-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đề tài thảo luận: Vai trò của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam
Đề tài thảo luận: Vai trò của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam
Môn: Đầu tư quốc tế
2 tài liệu
Trường: Đại học Thương Mại
373 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|25518217
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
VAI TRÒ ODA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM Học phần
: Đầu tư quốc tế
Lớp học phần : 231_FECO1921_02
Nhóm thực hiện : 2
Giảng viên giảng dạy : Nguyễn Thị Thanh Hà Nội - 2023 1
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN STT Họ và tên Mã sinh viên Công việc Điểm 11 Nguyễn Thị Dung 21D130200 Nội dung 12
Nguyễn Thị Kim Dung 21D130245 Nội dung 13 Lô Thị Thuỳ Duyên 21D130156 PPT 14 Nguyễn Thị Thuỳ 21D130157 Tổng hợp word; sửa Dương ( Leader) bài;phân chia công việc. 15 Nguyễn Thuỳ Dương 21D130202 Thuyết trình 16 Nông Xuân Đức 21D130248 Nội dung 17 Nguyễn Quỳnh Giang 21D130114 Nội dung 18 Lê Đặng Việt Hà 21D150113 Nội dung 19 Phạm Thị Thu Hà 21D130204 Nội dung 20 Phùng Thị Hà 21D130250 Nội dung 1
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217 MỤC LỤC
1. Giới thiệu .................................................................................................................... 3
2. Cơ sở lý luận ............................................................................................................... 3
2.1 Khái niệm và đặc điểm của ODA ......................................................................... 3
2.2 Vai trò của ODA đối với nước nhận đầu tư ......................................................... 5
3. Thực trạng dòng vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam ...................................... 9
3.1 Lượng vốn ODA Nhật Bản ................................................................................... 9
3.2 Chính sách ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam và những dự án nổi bật
hiện nay qua từng phân ngành. ............................................................................... 13
4. Vai trò của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam ....................................................... 19
5. Hạn chế của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam ..................................................... 31
6. Kết luận và kiến nghị .............................................................................................. 32
6.1 Kết luận ................................................................................................................ 32
6.2 Kiến nghị ............................................................................................................. 33 2
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217 1. Giới thiệu
ODA viết tắt của Official Development Assistance, là viện trợ phát triển chính
thức tài trợ cho các nước nghèo và các nước đang phát triển, nhằm giúp các nước này
thúc đẩy phát triển kinh tế, giảm nghèo và cải thiện môi trường sinh thái thiên nhiên.
Nguồn vốn này bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam khi Việt Nam được công nhận là một
nước có thu nhập thấp và đủ điều kiện nhận ODA. Kể từ thời điểm đó đến nay, ODA
không chỉ được coi như một nguồn ngoại lực quan trọng mà còn có những đóng góp to
lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Bên
cạnh đó là những đóng góp mang ý nghĩa căn bản và lâu dài như nâng cao trình độ khoa
học, công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn
FDI, góp một phần không nhỏ vào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam nhận được nguồn vốn ODA từ nhiều nhà tài trợ khác nhau hỗ trợ vào
công cuộc xây dựng, phát triển một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của Việt Nam, có
thể kể đến như IDA, ADB, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Úc, Đan Mạch,…trong đó nổi bật
nhất là từ Nhật Bản. Đối với Việt Nam, nguồn vốn ODA Nhật Bản là nguồn ODA lớn
nhất và lâu dài nhất, chiếm trên 30% viện trợ phát triển song phương từ năm 1992 đến
nay; khẳng định mối quan hệ hợp tác phát triển song phương Việt - Nhật như một trụ
cột quan trọng, là cầu nối, là chất xúc tác cho các lĩnh vực hợp tác khác giữa hai nước
cùng phát triển. Những minh chứng rõ nét nhất cho hiệu quả hợp tác trong thời gian qua
có thể kể đến như các dự án: Cầu Thăng Long, Cầu Nhật Tân, Sân bay Nội Bài, Đường
cao tốc Bắc - Nam, Nhà máy điện Ninh Thuận 2, Trung tâm y tế quốc tế Bạch Mai và
Viện Pasteur TP.HCM. Ngoài ra, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng chia sẻ: “Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc đối với một
số chương trình, dự án, đòi hỏi hai bên phải nỗ lực nhiều hơn nữa để giải quyết”. Ông
tin tưởng hai bên với sự nỗ lực chung, sẽ cùng đưa quan hệ hợp tác phát triển giữa hai
nước phát triển hơn nữa trong thời gian tới. 2. Cơ sở lý luận
2.1 Khái niệm và đặc điểm của ODA a, Khái niệm
ODA – là viết tắt của từ Official Development Assistance, bao gồm các khoản viện
trợ không hoàn lại, hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức
thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và
kém phát triển nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội. 3
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217 b, Đặc điểm
ODA có 4 đặc trưng sau: tính ưu đãi, tính ràng buộc, mang lại lợi ích cho cả bên
tài trợ và bên nhận tài trợ, và có khả năng gây nợ.
Đặc điểm thứ nhất, vốn ODA mang tính ưu đãi:
- Dòng vốn ODA thường có thời gian cho vay dài, thời gian ân hạn dài và lãi suất
vay thấp hơn lãi suất thương mại. Vì vậy ODA còn được gọi là cho vay “mềm” hay cho vay ưu đãi.
- Mức ưu đãi của khoản vay được thể hiện qua một chỉ tiêu là “Thành tố cho không
của khoản vay”, hay còn gọi là thành tố viện trợ không hoàn lại, viết tắt là GE, grant
element. Nó được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và mức lãi suất
vay. Thông thường, thời gian ân hạn càng dài, thời hạn cho vay càng dài, lãi suất vay
càng thấp, thì thành tố cho không của khoản vay càng cao.
Ví dụ: ODA của Nhật Bản dành cho các quốc gia LDCs: Lãi suất 0.01%; Thời hạn
trả nợ 40 năm, bao gồm 10 năm ân hạn.
Đặc điểm thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc:
ODA có thể là ràng buộc một phần, ràng buộc toàn bộ hoặc không ràng buộc nước
nhận. Mỗi nước cấp viện trợ có thể đưa ra những ràng buộc khác nhau, thông thường có 2 dạng:
Một là, ràng buộc bởi nguồn sử dụng: bên cấp viện trợ quy định vốn ODA được
sử dụng để mua sắm hàng hoá, dịch vụ của một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc
kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc từ các công ty của các nước thành viên
(đối với viện trợ đa phương).
Hai là, ràng buộc bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng nguồn vốn ODA cho
một số mục đích nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
Ví dụ: STEP - Special Terms for Economic Partnership (Điều khoản đặc biệt dành
cho đối tác kinh tế). Điều kiện chính của STEP:
1) Nhà thầu chính: là các công ty Nhật hoặc liên doanh giữa công ty Nhật và
công ty của nước tiếp nhận vốn.
2) Không dưới 30% hàng hoá, dịch vụ sẽ có xuất xứ từ Nhật Bản
Đặc điểm thứ ba, nguồn vốn ODA thường mang lại lợi ích cho cả nước cấp viện
trợ và nước nhận viện trợ. Từ khi ra đời cho đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục
tiêu cùng tồn tại song song: 4
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở những nước
đang và kém phát triển, do đó nó mang lại lợi ích cho nước nhận viện trợ. Các khoản
vay ODA thường được sử dụng để giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu như bảo vệ
môi trường, biến đổi khí hậu, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, phát triển cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo... tại các nước đang và kém phát triển.
Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị và lợi ích kinh tế của các nước tài
trợ. Thông qua ODA, nước cấp viện trợ có thể củng cố vị trí và ảnh hưởng của mình tại
các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Đồng thời, nó cũng có thể thúc đẩy dòng chảy
hàng hoá, dịch vụ và dòng vốn đầu tư từ nước cấp viện trợ sang nước nhận viện trợ, từ
đó mang lại lợi ích kinh tế cho họ..
Đặc điểm thứ 4, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần
thường không thấy ngay. Tuy nhiên, có thể nói rằng: Với mỗi khoản viện trợ, nhà tài trợ
thì “cho và được” còn nước nhận tài trợ thì “được và nợ”. Vì vậy, cần thận trọng mỗi
khi nhận một khoản ODA và cân nhắc sử dụng nó sao cho hiệu quả để tăng sức mạnh
kinh tế và khả năng xuất khẩu, bởi vì việc trả nợ phải dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ.
2.2 Vai trò của ODA đối với nước nhận đầu tư
Thứ nhất, ODA giúp bổ sung nguồn vốn khan hiếm trong nước.
Tất cả các nước khi tiến hành công nghiệp hóa đều cần lượng vốn đầu tư rất lớn.
Đây chính là trở ngại lớn nhất để thực hiện các chương trình CNH ở các nước đang và
kém phát triển, vì các nước này thường đối mặt với vấn đề thiếu hụt vốn, do tỷ lệ tiết
kiệm thấp so với nhu cầu đầu tư cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu không có
nguồn vốn từ nước ngoài thì các nước LDCs sẽ vướng vào vòng luẩn quẩn của nghèo
đói, tức là tăng trưởng thấp, dẫn tới thu nhập thấp, rồi tiết kiệm thấp, do đó đầu tư thấp
và lại tiếp tục tăng trưởng thấp. Vòng lặp cứ tiếp tục, khiến cho sự tăng trưởng của các
nước này rất chậm chạp.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn này thì cần phải có “cú huých từ bên ngoài”. Tức là các
quốc gia này cần thu hút các các dòng vốn đầu tư nước ngoài (của cả tư nhân và chính
phủ các nước), mang theo vốn, công nghệ, chuyên gia...để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh hơn.
Tuy nhiên, các nước LDCs rất khó thu hút dòng vốn tư nhân như là đầu tư trực tiếp
nước ngoài FDI khi nền kinh tế chưa phát triển. Vì vậy, ODA với lợi thế ưu đãi cao cho
các nước thu nhập thấp trở thành nguồn vốn quan trọng, bổ sung cho vốn đầu tư trong
nước. Đặc biệt là các dự án ODA đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng đòi hỏi lượng vốn lớn. 5
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Thứ hai, ODA giúp hỗ trợ cán cân thương mại và cán cân thanh toán, bổ sung
nguồn ngoại tệ khan hiếm.
Tại các nước đang và kém phát triển, thâm hụt cán cân thương mại và thiếu hụt
ngoại tệ là vấn đề thường gặp phải, do nhu cầu nhập khẩu lớn đặc biệt là các hàng hoá,
máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được, trong khi đó giá trị xuất khẩu thường
thấp do chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô. Sự thâm hụt CCTM dẫn tới thiếu hụt ngoại
tệ, và viện trợ ODA bằng ngoại tệ giúp khắc phục một phần vấn đề này.
Theo một số nghiên cứu, Viện trợ nước ngoài ODA nên được chuyển đến những
quốc gia có hạn chế về cán cân thanh toán trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nên
được hướng đến để tăng tiết kiệm trong nước. Do đó, viện trợ nước ngoài và đầu tư trực
tiếp nước ngoài sẽ được xem xét để giảm bớt sự thiếu hụt của thu nhập xuất khẩu và tiết
kiệm trong nước, một cách tương ứng.
Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc gia chi nhiều hơn
thu nhập của mình cũng như tiết kiệm ít hơn đầu tư và ngược lại.
Thứ ba, vốn ODA giúp cân đối ngân sách nhà nước: Nhiều quốc gia, đặc biệt là
các nước đang và kém phát triển đối mặt với vấn đề bội chi.
NSNN hay còn gọi là thâm hụt NSNN (là tình trạng khi tổng chi tiêu của NSNN
vượt quá các khoản thu của NSNN). Để khắc phục vấn đề này thì có thể thực hiện các
biện pháp tăng thu, giảm chi; thứ hai là vay nợ cả trong và ngoài nước. Vốn ODA giúp
hỗ trợ một phần thâm hụt này.
Thực tế, thời gian qua nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi có đóng góp quan trọng
cho rất nhiều dự án đầu tư công ở Việt Nam. Tính trung bình giai đoạn 2011-2019, vốn
vay ODA và vốn vay ưu đãi đã đóng góp 34,09% vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước.
