Điều kiện ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình- Lý luận và Thực tiễn | Tiểu luận môn Pháp luật đại cương Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh
Luật Hôn nhân và gia đình hiện đang thi hành được ban hành từ năm 1959. Việc thi hành bộ Luật Hôn nhân và gia đình đã góp phần thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa
dựa trên các nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng. Chính vì thế mà việc hiểu rõ các điều kiện ly hôn và việc áp dụng chúng có ý nghĩa sâu rộng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (GELA220405)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT BỘ MÔN LUẬT ----------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ *** ĐIỀU KIỆN LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
MÃ MÔN HỌC: GELA220405_20CLC LỚP: 23151CL3B
GVHD TS. Trương Thị Tường Vi
Tp. Hồ Chí Minh, 05 tháng 12 năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2023-2024 Nhóm: 17
Tên đề tài:Điều kiện ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình- Lý luận và Thực tiễn. TỈ LỆ % STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN HOÀN THÀNH 1 Nguyễn Lê Thanh Trọng 23151201 2 Trần Lê Minh Trí 23151190 3 Nguyễn Lê Thanh Trọng 23151192 4 Trần Văn Vinh 23151192 Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Phùng Anh Tuấn SĐT: 093 779 4365
Nhận xét của giáo viên
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
Ngày 05 tháng 12 năm 202 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Hôn nhân và gia đình hiện đang thi hành được ban hành từ
năm 1959. Việc thi hành bộ Luật Hôn nhân và gia đình đã góp
phần thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa
dựa trên các nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một
chồng, nam nữ bình đẳng. Chính vì thế mà việc hiểu rõ các điều
kiện ly hôn và việc áp dụng chúng có ý nghĩa sâu rộng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan. Luật Hôn
nhân và gia đình cũng cung cấp khuôn khổ pháp lý điều chỉnh
các quyền và trách nhiệm trong quan hệ hôn nhân. Và việc
nghiên cứu các điều kiện ly hôn dưới góc độ lý luận sẽ giúp một
phần nào hiểu rõ hơn về nguyên tắc, cơ sở pháp lý về điều kiện
này. Còn ở góc độ thực tiễn, nghiên cứu về điều kiện ly hôn có
thể giúp hiểu rõ hơn về những thách thức, vấn đề mà các bên
gặp phải khi tham gia tố tụng ly hôn.
Các nghiên cứu này có thể khám phá các khía cạnh về cách
thực thi luật pháp, cung cấp lời khuyên và hỗ trợ cũng như giải
quyết các vấn đề phức tạp cho các gia đình có trẻ em. Và trong
hoàn cảnh của xã hội hiện nay, cùng với sự tăng lên của các gia
đình ly hôn, nhất là ở các đô thị, số lượng trẻ em trong các gia
đình ly hôn cũng tăng lên và rơi vào hoàn cảnh cực kì khó khăn
với tỷ lệ lên đến 65% -70% [1]. Qua đó, nghiên cứu về điều kiện
ly hôn giúp đáp ứng nhu cầu và thực tế của xã hội hiện đại.
Việc hiểu rõ về các điều kiện ly hôn theo quy định Luật Hôn
nhân và gia đình sẽ đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về quyền và
trách nhiệm trong quan hệ hôn nhân, cũng như đưa các gợi ý và
cải tiến cho việc áp dụng và thực thi pháp luật trong lĩnh vực
này. Đó cũng là lý do nhóm em đã thống nhất chọn đề tài: “Điều
Kiện Ly Hôn theo Quy định của Luật Hôn Nhân Gia Đình – Lý Luận và Thực Tiễn”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhắm nắm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến Ly Hôn theo
Quy định của Luật Hôn Nhân Gia Đình, tình hình ly hôn hiện nay,
nghiên cứu sẽ đề xuất các cải tiến và gợi ý cho việc áp dụng và
thực thi điều kiện ly hôn. Mục tiêu là cung cấp các giáp pháp và
hướng đi để đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi của các
bên liên quan, đồng thời đáp ứng được nhu cầu và thực tế của
xã hội trong việc chấm dứt quan hệ hôn nhân gia đình.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và
đưa ra những nhận xét, đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát
và mô tả, phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn. 3.1. Ý nghĩa thực tiễn
Làm rõ quy định ly hôn của pháp luật nước ta, đồng thời cho
thấy được tình trạng ly hôn hiện nay và những biện pháp khắc phục tình trạng này. 3.2. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 2 chương chính:
Chương 1: Khái quát chung về Ly Hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình.
