Giáo trình đào tạo từ xa Công tác quản lý ngành giáo dục mầm non | Đại học Vinh
Giáo trình đào tạo từ xa Công tác quản lý ngành giáo dục mầm non | Đại học Vinh. Tài liệu gồm 22 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt được kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
- - - - - - - -
Giáo trình đào tạo từ xa CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON
CHỦ BIÊN: HỒ THỊ HẠNH Vinh 2011 1 Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ.
1. Ý nghĩa của công tác quản lý.
Theo quy luật tự nhiên, mọi loài động vật trên trái đất từ bé đến lớn
đều có một con đầu đàn đóng vai trò “thủ lĩnh” hướng dẫn cả đàn sinh sống, tự vệ…
Loài người cũng nằm trong quy luật ấy. Người đứng đầu một tập đoàn
(bầy đàn) xưa kia gọi là thủ lĩnh thì ngày nay gọi là các nhà quản lý (QL).
Trong xã hội loài người, quản lý là một đặc trưng, ra đời khi xã hội có
phân công lao động, đòi hỏi có sự hợp tác trong lao động chung, có tổ chức,
có ý thức tập thể xã hội. Mỗi con người dù cá nhân hay tập thể, dù trực tiếp
hay gián tiếp luôn mang tính chất tập thể xã hội và hướng tới những giá trị xã
hội nhất định. Đây chính là phương thức và hình thức tồn tại của con người .
Ngay từ thời cộng sản nguyên thuỷ, con người đã có sự hợp tác với
nhau trong săn bắt, hái lượm và tự vệ cho cuộc sống cộng đồng. Sự hợp tác rất
giản đơn phản ánh nền văn minh thấp kém (văn minh đồ đá). Cùng với sự phát
triển văn minh nhân loại, sự gia tăng của lực lượng sản xuất về quy mô và sự
đa dạng hoá về các loại hình lao động, công tác quản lý ngày càng trở nên phức tạp.
Ngày nay, quản lý được coi là một công việc quan trọng song khó khăn
và phức tạp bậc nhất trong xã hội vì công tác quản lý liên quan đến nhân cách
của nhiều cá nhân trong tập thể xã hội; liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm và cuộc sống nói chung của mỗi người, đòi hỏi phải đáp ứng đuợc
những yêu cầu của xã hội luôn thay đổi và phát triển .
Xã hội loài người càng phát triển thì mối quan hệ với người càng
phong phú, phức tạp về các loại hình hoạt động như học tập, lao động, vui
chơi, chiến đấu, kinh doanh, sản xuất rồi phát triển khoa học kỹ thuật, văn hoá
chính trị, kinh tế, nghệ thuật…và mở rộng ra khỏi phạm vi biên cương đất
nước. Do vậy quản lý ra đời là nhu cầu bức thiết của xã hội loài người.
Vấn đề quản lý là vấn đề phức tạp vì nói đến quản lý là nói đến các
quan hệ được biểu hiện trong quản lý, đó là các quan hệ: 2
- Quan hệ giữa những người lãnh đạo với những người lãnh đạo khác.
- Quan hệ giữa những người dưới quyền với nhau trong một hệ quản lý.
- Quan hệ giữa người lãnh đạo với người dưới quyền.
Người quản lý phải giải quyết tốt các mối quan hệ, làm cho các quan
hệ đó diễn ra một cách có hiệu quả. Vai trò của người quản lý cực kỳ quan
trọng, nhiều khi quyết định số phận sinh tồn, diệt vong, phát triển của cả một tập đoàn người.
Quản lý giáo dục với tư cách là một bộ phận của quản lý xã hội (XH)
cũng xuất hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ XH. Cùng với sự phát triển
XH thì mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cũng luôn thay đổi và phát
triển. Do đó công tác quản lý luôn vận động và phát triển theo.
2. Khái niệm, đặc điểm về quản lý và quản lý giáo dục 2.1. Khái niệm quản lý.
Quản lý là sự tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật
vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế- xã hội.
Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
Hiểu một cách ngắn gọn thì quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (tập thể những người lao
động) nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
2.2. Đặc điểm của quản lý.
* Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý.
Đây là đặc điểm cơ bản, chủ thể quản lý không có thì việc quản lý đặt
ra là vô nghĩa. Thực tế chỉ ra nhiều tổ chức mặc dầu có tồn tại chủ thể quản lý
trên danh nghĩa, nhưng do bất lực về năng lực, vật chất, về pháp lý, hay về
nhân cách, mà chủ thể quản lý đó trở thành hình thức phù phiếm. Hoặc cũng
có trường hợp ngược lại, có những tổ chức do xuất hiện quá nhiều chủ thể 3
quản lý mà các chủ thể này thế lực lại tương đồng nhau, nhưng mục tiêu lại
khác nhau thì việc quản lý sẽ rất phức tạp, đối tượng bị quản lý sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, khó có thể tồn tại và phát triển bình thường.
* Quản lý liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối liên hệ ngược lại.