Thứ tư, vốn ODA hỗ trợ cung cấp các hàng hoá công cộng
Hàng hóa công cộng là loại hàng hóa mà tất cả mọi thành viên trong xã hội có thể
sử dụng chung với nhau và thường được chính phủ đảm nhận việc cung cấp, tức là cần
sử dụng nguồn ngân sách nhà nước. HHCC tiêu biểu thường là CSHT kinh tế xã hội
(đường xá, hệ thống điện, y tế, giáo dục,...).
Hệ thống CSHT tốt sẽ tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội, vì vậy được chính
phủ các nước rất quan tâm đầu tư, và cũng mong muốn tư nhân tham gia cung cấp hàng hóa này.
Tuy nhiên, đầu tư vào cơ sở hạ tầng yêu cầu vốn lớn, tính sinh lời thấp, thời gian
thu hồi vốn lâu, nên khó thu hút tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này, nên Chính phủ thường 6
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
phải đảm nhiệm cung cấp. Nếu có thu hút tư nhân thì thông qua hình thức hợp tác công tư PPP.
Do tính chất ưu đãi, vốn ODA thường dành cho đầu tư CSHT kinh tế xã hội. Dòng
vốn ODA không chỉ giúp cung cấp vốn cho các dự án xây dựng CSHT, mà còn mang
theo công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của nước cấp viện trợ.
Thứ năm, vốn ODA hỗ trợ chuyển giao công nghệ, trợ giúp kỹ thuật, và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của nước tiếp nhận vốn
Các nước công nghiệp phát triển có lợi thế về công nghệ, cũng như là kinh nghiệm
tổ chức quản lý dự án. Vì vậy, khi cung cấp vốn ODA cho một số dự án cũng đồng thời
cử chuyên gia tư vấn và thực hiện chuyển giao công nghệ cho đối tác địa phương, như
máy móc công nghệ mới để xây dựng các công trình lớn, kinh nghiệm quản lý tiến độ thi công dự án…
Các lĩnh vực như đường sắt đô thị, sân bay, cảng biển lớn, các trường nghề, trường
đại học theo tiêu chuẩn quốc tế...thường có nhu cầu vốn vay nước ngoài có kèm theo
kiến thức, công nghệ, quy trình quản lý mới, từ đó tạo điều kiện nâng cao năng lực và
kinh nghiệm cho các đối tác địa phương, và lao động của nước tiếp nhận vốn, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế của quốc gia.
Bên cạnh đó, ODA giúp các nước nhận viện trợ tiếp thu các thành tựu khoa học,
công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực thông qua các dự án về huấn luyện, đào
tạo chuyên môn, nhằm tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao, đóng góp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của nước nhận viện trợ.
Các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật giao cho JICA thực hiện
gồm 3 loại: (i) nhận người sang học tập, đào tạo kỹ thuật tại Nhật hoặc ở nước thứ ba;
(ii) cử chuyên gia Nhật sang các nước chuyển giao hiểu biết, công nghệ và xây dựng
khung thể chế cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội cho các nước đang và kém phát
triển; (iii) cung cấp thiết bị và vật liệu. Ngoài ra, “Hợp tác kỹ thuật theo từng dự án”
thuộc các lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá, y tế...
Thứ sáu, ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và thúc đẩy đầu tư trong nước
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước,
trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Họ cảnh giác
với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư.Một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ
thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu,
hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. 7
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Vốn ODA thường được tập trung vào hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng (giao
thông, thông tin liên lạc, năng lượng…) là những hạng mục cần vốn lớn và khả năng
ngân sách nhà nước không đủ. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng
sức hút dòng vốn FDI. Bởi vì, nó giúp giảm chi phí hoạt động đầu tư cũng như là tăng hiệu quả đầu tư.
Đồng thời, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung vào các công
trình sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận.
Bên cạnh CSHT thì chất lượng nguồn nhân lực, năng lực thể chế và năng lực quản
trị của cơ quan chính quyền đều có ảnh hưởng tới khả năng thu hút các dòng vốn tư nhân
trong nước cũng như nước ngoài. Do đó, việc tận dụng dòng vốn ODA để cải thiện các
yếu tố thuộc môi trường đầu tư sẽ có tác động lan tỏa tới khả năng thu hút vốn.
Tóm lại, ODA không chỉ là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang
và kém phát triển mà còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn nước ngoài FDI,
cũng như tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước, góp phần thực hiện
thành công chiến lược hướng ngoại.
Các vai trò khác: giúp các nước đang và kém phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
xoá đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững...
- Các nước đang phát triển thường đối mặt với nhiều thách thức như dân số tăng
nhanh, sản xuất tăng chậm và cung cách quản lý kinh tế, tài chính kém hiệu quả, dẫn tới
nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết các
vấn đề này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với
ngân hàng thế giới, IMF và các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách điều chỉnh cơ
cấu. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai
trò trung tâm sang định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Ví dụ, Nhật Bản đã
cấp viện trợ không hoàn lại nhằm hỗ trợ cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở châu Phi
và các nước khác. Trong 3 năm từ 1987 đến 1989, Nhật đã cấp 61,7 tỷ Yên để hỗ trợ
hoàn thiện cơ cấu kinh tế cho 26 nước châu Phi.
- ODA và SDGs: Hội nghị Thượng đỉnh Phát triển bền vững của LHQ vào tháng
9 năm 2015 đã đặt ra các mục tiêu phát triển bền vững SDGs. Và các nước phát triển và
các tổ chức quốc tế đang nỗ lực sử dụng ODA để giải quyết các vấn đề toàn cầu đang
nổi lên, với quyết tâm mạnh mẽ rằng “không ai bị bỏ lại phía sau”. Theo đó, các khoản
vay ODA đang được tích cực sử dụng để hỗ trợ 17 mục tiêu phát triển bền vững nhằm
thúc đẩy chất lượng tăng trưởng, kiến tạo một xã hội hòa bình, an toàn, đồng thời ứng
phó với các vấn đề toàn cầu. 8
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
3. Thực trạng dòng vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam
3.1 Lượng vốn ODA Nhật Bản
Viện trợ nước ngoài của Nhật Bản cho Việt Nam bắt nguồn từ việc bồi thường
chiến tranh vào năm 1959 khi Tokyo ký hiệp ước bồi thường chiến tranh với miền Nam
Việt Nam. Điều 14 của hiệp ước hòa bình San Francisco buộc Nhật Bản phải bồi thường
thanh toán cho các nước bị quân Nhật chiếm đóng (Shiraishi, 1990). Nguyên nhân đằng
sau việc Tokyo cung cấp khoản bồi thường cho chính quyền Sài Gòn là vì ý định của
Mỹ nhằm loại trừ ảnh hưởng của Cộng sản ra khỏi khu vực Đông Nam Á và chính quyền
Hà Nội do đảng cộng sản kiểm soát và chính là nhà nước chính thức hiện nay ở Việt
Nam. Tổng cộng, Nhật Bản cung cấp 55,6 triệu USD, gồm 39 triệu USD và 16,6 triệu
USD dưới hình thức tài trợ và cho vay tương ứng. Do xung đột vũ trang giữa Việt Nam
và Campuchia, Nhật Bản đình chỉ viện trợ Việt Nam vào những năm 1980, nhưng lại
tiếp tục viện trợ vào đầu năm 1992 sau khi Việt Nam hoàn thành giải quyết tranh chấp.
Từ năm 1995, Nhật Bản là nước tài trợ lớn nhất cho Việt Nam và đóng góp vào sự phát
triển của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Kể từ khi Nhật Bản nối lại Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) cho Việt Nam vào
năm 1992, Chính phủ Nhật Bản đã và đang tích cực hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, cải
thiện chính sách và thể chế thông qua Hợp tác kỹ thuật cũng như xây dựng và trang bị
cơ sở hạ tầng giao thông, cung cấp điện v.v. thông qua Hợp tác tài chính (bao gồm các
khoản vay ODA và Viện trợ không hoàn lại) với mục tiêu đóng góp cho sự phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam. Kể từ khi bắt đầu cung cấp ODA, đặc điểm nổi bật của
ODA Nhật Bản chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa Hợp tác kỹ thuật và Hỗ trợ tài chính
nhằm đảm bảo sự hợp tác toàn diện và tính bền vững của các dự án.
Sau hơn 30 năm, kể từ năm 1992 đến nay, với trên 2.700 tỷ Yên ODA vốn vay,
gần 100 tỷ Yên viện trợ không hoàn lại và xấp xỉ 180 tỷ Yên hỗ trợ cho hợp tác kỹ thuật,
viện trợ ODA của Nhật Bản chiếm trên 30% viện trợ phát triển song phương dành cho
Việt Nam, đưa Nhật Bản trở thành nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam trong số
các nước thành viên OECD. Hiện nay, JICA đang thực hiện tại Việt Nam hơn 100 dự
án trên nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, giao thông, năng lượng, nông nghiệp…
Dưới đây là sơ đồ các dự án của JICA đang thực hiện tại Việt Nam. 9
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Có 32 dự án ODA Nhật bản đang được thực hiện được phân bổ đều trải dài từ Bắc vào
Nam với nhiều lĩnh vực như giáo dục, giao thông và y tế, cơ sở hạ tầng, môi trường…
Nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản cho Việt Nam (Giai đoạn 2013-2022) Đơn vị: Triệu USD Năm ký kết Vốn vay ODA 2013 6853.83 2014 4450.78 2015 3972.15 2016 5555.574 2017 3640.09 2018 2001.1 2019 463 10
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217 2020 550.328666 2021 242.495042 2022 126.291733
Nguồn: OECD và tạp chí tài chính
Từ năm 2009, Việt Nam chính thức vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế, song, cũng đặt ra bài toán khi
nguồn vốn ODA được cung cấp bởi các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ không còn
dồi dào. Từ năm 2013 đến năm 2017, tổng số vốn đầu tư ODA dao động mạnh nhưng
với chiều hướng giảm nhẹ.
Trong một vài năm gần đây thì vốn ODA mà Nhật Bản hỗ trợ cho Việt Nam đang
có chiều hướng giảm mạnh . Do Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình nên
nguồn vốn hỗ trợ phát triển hiện đã dần dần giảm xuống, điều kiện vay ưu đãi ngày càng
trở nên khắt khe hơn. Cụ thể, năm 2013 nguồn vốn ODA từ Nhật Bản đã giảm mạnh từ
6.8 tỷ USD xuống còn 2001.1 triệu USD năm 2018 và xuống mức 126 triệu USD năm 2022.
ODA Nhật Bản triển khai các dự án hỗ trợ tùy theo mức độ phát triển của Việt
Nam. Giai đoạn 2103-2017, lượng vốn ODA Nhật Bản tập trung xây dựng hạ tầng xã
hội để phát triển kinh tế, nâng cao cuộc sống cho người dân, chú trọng vào các hỗ trợ hạ
tầng như xây dựng đường xá giao thông, hệ thống pháp luật….
Giai đoạn 2018-2022, khi Việt Nam có năng lực nhất định trong việc phát triển
kinh tế và xã hội thì lượng vốn ODA Nhật Bản thay đổi cách tiếp cận trong các dự án
hỗ trợ khác như lĩnh vực y tế: triển khai hỗ trợ cho các cơ sở y tế như Bệnh viện Chợ
Rẫy TP HCM, BV Bạch Mai (Hà Nội), Bệnh viện TW Huế trong việc xây dựng hoàn
thiện hạ tầng cũng như cử chuyên gia sang để hỗ trợ Việt Nam trong việc vận hành và
điều hành các bệnh viện này.
Những năm gần đây, cụ thể:
Theo báo cáo của JICA, từ tháng 4 đến tháng 9-2019, có 28 dự án vốn vay ODA
được triển khai tại Việt Nam, không ký kết Hiệp định vay vốn mới nào. Tổng giá trị vốn
vay đã giải ngân (Gross) là 588,2 triệu USD. Dự án Hợp tác Kỹ thuật có một dự án đã
hoàn thành, 33 dự án đang triển khai, trong đó có hai dự án mới. Ngoài ra, bốn dự án
viện trợ không hoàn lại, 55 dự án chương trình đề xuất từ các doanh nghiệp Nhật Bản
và 28 chương trình đối tác phát triển… 11
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Trong nửa đầu năm 2019, JICA đã ký Biên bản Hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam (VASS); ký Biên bản Hợp tác ba bên với Tổ chức Xúc tiến Thương
mại Nhật Bản (JETRO) và UBND tỉnh Nghệ An… Thông qua các hợp tác này, JICA sẽ
hỗ trợ xây dựng kế hoạch ở cấp Trung ương và địa phương, đồng thời tìm kiếm cơ hội
xây dựng những dự án phù hợp.
