-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đường lối của Đảng - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tôn Đức Thắng
Từ cuối thế kỷ XIX, CNTB phương Tây đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đôc quyền ( ĐQCN). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (306106) 250 tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Đường lối của Đảng - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tôn Đức Thắng
Từ cuối thế kỷ XIX, CNTB phương Tây đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đôc quyền ( ĐQCN). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (306106) 250 tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
1
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
I.HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1.Hoàn cảnh thế giới
• Từ cuối thế kỷ XIX, CNTB phương Tây đã chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đôc quyền ( ĐQCN). Nền kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đây là nguyên nhân sâu
xa đưa đến những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến
phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, mua
bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động… Các nước đế q ố
u c bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên
ngoài thì xâm lược và đàn áp nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn
bạo của CN ĐQ làm cho đời sống của nhân dân lao động các nước trở nên cùng
cực. Mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa với CN ĐQ ngày càng gay
gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ.
• Vào giữa thế kỷ XIX , phong trào CN phát triển mạnh đòi hỏi phải có
hệ thống khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp CN trong
cuộc đấu tranh chống lại CNTB. Trong hoàn cảnh đó CN mác ra đời,
về sau được Lê Nin phát triển. Chủ nghĩa Mác_Lênin chỉ rõ, muốn giành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai
cấp công nhân phải lập ra Đảng cộng sản.
Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến
lược sách lược của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân, là
đại biểu quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động vì gai cấp công nhân chỉ có
thể giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng được các tầng lớp nhân dân
lao động khác trong xã hội.
CNMLN được truyền bá sâu rộng khắp nơi dẫn đến sự ra đời của hàng loạt
các ĐCS ở nhiều nước TBCN và thuộc địa: ĐCS Đức, Hunggari (1918), ĐCS
Mỹ (1919), ĐCS Anh, Pháp (1920), ĐCS Trung Quốc (1921)… 1 2
• Ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ n ấ h t ( 1914_1918)
cũng tác động mạnh mẽ tới Việt Nam
Ngày 1. 8. 1914 chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đây chính là kết quả
tất yếu của những mâu thuẫn không thể điều hoà được giữa các nước ĐQCN.
Giai cấp tư sản đã rút gánh năng chiến tranh lên đầu các nước thuộc địa trong
đó có nước ta. Đồng thời chiến tranh cũng làm cho CNTB suy yếu và mâu
thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều
kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh ớ các nước nói chung, các dân tộc thuộc
địa nói riêng phát triển mạnh mẽ
• Sự tác động của CM Tháng Mười Nga
Năm 1917, CMT10 Nga thành công, CNMLN từ lý luận trở thành hiện thực,
với sự ra đời của nhà nước Xô Viết dựa trên nền tảng liên minh Công-nông dưới sự
lãnh đạo của Đảng Bônsevich Nga. Mở ra thời đại mới, thời đại cách mạng chống
đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Nó như một tiếng sét đánh thức nhân dân
Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. CMT10 chỉ ra rằng muốn cách mệnh thành
công phải lấy công nông làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, hy sinh,
nói tóm lại là phải theo CNMLN.
Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc cách mạng tháng Mười Nga. Người nói “
Trong thế giới bây giời chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nới, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không
phải tự do và bình đẳng giả dối như ĐQCN Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách
mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, đại chủ rồi lại ra sức cho nông dân các nước
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả ĐQCN và tư bản trong thế giới”. Người
còn khẳng định “ cách mạng tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân
chấu Á tỉnh giấc mơ hàng thế kỷ nay. Cách mạng tháng Mười đã mở ra trước mắt
họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
• Sự ra đời của quốc tế cộng sản (quốc tế III) (3/1919) có ý nghĩa thúc đẩy
sự phát triển mạng mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Quốc tế CS là tổ chức quốc tế bênh vực, ủng hộ, giúp đỡ các phong trào giải
phóng dân tộc trên khắp thế giới. Tại Đại hội III của QTCS luận cương về vẫn đề 2 3
dân tộc và thuộc địa của Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức.
2.HOÀN CẢNH TRONG NƯỚC
a ) XHVN dưới sự thống trị của thực dân Pháp
▪ Quá trình xâm lược VN của TD Pháp.
- Từ chiều 31/8/1858, liên hiệp Pháp- Tây đã kéo tới dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng.
- 1/9/1858 cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà chính thức xâm lược VN.
Pháp chọn Đà nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên vì:
1. Lấy Đà nẵng làm căn cứ bàn đạp, từ đó đánh sâu vào nội địa, vượt
đòe Hải Vân đánh thọc sâu lên Huế bóp chết sức kháng chiến của pk
triều nguyễn.
2. Cửa biển sâu, rộng nên tàu chiến của chúng dễ ra vào
3. Hậu phương quảng nam giàu có, đông dân có thể giúp chúng thực
hiện lấy chiến tranh nuôi chiến tranh
- Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, xa đọa, đã nhanh chóng bỏ mặc quần
chúng tự đấu tranh, lần lượt đi tới ký kết các hiệp ước đầu hàng. 25/8/1883,
nhà Nguyễn ký với Pháp bản hiệp ước hácmăng. Với bản hiệp ước này, về
căn bản VN đã mất quyền tự chủ trên phạm vi toàn quốc, triều đình Huế
chính thức thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp, mọi công việc chính trị, kinh
tế, ngoại giao đều do pháp nắm .