Quản lý diễn ra nhờ thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới,
được thu nhận, được hiểu và được đánh giá và có ích cho hoạt động quản lý
(cho cả chủ thể và cả đối tượng bị QL). Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối
tượng quản lý thì phải đưa ra các thông tin (mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết,
nghị định...), đó chính là thông tin điều khiển. Đối tượng bị quản lý muốn định
hướng hoạt động của mình thì phải tiếp nhận thông tin điều khiển của chủ thể
quản lý cùng các đảm bảo vật chất khác để tính toán và tự điều khiển bản thân
nhằm thực thi mệnh lệnh của chủ thể. Đối với chủ thể quản lý, sau khi đã đưa
ra các quyết định cùng các bảo đảm vật chất cho đối tượng thực hiện, thì họ
phải thường xuyên theo dõi kết quả thực hiện các quyết định của đối tượng
thông qua các thông tin phản hồi.
* Quản lý có khả năng thích nghi (biến đổi).
Khi đối tượng quản lý mở rộng về quy mô, phức tạp về các mối quan
hệ thì chủ thể không chịu bó tay mà vẫn tiếp tục quản lý có hiệu quả nếu biết
đổi mới quá trình quản lý thông qua việc cấu trúc lại hệ thống và việc ủy
quyền quản lý cho các cấp trung gian. Ngược lại, khi chủ thể quản lý trở nên
cứng nhắc, quan liêu, đưa ra những tác động quản lý độc đoán, lỗi thời, phi lý
thì không phải tất cả đối tượng bị quản lý nản lòng mà họ vẫn có thể thich nghi
tồn tại theo hai cách: Một là họ phải tồn tại tương ứng với các tác động quản lý
của chủ thể; Hai là họ biến đổi bản thân để thích nghi với mệnh lệnh quản lý của chủ thể.
* Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
Quản lý là một khoa học vì quản lý có đối tượng nghiên cứu riêng là
các mối quan hệ. Quản lý có phương pháp luận nghiên cứu riêng và chung, đó
là quan điểm triết học Mac - Lênin, là quan điểm hệ thống. Quản lý có các 4
phương pháp nghiên cứu cụ thể: các phương pháp phân tích, phương pháp
toán kinh tế, các phương pháp tổ chức hành chính, các phương pháp xã hội
học, các phương pháp tâm lý, các phương pháp lịch sử... Quản lý là một nghệ
thuật vì tùy thuộc vào tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, bề dày kinh
nghiệm của người lãnh đạo. Quản lý là một nghề với nghĩa các nhà quản lý
phải có tri thức quản lý bằng việc tự học, tự tích lũy kinh nghiệm được đào tạo.
* Quản lý gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
Người quản lý có ưu thế quan trọng trong tổ chức, họ có khả năng điều
khiển người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức. Người quản
lý cũng có điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của mình
thông qua việc sử dụng con người trong quá trình dẫn dắt, thu hút, lôi kéo họ
nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Họ dễ để lại danh tiếng cho người
khác và cộng đồng nếu họ quản lý tổ chức của mình tốt và phát triển.
2.3. Quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Đó là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường
của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở
rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng.
Hiểu theo nghĩa tổng quát: Quản lý giáo dục là điều hành phối hợp các
lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo - giáo dục thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội.
Quản lý giáo dục là quản lý việc đào tạo con người, hình thành và hoàn
thiện nhân cách, tái sản xuất nguồn lực con người. Đối tượng quản lý giáo dục
là những con người thực hiện hoặc nhận sự giáo dục đào tạo. Vì không có gì
phức tạp bằng con người cho nên quản lý giáo dục, quản lý việc giáo dục và
đào tạo con người là loại khó khăn nhất, phức tạp nhất đòi hỏi chủ thể QL phải
có những năng lực, phẩm chất tương xứng với công việc.
2.4. Quản lý giáo dục mầm non (GDMN). 5
Quản lý GDMN là quá trình điều hành phối hợp để tạo ra những điều
kiện tối ưu cho các cơ sở GDMN thực hiện mục tiêu GD- ĐT.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là khâu đầu tiên,
đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Mục tiêu của GDMN
là định hướng, điều khiển toàn bộ công tác quản lý GDMN. Do vậy, công tác
quản lý GDMN có những đặc điểm sau:
- Quản lý giáo dục mầm non là một bộ phận của quản lý giáo dục, quản
lý xã hội, cũng như công tác quản lý giáo dục nói chung, việc quản lý con
người là yếu tố trung tâm của quản lý giáo dục Mầm non. Trình độ và năng lực
của người cán bộ quản lý giáo dục MN thể hiện trước hết ở khả năng làm việc
với những con người, biết đánh giá, bồi dưỡng và phát huy những khả năng
của mỗi người, động viên mọi người làm việc tự giác, tích cực với tinh thần trách nhiệm cao.
- Trong trường mầm non, đội ngũ giáo viên (GV ) là đối tượng quản lý
quan trọng nhất, đồng thời là chủ thể quản lý giáo dục. Do đó GV phải thực
hiện vai trò giáo dục của mình, thực sự làm chủ nhà trường. Như vậy, đội ngũ
GV phải giữ vai trò chủ thể tham gia vào quản lý nhà trường.
- Mục tiêu cơ bản nhất của giáo dục mầm non là xây dựng nền móng
ban đầu của nhân cách, giáo dục trẻ em là nhiệm vụ hàng đầu. Nội dung,
phương pháp, kế hoạch giáo dục và quản lý giáo dục MN phải dựa trên mục
tiêu giáo dục, dựa trên đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ em và xu hướng
phát triển của xã hội thời đại.