Trên thực tế, nhiều dự án ODA mới về hợp tác kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại
do JICA thực hiện đã được ký kết và đang triển khai thuận lợi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
vấn đề tồn đọng chưa được giải quyết như: một số dự án vốn vay ODA đã được ký kết
từ năm 2018 vẫn chưa thể thực hiện; vấn đề chậm thanh toán trong các dự án đang triển
khai… Có thể kể đến dự án đường sắt đô thị tại TP Hồ Chí Minh, do vấn đề chậm thanh
toán nên dự án đang vướng phải một số khó khăn để tiếp tục triển khai.
Đến năm 2020, dịch Covid-19 bùng nổ mạnh mẽ, lượng vốn ODA Nhật Bản đạt
hơn 550 triệu USD tập trung vào các lĩnh vực y tế cung cấp và hỗ trợ vaccine cho Việt
Nam và đặc biệt Việt Nam tiếp nhận vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN và là thành
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đóng góp tích cực thúc đẩy
hòa bình, an ninh, phát triển và tiến bộ trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần
phát huy vai trò tiên phong trong các vấn đề mang tính toàn cầu như: Biến đổi khí hậu,
Bảo hiểm Y tế Toàn cầu (UHC), Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). Các dự án của
JICA quan tâm đến yếu tố môi trường. Đồng thời, JICA sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam
hoàn thiện khung pháp lý về môi trường…
Năm 2021 và 2022, nguồn vốn ODA tiếp tục các hoạt động hỗ trợ Việt Nam trong
đối phó với dịch bệnh COVID-19 và phục hồi kinh tế trong bối cảnh đại dịch COVID-
19. Bên cạnh đó, JICA sẽ thúc đẩy các hợp tác mới trong lĩnh vực nông nghiệp, quản
trị, chuyển đổi số (DX), hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân đầu tư thông qua nguồn vốn
cho vay đầu tư hải ngoại… nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam.
Năm 2023, tăng trưởng GDP của quý I và nửa đầu năm 2023 cũng ghi nhận ở mức
thấp 3,32% và 3,72% cho thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của các chính sách hỗ
trợ và thúc đẩy chi tiêu công của Chính phủ để kích thích nền kinh tế. Do đó, khoản hỗ
trợ ngân sách chung này sẽ cung cấp cho Chính phủ Việt Nam nguồn vốn ưu đãi cao để
thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ hậu Covid-19 đã
được Quốc hội thông qua.
Khoản vay ODA Nhật Bản trị giá 41,3 nghìn USD cho vào linh vực hạ tầng giao
thông tại Bình Dương. Dự án này đóng góp vào Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs)
số 9 (Công nghiệp, Đổi mới và Cơ sở hạ tầng). 12
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Nhật Bản ký kết ba thỏa thuận vay ODA trị giá 434,395 nghìn USD với Việt Nam.
Khoản vay ODA cuối cùng 31.4 nghìn USD cho Dự án “Cải thiện cơ sở hạ tầng nhằm
phát triển nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng (Giai đoạn 1)”. Dự án là một mô hình quan trọng
trong hợp tác nông nghiệp giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Định hướng thời gian tới, Chính phủ Việt Nam sẽ thúc đẩy việc xây dựng Chiến
lược Phát triển Kinh tế – Xã hội (SEDS) đến năm 2030 và Kế hoạch Phát triển Kinh tế
– Xã hội (SEDP) đến năm 2025. JICA sẽ chú trọng đến Dự án hỗ trợ các chiến lược dài
hạn đó của Chính phủ Việt Nam. Đó cũng là cơ hội, dự án JICA cũng tính tới việc hỗ
trợ các dự án mang tính tiềm năng và dài hạn này. Cùng với những chuyển biến mạnh
mẽ trong cục diện chính trị, kinh tế thế giới và bối cảnh Việt Nam tăng trưởng vượt trội,
hỗ trợ ODA cũng cần phải thay đổi để phù hợp với tình hình mới.
3.2 Chính sách ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam và những dự án nổi bật
hiện nay qua từng phân ngành.
Những dự án Nhật Bản cho vay đều có lãi suất thấp, thời gian dài, công nghệ tốt
và hiệu quả kinh tế cao.
Cụ thể năm đầu năm 2023, những khoản vay ODA mới chỉ làm thủ tục trong vòng
1 năm là có thể giải ngân. Đây là chính sách đặc biệt Nhật Bản dành cho Việt Nam, báo
hiệu một thời kỳ mới mở ra trong mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước.
Nhật Bản có khả năng cung cấp vốn vay ODA cho các dự án phát triển hạ tầng quy
mô lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển của Việt Nam, nhất là việc triển khai 3 đột phá chiến
lược, trong đó có đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.
Về cơ bản, chính sách ODA của Nhật Bản đối với Việt Nam được tập trung ưu
tiên vào những lĩnh vực chính sau đây:
1- Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Bởi vì, phát triển cơ sở hạ
tầng và đào tạo tốt nguồn nhân lực là hai nhân tố căn bản đầu tiên để thúc đẩy công nghiệp hóa phát triển.
VD: Dự án “Cải tạo hạ tầng giao thông công cộng tỉnh Bình Dương”.
Ngày 4/7/2023, tại Hà Nội, cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) vừa cung
cấp khoản vay cho Việt Nam trị giá hơn 61 tỷ yên (khoảng 10.670 tỷ đồng) cho 3 dự án.
JICA cho biết 3 dự án trong khoản vay ODA lần này liên quan đến phục hồi kinh
tế sau đại dịch, cải tạo hạ tầng giao thông và phát triển nông nghiệp. Đây là 1 trong 3 13
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
thỏa thuận vay mà JICA vừa ký với Chính phủ Việt Nam để cung cấp khoản vay ODA
với tổng trị giá lên tới 60.983 triệu Yên.
Dự án cải tạo hạ tầng giao thông công cộng tỉnh Bình Dương thuộc dự án nhóm A
có tổng vốn đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng, trong đó dự kiến nguồn vốn vay hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) Nhật Bản hơn 1.300 tỷ đồng, nguồn vốn đối ứng của tỉnh hơn 700 tỷ đồng.
Dự án này sẽ phát triển hệ thống xe buýt nhanh kết nối giao thông Bình Dương -
TP.HCM - Đồng Nai, tạo tiền đề để phát tri mở ển hệ thống giao thông định hướng dọc
tuyến Metro. Dự án bao gồm một số hạng mục chính như 06 cầu vượt tại các nút giao
lớn trên đường Mỹ Phước - Tân Vạn (là tuyến đường chính nối Bình Dương - TP.Hồ
Chí Minh). Đồng thời, dự án sẽ triển khai tuyến buýt nhanh (BRT) kết nối giữa Thành
phố mới Bình Dương và ga Suối Tiên, dài hơn 30km. Dự án được triển khai trong giai đoạn 2019-2025.
Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông công cộng tỉnh Bình Dương sẽ giảm bớt
ùn tắc giao thông, tăng cường kết nối giữa các thành phố thông qua cải thiện cơ sở hạ
tầng giao thông, nối thành phố mới Bình Dương và nhà ga Suối Tiên của Tuyến đường
sắt đô thị số 1 TP.HCM.
2- Hỗ trợ phát triển ngành giao thông vận tải và điện lực. Đây là hai ngành có ý
nghĩa như là hạ tầng cơ sở kinh tế.
VD: Dự án “Xây dựng nhà máy nhiệt điện Thái Bình và đường dây truyền tải điện”
Dự án xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình và các đường dây truyền tải điện
(IV), một trong ba dự án sử dụng vốn ODA được Chính phủ Việt Nam ký với Cơ quan
Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) với tổng giá trị là 36,392 tỷ Yên để hỗ trợ cho dự án
xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình và các đường dây truyền tải điện.
Theo đó, phía Việt Nam sẽ xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy than có công
suất 600 MW, sử dụng than trong nước, đồng thời xây dựng đường dây truyền tải điện
220kV ở tỉnh Thái Bình để đáp ứng nhu cầu điện năng trong khu vực.
Ngoài mục tiêu giảm chi phí về nhiên liệu, dự án này sẽ giúp giảm tổn thất điện
trong quá trình truyền tải đường dài và đảm bảo hiệu năng cung cấp điện, đáp ứng cân
bằng cung cầu điện năng, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng cường khả năng
cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.
Dự án dự kiến hoàn thành vào tháng 5 năm 2018 sẽ góp phần ổn định nguồn cung
cấp điện trên toàn quốc thông qua việc giảm phụ thuộc lớn vào nguồn thủy điện hiện 14
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
chiếm tỉ lệ 50,2%, và góp phần cung cấp điện ổn định, đặc biệt là vào mùa khô khi
lượng nước dành cho hoạt động của các nhà máy thủy điện suy giảm.
3- Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn. Cải thiện các điều
kiện sản xuất và đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp là những chú ý hàng đầu, để có thể
tạo ra một năng xuất trong công nghiệp hóa cao hơn.
VD: Dự án "Hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông nghiệp của tỉnh Lâm Đồng với các tiểu dự
án trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi và trung tâm giao dịch hoa". được cam kết vào 4/7/2023.
Bên cạnh Thỏa thuận vay hỗ trợ ngân sách, Bộ Tài chính và Cơ quan Hợp tác quốc
tế Nhật Bản cũng triển khai ký kết 2 thỏa thuận vay cho các dự án đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng của 2 tỉnh Bình Dương và Lâm Đồng. Cụ thể, khoản vay cho Dự án Cải thiện
cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp tại tỉnh Lâm Đồng (giai đoạn 1) trị giá trên 4,7 tỷ
yên (tương đương 829 tỷ đồng) có mục tiêu hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông nghiệp của tỉnh
Lâm Đồng với các tiểu dự án trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi và trung tâm giao dịch hoa.
Đây là khoản vay thuộc Chương trình ODA thế hệ mới được triển khai trên cơ sở
cam kết của Thủ tướng Chính phủ hai nước Việt Nam và Nhật Bản với lãi suất ưu đãi
nhất từ trước đến nay, theo cơ chế giải ngân nhanh, hòa đồng trực tiếp vào ngân sách
nhà nước. Các khoản vay vốn ODA lần này được triển khai với thủ tục nhanh chóng, kể
từ khi Thủ tướng Chính phủ hai nước cam kết cho đến khi hoàn thành ký thỏa thuận vay
chỉ trong vòng 1 năm. Dự án hướng tới mục tiêu cao hơn là nâng cao thu nhập cho người
nông dân và đẩy mạnh công nghiệp hóa ngành nông nghiệp.
4- Ưu tiên cho giáo dục, sức khỏe và dịch vụ y tế. Đây là những điều kiện trực
tiếp tác động tới việc nâng cao đời sống của nhân dân và tạo điều kiện cho phát triển
trong tương lai. Trong đó, chú ý tới tài trợ cho việc cải thiện công tác giảng dạy, thông
qua cung cấp thiết bị và xây dựng các trường học, …
VD: Dự án “Tăng cường môi trường giáo dục để phát triển nguồn nhân lực có
tiềm lực cạnh tranh cho ngành CNTT tại Hà Nội”.
Dự án do phía Việt Nam (Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam) và
phía Nhật Bản (Tổ chức phi lợi nhuận Sapporo IT Front) đầu tư. Dự án được thực hiện từ 2/2014 - 1/2017.