- 6/6/1884 tiếp tục ký hiệp ước Patơnốt đặt cơ sở lâu dài chủ yếu cho quyền
đô hộ của Pháp ở Việt Nam
➢ Hai hiệp ước được ký kết đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của nhà nước
pk VN độc lập. VN từ một xã hội Pk độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa PK
- Từ 1884- 1897 Pháp hoàn thành quá trình đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân
- 1987_ 1914 là quá trình Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần 1
- 1919_1929 Pháp thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa lần 2
▪ Chính sách cai trị của thực dân Pháp, 3 4
Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
đối nội, đối ngoại của phong kiến triều Nguyễn. Chúng dùng chính sách chia để trị,
chia VN thành 3 xứ: Bắc kỳ, trung kỳ và Nam kỳ, thực hiện ở mối xứ một chế độ
cai trị riêng nhằm chia rẽ dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kêt của dân tộc.
Thực hiện thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn áp khốc liệt các hoạt
động yêu nước, làm cho nước VN lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị.
Về kinh tế: Chúng tiến hành chương trình khai thác th ộ
u c địa trên quy mô lớn
nhằm khai thác tài nguyên, bóc lột nhân công, cướp ruộng đất của nông dân, biến
Việt Nam và Đông Dương thành thị trường tiêu thụ và hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp
Trong chương trình này, Pháp nhằm vào hai trọng tâm là khai thác mỏ (chủ yếu
là mỏ than) và đồn điền (chủ yếu là đồn điền cao su). Phát triển một số ngành công
nghiệp với mục tiêu không cạnh tranh với công nghiệp chính quốc. Ra sức phát
triển giao thông vận tải, kể cả đường sắt, đường bộ, đường thủy để phục vụ tối đa
cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Thi hành chính sách độc
chiếm thị trường, độc quyền rượu, muối, thuộc phiện. Các thứ thuế đều tăng hai, ba
lần so với trước. Thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rợ và ra sực chiếm đoạt
ruộng đất của nông dân
Do sự du nhập của phương thức sản xuất TBCN, tình hình kinh tế VN có sự biến
đổi: kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành những khu đô thị và tụ điểm dân cư
mới. Nhưng Pháp ko du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa
vào nước ta mà vẫn duy trì kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc
lột tư bản và PK để thu lợi nhuận siêu ngạch. Vì vậy mà VN ko thể phát triển lên
TBCN một cách bình thường được, nền kinh tế VN bị kìm hãm trong vòng lạc hậu
và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp
Về văn hóa :Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá ngu dân, nô dịch gây
tâm lí tự ti, dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu, khuyến khích các hoạt động mê
tín dị đoan, đồi phong bại tục, ngăn cấm các hoạt động yêu nước của nhân dân,
bưng bít, ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hoá tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của Pháp ở Đông Dương: “chúng tôi không
những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một
cách thê thảm…bằng thuốc phiện, bằng rượu …. Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc 4 5
nào cũng mở cửa và chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng XHCN
cũng đều bị b và đôi khi bị giết mà không cần xét xử …. Chúng tôi không có quyền
tư do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du
lịch ra nước ngoài, chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tội
không có quyền tự do học tập”.
▪ Hậu quả của chính sách khai thác thuộc địa.
o Tính chất xã hội thay đổi: Từ một XHPK độc lập trở thành XH thuộc địa
nửa phong kiến: mặc dù còn duy trì một phần chế độ PK song tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, VH_XH và giai cấp đều đặt trong quỹ đạo chuyển động
của XH thuộc địa
✓ Trong xã hội Việt Nam ngoài mâu thuẫn cơ bản trước đó đã có sự chuyển biến:
+ Xã hội phong kiến: nhân dân(chủ yếu là nông dân) >< địa chủ phong kiến
+Xã hội thuộc địa nửa phong kiến: toàn thể dân tộc VN>< ĐQ, tay sai phản động
và nông dân><địa chủ PK
✓ Kết cấu giai cấp xã hội thay đổi:
Xã hội Phong kiến: nông dân – địa chủ phong kiến
Xã hội thuộc địa nửa phong kiến: bên cạnh 2 giai cấp cũ còn có thêm các
giai cấp mới: công nhân, tiểu tư sản, tư sản.
Giai cấp địa chủ: câu kết với thực dân Pháp, tăng cường bóc lột, áp bức nông dân.
Nên đây là giai cấp cần đánh đổ
Lực lương địa chủ (theo cách tính có sở hữu từ 5 mẫu Bắc - Trung Bộ, tức
1,8ha trở lên và dùng ruộng đất để canh tác thu tô thì được coi là địa chủ) chiếm
khoảng 7% cư dân nông thôn nhưng nắm trong tay khoảng 50% diện tích canh tác.