- Cũng như mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu giáo dục mầm non
là một hệ thống phát triển thống nhất. Do đó, công tác QLGD Mầm non cần
phải thống nhất về nội dung, phương pháp, hình thức QL giáo dục giữa gia
đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Giáo dục mầm non không mang tính bắt buộc đối với trẻ em. Trong
xã hội phát triển, sự đa dạng hoá các loại hình trường, lớp nuôi dạy trẻ là khó
tránh khỏi. Trường mầm non cần phải làm rõ tính ưu việt của mình trong công
tác nuôi dạy trẻ em, không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. 6
2.4.1. Đối tượng, mục đích của quản lý giáo dục mầm non.
2. 4.1.1. Đối tượng quản lý giáo dục mầm non.
Đối tượng quản lý giáo dục mầm non là toàn bộ quá trình giáo dục
mầm non và hệ thống tổ chức để điều khiển quá trình đó. Khoa học quản lý
giáo dục mầm non phải làm rõ bản chất, cấu trúc và quy luật của quá trình
giáo dục mầm non, trên cơ sở đó nghiên cứu cơ chế, hình thức và biện pháp tổ
chức, tác động sao cho quá trình giáo dục mầm non vận động và phát triển có
hiệu quả, đạt tới mục đích.
Quá trình giáo dục Mầm non được tác động bởi 3 yếu tố:
- Quá trình quản lý giáo dục mầm non diễn ra dưới sự chỉ đạo của hệ tư
tưởng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Hệ tư tưởng này được cụ thể hoá trong
đường lối chiến lược và chính sách giáo dục nhà nước.
- Quá trình quản lý giáo dục mầm non được tiến hành dưới tác động
của những tập thể con người, đó là các nhà sư phạm, gia đình trẻ em, trẻ em,
các tổ chức đoàn thể xã hội trong đó quan trọng nhất là tập thể cán bộ quản lý,
các giáo viên và trẻ em.
- Quá trình quản lý giáo dục mầm non được thực hiện trên các điều
kiện vật chất cụ thể (đồ dùng, đồ chơi, dụng cụ sinh hoạt, kinh phí, cơ sở vật chất khác…)
2.4.1.2. Mục đích của quản lý giáo dục mầm non.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói
riêng được xem là vấn đề quan trọng hàng đầu. Việc quan tâm, đầu tư cho giáo
dục được xem là quốc sách. Để thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non, công
tác quản lý giáo dục mầm non phải đạt được những mục đích cơ bản sau:
- Củng cố, ổn định và phát triển ngành giáo dục mầm non với nhiều
loại hình đa dạng, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu đổi mới của xã hội.
- Đảm bảo cho cơ sở mầm non nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục trẻ em theo mục tiêu của ngành học và đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước. 7
- Thu hút, động viên các lực lượng giáo dục trong và ngoài ngành tham
gia chăm sóc- giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
Để đạt được mục đích trên cần giải quyết các mối quan hệ sau:
- Kết hợp thống nhất giữa chăm sóc và giáo dục .
- Kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội.
- Kết hợp thống nhất giữa các cấp quản lý với các cơ sở giáo dục mầm
non. Ngoài ra người quản lý phải dựa vào mục tiêu giáo dục, tính toán yếu tố
khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu. Đồng thời phải
xác định rõ mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài, mục tiêu cơ bản và xây dựng
được chuẩn đánh giá thực hiện mục tiêu.
3. Chức năng quản lý giáo dục mầm non.
3.1. Khái niệm chức năng quản lý .
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt, thông qua
đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã xác định.
3.2. Phân loại chức năng quản lý giáo dục .
Bao gồm chức năng chung và chức năng cụ thể.
* Chức năng chung bao gồm:
- chức năng duy trì ổn định hoạt động giáo dục mầm non đáp ứng nhu cầu của nền KT- XH.
- Chức năng đổi mới phát triển: nhằm biến đổi đối tượng, đưa đối
tượng đến một trình độ phát triển mới về chất.
* Các chức năng cụ thể bao gồm:
1. Chức năng kế hoạch hoá.
Kế hoạch hoá là tổ chức và lãnh đạo công việc theo một kế hoạch.
Thực hiện chức năng kế hoạch hoá là đưa mọi hoạt động giáo dục vào công
việc có kế hoạch với mục tiêu cụ thể, biện pháp rõ ràng, xác định các điều kiện
tương ứng cho việc thực hiện các mục tiêu.
Để thực hiện tốt chức năng kế hoạch hoá, CB quản lý giáo dục phải
nhận thức được cơ hội và nắm bắt được thông tin làm căn cứ cho việc xây 8
dựng kế hoạch; Xác định mục tiêu và phân loại mục tiêu; Xác định các điều
kiện tương ứng cho việc thực hiện các mục tiêu.
2. Chức năng tổ chức.
Tổ chức là sắp đặt con người, công việc một cách khoa học, hợp lý. Tổ
chức bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng bộ máy tổ chức.
- Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho từng bộ phận và cá nhân.
- Lựa chọn phân công cán bộ.
- Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo bộ máy.
- Xác lập cơ chế phối hợp trong tổ chức.
- Khai thác tiềm năng, tiềm lực của tập thể và cá nhân.