Với nhu cầu ngày càng cao trên toàn thế giới về ngành công nghệ thông tin, chính
phủ Việt Nam đã coi đào tạo cho ngành công nghệ thông tin là một quốc sách. Tuy nhiên
do các cơ sở đào tạo vẫn còn thiếu kinh nghiệm về đào tạo nhân lực nên hiện tại vẫn còn 15
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
thiếu rất nhiều kỹ sư công nghệ thông tin có tiềm lực cạnh tranh. Để cải thiện tình trạng
này, dự án tập trung vào việc biên soạn chương trình, tài liệu giảng dạy cho các kỹ sư
công nghệ thông tin có chất lượng cao và trong tương lai hy vọng sẽ tạo ra một cơ chế
đào tạo tốt nhờ việc sử dụng các tài liệu giảng dạy này. Thiết lập một hệ thống giáo dục
để đào tạo các kỹ sư công nghệ thông tin có tiềm lực cạnh tranh và có vị thế chủ chốt,
lâu dài trong ngành công nghệ thông tin của Việt Nam.
Dự án đã thành công trong việc đào tạo ra những kỹ sư công nghệ thông tin có
tiềm lực cạnh tranh, nâng cao trình độ cho các cán bộ giảng dạy, thiết lập một hệ thống
giáo dục tự quản, phát triển chương trình đào tạo, tài liệu giảng dạy cho hệ thống đào tạo.
VD: Dự án “Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hậu Covid- 19”
Trong 3 thỏa thuận vay, JICA cung cấp khoản vay ODA là 50.000 triệu yên (tương
đương 8.750 tỷ đồng) cho Chương trình Hỗ trợ ngân sách chung để phục hồi và phát
triển kinh tế-xã hội Việt Nam hậu đại dịch Covid-19. Đây là khoản vay có lãi suất ưu
đãi nhất từ trước đến nay, theo cơ chế giải ngân nhanh, hòa trực tiếp vào ngân sách nhà nước.
Để bảo vệ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương hậu đại dịch Covid-19, duy trì
thành tích tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy phát triển xã hội, các thách thức mà Chính
phủ Việt Nam phải đương đầu vẫn còn ở phía trước. Tăng trưởng GDP của Quý 1 và
nửa đầu năm 2023 ghi nhận ở mức thấp 3,32% và 3,72% cho thấy tầm quan trọng và
tính cấp thiết của các chính sách hỗ trợ và thúc đẩy chi tiêu công của Chính phủ để kích thích nền kinh tế.
Khoản hỗ trợ ngân sách chung này, nhằm cung cấp cho Chính phủ Việt Nam nguồn
vốn ưu đãi cao để thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ
hậu Covid-19 đã được Quốc hội thông qua.
5- Cải thiện môi trường. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của công nghiệp và
đô thị hóa, các vấn đề môi trường như ô nhiễm nguồn nước và không khí đang trở nên
nghiêm trọng. Vì vậy, phát huy những kinh nghiệm của Nhật Bản về phòng chống ô
nhiễm và bảo vệ môi trường, hợp tác nhằm cải thiện hệ thống thoát nước, xử lý nước
thải đô thị, quản lý rác thải, trồng rừng, tăng cường quản lý rừng và nguồn nước.
VD: “Dự án cải thiện môi trường nước Thành phố Hồ Chí Minh Giai đoạn 2”
Dự án cải thiện môi trường nước TP.HCM lưu vực Tàu Hủ - Bến Nghé - Đôi - Tẻ
giai đoạn 2 có tổng mức đầu tư 11.281,26 tỉ đồng, trong đó vốn vay ODA của Nhật Bản 16
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
khoảng 9.831,26 tỉ đồng, còn lại là vốn đối ứng trong nước. Dự án được triển khai từ
năm 2010 và được phê duyệt thời gian hoàn thành vào tháng 6-2022.
Dự án gồm 6 gói thầu xây lắp, triển khai xây dựng nhằm hoàn thiện hệ thống thoát
nước mưa nhằm chống ngập úng và giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường cho các khu
vực trũng của TP và vùng lân cận thuộc lưu vực kênh Tàu Hủ - Bến Nghé - Đôi - Tẻ.
Dự án còn cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường thông qua việc xây dựng và phát triển
hệ thống thu gom và xử lý nước thải. Thông qua hỗ trợ phát triển hệ thống thoát nước
và xử lý nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh, Dự án nhằm mục tiêu cải thiện môi
trường sống nhờ việc nâng cao năng lực xử lý nước thải và giảm thiểu thiệt hại do mưa lũ.
6- Về hợp tác kỹ thuật, Nhật Bản hỗ trợ chuyển giao công nghệ như các dự án
trong các lĩnh vực như phát triển nông nghiệp, y tế,... Hỗ trợ các hoạt động hợp tác của
các NGO, trường đại học, chính quyền địa phương,...
VD: Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật xạ trị tại các tỉnh Miền Nam Việt Nam thông qua xây
dựng mạng lưới hỗ trợ y tế”
Địa bàn dự án xảy ra ở bệnh viện Chợ rẫy thành phố Hồ Chí Minh và một số bệnh
viện địa phương miền Nam do Hội Kỹ thuật viên Xạ trị Shiga của Nhật Bản và phía
Bệnh viện Chợ Rẫy của Việt Nam đầu tư. Dự án được thực hiện từ 8/2012 đến 2/2017
với số vốn là 12,367 tỷ đồng.
Việc sử dụng kỹ thuật xạ trị tại các tỉnh Miền Nam (địa bàn của dự án) chưa được
quản lý một cách hợp lý và đầy đủ do vậy liều lượng phóng xạ trong người các bệnh
nhân ở một số nơi là cao gấp 40 lần so với tiêu chuẩn an toàn ở Nhật. Nguyên nhân là
do sự khác nhau khá xa giữa các vùng về phần cứng (thiếu trang thiết bị) và về phần
mềm (thiếu kiến thức trong đội ngũ những người chăm sóc y tế), thiếu chia sẻ thông tin
và cả thiếu hiểu biết của các bệnh nhân. Vì vậy, việc xây dựng mạng lưới liên kết về y
tế giữa các khu vực sẽ góp phần đem lại lợi ích rất lớn cho các nhân viên chăm sóc y tế
và người dân địa phương giúp họ chia sẻ kiến thức và thông tin của bệnh nhân, đồng
thời có thể phát triển nguồn nhân lực. Dự án nhằm phát triển nguồn nhân lực và xây
dựng hệ thống hợp tác giữa các khu vực nơi có tiến hành các chẩn đoán và điều trị bằng kỹ thuật xạ trị.
Các hoạt động chính của dự án bao gồm phái cử các chuyên gia Nhật Bản tới Việt
Nam và tiếp nhận các học viên từ Việt Nam với mong đợi được kết quả các chỉ số đánh
giá như đào tạo và phát triển thích hợp các cán bộ y tế Khoa xạ trị, lập kế hoạch tăng
cường hệ thống chia sẻ qua internet về phương pháp điều trị sử dụng kỹ thuật xạ trị, tiến 17
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
hành các hoạt động tuyên truyền giáo dục đối với người dân địa phương về an toàn khi sử dụng bức xạ.
7- Về đầu tư ra nước ngoài, hỗ trợ về vốn cho các dự án của các doanh nghiệp
tư nhân đóng góp cho sự phát triển của các nước đang phát triển. Hỗ trợ cho các dự án
quy mô nhỏ được thể hiện bởi các tổ chức NGO, chính quyền địa phương trong các dự
án viện trợ không hoàn lại cấp cơ sở.
VD: Dự án “Cung cấp nước an toàn tại Việt Nam bằng kỹ thuật của công ty tư nhân Yokohama”
Dự án trên được thực hiện từ tháng 2 năm 2014 đến tháng 11 năm 2016. Quy mô
của dự án là Miền Trung và miền Nam Việt Nam với số vốn 5,36 tỷ đồng(tỉnh Thừa
Thiên Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực khác). Được đầu tư thực hiện bởi
phía Nhật Bản: Cục cấp nước TP Yokohama; Công ty thành viên của Hiệp hội kinh
doanh ngành nước Yokohama - và bên phía Việt Nam gồm: Công ty TNHH NN MTV
Xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên Huế (HueWACO), (đối tác thực hiện chính), Tổng
công ty cấp nước Sài Gòn (SAWACO), Trung tâm đào tạo ngành nước miền trung,
Trường CĐ Xây dựng công trình đô thị, Bộ Xây Dựng Trung tâm đào tạo ngành nước
miền Nam, Trường CĐ Xây dựng số 2, Bộ Xây Dựng.
Do tốc độ đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nhu cầu về nước ở Việt
Nam ngày càng tăng cao. Nhiều đơn vị cấp nước ở khu vực nước do thiếu kinh nghiệm
và vốn nên đang gặp khó khăn trong việc vận hành, duy trì, quản lý và nâng cấp trang
thiết bị cho các cơ sở cấp nước, một trong những nhân tố căn bản để vận hành tốt một
hệ thống cấp nước. Chính điều này đã gây ảnh hưởng đến việc cung cấp nước sạch cho người dân.
Dự án đã phái cử chuyên gia Nhật Bản sang Việt Nam (Cục cấp nước, Công ty
thành viên của Hiệp hội kinh doanh ngành nước Yokohama), tiếp nhận học viên từ Việt
Nam. Nhằm kiểm chứng tính hiệu quả của kỹ thuật của các công ty thành viên Hiệp hội
kinh doanh ngành nước Yokohama cho các đơn vị cấp nước miền Trung và miền Nam
Việt Nam, qua đó nghiên cứu mức độ kỹ thuật phù hợp và lập kế hoạch tiếp thu kỹ thuật
đó, xây dựng mạng lưới kinh doanh ngành nước giữa nhà nước và tư nhân của Nhật Bản
và Việt Nam. Từ đó, đạt được kết quả đáng mong đợi như mạng lưới liên kết giữa các
công ty thành viên của Hiệp hội kinh doanh ngành nước Yokohama và các đơn vị cấp
nước của miền Trung, miền Nam Việt Nam sẽ được xây dựng cũng như tính hiệu quả
của các kỹ thuật nói trên của các công ty thành viên của Hiệp hội kinh doanh ngành
nước Yokohama sẽ được kiểm chứng và chia sẻ thông qua các khóa đào tạo ở Nhật Bản và Việt Nam. 18
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Như vậy, chính sách ODA của Nhật Bản đặc biệt chú ý đến phát triển cơ sở hạ
tầng để tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt Nam, phát triển nguồn nhân
lực và giải quyết tốt các vấn đề xã hội như phát triển giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo
và phát triển bền vững. Thực hiện những ưu tiên phát triển như vậy ODA của Nhật Bản
đã có tác động tích cực đến phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của Việt
Nam trong những năm vừa qua.
4. Vai trò của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam
Thứ nhất, ODA Nhật Bản thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam.
- Về lĩnh vực giao thông – vận tải:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông trọng điểm:
Đối với hạ tầng đường bộ, chính nhờ từ sự hỗ trợ từ nguồn vốn ODA Nhật Bản,
các tuyến cao tốc trọng điểm nằm trên trục Bắc - Nam, kết nối hai vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc và phía Nam với các cảng biển cửa ngõ và cửa khẩu quốc tế, bao gồm
tuyến: Vành đai 3 Hà Nội; TP. Hồ Chí Minh – Long Thành - Dầu Giây; Đà Nẵng -
Quảng Ngãi đã được đưa vào sử dụng. Qua các dự án trọng điểm này, Việt Nam có thể
ứng phó với những nhu cầu gia tăng nhanh chóng về giao thông vận tải do tăng trưởng kinh tế.
Mạng lưới đường bộ được cải thiện đã tạo điều kiện để việc vận chuyển khối lượng
lớn nông sản từ nông thôn đến thành phố trở nên dễ dàng hơn và giảm bớt chi phí vận
chuyển. Ngoài ra, việc xe buýt cũng đến được tận vùng nông thôn mang lại hiệu quả cải
thiện sinh hoạt và nâng cao sinh kế của người dân trong vùng như giúp người dân đi đến
cơ sở GD và y tế dễ dàng hơn,v.v...