Tuy nhiên, do chính sách kinh tế phản động của thực dân Pháp, giai cáp địa
chủ cũng bị phân hóa thành 3 bộ phận rõ rệt: tiểu , trung và đại địa chủ. Một bộ
phận địa chủ vừa và nhỏ cũng có lòng yêu nước, căm ghét chế dộ t ự h c dân đã
tham gia đấu tranh chống pháp. 5 6
Giai cấp nông dân: Chiếm khoảng 90% dân số, phải chịu 2 tầng áp bức bóc lột của
thực dân và phong kiến. Họ bị bần cùng hoá, bị tước đoạt ruộng đất, bị mất nhà
cửa, lâm vào cảnh đói rét, tha phương cầu thực, khổ cực trăm bề. tình cảnh khốn
cùng đã làm tăng thêm lòng căm thù đế q ố
u c và PK tay sai. Đây chính là lực lượng
chủ lực của phong trào giải phóng dân tộc, là động lực cách mạng.
Trong cuốn “ Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa
xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” của Lê Duẩn, cố tổng bí thư ĐCSVN
đã có nhận định “ Khác với nông dân nhiều nước, nông dân Việt Nam chưa hề đi
theo giai cấp tư sản dân tộc vốn nhỏ yếu về kinh tế, bạc nhược về chính trị. Đó là
vì tinh thần cách mạng cuả nông dân nước ta và những yêu cầu cách mạng của họ
vượt xa những giới hạn mà giai cấp tư sản có thể vươn tới. Nông dân rất cách
mạng, song không thể lãnh đạo cách mạng, bởi vì nông dân không địa biểu cho
một phương thức sản xuất riêng biệt, không có vị trí chính trị độc lập, không có hệ
tư tưởng độc lập. Trong cách mạng DTDC nước ta, giai cấp nông dân chỉ có thể
đi với giai cấp vô sản và chịu sự lãnh đạo của giai cấp vô sản … Chỉ trong trường
hợp đó, lợi ích căn bản trước mắt và lâu dài của nông dân mới được đảm bảo”.
Giai cấp công nhân Việt Nam: là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác
thuộc địa của Pháp. Mặc dù mới ra đời, số lượng ít nhưng giai cấp công nhân Việt
Nam đã nhanh chóng trưởng thành về số lượng và chất lượng, trở thành lực lượng
lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.
✓ Tại sao giai cấp công nhân trở thành lực lượng lãnh đạo duy nhất?(4 đặc
điểm chung và 3 đặc điểm riêng)
- Sống và làm việc tập trung , hình thành nên tác phong công nghiệp, do đó có
ý thức tổ chức, kỷ luật rất cao
- Là giai cấp tiên tiến nhất, vì nó gắn liền và đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến nhất, đại công nghiệp.
- Là giai cấp cách mạng triệt để nhất vì nó ko có tư hữu, do đó đấu tranh rất
quyết liệt.
- Là giai cấp có tinh thần cm triệt để, vì giai cấp vô sản tg có cùng chung một
kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, do đó rất dễ lien kết với nhau để đấu tranh.
- Có mối thù dân tộc và mối thù giai cấp hòa vào làm một (chịu 3 tầng áp
bức, ĐQ, PK và TB bản xứ). 6 7
- Xuất thân từ nông dân nên có mối quan hệ mật thiết với nông dân. Tạo đk
thuận lợi hình thành liên minh công nông.
- Ra đời trước giai cấp TS dân tộc và vừa lướn lên đã tiếp thu ánh sáng của
CN MLN nên nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác.
Giai cấp tư sản: Ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất, bị tư sản chèn ép nên giai
cấp tư sản Việt Nam bị phân hoá thành 2 bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc
Tư sản mại bản: là tư sản lớn, có quyền lợi kinh tế gắn liền với đế quốc, bao
thầu những công trình xây dựng của chúng ở nước ta, có nhiều đồn điền lớn,
ruộng đất cho phát canh thu tô. Vì quyền lợi kinh tế và chính trị gắn liền với đế
quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.
Tư sản dân tộc: là lực lượng có tinh thần yêu nước, chống phong kiến, đế quốc,
nhưng do hình thành muộn, thế lực kinh tế yếu nên không có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản: bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, thợ thủ
công, trí thức, học sinh, sinh viên …
Giữa các bộ phận đó có khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn
chung địa vị kinh tế của họ là bấp bênh, bị đế quốc và phong kiến khinh rẻ. Cho
nên họ có mâu thuẫn với đế quốc, phong kiến, hăng hái cách mạng. Đặc biệt là
tầng lớp trí thức nhậy cảm với thới cuộc, dễ tiếp thu cái mới, tiến bộ và họ đóng
vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, là một lực lượng
cách mạng quan trọng.
➢ Thực tiễn xã hội Việt Nam lúc này đặt ra 2 nhiệm vụ:
o Một là: phải đánh đổ bọn thực dân xâm lược, giành độc lập cho dân tộc
o Hai là: Xoá đổ phong kiến đã lỗi thời, phản bội lợi ích dân tộc, giành
quyền dân chủ cho nhân dân, trước hết là ruộng đất cho nông dân.
Trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
b)Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản 7 8
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các phong trào chống Pháp của nhân
dân ta diễn ra hết sức sôi nổi dưới nhiều hình thức và màu sắc khác nhau. các
phong trào thời kỳ này phát triển mạnh mẽ và chịu sự chi phối của 2 hệ tư tưởng
lớn: hệ tư tưởng phong kiến: tiêu biểu là phong trào Cần Vương (1885-1896), hệ tư
tưởng Dân chủ tư sản: xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải
lương của Phan Chu Trinh, và kết quả cuối cùng đều đi đến thất bại, khủng hoảng và bế tắc
Phong trào Cần Vương(1885-1896) là một phong trào đấu tranh vũ trang do vua
Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tấn công trại lính ở gần kinh
thành huế. Bị thất bại, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở ( Quảng
Trị). Ngày 13. 7 .1885 Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần
Vương từ đây phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Ngày 1.11.1888 Vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn
phát triển tiếp tục phát triển, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1881-
1887), Bãi Sậy( 1883-1892), Hương Khê (1885-1895) đến 1896 mới kết thúc. Thất
bại của phong trào Cần Vương đã chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến
và phong trào nông dân trong việc giải quyết nhiệm vụ dân tộc, dân chủ xã hội
Việt Nam lúc này
- Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa, đầu thế kỷ XX các phong trào yêu nước dưới
sự lãnh đạo của các tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ
tư sản diễn ra sôi nổi. Phân ra hai xu hướng: Một bộ phận chủ trương đánh đuổi
thực dân Pháp giành độc lập chủ quyền bằng phương pháp bạo động, một bộ phận
khác lại coi cải cách là giải pháp tiến tới độc lập
+ Xu hướng bạo động: đại diện là Phan Bội Châu: Phan Bội Châu chủ trương
dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản để đánh Pháp, giành độc lập
cho dân tộc, thiết lập một Nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật.
(đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau). Ông lập ra Hội Duy Tân (1904), tổ chức
phong trào Đông Du ( 1906 – 1908) đưa gần 200 thanh niên ưu tú Việt nam sang
học tập ở các trường Nhật Bản, để đào tạo cán bộ cho cuộc bạo động về sau.
Nhưng đến tháng 9. 1908, thực dân Pháp câu kết với Nhật trục xuất số lưu học
sinh Việt Nam ra khỏi đất nước Nhật, phong trào Đông Du tan rã. Chủ trương
dựa vào Nhật để đánh Pháp không thành công, ông về Xiêm nằm chờ đợi, giữa
lúc đó cách mạng Tân Hợi bùng nổ ( 8/1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt 8 9
Nam Quang Phục Hội (1912), với ý định tập hợp lực lượn
g kéo về nước võ trang
bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc nhưng rồi cũng đã không thành công,
1925 Phan Bội Châu bị Pháp bắt đưa về nước.
+ Xu hướng Cải cách: đại biểu cho xu hướng này là Phan Chu Trinh, ông chủ
trương vận động cải cách văn hoá, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân
dân, đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề x ớ
ư ng tư tưởng dân chủ tư sản
với phương pháp: “ khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” ,mở mang dân
quyền, phản đối chiến tranh, phản đối cầu viện nước ngoài. Năm 1906. Phan Chu
Trinh cùng nhóm sĩ phu tiến bộ lãnh đạo cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ.
Phong trào này bị thực dân Pháp đàn áp, Phan Chu Trinh bị bắt và bị kết án tù 6
năm ở Côn Đảo. 1911, thực dân Pháp đưa Phan Chu Trinh sang sống ở Pari.
Trong hơn 10 năm sống ở đây, ông vẫn kiên trì đường lối cải lương, kêu gọi dân
quyền, dân sinh, dân trí và phản đối đấu tranh bạo động vũ trang. Năm 1925
Phan Chu Trinh về nước, sau đó bị ốm nặng và mất Sài Gòn vào tháng 3 – 1926.
Bên cạnh các phong trào trên còn có hoạt động của Tân Việt cách mạng
đảng( 7/1928)( tiền thân là Hội Phục Việt 1925) và VN quốc dân Đảng(12/1927)
Như vậy, trước yêu cầu, nhiệm vụ của xã hội Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức.
Mục tiêu của các phong trào đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập
cho dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau, hoặc nhằm khôi phục
chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến , với các phương thức,
biện pháp đấu tranh khác nhau, bạo động hoặc cải lương với quan điểm tập hợp
lực lượng bên ngoài khác nhau, nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh thời kỳ này
đều đi đến thất bại. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc
gia TS đầu TK XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp
này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra.
c) phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản .
❖ NAQ chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập ĐCSVN: 9 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc thiếu thời có tên gọi là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày
19 – 05 – 1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Thân phụ của Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc vốn là một người cần cù, siêng năng
và hiếu học. Thân mẫu là Hoàng Thị Loan – một người rất cần mẫn, đảm đang, đôn hậu.
Sinh ra và lớn lên giữa lúc nước mất – nhà tan, được chứng kiến biết bao tội ác
của giặc ngoại xâm đối với nhân dân, được tận mắt nhìn thấy các phong trào yêu
nước của đồng bào bị dìm trong bể máu nên ngay từ rất sớm Người đã có chí đánh
đuổi thực dân, giải phóng đồng bào. Người đã trăn trở với biết bao câu hỏi về vận
mệnh của dân tộc: “ Tại sao các phong trào chống Pháp phải chịu thất bại.”.
Phong trào cách mạng Việt Nam như đi trong một đường hầm đen tối không có
một tia hy vọng! Đâu là con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam? .
Người rất kính trọng các bậc anh hùng tiền bối, nhưng không tán thành con
đường cứu nước của những người đi trước. Cụ Phan Châu Trinh mặc dù là một
người yêu nước nhiệt thành nhưng chỉ yêu cầu người Pháp cải lương thì chẳng
khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đuổi
Pháp thì chẳng khác gì: “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa
Thám tuy có thực tế hơn về chủ trương đánh Pháp nhưng cũng còn “ nặng cốt
cách phong kiến”.