3. Chức năng chỉ đạo.
Chỉ đạo là những hoạt động xác lập quyền chỉ huy và sự can thiệp của
người lãnh đạo trong quá trình quản lý vào việc thực hiện kế hoạch và điều
hành công việc nhằm đảm bảo cho hoạt động giáo dục diễn ra có kỷ cương và trật tự. Nội dung bao gồm:
- Nắm quyền chỉ huy điều hành công việc. - Hướng dẫn cách làm.
- Theo dõi giám sát tiến trình công việc. - Kích thích động viên.
- Điều chỉnh, can thiệp khi cần thiết .
4. Chức năng kiểm tra.
Kiểm tra là điều tra xem xét, phân tích đánh giá diễn biến và kết quả,
phát hiện sai lầm để điều chỉnh, khích lệ và giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm vụ. Nội dung bao gồm:
- Đánh giá tình trạng kết thúc của hệ quản lý.
- Phát hiện những lệch lạc sai sót và tìm nguyên nhân của nó. 9
- Tổng kết tạo thông tin cho chu trình quản lý tiếp theo.
4. Nguyên tắc quản lý giáo dục mầm non.
4.1. Khái niệm nguyên tắc quản lý.
Nguyên tắc quản lý là những quy tắc, luận điểm chỉ đạo và là những
tiêu chuẩn hành vi mà hệ thống quản lý phải tuân theo trong quá trình thực
hiện các chức năng quản lý.
4.2. Hệ thống các nguyên tắc quản lý .
4.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích và tính tư tưởng (đảm bảo
đường lối lãnh- đạo của đảng)
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc này giúp
cho nhà quản lý chỉ đạo tốt việc thực hiện mục tiêu giáo dục theo đúng đường
lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước. Để thực hiện nguyên tắc này
đòi hỏi mọi chủ thể quản lý phải nghiên cứu, nắm vững các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng về giáo dục và có trách nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm túc trong
phạm vi toàn đơn vị. Giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục
Mầm non nên cần phải coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho
họ nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng và tự giác thực hiện các nghị quyết
của Đảng trong quá trình đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ. Tập trung xây dựng đội
ngũ giáo viên mạnh về tổ chức, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có đầy
đủ những phẩm chất và năng lực cần thiết để hiện thực hoá mục tiêu giáo dục mầm non .
Tóm lại: Chính trị là yếu tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động quản lý.
Trong mọi hoàn cảnh người CB quản lý phải giữ vững lập trường tư tưởng
trong công tác điều hành công việc, đảm bảo việc thực hiện chủ trương đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
4.2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi sự kết hợp thống nhất hai mặt. Một mặt tăng
cường sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cơ quan nhà nước. Mặt khác phát
huy mở rộng tính chủ động sáng tạo của quần chúng. Tập trung- dân chủ là sự
kết hợp lãnh đạo tập trung ở chế độ quản lý một lãnh đạo. Người lãnh đạo có 10
quyền điều khiển mọi công việc của tập thể và chịu trách nhiệm hoàn toàn về
công việc của mình. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là độc đoán, gia
trưởng, quyết định một cách chủ quan, mà là quyết định cuối cùng sau khi lắng
nghe phân tích ý kiến của người khác để có thông tin đa dạng, toàn diện và có
cân nhắc, quyết định đúng đắn.
Chế độ dân chủ là sự thảo luận cởi mở, thẳng thắn phát huy tính chủ
động sáng tạo của các cá nhân, tuy nhiên người quản lý cần có quan điểm lập
trường rõ ràng, biết lựa chọn ý kiến mang tính xây dựng, tránh tình trạng dân
chủ giả hiệu là tạo điều kiện cho cá nhân phát biểu thoải mái quan điểm của họ
nhưng rồi vẫn đưa ra quyết định chủ quan có tính độc đoán của mình. Cũng
cần lưu ý rằng tập trung dân chủ không có nghĩa là bất kỳ việc gì cũng đưa ra
bàn bạc, thảo luận mà cần xác định công việc nào cần có ý kiến tập thể, công
việc gì tự quyết định được. Điều quan trọng là quyết định đưa ra có hợp lý hay
không, có được dư luận đồng tình hay không?
Tóm lại: Thực hiện nguyên tắc này vừa đề cao trách nhiệm cá nhân
người quản lý, vừa đề cao quyền làm chủ của người lao động, vừa chống được
tình trạng tập trung quan liêu, bè phái, đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành
động, làm tăng sức mạnh của tổ chức.
4.2.3. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn.
Quản lý giáo dục là một khoa học tổng hợp, do đó đảm bảo tính khoa
học trong giáo dục là đòi hỏi tất yếu. Để đảm bảo tính KH trong quản lý giáo
dục Mầm non, người quản lý phải nắm vững và biết vận dụng các quy luật
khách quan, quy luật giáo dục, các tri thức khoa học quản lý vào quá trình tổ
chức điều hành các hoạt động giáo dục. Biết phân tích, tổng hợp các sự kiện,
hiện tượng giáo dục, các tác động qua lại, phát hiện ra xu hướng phát triển của
nó để có sự điều chỉnh, tác động phù hợp. Phải am hiểu sâu sắc đối tượng quản
lý, tức là phải hiểu tường tận về tính chất, nguyên tắc tổ chức các hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ, am hiểu đặc điểm lao động, đặc điểm tâm sinh lý của
GV, của CBCNV và trẻ, cũng như đặc điểm tâm lý các lực lượng xã hội tham gia giáo dục. 11
Xã hội luôn vận động biến đổi và phát triển, những yêu cầu, những đòi
hỏi của xã hội đối với giáo dục ngày càng cao. Do đó, công tác quản lý phải
bám sát thực tiễn. Mỗi một địa phương có những hoàn cảnh điều kiện khác
nhau. Vì vậy người quản lý phải linh hoạt, sáng tạo sao cho giáo dục phải phù
hợp với thực tiễn địa phương, tránh rập khuôn máy móc, áp dụng những kinh
nghiệm của địa phương khác vào địa phương mình.