Đối với hạ tầng đường hàng không, trong thời gian qua, nhiều cảng hàng không
trong cả nước được nâng cấp nhờ có sự đóng góp của vốn ODA Nhật Bản. Một số dự
án đầu tư lớn đã sử dụng vốn ODA có hiệu quả và chất lượng cao như Nhà ga hành
khách quốc tế (HKQT) T2 sân bay Tân Sơn Nhất, Nhà ga HKQT T2 Nội Bài,... Đây
đều là các cửa ngõ hàng không quốc tế lớn nhất, có vai trò quan trọng trong hệ thống
mạng cảng hàng không toàn quốc. Với vai trò là các cảng hàng không trung tâm, việc
phát triển kết cấu hạ tầng vận tải hàng không từ nguồn vốn ODA Nhật Bản góp phần
tăng cường, mở rộng các phương thức vận tải để chia sẻ, kết nối liên thông trong và
ngoài nước. Cụ thể như nhà ga hành khách T2 Sân bay Quốc tế Nội Bài phục vụ cho các
chuyến bay quốc tế có khả năng đáp ứng được hơn 10 triệu hành khách/năm, lắp đặt hệ
thống kiểm tra hành lý sân bay và hệ thống cung cấp nhiên liệu hàng không (hydrant
system) bằng các ống dẫn nhiên liệu ngầm hiện đại tương tự như với Sân bay quốc tế 19
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
của Nhật Bản, góp phần giảm áp lực quá tải thường xuyên của sân bay và bảo đảm vận
chuyển hành khách, hàng hóa thuận lợi và an toàn.
Đối với hạ tầng đường thủy, nhờ có vốn ODA Nhật Bản, nhiều công trình quan
trọng trong ngành hàng hải đã được nâng cấp và xây dựng mới. Đến cuối năm 2015,
Việt Nam đã hoàn thành nâng cấp các cảng biển quốc gia và địa phương như cảng Cái
Lân, cảng Hải Phòng, cảng Vũng Áng đã đáp ứng nhu cầu giao thương hàng hóa, tạo
thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lao động dư thừa ở vùng nông
thôn và các địa phương có công trình cảng.
Điển hình về cảng Hải Phòng: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh
9 tháng đầu năm của cảng vẫn đạt kết quả khả quan. Sản lượng hàng hóa thông qua cảng
Hải Phòng 9 tháng đầu năm 2023 thực hiện 19,677 triệu tấn, bằng 91,2% cùng kỳ năm
2022 và đạt 61% kế hoạch năm 2023; Doanh thu thực hiện 1.375,49 tỉ đồng bằng 91,6%
cùng kỳ năm 2022 và đạt 66,7% kế hoạch năm 2023. Lợi nhuận 9 tháng ước đạt 472,383
tỉ đồng, bằng 98,8% cùng kỳ năm 2022 và đạt 80,1% kế hoạch năm 2023. Tình hình trật
tự trị an, an toàn bến cảng được giữ vững; việc làm và thu nhập của cán bộ công nhân
viên chức lao động đảm bảo ổn định. Thu nhập bình quân của đoàn viên, người lao động
(NLĐ) Cảng Hải Phòng 9 tháng đầu năm 2023 là 17,1 triệu đồng/người/tháng và đảm
bảo việc làm, thu nhập cho hơn 3.000 lao động.
Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong quá trình vận chuyển đường thủy và đường biển,
nhờ nguồn vốn ODA Nhật Bản mà dự án cảng Cái Mép - Thị Vải được thực hiện với
mục tiêu đưa cảng trở thành cảng trung chuyển quốc tế với khối lượng hàng lớn, góp
phần quan trọng vào xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thế giới.
Thực tế cho thấy, cảng Cái Mép - Thị Vải đã và đang làm tốt vai trò cảng cửa ngõ
của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, đồng thời cũng là đầu tàu kinh tế của cả nước.
Với tần suất các “tàu mẹ” cập hệ thống cảng khu vực Cái Mép - Thị Vải tăng trưởng
liên tục, ngay cả khi nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, tuy
nhiên trong 08 tháng đầu năm 2021, sản lượng hàng xuất nhập khẩu vẫn đạt khoảng 3,5
triệu Teus, tăng 25% so với cùng kỳ 2020. Số lượng tàu container trọng tải lớn từ trên
80.000 DWT đến 200.000 DWT vào rời khu vực Cái Mép - Thị Vải đạt 889 lượt, tăng
4% so với cùng kỳ năm 2020. Bên cạnh đó, đội tàu container có sức chở lớn nhất thế
giới, chuyên chở lượng hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam thường xuyên ra vào khu vực
cụm cảng container nước sâu tại khu vực Cái Mép - Thị Vải, như: Tàu Margrethe
Maersk, trọng tải 214.121 tấn DWT, chiều dài 399,23m, chiều rộng 59m; Tàu Cosco
Shipping Aquarius, trọng tải 197.049 tấn DWT, chiều dài lớn nhất 400 m, chiều rộng 20
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
58,6m… Có thể thấy, cụm cảng container nước sâu tại khu vực Cái mép - Thị Vải đã
thông qua những tàu hàng siêu trường, siêu trọng để kết nối một cách tốt nhất hàng hóa
sản xuất trong nước ra nước ngoài; tạo ra giá trị gia tăng và tăng tính cạnh tranh cho
hàng hóa Việt Nam, hơn hẳn hàng xuất khẩu của một số nước trong khu vực, như: Thái
Lan, Indonesia, Phi-líp-pin...
+Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đô thị:
Đối với hạ tầng đường bộ, ODA Nhật Bản tập trung đầu tư phát triển và nâng cấp
hệ thống đường cao tốc, quốc lộ, cầu lớn, đường tỉnh và giao thông nông thôn. Điển
hình là các dự án như: Dự án cầu Nhật Tân, các quốc lộ số 5, số 10, số 18, cầu Bãi Cháy,
cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, đường vành đai 3 Hà Nội,... Giao thông phát triển đến đâu
sẽ mở ra không gian phát triển đến đó, nhiều khu chung cư, khu công nghiệp, dịch vụ,
du lịch được hình thành, quỹ đất cũng được khai thác hiệu quả.
Điển hình dự án Cầu Nhật Tân góp phần quan trọng mạng lưới giao thông thủ đô,
trực tiếp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu vực huyện Đông Anh và Sóc Sơn (khu
vực nông thôn). Ta có thể nhận thấy là khu vực Đông Anh, nhờ giao thương thuận lợi
với nội đô qua cầu Nhật Tân mà đã phát triển vượt bậc. Nhiều chung cư, công viên, nổi
bật là chung cư Intracom cầu Nhật Tân. Bộ mặt đô thị của khu vực hai đầu cầu nói riêng
và Hà Nội nói chung được tô điểm thêm và hiện đại, khang trang.
Đối với hạ tầng đường sắt, vốn ODA Nhật Bản tập trung vào bảo trì phát triển
tuyến đường sắt Bắc - Nam, xây dựng một số tuyến đường sắt trên cao tại Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh. Dự án lớn trong lĩnh vực này có thể kể ra là Dự án Metro Bến Thành
- Suối Tiên. Việc xây dựng đường sắt đô thị tại hai thành phố lớn như Hà Nội và Hồ Chí
Minh được coi như là một giải pháp để cải thiện vấn đề giao thông đô thị đang xấu đi
do việc gia tăng dân số, đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng.
+ Hỗ trợ kỹ thuật:
Nhật Bản đã hỗ trợ thành lập công ty vận hành và quản lý đường sắt đô thị như dự
án hỗ trợ thành lập tổ chức vận hành, quản lý đường sắt đô thị TP Hà Nội. Bên cạnh đó
còn hỗ trợ xây dựng hệ thống an toàn hàng không và các biện pháp an toàn giao thông.
Thông qua các hỗ trợ kỹ thuật này, Việt Nam có thể tăng cường năng lực, tích lũy các
kiến thức về quản lý và duy trì các cơ sở vật chất cũng như các biện pháp an toàn giao thông.
=> Nhờ phát triển CSHT kinh tế như vậy, nên các KCN liên tục được xây dựng.
Năm 2022 có hơn 400 công nghiệp và môi trường đầu tư được cải thiện. Hiện nay, nhiều 21
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
doanh nghiệp nước ngoài trong đó có doanh nghiệp Nhật Bản đã đầu tư vào thị trường
Việt Nam khiến cơ hội việc làm được mở rộng.
- Về lĩnh vực năng lượng:
Việc cung cấp điện ổn định rất quan trọng, không chỉ làm ổn định đời sống
sinh hoạt của người dân mà còn góp phần phát triển nền công nghiệp trong nước
và thúc đẩy đầu tư nước ngoài.
+ Hỗ trợ phát triển nguồn điện:
Năng lượng là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát
triển. Đây cũng là một lĩnh vực nhận được nhiều ODA trong nhóm Cơ sở hạ tầng kinh
tế (chỉ sau lĩnh vực giao thông - vận tải). Vào những năm 60, sau khi hỗ trợ Việt Nam
xây dựng nhà máy thủy điện Đa Nhim, Nhật Bản luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho phát
triển năng lượng điện. Nhật Bản đã phát huy khả năng kỹ thuật của mình để hỗ trợ Việt
Nam phát triển nguồn điện lực như xây dựng các nhà máy điện quy mô lớn như xây
dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn I, nhà máy nhiệt điện Ô
Môn,.... Bên cạnh đó, nhằm giảm thiểu thất thoát điện trong truyền tải tại Việt Nam,
Nhật Bản cũng hỗ trợ tăng hiệu suất mạng lưới, các công trình phân phối và truyền tải
điện; và xây dựng mạng lưới trạm biến áp ở các KCN;... Các dự án này đóng một vai
trò rất quan trọng đối với việc cung cấp điện cho Việt Nam. Tính đến cuối năm 2022,
công suất của các nhà máy điện đã và đang được xây dựng bằng nguồn vốn ODA Nhật
Bản đạt 11.682 MW, tương đương 15% tổng công suất phát điện cả nước.
Trong đó, nhà máy thủy điện Đa Nhim cung cấp cho lưới điện quốc gia khoảng 1
tỉ kWh. Bên cạnh nhiệm vụ phát điện, công trình còn cung cấp nước sinh hoạt và phục
vụ thâm canh nông nghiệp cho đồng bằng tỉnh Ninh Thuận với diện tích khoảng 16.000 ha.
+ Thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân:
Nhật Bản cũng thúc đẩy phát triển nguồn điện theo hình thức IPP/BOT, đa dạng
nhà đầu tư cho trung tâm điện lực thông qua xây dựng thiết bị dùng chung, như dự án
nhà máy nhiệt điện Thái Bình và đường dây truyền tải điện.
Thứ hai, ODA Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong vấn đề cải thiện môi
trường xã hội.
- Về lĩnh vực giáo dục:
Các dự án từ nguồn vốn ODA Nhật Bản trong lĩnh vực giáo dục dàn trải đều khắp
cả nước nhưng đặc biệt chú trọng đến các tỉnh khó khăn, chịu ảnh hưởng nặng nề bởi 22
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
thiên tai, bão lũ như các tỉnh miền Trung: Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định,... và một
số tỉnh miền núi phía Bắc: Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Sơn La,...
Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ xây dựng khoảng hơn 300 trường tiểu học ở những
vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Một số dự án tiêu biểu như: dự án ODA không hoàn
lại “nâng cấp trường tiểu học vùng bão lụt khu vực miền Trung”, “nâng cấp trường tiểu
học miền núi phía Bắc” và các dự án nâng cấp khoa ngành tại một số trường đại học như
“nâng cấp Khoa Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ”,... Các dự án này đã góp phần hỗ trợ
tích cực trong việc xóa mù chữ góp phần tăng tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi lên đến
97,85%, nâng cao điều kiện dạy và học cho giáo viên và học sinh ở những vùng này.
- Về lĩnh vực y tế:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực y tế, tăng cường
hệ thống y tế địa phương:
Nhật Bản đã triển khai hỗ trợ cả về phần cứng và phần mềm như cải thiện CSHT
cho các bệnh viện trọng điểm, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường công tác quản lý,…
Để giúp người dân có thể tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng cao hơn, Nhật Bản đã
tập trung hỗ trợ nâng cấp ba bệnh viện trọng điểm là Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội),
Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM) và bệnh viện Trung ương Huế (TP.Huế) và hơn 500.000
cán bộ y tế đã được đào tạo tại các bệnh viện trọng điểm này. Hiện nay, BV Bạch Mai
có 58 đơn vị với 3.600 giường kế hoạch và hơn 4.000 cán bộ, nhân viên y tế. Hàng ngày,
bệnh viện tiếp nhận khoảng 8.000 người bệnh khám ngoại trú và điều trị gần 4.000 người
bệnh nội trú, Các BV trọng điểm còn lại cũng đang phát huy hiệu quả chức năng của mình.
