - Hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt
Nam
Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng bao trùm nhất của làng xã; tồn tại
song song như hai mặt của vấn đề.
1.6.1 Tính cộng đồng
- Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người
đều hướng tới những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.
- Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào
biết làng ấy, các làng tồn tại biệt lập với nhau và độc lập với triều đình phong
kiến.
- Tính cộng đồng chú trọng vào sự ĐỒNG NHẤT:
cùng họ
đồng tộc
cùng tuổi đồng
niên
cùng nghề là đồng
nghiệp
cùng làng đồng
hương
- Biểu tượng truyền thống tính cộng đồng là sân đình – bến nước – cây đa.
Là một
trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc quan trọng, nơi hội họp, thu
sưu thu thuế, nơi giam giữ và xử tội phạm nhân.
Là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức hội hè, ăn uốn, nơi biểu diễn chèo
tuồng.
Là trung tâm về mặt tôn giáo (thế đất hướng đình được xem là quyết định
vận mệnh cả làng đình cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng bảo trợ dân làng).
Cái đình biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương
diện:
lOMoARcPSD|44862240
Là một trung tâm về mặt tình cảm gắn bó thân thương nhất (được thể hiện
qua câu ca dao qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói thương
mình bấy nhiêu...)
Bến nước (ở những làng không có sông chảy qua thì có giếng nước) là
chỗ hàng ngày chị em gặp gỡ nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ,
truyện trò. (trước kia đình là nơi tụ tập của tất cả mọi người do ảnh
hưởng văn hóa Trung Hoa nên phụ nữ bị đẩy ra khỏi đình).
lOMoARcPSD|44862240
Cây đa biểu tượng đầu làng cũng là cánh cửa liên thông làng với thế
giới bên ngoài (cây đa là cổ thụ mọc um tùm dưới gốc cây có miếu
thờ lúc nào cũng khói hương nghiên ngút – đó là nơi hội tụ của thánh
thần: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề; Sợ thần sợ cả cây đa.
Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ của những
người đi làm đồng, những khách qua đường)
lOMoARcPSD|44862240
- Hệ quả tốt :
+ Tinh thần đoàn kết tương trợ;
+ Tính tập thể hòa đồng; +
Nếp sống dân chủ bình đẳng; -
Hậu quả xấu :
+ Sự thủ tiêu vai trò cá nhân;
+ Thói dựa dẫm, ỷ lại;
+ Thói cào bằng, đố kị;
1.6.2 Tính tự trị
- Tính tự trị là một đặc điểm lớn của làng xã Việt Nam truyền thống, đó là “tự
điều chỉnh - tự điều khiển của làng xã trong quá trình vận động của kinh tế xã
hội”, đó là đặc trưng âm tính, hướng nội.
- Biểu tượng của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao kính quanh làng, trở thành thứ
thành lũy bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được, đào hẩm thì
lOMoARcPSD|44862240
vướng rễ. (đây là đặc điểm riêng biệc khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách
đắp bằng đất bao bọc).
- Tính tự trị nhấn mạnh vào
SỰ KHÁC BIỆT.
Khởi đầu
là:
Sự khác biệt của cộng đồng (làng, họ) này so
với cộng đồng (làng, họ) khác.
Sự khác biệt sở của tính tự trị- tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi
làng, mỗi tập thể hoạt động độc lập với tập thể khác, phải tự lo liệu lấy mọi
việc.
- Hệ quả tốt
+ Tinh thần tự lập
+ Tính cần cù
+ Nếp sống tự cấp tự túc
- Hậu quả xấu
+ Óc tư hữu, ích kỉ
+ Óc bè phái, địa phương
+ Óc gia trưởng tôn ti
So sánh tính cộng đồng và tính tự trị
lOMoARcPSD|44862240
lời:
TÍNH CỘNG ĐỒNG (+) TÍNH TỰ TRỊ (-)
  
  !"#$%"&'( )*$%"&
+,"- ./0%1"&%/2 3245
6789:;<; = ;>' = ;>?
"#4-? = ;@>A?
= ;@+BC? = DE 
= DEF/10 GH
IH
6J989:K9 = .L,4B = M"N,%@O?
/? = M1P%
= ;QFFR*%S(? "#?
= ;Q'1T%EH = M4"UVLH
1.7 Làng Nam Bộ
Trước tiên mình sẽ khái quát về làng nam bộ
- Nam Bộ là vùng đất nằm ở cuối cùng đất nước về phía Nam, trọn vẹn lưu vực
củahai dòng sông Đồng Nai và Cửu Long, mà lại là phần hạ lưu của hai dòng
sông.
lOMoARcPSD|44862240
Vậy thì thôn ấp nam bộ có đặc trưng chung là gì?
- Đặc trưng chung của thôn ấp Nam Bộ là tính mở, không có lũy tre, cổng làng.
- Ở vùng đất cao (gọi là miệt giồng), bờ tre chỉ là biểu tượng đánh dấu ranh giới
các ấp thôn; ở vùng sông nước (miệt sông), thôn ấp trải dài dọc theo các kênh
rạch.
- Thành phần dân cư của làng Nam Bộ thường hay biến động, người dân không
bị gắn chặt với quê hương như ở làng Bắc Bộ => tính cách phóng khoáng, dễ
tiếp nhận những ảnh hưởng ở bên ngoài hơn.
- Lý do:
+ Đầu tiên để giải thích cho việc dân cư của làng nam bộ hay biến động vì Nơi đây
còn nhiều miền đất chưa khai phá, nên là người dân có thể rời làng tìm đến chỗ dễ
làm ăn hơn.
+ Tính cách phóng khoáng là do thiên nhiên Nam Bộ ưu đãi, khí hậu ổn định, hầu
như ít gặp thiên tai bất thường. Dễ tiếp cận hơn những ảnh hưởng từ bên ngoài của
văn hóa phương Tây.
lOMoARcPSD|44862240
+ Việc tổ chức thôn ấp theo các dòng kênh, các trục giao thông thuận tiện là sản
phẩm của thời đại, khi kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển.
- Tuy nhiên, dù hay biến động người dân Nam Bộ vẫn sống thành làng với thấp
thoáng bóng tre, họ vẫn giữ nếp sống cần cù và coi trọng tính cộng đồng, yếu tố
làng xóm vẫn được coi trọng và ưu tiên.
Hình 1.7.1 : Làng quê Nam Bộ
lOMoARcPSD|44862240
Hình 1.7.2: Người dân Nam Bộ
- Làng xã của Nam Bộ cũng có đình làng. Đình làng của Nam Bộ cũng thờ
Thành Hoàng.Tuy nhiên, Thành Hoàng bôn cảnh ở Nam Bộ là nhiên thần, chỉ
có danh hiệu mà không có sắc phong thần của triều đình.
lOMoARcPSD|44862240
Hình : Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng ở Nam Bộ
- Ở làng xã Nam Bộ cũng tổ chức Hội làng để mừng bội thu hay trong dịp Tết để
mong một năm mới sung túc. Các hội làng Nam Bộ còn mang những nét văn
hóa riêng của các thành phẩn dân cư ở đây. Tiêu biểu có thể kể đến như: Hội bà
Xứ núi Sam, lễ Tết Khmer Chol Chnam Thmay.
| 1/23