4.2.4. Nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
Thực chất của nguyên tắc này là hướng sự hoạt động tích cực của cá
nhân vào lợi ích của tập thể - xã hội, trên cơ sở bảo đảm lợi ích trước mắt và
lâu dài của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân làm việc cho tập thể cũng chính là làm
việc cho bản thân mình. Lợi ích vật chất và tinh thần chính là động cơ thúc đẩy
mọi hoạt động tích cực của cá nhân. Để thúc đẩy tính tích cực hoạt động của
cá nhân, người quản lý không chỉ quan tâm đến công việc chung, lợi ích chung
mà xem nhẹ quyền lợi vật chất tinh thần của mỗi cá nhân. Người quản lý biết
kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể không những hoàn thành
được mục tiêu, nhiệm vụ chung mà còn thúc đẩy mỗi cá nhân hoạt động tích
cực, tự giác vì mục đích chung của tập thể.
Việc quá đề cao lợi ích tập thể, xem nhẹ lợi ích cá nhân sẽ triệt tiêu
động lực hoạt động của cá nhân, ngược lại trong công tác quản lý chỉ quan tâm
đến lợi ích cá nhân mà quên lợi ích tập thể thì đến một lúc nào đó tập thể sẽ không tồn tại.
Vấn đề đặt ra là quan tâm quyền lợi vật chất của mỗi cá nhân như thế nào?
Trong tập thể một trường học, sự quan tâm quyền lợi vật chất của cá
nhân thể hiện ở mức thu nhập hằng tháng, tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ,
thi đua nâng cao chất lượng giáo dục.
Quan tâm đến lợi ích cá nhân không có nghĩa là chỉ có khuyến khích,
có thưởng mà cần phải có hình thức phạt tiền, tước bỏ quyền lợi vật chất đối
với cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ, vô trách nhiệm đối với tập thể. 12
Quan tâm đến quyền lợi vật chất phải đi đôi với quyền lợi tinh thần của
cá nhân, hai yếu tố này tạo nên động cơ thúc đẩy con người hoạt động tích
cực. Trong xã hội văn minh, nhu cầu tinh thần của con người ngày càng trở
thành yếu tố quan trọng thúc đẩy con người hoạt động tích cực.
Thực tế thì việc quan tâm đến quyền lợi vật chất cá nhân chính là đã
động viên mặt tinh thần của người lao động. Ngoài ra, cần quan tâm đến nhu
cầu văn hoá tinh thần của người lao động như: tham quan, nghỉ mát, tổ chức
sinh hoạt văn hoá- văn nghệ; tặng bằng khen, giấy khen, danh hiệu… là những
yếu tố tinh thần rất cần thiết đối với con người.
4.2.5. Kết hợp quản lý theo Ngành với quản lý theo địa phương.
Thực chất của nguyên tắc này là vừa đảm bảo sự quản lý thống nhất từ
trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương, nó phù hợp với hoàn cảnh
thực tiễn của từng địa phương và phát huy được thế mạnh của các địa phương.
Mục đích giáo dục được triển khai thống nhất trên toàn quốc của toàn bộ hệ
thống giáo dục quốc dân từ qiáo dục mầm non đến giáo dục đại học. Những
chủ trương đường lối giáo dục mang tính chất quốc gia cần có sự thống nhất.
Song, trong hoàn cảnh thực tiễn, tuỳ nhu cầu của từng địa phương mà quá
trình giáo dục cần phải có sự phù hợp. Chẳng hạn những vấn đề lớn, có ý
nghĩa với toàn xã hội đòi hỏi có sự thống nhất trên cả nước thì do ngành quản
lý, còn những vấn đề chính trị xã hội, đời sống sinh hoạt có ý nghĩa đối với địa
phương thì do địa phương quản lý.
Đối với công tác giáo dục mầm non, quản lý theo ngành đảm bảo thực
hiện chương trình thống nhất trong cả nước, đảm bảo tiêu chuẩn lựa chọn và
đào tạo nghiệp vụ đối với giáo viên mầm non, đảm bảo quy định về chế độ
chính sách đối với trường và giáo viên mầm non .
Chương trình giáo dục mầm non được quy định thống nhất trong cả
nước về mục tiêu, nội dung cần đạt được về việc phát triển thể chất tâm lý trẻ
em, đồng thời đặt ra những tiêu chuẩn thống nhất về năng lực và phẩm chất
giáo viên mầm non, đặt ra những yêu cầu cơ bản cho công tác đào tạo và 13
những quy định cơ bản về chế độ chính sách đối với GV mầm non và trường mầm non .