Bên cạnh đó cũng đồng thời mở rộng hỗ trợ như chuyển giao kỹ thuật cho cán bộ
y tế ở các bệnh viện tuyến dưới (cấp tỉnh, cấp huyện) để củng cố mạng lưới dịch vụ y tế trên toàn quốc.
+ Hỗ trợ phòng chống bệnh truyền nhiễm:
Sự hỗ trợ của Nhật Bản đã mang lại lợi ích đáng kể cho ngành chăm sóc sức khỏe
tại Việt Nam, ngoài các khoản đầu tư kể trên, Nhật Bản còn hỗ trợ trong sản xuất vắc
xin. Từ năm 2003, Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất vắc xin sởi
và để có thể tăng cường khả năng đối phó với mối đe dọa của dịch cúm gia cầm và dịch
SARS, Nhật Bản cũng tiến hành hỗ trợ cho các cơ quan nghiên cứu. Từ tháng 5/2013,
JICA bắt đầu hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin sởi – rubella cho Trung
tâm Nghiên cứu, Sản xuất vắc-xin và Sinh phẩm y tế (POLYVAC), thông qua dự án hợp
tác kỹ thuật “Tăng cường năng lực sản xuất vắc-xin sởi – rubella”. 23
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Nhật Bản cũng tích cực hỗ trợ Việt Nam chiến đấu đẩy lùi đại dịch Covid-19. Cụ
thể, Chính phủ Nhật Bản đã viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ Việt Nam phòng COVID-
19 với hơn 5,6 triệu liều vaccine phòng COVID-19 và nhiều trang thiết bị, vật tư y tế
khác như Máy tim phổi nhân tạo ECMO phục vụ chẩn đoán và điều trị, với tổng trị giá
850 triệu yên; Chuyển giao công nghệ và bàn giao các thiết bị chính cho Phòng xét
nghiệm an toàn sinh học cấp III (BSL-3) tại Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, trị
giá hơn 200 triệu yên. Những gói hỗ trợ này nhằm góp phần nâng cao năng lực xét
nghiệm chẩn đoán Covid-19, tăng cường khả năng ứng phó của Việt Nam đối với các
bệnh truyền nhiễm . Nhờ những nỗ lực của chính phủ Việt Nam, sự hỗ trợ của Nhật
Bản và các nhà tài trợ khác, tỷ lệ tử vong do COVID-19 trong 5 tháng đầu năm 2023
giảm mạnh xuống còn 0,02% so với tỷ lệ tử vong năm 2021 là 1,86%, năm 2022 là 0,1%.
Biểu đồ: Tỷ lệ tử vong do Covid19
- Về lĩnh vực quản lý môi trường:
+ Hỗ trợ tăng cường năng lực quản lý môi trường:
Để góp phần cải thiện nhu cầu thiết yếu về nước sạch sinh hoạt, Chính phủ Nhật
Bản, thông qua JBIC (Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản) đã hỗ trợ cho Việt Nam
cải thiện môi trường nước Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh như “Dự án thoát nước
Hà Nội” là một trong những dự án đứng đầu về giải ngân không chỉ đóng góp vào mục
tiêu phát triển kinh tế mà còn là dự án đứng đầu đóng góp vào mục tiêu phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường. Kết quả đánh giá dự án của JICA cho thấy 70% người dân Hà
Nội công nhận dự án đã góp phần hạn chế thiệt hại do úng ngập gây ra. Thiệt hại về nhà 24
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
cửa, xe cộ, nạn dịch bệnh do lũ lụt đã giảm. Tình trạng ô nhiễm môi trường vì rác thải cũng được cải thiện.
Chính phủ Nhật Bản không chỉ viện trợ không hoàn lại để xây dựng Nhà máy nước
trên địa bàn thành phố như nhà máy nước Gia Lâm, mà còn viện trợ để mở rộng hoặc
nâng cấp hệ thống nước ở các vùng khác như dự án mở rộng hệ thống cấp nước Hải
Dương, nâng cấp hệ thống cấp nước miền Bắc… Ngoài ra, Nhật Bản còn hỗ trợ xây
dựng, nâng cấp hệ thống nước thải và thoát nước cũng như đào tạo nguồn nhân lực để quản lý vận hành.
Một dự án nổi bật có thể kể đến là dự án xây dựng thể chế để tăng cường hệ thống
quản lý môi trường và thúc đẩy du lịch góp phần vào quá trình tăng trưởng xanh và bền
vững của Vịnh Hạ Long. Trong dự án này, Nhật Bản đã hỗ trợ việc lập kế hoạch thực
hiện quan trắc môi trường, kiểm tra nguồn ô nhiễm và chỉ đạo hành chính. Cùng với đó,
tổ chức tập huấn cho các cán bộ làm công tác môi trường, thực hiện công tác quan trắc
môi trường, …theo nội dung kế hoạch trên. Công tác lập danh sách các nguồn gây ô
nhiễm chính và bản đồ nguồn ô nhiễm, rà soát chính sách sử dụng đất, xây dựng hệ
thống dữ liệu về môi trường và tài nguyên du lịch,...cũng được thực hiện. Dự án cũng
đã phối hợp nhiều chương trình khác như dự án trong chương trình Đối tác phát triển,
chương trình cử tình nguyện viên Nhật, …để tiếp tục góp phần bảo vệ môi trường tại khu vực vịnh Hạ Long.
Nhật Bản cũng hỗ trợ trong việc quản lý rừng bền vững thông qua các dự án như
“Phục hồi và bảo vệ bền vững rừng phòng hộ”. Dự án được triển khai tại 11 tỉnh, gồm:
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận và Bình Thuận; trên địa bàn thuộc 38 huyện, 101 xã
mục tiêu và 43 Ban Quản lý rừng phòng hộ với diện tích tác động trực tiếp toàn vùng
dự án là 69.235 héc ta. Dự án nhằm hướng đến mục tiêu: i) Phục hồi và phát triển rừng
phòng hộ đầu nguồn tại 11 tỉnh; ii)Phục hồi và bảo tồn đa dạng sinh học; iii) Tăng cường
năng lực cho chính quyền địa phương và chủ rừng phòng hộ; iv) Cải thiện sinh kế cho
các cộng đồng, những người sẽ tham gia quản lý rừng phòng hộ.
+ Hỗ trợ ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu:
Với lịch sử phải chịu đựng các thảm họa thiên nhiên quy mô lớn, Nhật Bản có
nhiều kinh nghiệm trong việc đối phó với thảm họa thiên nhiên. Và trong bối cảnh tình
hình biến đổi khí hậu đang diễn biến hết sức phức tạp, Nhật Bản cũng luôn sẵn sàng hỗ
trợ Việt Nam trong lĩnh vực ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu. Cụ thể, tiếp tục
hỗ trợ thực hiện các dự án “Tăng cường năng lực ứng phó và giảm thiểu thiệt hại do lũ 25
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
quét và sạt lở đất ở khu vực miền núi phía Bắc” và “Hợp tác kỹ thuật để quy hoạch phát
triển về phục hồi sau lũ lụt và xây dựng quy hoạch tổng thể về phòng, chống thiên tai ở
miền Trung Việt Nam”. Qua đó đã giảm thiểu rủi ro và thiệt hại do thiên tai gây ra tại Việt Nam.
Thứ ba, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo.
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn và nhất quán của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các chương trình, các dự án phát triển kinh tế xã hội được
xây dựng nhằm tạo việc làm cho người nghèo, cũng như tạo điều kiện cho người nghèo
tiếp cận với các dịch vụ xã hội. Cùng với nỗ lực của Chính phủ và nhân dân ta, Chính
phủ Nhật Bản đã đóng góp quan trọng trong chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam. Ngoài việc hỗ trợ cho các trường học, môi trường và y tế ở nông thôn như đã đề
cập ở phần trên, Nhật Bản còn không ngừng hỗ trợ Việt Nam cải thiện sinh kế cho người
nông dân với một số dự án tiêu biểu như “Dự án Thủy lợi Phan Rang”, “Dự án phát triển
cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ cho người nghèo” và “Dự án phát triển cơ sở hạ tầng và cải
thiện điều kiện sống ở nông thôn” – nhằm phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn;...
Về thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, có thể kể đến các dự án
hợp tác kỹ thuật hỗ trợ các vùng dân tộc thiểu số, phát triển kinh tế địa phương với trọng
tâm là khu vực miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, và vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nam
Bộ. Hợp tác kỹ thuật về tăng cường mối liên kết với địa phương để phát triển kinh tế địa
phương cũng được thực hiện. Tại các vùng mà người dân tộc thiểu số là đối tượng của
dự án, có nhiều sự khác biệt trong mức sống, phong tục tập quán, cũng như nông sản và
sản phẩm địa phương. Vì vậy, các dự án hỗ trợ được triển khai đã quan tâm đến đặc thù
của từng khu vực, áp dụng phương thức tiếp cận khác với thông lệ - tiếp cận có sự tham
gia của người dân; xác định vấn đề riêng của từng bản làng và giúp người dân tự mình
triển khai các biện pháp để cải thiện đời sống, đáp ứng đúng nhu cầu của mình và nâng
cao thu nhập của người dân địa phương và góp phần xóa đói giảm nghèo.
Từ những dự án mà Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam trong công tác xóa đói giảm nghèo
đã góp phần không nhỏ vào tỷ lệ giảm nghèo của Việt Nam. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều
năm 2022 là 4,3%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021 và giảm bình quân 0,81
điểm phần trăm trong giai đoạn 2016-2022. 26
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2022
Thứ tư, ODA của Nhật Bản giúp chuyển giao thành tựu khoa học, công nghệ
hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Nhật Bản là nước có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý
hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao. Về khoa học kỹ thuật công nghệ, các dự án
ODA của Nhật Bản được thực hiện qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), Cho
đến nay, Nhật Bản đã cử nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn như:
công nghệ thông tin, quản lý môi trường, nghiên cứu các loại giống cây trồng trong lĩnh
vực nông nghiệp, cũng như thực hiện các dự án nghiên cứu hoặc nâng cao hiệu quả trong
quản lý nhiều ngành kinh tế. Ngoài ra, Nhật Bản còn cử khoảng 90 tình nguyện viên
sang giúp Việt Nam trong các lĩnh vực dạy tiếng Nhật Bản, du lịch, kiến trúc, thể thao.
Một nội dung quan trọng trong việc chuyển giao kỹ thuật cho Việt Nam là tổ chức các
khóa đào tạo cho các cán bộ Việt Nam tại Nhật bản. Trong số 15 nước phái cử thực tập
sinh sang Nhật, Việt Nam là nước đứng đầu cả về số lượng thực tập sinh nhập cảnh hàng
năm và số lượng thực tập sinh đang thực tập tại nước này. Hiện tại có hơn 200.000 thực
tập sinh Việt Nam đang thực tập tại Nhật Bản (chiếm hơn 50% tổng số thực tập sinh
nước ngoài tại Nhật Bản), chủ yếu tham gia đào tạo trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, tin học,...
=> Những dự án đã giúp cho Việt nam tiếp cận và học hỏi về công nghệ cao, kinh
nghiệm quản lý hiện đại và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, đào tạo nguồn nhân lực là một trong những hợp tác mà Nhật Bản
luôn quan tâm dành cho các dự án tại Việt Nam. Trong đó phải nói đến hợp tác với
trường Đại học Việt Nhật từ năm 2015, tính đến nay đã có 260 học viên tốt nghiệp 27
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
chương trình đào tạo thạc sĩ và hiện có hơn 200 sinh viên và học viên đang theo học tại
trường. JICA tiếp tục hợp tác thông qua hình thức Hợp tác kỹ thuật và vốn vay nhằm hỗ
trợ trường Đại học Việt Nhật mở thêm chương trình đào tạo tiến sĩ, thiết lập cơ sở mới
tại Hòa Lạc từ năm 2023, với mục tiêu đưa trường Đại học Việt Nhật trở thành trường
đại học tổng hợp với quy mô 6.000 sinh viên.