-Sau nhiều trăn trở, suy nghiệm, ngày 05 – 06 – 1911, Nguyễn Tất Thành đã
xuống tàu bôn ba năm châu bốn bể để tìm đường cứu nước mới cho cả dân tộc
đang ngày đêm rên xiết dưới nanh vuốt của thực dân hung bạo – chỉ với hành trang
duy nhất là hai bàn tay trắng và một trái tim yêu nước nồng nàn.
Những chuyến đi của Tôn Thất Thuyết, của những nhân vật trong phong
trào Đông Du trước đây chủ yếu là để tìm ngoại viện còn đối với Nguyễn Tất
Thành, mục đích xuất dương hoàn toàn khác: muốn đi ra nước ngoài sau khi xem
xét họ làm như thế nào sau đó sẽ trở về giúp đồng bào mình.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc cũng đã tìm hiểu các
cuộc cm điển hình trên thế g ớ
i i. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái và quyền con người trong cuộc CMTS Mỹ (1776), Pháp ( 1789). Nhưng
Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng này là những “ cuộc cách mạng không 10 11
đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công – nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.
-Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp. Tại đây, Người đã lập “ Hội
những người Việt Nam yêu nước”, với tờ báo “ Việt Nam hồn” để tuyên truyền
giáo dục Việt kiều ở Pháp. Đây cũng là thời gian mà cách mạng Tháng Mười Nga
nổ ra và giành thắng lợi và nó đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và tình cảm của Người.
Các lí do hấp dẫn đưa Người đến với nước Pháp chính là những truyền
thống, bình đẳng, tự do, bác ái và nền văn minh của chính quốc mà Người được
nghe đang tương phản gay gắt với sự tàn bạo của bọn thực dân thuộc địa mà
Người đã chứng kiến. Sau này, năm 1923, tại Matxcơva khi trả lời phỏng vấn của
phóng viên tạp chí Ngọn Lửa Nhỏ, Người đã giải thích quyết định ra đi của mình như sau:
“ Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ n ữ
g tiếng Pháp: Tự do –
Bình đẳng – Bác ái. Đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là
người Pháp – thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì
ẩn dấu đằng sau những từ ngữ ấy”.
Người đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga (1917). Cách
mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vùng dậy đấu tranh cách mạng. Nó mở ra một
thời đại mới trong lịch sử loài người: “Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Cách mạng tháng Mười đã tác động
sâu sắc tư tưởng tình cảm của Người. Người đã nói: Cho đến bây giờ chỉ có cách
mạng Tháng Mười Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hp, tự do, bình đẳng that, chứ ko phải hp, tự do, bình đẳng
giả dối như thực dân Pháp khoe khoang bên An Nam”. Từ đó, Người hướng về ánh
sáng của cách mạng tháng Mười.
-Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc thắng trận đã họp hội
nghị Vécxay( 1919) để phân chia quyền lợi. Ngày 18 – 06 – 1919, lấy tên Nguyễn
Ái Quốc, thay mặt Hội đồng những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gởi
tới hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự
do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. 11 12
Những yêu sách đó không được chấp nhận, nhưng đòn tấn công trực diện,
đầu tiên đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn trùm đế quốc đã có tiếng vang lớn
đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp.
. Người đã rút ra một kết luận lớn:
“ Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”
“ Muốn được độc lập và tự do thật sự, các dân tộc bị áp bức phải trông cậy trước
hết vào lực lượng của bản thân mình. Người Việt Nam phải tự giải phóng lấy mình”.
“ Độc lập – Tự do phải do đấu tranh mà có không do xin sỏ mà thành”.
- 7 – 1920, Nguyễn Ai Quốc đọc được toàn văn: “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và cũng chính ở
đây Người đã tìm thấy con đường đúng đắn giải phóng dân tộc. Từ đó người tin
theo Lê Nin, tin theo quốc tế thứ 3
Sau này, Người nhớ lại:“ Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó
hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính.
Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo:“Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ!Đây
là cái cần thiết cho chúng ta! Đây là con đường giải phóng chúng ta!”
-Tháng 12 – 1920 tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua,
Nguyễn Ai Quốc và những đại biểu tiến bộ dự Đại hội đã có hai quyết định quan
trọng cực kỳ đúng đắn: Bỏ phiếu tán thành ra nhập Quốc tế III – Quốc tế cộng sản
và là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp.
Một là: Nó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ai Quốc: Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin – chủ nghĩa cộng sản.
Hai là: Từ một chiến sĩ yêu nước đấu tranh cho độc lập tự do, Nguyễn Ai
Quốc đã trở thành một chiến sĩ cộng sản và một chiến sĩ quốc tế vô sản.
Và cũng trong khoảng thời gian này Nguyễn Ai Quốc đã có sự lựa chọn dứt
khoát con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam: “ Muốn cứu nước, 12 13
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
Sự kiện trên cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường giải quyết cuộc khủng
hoảng về đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam.Thực hiện bước
ngoặt đó, Nguyễn Ai Quốc đã hoàn thành chặng đường đầu của hành trình cứu nước.