Để quản lý ngành với quản lý theo địa phương được tốt, người cán bộ
quản lý phải nghiên cứu chủ trương, đường lối chính sách giáo dục chung của
ngành. Đồng thời, phải nghiên cứu tình hình thực tiễn của địa phương về mọi
mặt để chỉ đạo lực lượng giáo dục thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo mục
tiêu giáo dục mầm non, phù hợp với thực tiễn địa phương. Biết tận dụng có
hiệu quả những yếu tố, điều kiện sẵn có của địa phương.
4.2.6. Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả quản lý. Hiệu
quả quản lý giáo dục được tính trên cơ sở thực hiện các mục tiêu với những
chi phí nhất định về các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực sao cho đạt được kết
quả cao nhất mà tiết kiệm được thời gian, sức người, sức của.
Trong công tác giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng, hiệu
quả kinh tế được đo bằng chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục được thể
hiện ở phẩm chất, năng lực của trẻ. Do đó, phải chú trọng nâng cao chất lượng
giáo dục. Để thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi người quản lý giáo dục mầm
non phải sử dụng một các hợp lý những tiềm năng vật chất của địa phương,
của nhà trường, sắp xếp, phân công một cách hợp lý sức lao động, tiết kiệm
được thời gian, sức người, sức của, đồng thời nắm vững và vận dụng tối đa các
thành tựu khoa học vào lĩnh vực chăm sóc giáo dục trẻ; Xây dựng cơ sở vật
chất, đồ dùng, đồ chơi phù hợp, tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên học tập bồi
dưỡng nâng cao tay nghề, phấn đấu rèn luyện hoàn thiện bản thân.
4.2.7. Nguyên tắc đảm bảo vai trò của gia đình và của xã hội tham
gia vào công tác quản lý nhà trường.
Giáo dục là nhiệm vụ của nhà trường, gia đình và xã hội. Do vậy, trong
công tác quản lý giáo dục mầm non, việc tạo điều kiện cho các lực lượng xã
hội tham gia vào việc quản lý, giáo dục là rất cần thiết.
Nguyên tắc này phải thỏa mãn các yêu cầu sau: 14
- Phải làm cho toàn xã hội nhận thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình đối với việc giáo dục trẻ.
- Tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho trường mầm non
trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ.
- Nhà trường phải tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội tham gia vào
công tác xây dựng, phát triển và quản lý nhà trường. Nhà trường kết hợp chặt
chẽ với gia đình, tận dụng mọi tiềm năng về vật chất và tinh thần của gia đình,
của xã hội trong việc chăm sóc giáo dục trẻ em.
Tóm lại: Việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ nâng cao hơn, gắn bó
hơn, phong phú hơn trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp phát triển
giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục khẳng định vai trò thúc đẩy phát triển xã
hội, khơi dậy mọi tiềm năng, huy động mọi nguồn lực trong xã hội tham gia
xây dựng phát triển giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng.
Kết luận: Nguyên tắc quản lý giáo dục là những tiêu chuẩn, những quy
tắc cơ bản được đúc rút từ thực tiễn quản lý giáo dục, là chỗ dựa đáng tin cậy
về lý luận giúp người quản lý giáo dục định hướng đúng đắn trong hoàn cảnh
phức tạp luôn biến đổi để tự mình giải quyết các tình hống cụ thể, đa dạng,
biết tổ chức một cách khoa học hoạt động quản lý để đạt hiệu quả tối ưu.
5. Phương pháp quản lý giáo dục mầm non.
5.1 Khái niệm phương pháp quản lý giáo dục.
- Phương pháp là cách thức, là con đường hoạt động của con người
nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Mỗi một hoạt động có những phương pháp đặc trưng. Trong công tác
quản lý, phương pháp quản lý là bộ phận năng động nhất, linh hoạt nhất.
- Phương pháp quản lý giáo dục là tổ hợp những cách thức tiến hành
hoạt động quản lý giáo dục để thực hiện những nhiệm vụ quản lý nhằm đạt
được mục tiêu quản lý .
- Phương pháp quản lý trường mầm non là cách thức tác động của hiệu
trưởng tới cá nhân, tập thể cán bộ giáo viên nhằm thực hiện mục tiêu quản lý đã dự kiến. 15
5.2. Các phương pháp quản lý cơ bản.
5.2.1. Phương pháp hành chính- tổ chức
Phương pháp hành chính sự tác động trực tiếp của người quản lý đến
cán bộ công nhân viên của mình bằng những mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định
quản lý…(có tính chất văn bản) bắt buộc người dưới quyền phải thi hành
nhiệm vụ. Phương pháp hành chính – tổ chức được cấu thành từ 3 yếu tố:
- Hệ thống luật và các văn bản pháp quy đã được ban hành.
Ví dụ: Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em; Điều lệ trường mầm non.
- Các mệnh lệnh hành chính được ban bố từ người lãnh đạo như: Nội
quy nhà trường, kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ, chương trình công tác, chức
năng, nhiệm vụ giao cho từng bộ phận, cá nhân…
- Kiểm tra việc chấp hành các văn bản, các mệnh lệnh hành chính.
Đặc trưng của phương pháp hành chính tổ chức là mang tính pháp lệnh
bắt buộc và tính kế hoạch rõ ràng, được thể hiện trong các văn bản: luật, điều
lệ, chỉ thị, nghị quyết, thông tư… Đó là những văn kiện mang tính chất hành
chính, pháp quy quy định rõ ràng dứt khoát: Ai làm? Làm thế nào? Đó là
những điều bắt buộc phải thực hiện không ai có quyền lựa chọn, thay đổi.