Thứ năm, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hướng đi
tất yếu để phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển
trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. ODA của Nhật Bản có vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế nước ta.
Năm 2023, Nhật Bản giúp Việt Nam xây dựng mô hình kinh tế công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu để tạo cho nước ta có cơ hội phát triển nhanh chóng. Các dự án đã
thúc đẩy ngành xây dựng và công nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời thúc đẩy
ngành dịch vụ phát triển. Song song với việc thúc đẩy phát triển các ngành đó, ODA của
Nhật Bản cũng chú trọng đầu tư vào nâng cao điều kiện sinh hoạt ở các vùng nông thôn,
phát triển nông nghiệp ở các địa phương như dự án trồng rừng, hệ thống hạ tầng cơ sở
cho sản xuất và đời sống ở các vùng nông thôn,…từ đó cũng góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển.
Cơ cấu thành phần kinh tế, đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới
khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam, một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải
cải thiện tình hình hoạt động không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và xây
dựng, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân. Do vậy, Chính phủ Nhật Bản ngoài việc hỗ trợ
cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế còn hỗ trợ cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam, bằng cách giúp
thực hiện kiểm toán các doanh nghiệp nhà nước lớn, để hỗ trợ cho việc xúc tiến cải cách
doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng coi trọng việc dự thảo
chính sách, hướng dẫn kinh doanh hoặc xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ
trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và khu vực kinh tế tư nhân. Thông
qua các Ngân hàng của Việt Nam, Chính phủ Nhật Bản đang thực hiện cho vay đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về cơ cấu vùng kinh tế, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các vùng
lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm đang được xây dựng và hình thành theo
hướng phát huy thế mạnh của từng vùng, làm cho bộ mặt kinh tế, xã hội ở các địa 28
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
phương, các vùng đều có những thay đổi tích cực. Tương ứng với từng lĩnh vực, từng
ngành, ODA của Nhật Bản đều có sự đầu tư tương ứng ở các vùng, miền kinh tế trọng
điểm, chẳng hạn như ngành giao thông, điện năng, thông tin, góp phần giảm bớt chênh
lệch về kinh tế xã hội giữa các vùng, miền trong cả nước.
Về cơ cấu ngành, các dự án này đã đóng góp tích cực vào các thành tựu tăng
trưởng đã đạt được trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Năm 2022, ngành công
nghiệp tăng 13,1%, ngành dịch vụ tăng 6,9%, ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%;
tăng cao hơn so với tốc độ tăng bình quân năm thời kỳ 2016-2021. Như vậy, ODA của
Nhật Bản đã và sẽ đóng góp rất lớn vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian qua và trong những năm tiếp theo.
Thứ sáu, hỗ trợ mở rộng đầu tư và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Sự đóng góp của viện trợ phát triển của Nhật Bản đối với tổng vốn đầu tư tại Việt
Nam được thể hiện trên hai khía cạnh là đóng góp trực tiếp vào vốn đầu tư của cả nước
và quan trọng hơn là cải thiện điều kiện hạ tầng kinh tế và xã hội để qua đó thúc đẩy đầu
tư tư nhân và đầu tư nước ngoài (FDI).
+ Đóng góp của viện trợ Nhật Bản trong tổng vốn đầu tư:
Viện trợ phát triển là nguồn bổ sung quan trọng vào tổng vốn đầu tư của Việt Nam.
Trong giai đoạn 2006 - 2015, tỷ trọng đóng góp của viện trợ phát triển của Nhật Bản
trong tổng vốn đầu tư khoảng 9%. Số vốn giải ngân thực tế của viện trợ phát triển Nhật
Bản trong đó chủ yếu là vốn vay ưu đãi, chiếm tỷ trọng lớn trong một số lĩnh vực then
chốt như năng lượng, cấp thoát nước và giao thông vận tải.
Tuy đóng góp trực tiếp vào vốn đầu tư trong nước, viện trợ phát triển của Nhật
Bản đã không thay thế đầu tư trong nước như từng xảy ra ở nhiều nước Châu Phi. Bằng
chứng là viện trợ phát triển của Nhật Bản được tập trung tài trợ cho các dự án phát triển
hạ tầng quy mô lớn, qua đó thúc đẩy đầu tư tư nhân. Số liệu thống kê năm 2023 cho
thấy, đầu tư nhà nước trung bình hằng năm tăng 11,5%, đầu tư tư nhân trong nước tăng
1,8% và đầu tư nước ngoài tuy giảm 1,1% nhưng vẫn chiếm 17,4% trong tổng số vốn đầu tư.
+ Viện trợ phát triển Nhật Bản giúp tăng việc thu hút đầu tư nước ngoài
Một ảnh hưởng to lớn của viện trợ phát triển nói chung và viện trợ phát triển của
Nhật Bản nói riêng đối với tổng vốn đầu tư ở nước ta là góp phần thu hút vốn FDI ở
Việt Nam. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài giữa các địa phương trong mỗi nước phụ thuộc vào các yếu tố chính là đặc điểm 29
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
của thị trường chính sách ưu đãi về thuế của chính phủ sở tại, lực lượng lao động và
trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng.
Việc sử dụng nguồn viện trợ phát triển đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút
FDI. Để giúp Việt Nam xúc tiến đầu tư nước ngoài, Nhật Bản đã nhanh chóng triển khai
hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy điện, đường xá, cầu, cảng biển, v.v…; đồng thời hỗ
trợ hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống kiểm tra, chứng nhận sản phẩm công
nghiệp,… để có thể đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về môi trường đầu tư. Việc các bộ
luật cơ bản như Luật Dân sự sửa đổi, Luật Tố tụng Dân sự được thông qua là những
thành tựu to lớn. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng phát huy “Sáng kiến chung Việt Nam –
Nhật Bản”, là diễn đàn đối thoại giữa chính phủ và khối tư nhân, để hỗ trợ Việt Nam về
phần cứng và phần mềm. Điểm đặc biệt ở đây là tuy sự hỗ trợ được thực hiện theo kinh
nghiệm của Nhật Bản, nhưng không phải là sự vận dụng cứng nhắc theo khuôn mẫu
Nhật Bản mà là dựa trên sự trao đổi, thảo luận giữa Việt Nam và Nhật Bản để tìm ra cơ
chế và đường lối phù hợp với Việt Nam.
Phương thức hợp tác dựa trên sự tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau
giữa hai nước của Nhật Bản đã mang lại kết quả là tìm ra những cơ chế phù hợp với xã
hội Việt Nam. Sự hỗ trợ theo chiến lược tổng hợp đã góp phần xúc tiến đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản.
Sáng kiến đó cùng những hỗ trợ về phần cứng như xây dựng đường xá, cảng, đã
và đang góp phần thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam. Hiện
nay, Nhật Bản là một trong ba nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam, với quy mô vốn ngày
càng được mở rộng đã đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế Việt Nam. Năm 2021,
các nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư 175 dự án mới với tổng vốn đăng ký hơn 3,9 tỷ USD,
đứng thứ 3 chỉ sau Singapore và Hàn Quốc.
Biểu đồ thể hiển số vốn và số dự án đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam năm 2010-2021
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2021 30
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Với sự hỗ trợ của Nhật Bản về cả phần mềm lẫn phần cứng góp phần thu hút 108
quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng
vốn đầu tư gần 4,65 tỷ USD, chiếm hơn 18% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Hàn Quốc
đứng thứ hai với gần 3,93 tỷ USD, chiếm 15,2% tổng vốn đầu tư. Hong Kong (Trung
Quốc) đứng thứ 3 ( Năm 2023).
5. Hạn chế của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam
Thứ nhất, ODA của Nhật Bản có thể là nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ lớn của
Việt Nam. Với nguồn ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam hiện nay có lãi suất dao
động từ 0,1 - 1,4%/năm; thời gian trả nợ từ 25 - 40 năm; thời gian ân hạn là 7 - 10 năm.
Hầu hết, nguồn vốn này được Việt Nam dùng cho việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ
tầng, do đó nhu cầu vay vốn này là rất lớn. Tuy ODA của Nhật Bản có điều kiện ưu đãi
cao, lãi suất thấp và thời gian ân hạn dài, nhưng trong tương lai, Việt Nam vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ nợ (bao gồm trả lãi và nợ gốc) , do đó, ODA giờ đây đã vô hình chung trở
thành núi nợ cho Việt Nam.
Thứ hai, Nhật Bản có thể sử dụng ODA làm công cụ để tận dụng Việt Nam làm
nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Khi viện trợ ODA, Nhật Bản vẫn luôn phải
viện trợ có một cách có chiến lược, gắn với các lợi ích của mình như mở rộng thị trường,
mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc mục tiêu
chính trị…Như vậy, ODA có ý nghĩa trong việc giúp các nước nghèo như Việt Nam
phát triển kinh tế, đổi lại, Nhật Bản có các chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực
mà họ quan tâm hoặc có lợi thế và buộc Việt Nam phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào
thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, dần dỡ bỏ thuế xuất nhập khẩu hàng
hóa.Việt Nam dần phải mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hóa mới
của Nhật Bản; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như
cho phép đầu tư vào các lĩnh vực hạn chế. Các khoản vay ưu đãi này cũng đi kèm với
các điều kiện như chỉ định thầu, ưu tiên nhà thầu Nhật Bản, mua máy móc, thiết bị vật
liệu và các sản phẩm từ Nhật, đảm bảo lợi nhuận cho các tập đoàn, tổng công ty của Nhật Bản.
Thứ ba, ODA có thể là nguyên nhân dẫn đến tác động thiếu tích cực tới tỷ giá hối
đoái, bởi giá trị vốn ODA là ngoại tệ, với Nhật là Yên Nhật làm đơn vị tính toán. Một
khi ngoại tệ tăng giá, hàng hóa nhập khẩu từ Nhật Bản tăng giá khiến các doanh nghiệp
nhập khẩu giảm lợi nhuận kinh doanh do phải mua hàng với số tiền nhiều hơn dự kiến;
tổng nợ vay của các công ty, tập đoàn sử dụng vốn ODA của Nhật Bản cũng sẽ tăng
thêm đáng kể. Một ví dụ điển hình, theo hợp đồng vay nợ dài hạn của Tập đoàn Điện
lực Việt Nam (EVN), tính đến cuối tháng 3/2015, Phả Lại có khoản nợ 22,6 tỷ yên. 31
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Công ty đang đánh giá lại các khoản nợ vay có gốc ngoại tệ, đồng thời trích lập chi phí
chênh lệch tỷ giá theo quy định. Với khối nợ trên, theo tính toán của Công ty chứng
khoán Sài Gòn (SSI), nếu đồng yên tăng giá 1%, khoản lỗ tỷ giá của Nhiệt điện Phả Lại
sẽ cộng thêm 48 tỷ đồng. Như vậy với khoản vay lớn trong dài hạn, Việt Nam sẽ phải
gánh thêm số nợ nước ngoài tăng lên hàng năm, và còn khó khăn hơn nếu đồng ngoại tệ
Nhật Bản tăng một cách bất thường.
Thứ tư, ODA có thể được đặt vào các cơ quan hạn chế về năng lực quản lý, giám
sát, chưa đặt chất lượng và hiệu quả đầu tư lên hàng đầu. Việc sử dụng ODA không hiệu
quả gây nên gánh nặng nợ cho quốc gia. Nguyên nhân đến từ hạn chế năng lực lãnh đạo
của cán bộ, chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn, bố trí nguồn vốn. Do nguồn vốn lớn và
dễ tiếp cận mà trách nhiệm của các cơ quan tiếp nhận dự án không cao cũng gây ra tham
nhũng, hối lộ. Từ đó, các chi phí cho các dự án, công trình bị đội giá lên cao và rất cao,
làm mất đi nguồn vốn ODA một cách lãng phí. Khi thanh toán nợ, nợ ODA cuối cùng
sẽ được trả bằng thuế mà người dân đóng góp, xã hội sẽ mất đi một khoản tài sản chỉ vì
việc quản lý dự án không hiệu quả và tham nhũng, hối lộ.