• Quá trình truyền bá CN MLN vào VN
✓ Từ 1921-1923 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pháp
-Tháng 7 – 1921, được sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ai Quốc
cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp như Angiêri, Tuynidi,
Mađaxgatca sáng lập ra “ Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa” ở Paris để đoàn
kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Thông
qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mac - Lênin đến với các dân tộc thuộc địa.
Tuyên ngôn của hội chỉ rõ:“ Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện
bằng sự nỗ lực của anh em “.Tuyên ngôn kêu gọi:“ Những người bị áp bức ở các
thuộc địa và những người bị áp bức ở các nước đế quốc hãy đoàn kết lại”
Hội có cơ quan ngôn luận là tờ báo Người Cùng Khổ ( Le Paria ) do Nguyễn
Ai Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
✓ Tháng 6 – 1923, Nguyễn Ai Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô tham
dự Đại hội Quốc tế Nông dân và được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế
Nông dân. Người tiếp tục học tập kinh nghiệm CMT10 và CN MLN, viết bài
cho báo Sự Thật, cho Tạp chí thư tín quốc tế.
✓ Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V ( Tháng 7 – 1924 ), Người đã trình
bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng thuộc
địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
✓ 11 – 1924 Nguyễn Ai Quốc về tới Quảng Châu - Trung Quốc , thành lập
Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa
✓ tháng 6 – 1925 Người đã sáng lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Đây chính là sự chuẩn bị về tổ chức, về con người cho cách mạng Việt Nam. 13 14
Nhiệm vụ của Hội là đào tạo ra cán bộ chủ chốt, cốt cán là những lực lượng
hạt giống đỏ và gieo mầm cho cách mạng Việt Nam. Hội có cơ quan ngôn luận là
tuần báo Thanh niên.
Từ 1925 – 1927, Người cùng với Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu trực tiếp mở
các lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày đào tạo được 200 hội viên. Kết thúc khoá
học, một số học viên được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông - Liên Xô,
một số được cử đi học quân sự ở trường Hoàng Phố ( Trung Quốc ), còn đại bộ
phận trở về nước hoạt động để gây dựng tổ quốc, xây dựng phong trào, tiếp tục
tuyên truyền chủ nghĩa Mac – Lênin và đường lối cứu nước vào phong trào công
nhân và nhân dân lao độngViệt Nam.
✓ “ Bản án chế độ thực dân Pháp “được xuất bản 1925 nhằm vạch trần tội
ác của chủ nghĩa đế quốc
Tác phẩm gồm những nội dung cơ bản sau: 1/ Tố c
áo tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân đối với các nước thuộc địa.
2/ Nêu bật Cách mạng là sự nghiệp chung của dân chúng.
3/ Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc với cách mạng
thuộc địa, giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc qua hình
ảnh chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có hai cái vòi. Một vòi bám vào giai cấp
vô sản ở chính quốc, và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước
thuộc địa. Muốn giết chết con vật ấy người ta đồng thời phải cắt đứr cả hai cái
vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản. Con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị đứt sẽ lại mọc ra.
✓ Tất cả các bài giảng trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu được tập
hợp lại in thành sách mang tên “ Đường Kách Mệnh “ xuất bản năm 1927.
Nội dung tác phẩm “ Đường Kách Mệnh” ?
* Về tính chất, kẻ thù và định hướng phát triển của cách mạng thuộc địa:
kẻ thù của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa thực dân. Nguyễn Ai Quốc xác định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc 14 15
địa muốn giành được thắng lợi triệt để thì phải đi theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
* Về nhiệm vụ, mục tiêu và con đường phát triển đi lên của cách mạng ở thuộc địa: Đế q ố
u cvà phong kiến là hai kẻ thù nhưng đế quốc là kẻ thù chủa yếu. Vì vậy,
nhiệm vụ trước mắt là đánh đuổi đế quốc giành độc lập cho dân tộc,rửa sạch nỗi nhục mất nước.
Sau khi giành lại được độc lập cho dân tộc thì tiến lên xây dựng chủ ng i h ã xã hội
để tiếp tục sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng cho
nhân dân lao động mọi áp bức, đau khổ vươn tới cuộc sống tự do, ấm no, hạnh
phúc thật sự cho tất cả mọi người.
* Về lực lượng cách mạng:
Là toàn dân tham gia trong đó công – nông là gốc của cách mạng ( vì đạy là hai
giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất nên có tinh thần cách mạng triệt để nhất). Học trò,
nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công – nông.
Ngoài ra, còn phải lôi kéo trung, tiểu địa chủ và tư sản dân tộc về phía cách mạng.
* Về phương pháp cách mạng:
Theo quan điểm của Người đó là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng.
* Về đoàn kết quốc tế:
-“ Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng
trên thế giới là đồng chí của Việt Nam”.
* Về vai trò lãnh đạo của Đảng:
- Cách mạng muốn thành côngtrước hết phải có sự lãnh đạo của Đảng.
- Đảng có mạnh thì cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. 15 16
- Đảng muốn mạnh thì trước hết Đảng phải có một học thuyết lí luận đúng đắn soi
đường. Theo Người: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
➢ tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh, chuẩn bị
về tư tưởng chính trị cho thành lập đảng sau này.
❖ Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập
trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức boc lột của tư sản thực
dân cũng diễn ra từ rất sớm.