Phương pháp này giúp cho người cán bộ quản lý dễ điều hành cán bộ, giáo
viên, công nhân viên của mình và dễ dàng kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
của người thừa hành. Đồng thời, giúp cho người cán bộ quản lý chỉ đạo tập thể
của mình thực hiện đúng chủ trương đường lối, chính sách giáo dục của Đảng và nhà nước.
Phương pháp hành chính tổ chức rất cần thiết trong quản lý giáo dục,
thiếu phương pháp này thì không thể chỉ huy trực tiếp, không thể quản lý được.
Ưu điểm của phương pháp hành chính tổ chức là: Đảm bảo kỷ cương,
kỷ luật trong mọi hoạt động. Tập trung điều hành nên thực hiện kịp thời các
quyết định của người lãnh đạo. Tuy nhiên, có nhược điểm là: Do có sự áp đặt
của các mệnh lệnh nên làm cho người bị quản lý dễ rơi vào tình trạng bị động, 16
hạn chế tính chủ động sáng tạo khi thừa hành công việc. Nếu lạm dụng
phương pháp “hành chính hoá’’ sẽ dẫn tới lối quan liêu, giấy tờ máy móc, xa
rời thực tế, mệnh lệnh cửa quyền trong quản lý .
5.2.2. Phương pháp giáo dục- thuyết phục.
Đây là phương pháp tác động bằng tinh thần của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý nhằm giúp họ hiểu biết, tin tưởng và tích cực thi hành những công việc được giao.
Nhiệm vụ cơ bản của phương pháp giáo dục là động viên tinh thần chủ
động, tích cực, tự giác, năng lực sáng tạo của mọi người, huy động các khả
năng tiềm tàng của mỗi cá nhân để họ nhận thức rõ ý nghĩa, được kích thích về
tinh thần mà hăng hái hoàn thành công việc. Đồng thời tạo ra trong quá trình
hoạt động không khí phấn khởi, đoàn kết, tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ nhau vươn lên.
Để giáo dục thuyết phục có hiệu quả, người quản lý cần sử dụng ba
phương tiện cơ bản sau:
1. Người quản lý dựa vào những chỉ thị, những nghị quyết có tính chất
văn bản để giảng giải thuyết phục cấp dưới khi giao nhiệm vụ cho họ, cũng
như khi kiểm tra đánh giá kết quả công việc của họ.
2. Uy tín về năng lực chuyên môn, cũng như năng lực quản lý và các
phẩm chất tính cách là điều kiện quan trọng để giáo dục thuyết phục người khác.
3. Sử dụng dư luận tập thể lành mạnh để điều khiển điều chỉnh hành vi,
thái độ của mỗi thành viên. Khi có được dư luận tập thể lành mạnh, có thể sử
dụng phương pháp giáo dục song song: Vừa trực tiếp tác động, thuyết phục
người được giáo dục vừa tác động đến họ thông qua dư luận tập thể. Sự kết
hợp linh hoạt sáng tạo giữa nhà giáo dục và tập thể khi tác động đến đối tượng
giáo dục sẽ có hiệu quả cao.
5.2.3. Phương pháp dùng “đòn bẩy’’ kinh tế. 17
Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp lên đối tượng quản
lý bằng việc tạo ra sự quan tâm nhất định về lợi ích vật chất để người lao động
điều chỉnh hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ.
Đặc trưng của phương pháp này là khuyến khích việc hoàn thành
nhiệm vụ bằng lợi ích kinh tế để kích thích tính tích cực của người lao động.
Trong quản lý giáo dục, phương pháp này thể hiện bằng các chế độ,
chính sách khuyến khích vật chất và thường được kết hợp với phương pháp
hành chính tổ chức trong việc xác định định mức, tiêu chuẩn, chỉ tiêu.
Ưu điểm của phương pháp kinh tế là nhanh chóng tạo nên động cơ
mạnh cho hoạt động vì nó mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động.
Đồng thời phát huy được tính chủ động, tự giác, sáng tạo của mỗi người trong
công việc, giảm nhẹ việc giám sát kiểm tra của người quản lý.
Nhược điểm dễ thấy của phương pháp này là dễ dàng dẫn tới khuynh
hướng vụ lợi, chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không quan tâm đến đồng
nghiệp, nếu tuyệt đối hoá kích thích vật chất.
5.2.4. Phương pháp tâm lý – xã hội.
Phương pháp tâm lý xã hội trong quản lý giáo dục là cách thức tác
động vào đối tượng quản lý bằng các biện pháp lôgích và tâm lý nhằm biến
những yêu cầu do người lãnh đạo đề ra thành nghĩa vụ tự giác, thành nhu cầu của người thực hiện.
Nhiệm vụ của phương pháp tâm lý – xã hội là động viên tinh thần chủ
động, tích cực, tự giác của mọi người, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý
cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Sự tác động tâm lý tới nhận thức, tình cảm, lòng tự trọng của mỗi
thành viên đã kịp thời động viên tinh thần, giúp họ vượt qua mọi khó khăn để
làm tốt công việc được giao.