Thứ năm, ODA là một trong những nguyên nhân dẫn khiến Việt Nam lệ thuộc vào
nền kinh tế Nhật Bản. Như đã nói, ODA Nhật Bản tới Việt Nam có vai trò quan trọng
trong việc cung cấp tiềm lực để phát triển kinh tế, thường dùng cho xây dựng các công
trình dự án, đường xá, cơ sở hạ tần. Nếu đột ngột cắt giảm lượng vốn ODA, các công
trình này sẽ bị chậm tiến độ, hoặc bỏ ngang. Bên cạnh đó, Việt Nam có lượng dự trữ
ngoại hối khá hạn chế, cắt giảm ODA sẽ phần nào gây nên sự thiếu hụt ngoại tệ, đi kèm
những tác động từ bối cảnh toàn cầu sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất ổn định của đồng bản
tệ, quy mô nợ của Chính phủ cũng do đó mà tăng lên. Theo một nghiên cứu độc lập,
Nhật Bản cấp vốn cho Việt Nam xây dựng hạ tầng giao thông sẽ tạo ra hiệu ứng ngoại
giao gián tiếp là tăng ảnh hưởng và thế mạnh đà đàm phán của Nhật Bản tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đây có thể là một điều không đáng lo ngại do Nhật Bản - Việt Nam có một
mối quan hệ chiến lược dài hạn.
6. Kết luận và kiến nghị
6.1 Kết luận
Quan hệ kinh tế Nhật Bản - Việt Nam đã thực sự đi vào thế ổn định và phát triển
từ năm 1992 và có nhiều triển vọng tốt đẹp, bao gồm cả thương mại, đầu tư và viện trợ,
mang trong nó nhiều đặc trưng mới, điều mà không phải thời kỳ nào cũng có được.
Những chuyển biến đó đã gắn bó không những về mặt kinh tế mà còn cả về ngoại giao
và chính trị của hai nước. Trong bối cảnh thế giới ngày càng biến đổi và phức tạp, việc 32
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
sử dụng ODA Nhật Bản vào Việt Nam trở nên ngày càng quan trọng. Nó không chỉ giúp
nâng cao khả năng của Việt Nam trong việc đáp ứng các thách thức phát triển, mà còn
tạo cơ hội cho sự hợp tác đa phương và khu vực. Cùng với việc đảm bảo quản lý thông
minh và bền vững, ODA còn thúc đẩy sự đổi mới và phát triển công nghệ, giúp nước ta
thích nghi với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Tuy nhiên, để tận dụng tối đa ODA, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp và kiến
nghị đã đề xuất trong đề tài. Điều quan trọng là đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và
công bằng trong việc sử dụng ODA, cũng như tạo ra một môi trường kinh doanh thuận
lợi để thúc đẩy đầu tư và phát triển. Trong tương lai, sự hợp tác giữa Việt Nam và Nhật
Bản qua ODA có tiềm năng để mở rộng và đa dạng hóa trong nhiều lĩnh vực, từ hạ tầng,
công nghệ, giáo dục, đến năng lượng và môi trường. Việc thúc đẩy sự cộng tác trong
các lĩnh vực này sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững và mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Cuối cùng, tận dụng dòng vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam không chỉ là một
câu chuyện về tài chính mà còn là một câu chuyện về tương lai, về việc xây dựng một
mô hình phát triển bền vững và hòa bình cho đất nước.
6.2 Kiến nghị
Với tình hình của Việt Nam hiện nay, muốn thu hút nhiều hơn nữa vốn ODA viện
trợ của Nhật Bản nói riêng và ODA của các nhà tài trợ khác nói chung thị chúng ta cần
có một cơ chế chính sách gọn nhẹ và chặt chẽ; tổ chức thực hiện một cách hợp lý và
khoa học; sử dụng ODA có hiệu quả và tiết kiệm. Để thực hiện được điều đó cần phải
có những giải pháp phù hợp. a.
Cơ chế chính sách:
Phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ
nước ngoài được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô; việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài phải
tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài như: khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài
(Tổng số nợ nước ngoài/GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm; chỉ tiêu khả năng
hoàn trả nợ (Tổng nghĩa vụ trả nợ/ thu nhập xuất khẩu).
Phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ
nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA nói riêng. Rà soát lại định mức, xóa bỏ các
định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo tiên tiến khoa học phù hợp với thực
tiễn. Cần xem lại quy trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong
nước và nước ngoài, tuy nhiên nó phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, ngay thủ tục 33
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
hành chính cũng phải đơn giản hoá không rườm rà phức tạp ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân.
Quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn
vay, chống ỷ lại vào nhà nước. đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA,
đặc biệt là khâu xây dựng dự án; nâng cao trách nhiệm cá nhân của người ra quyết định
đầu tư như: ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các Nghị định
của Chính phủ về quản lý vay và trả nợ, đảm bảo trả nợ đúng hạn không rơi vào nợ
chồng chất, không có khả năng thanh toán. Khuyến khích sự tham gia của các ngành,
các địa phương các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA, nhằm khắc phục các điều kiện
lộn xộn hiện nay trong xác định các điều kiện cho vay lại. b.
Tổ chức thực hiện
Quản lý nguồn vốn ODA cho vay phải được đồng bộ, thống nhất qua đầu mối là
Bộ tài chính. Khi xây dựng các hạng mục các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư của
Nhà nước cần chỉ rõ thứ tự ưu tiên theo từng chương trình, dự án để làm căn cứ vận động vốn nước ngoài.
Các nguồn vốn viện trợ cho từng lĩnh vực cần phải phân bổ theo trật tự ưu tiên với
cơ cấu cụ thể, kết hợp với khả năng và nhu cầu vốn đối ứng có tính toán cụ thể. Phải xác
định rõ vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu để đảm bảo tính khả thi. Nhà nước chỉ bố trí
vốn đối ứng cho những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn
trực tiếp. Các dự án còn lại, chủ đầu tư cần có phương án bố trí vốn đối ứng chắc chắn
hơn mới đưa vào kế hoạch sử dụng vốn ODA. Đây là vấn đề then chốt cho yêu cầu sử
dụng hợp lý có hiệu quả, từ đó thu hút nguồn vốn ODA từ nước ngoài. c.
Kiện toàn bộ máy quản lý
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng kiến thức lập và quản lý dự án ở các bộ, ngành, địa
phương nhằm đảm bảo khả năng lập kế hoạch, lập dự án và quản lý dự án. Nâng cao
trình độ thẩm định để xét duyệt, quyết định đối với các dự án ngay ở từng bộ, ngành,
địa phương cũng như huy động nguồn vốn đối ứng trong nước nhằm làm cho việc hấp
thụ nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả cao.
Tăng cường hoàn thiện hệ thống thống kê, kế toán về nợ nước ngoài, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền đối với các đối tác tài trợ để họ hiểu thêm thể chế điều phối và
quản lý vay nợ nước ngoài về nguồn vốn ODA của Việt Nam. d. Sử dụng ODA 34
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
Sử dụng vốn vay ưu đãi ODA phải coi trọng hiệu quả kinh tế, không được sử dụng
hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có, cần phải giữ lại một phần để hoàn trả lại vốn,
lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy tín quốc tế.
Lựa chọn lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA một cách phù hợp với tình hình thực
tế của đất nước. Hiện nay ở Việt Nam để nền kinh tế đạt kết quả trên diện rộng dựa vào
luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lâu dài, thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở
thành nhiệm vụ cấp bách.
Do đó trong thời gian đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam
cần tập chung vốn, đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài ODA để đầu tư cho các dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo nhiều việc làm, các dự án đầu tư quan
trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ: điện, xi măng, sắt thép, cấp thoát nước, dầu
mỏ…Về lâu dài, chiến lược sử dụng vốn vay nước ngoài phải kết hợp với công cuộc cải
cách ngày càng sâu sắc hơn, tăng cường xuất khẩu hàng hóa, điều chỉnh chiến lược thay
thế mặt hàng nhập khẩu. Sử dụng ODA có hiệu quả, nền kinh tế được cải thiện sẽ thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều. e.
Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán
triệt phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển,
không dùng trang trải nhu cầu tiêu dùng. Thủ tục quản lý phải chặt chẽ, nhưng phải
thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn, không gây phiền hà làm
giảm tốc độ giải ngân, phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu
theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án. Chính phủ nắm được đầy đủ các
thông tin phục vụ cho các hoạt động điều phối và giám sát đánh giá tính hiệu quả của
các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA, nhất là đánh giá sau dự án, chuẩn bị
cho các chương trình, dự án tiếp theo. Giúp các doanh nghiệp huy động được sự giúp
đỡ của bên ngoài và tạo ra một nhận thức tốt về tác dụng của ODA. Ký kết những hiệp
định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa cả về số lượng và chất lượng của
nguồn vốn thu hút được. 35
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh, B. N. P (2017). Lý thuyết về lợi thế trong thu hút ODA - nghiên cứu
trường hợp điển hình của Nhật Bản. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tr75.
2. Báo tuổi trẻ: https://tuoitre.vn/ky-ket-3-du-an-oda-nua-ti-usd-cua-nhat-cho-viet- nam-20230521181204608.htm
3. Bộ Tài chính (2016), Báo cáo về tình hình thu hút và sử dụng ODA của Việt
Nam trong thời gian qua, Hà Nội.
4. Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA):
https://www.jica.go.jp/Resource/vietnam/english/office/others/c8h0vm0000cyd g8v-att/regional_03_02_vn.pdf
5. Cúc, T. (2023). Việt Nam đứng đầu số lượng thực tập sinh phái cử sang Nhật.
Báo Điện tử Chính phủ.
6. Hưng, T. (2023). Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 583,1 nghìn tỷ đồng
trong quý I/2023. Báo Nhân dân.
7. Hưởng, N. V. (2022). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
8. Minh, N. H. (2005). Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức của Nhật Bản tại Việt Nam. Trường Đại học Kinh Tế Quốc dân, tr66.
9. Ngọc, D. (2023). Tăng trưởng GDP, kết quả năm 2022, kỳ vọng 2023. VnEconomy.
10. Nguyễn Quang Thuấn & Phạm Thị Hiếu. (2013). Vai trò của ODA của Nhật
Bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 11.
11. Phạm Mai Ngân & Nguyễn Thị Kim Oanh (2019, September 5). Việt Nam
trước tác động của suy giảm vốn ODA. Tạp chí Ngân hàng. Retrieved October
16, 2023, from https://tapchinganhang.gov.vn/viet-nam-truoc-tac-dong-cua-suy- giam-von-oda.htm
12. Tiểu luận vai trò của vốn ODA Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế của Việt
Nam: https://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-vai-tro-cua-von-oda-nhat-ban-
doi-voi-su-phat-trien-kinh-te-cua-viet-nam-18667
13. Tình hình đầu tư ODA của Nhật Bản vào Việt Nam:
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-thu-dau-mot/quan-tri-
hoc/tong-quan-ve-tinh-hinh-dau-tu-oda-cua-nhat-ban-vao-viet-nam-qua-20-
nam-hop-tac-va-phat-trien-1993-2394/48984458
14. TS. Nguyễn Thị Vũ Hà. Vai trò của ODA trong phát triển hạ tầng kinh tế ở Việt
Nam và một số vấn đề đặt ra. Kinh tế Việt Nam năm 2018 và triển vọng năm
2019: Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân, 2019 (tr. 239).
15. Nguyễn Thị Thúy (2018). Vốn ODA của Nhật Bản tại Việt Nam sau Hiệp định
Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Vista.gov.vn. Retrieved October 16, 2023 36
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com) lOMoARcPSD|25518217
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/273905/CVv132S1 02018063.pdf
16. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): https://www.oecd.org
17. Ths. Nguyễn Thị Thanh Lam (2021). Nguồn vốn ODA Nhật Bản vào Việt Nam
giai đoạn 2010-2020 và triển vọng. Tạp chí Công Thương:
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nguon-von-oda-nhat-ban-vao-viet-nam-
giai-doan-2010-2020-va-trien-vong-82705.htm?fbclid=IwAR3LzI-
08tHiFBMebB6fhx4KnjJViUZ1hfpkiquCNpPRT9Z-hY6iczPHegM 37
Downloaded by Van Le (mrl3v4n@gmail.com)