+Trước năm 1918, phong trào công nhân diễn ra còn rất tự phát, người dân
chưa hiểu hết được cái nguồn gốc chính gây ra những đau khổ cho họ, nên đấu
tranh còn bồng bột, dời dạc, và bộc phát.
+Từ 1919-1925, phong trào công nhân đã có bước phát triển mới so với trước
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra
trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Trong những năm 1919-1925, nổ ra khoảng 25 cuộc bãi công của công nhân,
tiêu biểu như cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng
tổ chức (8/1925), công nhân nhà máy sợi Nam Định( 1925) đòi chủ tư bản phải
tăng lương, phải bỏ đánh đập, giãn đuổi thợ….
Tuy nhiên các phòng trào thời kỳ này mới chỉ dừng lại ở những yêu cầu, đòi hỏi quyền lợi về kinh tế.
+ Trong giai đoạn 1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của Hội
VN cách mạng thanh niên nên phát triển mạnh mẽ hơn. Riêng trong 2 năm 1928-
1929 đã nổ ra 40 cuộc đấu tranh lớn nhỏ trong toàn quốc.
Trong năm 1928, hội VNCMTN thực hiện chủ trương vô sản hóa, đưa hội viên
của mình vào trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước, cùn sống và làm
việc với công nhân để truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo
quần chúng đấu tranh
Phong trào công nhân trong giai đoạn này mang tính chính trị rõ rệt chứ không
chỉ dừng lại ở đòi hỏi quyền lợi về kinh tế. Các cuộc đấu tranh đã có sự liên kết 16 17
giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương khác nhau. Điều đó chứng tỏ trình
độ giác ngộ của công nhân đã được nâng lên rõ rệt, tuy chưa đều khắp. Từ đấu
tranh tự phát đã phát triển lên tự giác. Phong trào công nhân có sức quy tụ, dẫn đầu
phong trào yêu nước, lôi kéo phong trào yêu nước theo con đường cách mạng vô sản.
❖ Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở VN
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN đã phát triển
mạnh mẽ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng. Yêu
cầu bức thiết đó đã tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu
tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức cộng sản ở VN
Nhận thức được sự phát triển phong trào cách mạng trong nước thì cuối tháng
3 . 1929 những người Hội viên tiên tiến của Hội VNCM thanh niên ở Bắc kỳ đã
họp tại số nhà 5D phố Hàm Long – Hà nội lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên gồm 7
đảng viên ( Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần
Văn Cung, Dương Hạc Kính, Kim Tôn) do Trần Văn Cung làm bí thư.
- 1.5.1929 tại Đại hội lần 1 của Hội VNCM thanh niên họp ở Hương Cảng –
Trung Quốc được tiến hành, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã đưa ra vấn đề cần
thành lập ngay một Đảng cộng sản, nhưng không được Đại hội chấp nhận, vì
thế đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã rút về nước lập ra tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng 6.1929.
- Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và sự ra đời của Động Dương
Cộng sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên ở Trung Kỳ và Nam Kỳ thành lập ra An Nam Cộng
sản Đảng 7.1929
Cùng với sự phân hóa cùa Hội VNCMTN thì Tân Việt CM Đảng cũng có sự
phân hóa mạnh mẽ.
- Tân Việt ra đời và hoạt động trong điều kiện hội VNCMTN ngày càng phát
triển mạnh, lý luận của CNMLN và tư tưởng CM của Nguyễn Ái Quốc có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới Tân Việt, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến
trong Tân Việt đi theo VNCMTN. Bộ phận tiên tiến còn lại trong tân Việt
quyết định đi tới thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn (9/ 1929).
➢ Chỉ 4 tháng ở Việt Nam có 3 tổ chức cộng sản ra đời.
▪ Tích cực: đã làm cho phong trào cách mạng trong nước phát triển mạnh
mẽ, các phong trào này có sự lãnh đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng vì 17 18
thế nó có sự liên kết chặt chẽ địa phương này với đại phướng khác để
thực hiện mục tiêu chung.
▪ Hạn chế: trong một nước xuất hiện 3 tổ chức cộng sản đã dẫn đến hiện
tượng tranh giành quần chúng và Đảng viên của nhau, chỉ trích công kích
lẫn nhau, gây phân tán và chia rẽ trong nội bộ cách mạng.
Nguyên lí xây dựng Đảng của giai cấp vô sản không cho phép có sự chia rẽ
về tư tưởng và càng không cho phép chia rẽ về mặt tổ chúc. Vì thế mà sự xuất hiện
3 tổ chức cộng sản đã chứng tỏ xu thế thành lập một đảng cộng sản duy nhất đã trở
thành tất yếu của cách mạng Việt Nam.
II. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG
Quy luật ra đời của ĐCS: CNMLN + phong trào CN
Quy luật ra đời của ĐCSVN: CNMLN + Phong trào CN+ Phong trào yêu nước.
Chứng minh quy luật:
CNMLN và Phong trào CN: chung nguồn gốc là CNTB. Có CNTB mới có
CNMLN để xóa bỏ CNTB xây dựng CNXH. Có CNTB mới có sự áp bức GCCN. Có
áp bức sẽ có đấu tranh. Do đó, CNMLN là lý luận triệt để giải phóng GCCN và ND lao động.