Phương pháp tâm lý - xã hội đòi hỏi người lãnh đạo một mặt phải tổ
chức giáo dục nâng cao nhận thức về nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi thành
viên, mặt khác phải có sự hiểu biết sâu sắc tâm tư nguyện vọng của mỗi người, 18
tôn trọng ý kiến của họ và xây dựng các mối quan hệ lành mạnh, trong sáng,
tốt đẹp trong nhà trường.
Ưu điểm của phương pháp này là do được kích thích về mặt tinh
thần mà mọi thành viên phát huy được tính tích cực, chủ động, hăng hái làm
việc, đoàn kết, tin cậy lẫn nhau.
Nhược điểm của phương pháp này là nếu người lãnh đạo thiếu
gương mẫu về đạo đức, lối sống và sử dụng phương pháp này không đúng lúc,
đúng chỗ, đúng người thì dễ dẫn tới hiện tượng tiêu cực trong quản lý.
6. Phong cách quản lý giáo dục.
Phong cách: Đây là một khái niệm dùng để chỉ những cách thức đặc
trưng của con người trong việc biểu hiện những (tư tưởng, tình cảm) những
hành vi ứng xử hằng ngày cũng như trong việc tiến hành những hoạt động
chuyên môn nghề nghiệp nào đó. Mỗi người có một phong cách riêng. Phong
cách là lề lối, cung cách tiêu biểu trong sinh hoạt, làm việc, hoạt động, cách xử
sự, tạo nên cái riêng của mỗi con người hoặc của một kiểu người nào đó.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách của mỗi
con người như: hoàn cảnh gia đình, môi trường, văn hóa, hoàn cảnh xã hội,
giáo dục, nghề nghiệp, địa vị xã hội, kinh nghiệm của người đó.
Phong cách của mỗi người không những được biểu hiện ra bằng cử chỉ,
hành vi cụ thể của từng người mà còn phản ánh cả quan điểm, tư tưởng, lập
trường, đạo đức, phẩm chất, nhân sinh quan, thế giới quan... của người đó.
Phong cách quản lý: Là hệ thống cách thức tác động đặc trưng của
người quản lý đối với người thừa hành. Trong TLH QL, khái niệm phong cách
quản lý được đề cập đến từ hai khía cạnh:
Một mặt: phong cách qản lý phải dựa trên cơ sở tính khách quan của
công việc (tính quy luật, tính nguyên tắc, đặc điểm, phạm vi hoạt động cụ thể,
những yêu cầu đối với người lao động). Mặt khác, thể hiện phong cách cá
nhân, mang dấu ấn tính cách cá nhân của người quản lý.
6.1. Phong cách quản lý dân chủ: phong cách này được vận dụng và
trở thành xu thế của thời đại ở khía cạnh nhân văn và nâng cao năng suất lao 19
động. Thể hiện: Người lãnh đạo luôn công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm của
mình với động cơ trong sáng vì lợi ích chung và thường xuyên trao đổi, bàn
bạc với tập thể, biết phê bình đúng đắn, không né tránh trách nhiệm của mình
và không bỏ qua khuyết điểm của người dưới quyền.
Ưu điểm: Phát huy tối đa tính sáng tạo, chủ động phù hợp với trình độ
chuyên môn, năng lực của người dưới quyền. Đem lại bầu không khí thoải
mái, dễ chịu, có tình người, tạo ra sự đoàn kết.
Nhược điểm: Trong những tập thể có trình độ thấp, trì trệ, mất đoàn kết
thì phong cách này khó đem lại hiệu quả mong muốn vì thiếu kỷ cương và
nguyên tắc tạo cơ hội cho các cá nhân chủ nghĩa.
6. 2. Phong cách quản lý tự do( thả nổi, thả lỏng).
Người lãnh đạo theo phong cách này thường giành cho cấp dưới nhiều
quyền tự do, không giao cho họ những nhiệm vụ rõ ràng hoặc giao nhiệm vụ
một cách tùy tiện, ngẫu hứng, không thường xuyên kiểm tra công việc của họ.
Ưu điểm: Đem lại cho cấp dưới một sự tự do, thoải mái.
Nhược điểm: Làm cho người dưới quyền bị mất phương hướng, kỷ
cương của đơn vị lỏng lẻo vô kỷ luật, dẫn đến năng suất lao động kém.
6. 3. Phong cách quản lý độc đoán.
Biểu hiện: Người lãnh đạo giao nhiệm vụ cho cấp dưới chủ yếu bằng
mệnh lệnh, chỉ thị, ép buộc bằng quyền uy, đe dọa, thiếu tôn trọng nhân cách,
thiếu tin tưởng cấp dưới, thậm chí còn chi tiết hóa công việc bắt buộc cấp dưới chấp hành tuyệt đối.
Người lãnh đạo không tranh luận, bàn bạc, tập trung hóa, tuyệt đối
quyền hành, tự mình quyết định những vấn đề lớn của tập thể.
Đòi hỏi người dưới quyền quá cao, quá khắt khe không quan tâm đến
thái độ, đời sống tình cảm của người khác.
Thái độ ứng xử trịch thượng, hống hách, kiêu căng, khen chê, nhận xét thiếu khách quan.
Không chịu nghe ý kiến phê bình đóng góp, ai nói trái ý mình thì nhân
danh tập thể tìm cách trừng trị, trù dập... Nhược điểm: hạn chế óc sáng tạo, tri 20