1. Chương 2: Thực tiễn và thách thức trong xác định điều kiện ly hôn. NỘI DUNG
Chương 1. Khái quát chung về ly hôn theo quy định của luật hôn nhân gia đình. 3.3. Khái niệm ly hôn
Nếu hôn nhân là sự kiện xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn là sự kiện
pháp lý chấm dứt quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân không
chỉ ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của hai bên mà còn ảnh hưởng đến
quyền, nghĩa vụ của con và các thành viên khác trong gia đình; liên quan
đến các quan hệ xã hội khác được Nhà nước bảo hộ. Pháp luật bảo vệ
quyền tự do ly hôn của mỗi cá nhân, nghĩa là việc ly hôn phải xuất phát
từ ý chí tự do của các bên trong quan hệ hôn nhân, không ai, kể cả Nhà
nước có quyền ép buộc hay cản trở việc ly hôn.
Theo khoản 3, Điều 14, Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định “Ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
Như vậy, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xem xét, giải quyết
việc ly hôn của các bên. Kết luận của Tòa án thể hiện dưới hình thức: bản
án, quyết định. Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn, giải quyết với
nhau được tất cả các nội dung sau khi ly hôn thì Tòa án công nhận ly hôn
và ra quyết định dưới hình thức quyết định công nhận thuận tình ly hôn.
Nếu vợ chồng mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án xét xử và ra phán quyết ly hôn dưới dạng bản án.
1.2. Điều kiện ly hôn
Ly hôn là hành vi có tính pháp lý, phải được giải quyết bởi luật pháp thế
nên việc căn cứ ly hôn cũng phải tuân theo những quy định chặt chẽ bởi
pháp luật. Điều kiện cần cho ly hôn chủ yếu dựa vào việc xem xét các tình
tiết, sự việc phản ánh tình trạng mối quan hệ vợ, chồng. Khoản 1 Điều 56
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiệm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
1.3. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn và các trường hợp ly hôn
1.3.1 Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
Yêu cầu giải quyết ly hôn là quyền của các bên trong quan hệ hôn nhân,
quyền này gắn liền với nhân thân của mỗi người không thể chuyển giao
cho người khác. Quyền yêu cầu này có thể xuất phát từ chính thỏa thuận
của cả hai người cùng nhau yêu cầu hoặc một trong hai bên đều có quyền
bình đẳng và tự do thể hiện ý chí của mình trong việc yêu cầu ly hôn.
Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ hoặc chồng hoặc cả hai
người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn; Điểm mới trong
quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 là bổ sung trường hợp cha,
mẹ, người thân khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một
bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần, tâm thần. Vì không làm chủ được hành vi
của mình nên không thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu ly hôn, là nạn
nhân của bạo lực gia đình do vợ, chồng gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cuộc sống, sức khỏe và tinh thần.
Để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình
2014 cũng quy định về trường hợp hạn chế ly hôn cụ thể là “Chồng không
có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”. Mang thai và nuôi con nhỏ thường gắn
với đặc điểm sinh lý của người phụ nữ nhưng trách nhiệm chăm sóc, bảo
vệ, nuôi dưỡng thai nhi và con cái là trách nhiệm chung của hai vợ, chồng.
Đây là giai đoạn đặc biệt ảnh hưởng nhiều đến tâm lý, tinh thần, sức khỏe
của bà mẹ và trẻ nhỏ vì thế cần có sự hạn chế việc yêu cầu đơn phương từ
người chồng. Trong trường hợp người vợ có yêu cầu ly hôn hoặc hai bên
thỏa thuận ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục chung.
1.3.2. Các trường hợp ly hôn
1.3.2.1. Thuận tình ly hôn
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm
dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.
Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Trong
trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự
tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu
không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”.
Điều kiện để Tòa công nhận thuận tình ly hôn:
Thứ nhất, hai bên thật sự tự nguyện ly hôn là cả hai vợ chồng đều
được tự do bày tỏ ý của mình, không bị tác động bởi người kia hoặc
bởi bất kỳ bên nào khác khiến họ phải ly hôn trái với nguyện vọng của
mình. Việc ly hôn không bị cưỡng ép (không bị đe dọa, uy hiếp tinh
thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải), không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn.
Thứ hai, hai vợ chồng còn phải có sự thỏa thuận về việc chia tài sản,
việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm
bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con.
Đối với trường hợp cả hai bên thỏa thuận được việc ly hôn nhưng
không thỏa thuận được việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con hoặc có thỏa thuận nhưng việc thỏa thuận
không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải
quyết theo thủ tục vụ án dân sự.
1.3.2.2. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai
vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu
cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về ly
hôn theo yêu cầu của một bên thì có 3 trường hợp mà Tòa án cần xem
xét các căn cứ khác nhau để giải quyết ly hôn.
Trường hợp thứ nhất, khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải
tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ
về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Trường hợp thứ hai, khi vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố
mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Theo quy định tại Điều 68 Luật dân sự 2015 thì Tòa án có thể tuyên bố
một người mất tích khi “một người biệt tích 02 năm liền trở đi, mặc dù
đã áp dụng đầy đủ các biện pháp tìm kiếm theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về người đó đã chết hay còn sống”
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích
đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia
đình. Cần phải giải phóng chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này,
khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị tòa án tuyên bố mất tích.
Trường hợp thứ ba, khi có yêu cầu ly hôn của cha, mẹ hoặc người thân
thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do
bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do
chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của họ), Tòa án giải quyết ly hôn trong trường hợp này khi có căn cứ:
+ Bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận
thức làm chủ hành vi của mình.
+ Bên vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
1.3.3. Hạn chế của việc ly hôn
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Vợ chồng bình
đẳng bình đẳng về quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, xuất phát từ tinh
thần nhân đạo, pháp luật Việt Nam còn hạn chế các đối tượng sau đây
liên quan đến quyền ly hôn:
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình:
“Người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn với tư cách nguyên đơn trong
trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới mười
hai tháng tuổi”. Trường hợp vợ sảy thai thì chồng có quyền yêu cầu ly hôn được phục hồi.
Thứ hai, quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn tại khoản 3 Điều 51
của pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ áp dụng cho chồng
và không áp dụng cho vợ. Việc mang thai được pháp luật tôn trọng,
khuyến khích và bảo vệ nghiêm ngặt.
Thứ ba, điều này áp dụng ngay cả trong trường hợp người vợ. Nếu
mang thai với người khác hoặc cha đứa trẻ là ai thì chồng vẫn bị hạn
chế quyền ly hôn. Điều này cho thấy trong trường hợp người chồng
phát hiện vợ ngoại tình và con của vợ đang mang thai, mới sinh hoặc
dưới 12 tháng tuổi. Nếu không phải con người chồng thì quyền ly hôn
vẫn bị hạn chế, đồng nghĩa với việc không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Thứ tư, pháp luật quy định vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, vợ
chồng nhận con nuôi, chồng có được yêu cầu ly hôn không? Có tòa
án không hạn chế việc chồng ly hôn khi nhận con nuôi vì lý do sức
khỏe người chồng không bị tổn hại và tâm lý cũng không bị ảnh
hưởng. Dựa trên nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, Trong trường
hợp người vợ mang thai hộ hoặc sinh con thì người chồng yêu cầu ly hôn vẫn bị hạn chế.
Thứ năm, cần lưu ý rằng, khi vợ, chồng không thể bộc lộ ý nguyện do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình mà dẫn tới việc được xác định mà mất hành vi năng lực dân sự thì
người vợ, chồng đó cũng không thể thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Trường hợp
này không được coi là hạn chế quyền yêu cầu ly hôn vì đây là trường hợp mà
bản thân người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng tự thực hiện quyền của mình