CNMLN và Phong trào CN khác nhau về tiền đề: tiền đề của CNMLN không
nằm trong phong trào công nhân. GCCN không viết ra được lý luận này. Nó do
những người thuộc tầng lớp hữu sản có khả năng, học thức mới tổng kết kinh
nghiệm lịch sử viết ra hệ thống lý luận này. Còn tiền đề của phong trào CN là
CNTB, có áp bức ắt có đấu tranh. Nhưng nếu CNMLN không truyền bá vào phong
trào công nhân thì nó không tạo ra sức mạnh vật chất, còn phong trào công nhân
không có CNM dẫn đường thì mãi mãi là phong trào đấu tranh tự phát. CNMLN
truyền bá vào Phong trào công nhân thúc đẩy phong trào đấu tranh của CN từ tự
phát sang tự giác. Mốc đánh dấu CN đấu tranh tự phát là sự ra đời của Đảng.
Quy luật này vận dụng vào VN, ở VN ngoài CNMLN truyền bá vào phong trào CN,
CNM còn đồng thời truyền bá vào phong trào yêu nước trở thành hệ tư tưởng lãnh
đạo phong trào yêu nước. Vì vậy quy luật ra đời của Đảng ta bao gồm 3 yếu tố trên
1. Hội nghị thành lập Đảng
10/1929, quốc tế cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu về
việc thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương, chỉ rõ việc thiếu một Đảng cộng 18 19
sản duy nhất trong lúc phong trào quần chúng CN và ND phát triển đã trở thành
một điều vô cùng nguy hiểm của CM Đông Dương
Đang ở Xiêm tìm đường về nước, nhận được tin những người cộng sản chia
thành nhiều phe phái, Nguyễn Ái Quốc đã rời Xiêm về Hương Cảng- Trung Quốc
với tư cách là phái viên của quốc tế cộng sản quyết định triệu tập hội nghị hợp
nhất đảng cộng sản.
-Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị thống nhất Đảng đã được tiến
hành tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng – Trung Quốc), bắt đầu họp từ 6/1/1930
- Thành phần hội nghị hợp nhất gồm một đại biểu của Quốc tế cộng sản, hai đại
biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng. 2 đại biểu của An Nam cộng sản
- Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản, trong
đó có chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt, lời kêu gọi nhân ngày
thành lập Đảng … tất cả các văn kiện trên đều do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo.
-Hội nghị cũng vạch kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước và
thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
-Ngày 24 – 2 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn xin gia nhập và được chấp thuận.
Sau này, nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 đảng lao động VN
quyết định lấy ngày 3/2 hàng năm làm ngày thành lập Đảng
2. Cương lính chính trị đầu tiên của Đảng.
CCVT, SLVT, CTTT, ĐLVT do NAQ soạn thảo được thông qua tại HN thành
lập Đảng ( 3/2/1930) đã trở thành ĐL DTDCND chính thức của ĐCSVN. Tuy là
vắn tắt nhưng đã xác định một cách đầy đủ những vẫn đề cơ bản về chiến lược, và
phương pháp cách mạng của CMVN nên đã được coi là cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng. -
Tính chất: tính chất của XHVN là một XH thuộc địa nửa PK. Nền kinh tế
CN, NN, hết sức lạc hậu tiêu điều. 19 20 -
Cương lĩnh đi phân tích những mâu thuẫn cơ bản của XHVN lúc này: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với ĐQ và tay sai. Ngoài ra còn có mâu thuấn giữa
nông dân với địa chủ PK( đặc biệt là đại địa chủ) và TS (đặc biệt TS thương mại ) với CN.
Sau khi đi phân tích tính chất và những mâu thuẫn cơ bản của XHVN, cương
lính xác đinh phương hướng chiến lược của CMVN -
phương hướng chiến lược:” làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản.”
Như vậy cương lĩnh đã xác định mục tiêu của CM nước ta phải trải qua 2 giai đoạn:
Làm CMTS dân quyền là chống ĐQ để GP dân tộc.Thổ địa CM là chống PK
đem lại ruộng đất cho dân cày. Đây là giai đoạn thứ n ấ
h t. giai đoạn thứ 2 là tiến tới XHCS
Cương lĩnh đã xác định mục tiêu trước mắt và mục đích cuối cùng. Mối
quan hệ giữa hai giai đoạn này không có bức tường thành nào ngăn cách, kết thúc
giai đoạn thứ n ấ
h t cũng là bước mở đầu cho giai đoạn thứ hai. Cho nên giai đọa
thứ nhát càng giải quyết triệt để bao nhiêu thì càng tạo ĐK thuận lợi cho giai đoạn
thứ 2 bấy nhiêu.
Cương lĩnh vạch ra còn thể h ệ
i n tính triệt để của CMVN, đó là giành độc
lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Vì vậy khi đã giành được độc lập, nhất
thiết phải đi lên CNXH vì chỉ có CNXH mới làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi
người được tự do, hạnh phúc. -
Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị : đánh đổ ĐQCN Pháp làm cho VN hoàn toàn độc lập. Trong
hang ngũ PK chỉ có đại ĐC là đứng hẳn về phe ĐQ nên trước mắt phải đánh đổ
đại địa chủ. Dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức ra quân đội công nông
Về kinh tế: tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn ĐQ giao cho chính phủ
công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn ĐQ làm của công và chia cho dân cày
nghèo, thi hành luật ngày làm 8h 20