-
Thông tin
-
Quiz
Giáo trình Giới thiệu kinh tế học - Căn bản kinh tế vi mô | Trường Đại Học Duy Tân
Cũng giống như các ngành khoa học vật lý và khoa học đời sống, hay khoa học xãhội khác, kinh tế dựa trên các phương pháp khoa học. Điều này yêu cầu bao gồm mộtsố yếu tố. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Căn bản kinh tế vĩ mô 82 tài liệu
Đại học Duy Tân 1.8 K tài liệu
Giáo trình Giới thiệu kinh tế học - Căn bản kinh tế vi mô | Trường Đại Học Duy Tân
Cũng giống như các ngành khoa học vật lý và khoa học đời sống, hay khoa học xãhội khác, kinh tế dựa trên các phương pháp khoa học. Điều này yêu cầu bao gồm mộtsố yếu tố. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Căn bản kinh tế vĩ mô 82 tài liệu
Trường: Đại học Duy Tân 1.8 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Duy Tân
Preview text:
PHẦN 1
GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC VÀ NỀN KINH TẾ Chủ đề 1
Giới thiệu kinh tế học và nền kinh tế Mục tiêu: -
Nhận dạng được các vấn đề kinh tế vĩ mô. Phân biệt được các vấn đề thuộc kinh tế vĩ mô, kinh
tế vi mô, kinh tế học thực chứng, kinh tế học chuẩn tắc. -
Hiểu cơ chế kinh tế chỉ huy và thị trường. Phân tích được các đặc điểm của cơ chế thị trường. -
Phân tích được các mối quan hệ hình thành trên thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường
tài chính, thị trường nhân tố sản xuất. Vận dụng để phân tích các vấn đề vĩ mô theo từng thị trường sẽ
học ở các chủ đề tiếp theo sau
1. Nguyên lý và mô hình
Cũng giống như các ngành khoa học vật lý và khoa học đời sống, hay khoa học xã
hội khác, kinh tế dựa trên các phương pháp khoa học. Điều này yêu cầu bao gồm một số yếu tố sau:
- Quan sát hành vi và kết quả thực tế.
- Dựa trên những quan sát, xây dựng một lời giải thích có thể có của nhân quả
(hay nói cách khác là xây dựng các giả thuyết).
- Kiểm tra các giả thuyết này bằng cách so sánh các kết quả của các sự kiện cụ
thể cho các kết quả dự đoán của các giả thuyết.
- Chấp nhận, bác bỏ, và sửa đổi các giả thuyết, dựa trên những so sánh này.
- Tiếp tục kiểm tra giả thuyết đối với các sự kiện. Tích hợp các kết quả đã được
kiểm tra,từ đó phát triển các giả thuyết thành một lý thuyết. Một lý thuyết được kiểm
tra kỹ và được chấp nhận rộng rãi được gọi là một quy luật kinh tế hoặc một nguyên
tắc kinh tế- nó là một tuyên bố về hành vi kinh tế, nền kinh tế cho phép dự báo các tác
động có thể xảy ra các hành động nhất định. Sự kết hợp của các luật hoặc các nguyên
tắc đó được đưa vàomô hình, trong đó có đại diện đơn giản về cách làm việc gì đó,
chẳng hạn như một thị trường hay phân đoạn của nền kinh tế.
Các nhà kinh tế phát triển lý thuyết về hành vi của các cá nhân (người tiêu dùng,
công nhân) và các tổ chức (doanh nghiệp, chính phủ) tham gia vào việc sản xuất, trao
đổi và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Lý thuyết, nguyên tắc, và các mô hình là "đơn
giản hóa có mục đích". Phạm vi đầy đủ của thực tế kinh tế là quá phức tạp và rắc rối,
phải được hiểu như một toàn thể. Trong việc phát triển các lý thuyết, nguyên tắc, và
các mô hình kinh tế loại bỏ sự lộn xộn và làm nó trở nên đơn giản hóa.
Nguyên lý và các mô hình kinh tế là rất hữu ích trong việc phân tích hành vi kinh tế
và tìm hiểu làm thế nào nền kinh tế hoạt động. Chúng là những công cụ đánh giá xác
định nguyên nhân và có hiệu lực (hay hành động và kết quả) trong hệ thống kinh tế.Lý
thuyết tốt làm một công việc tốt trong việc giải thích và dự đoán.Chúng được hỗ trợ
bởi sự thật liên quan như thế nào các cá nhân và tổ chức thực sự hành xử trong sản
xuất, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. 1
Một số điều mà chúng ta cần biết về các nguyên tắc kinh tế, cụ thể như sau:
- Nguyên lý kinh tế khái quát:là những khái quát liên quan đến hành vi kinh tế
hoặc cho nền kinh tế của chính nó. Nguyên lý kinh tế được thể hiện như những khuynh
hướng trung bình điển hình của người tiêu, công nhân, hoặc các công ty kinh doanh.
Ví dụ, các nhà kinh tế nói rằng người tiêu dùng mua nhiều hơn một sản phẩm cụ thể
khi giá của nó giảm xuống. Các nhà kinh tế nhận ra rằng một số người tiêu dùng có thể
tăng mua của họ bởi một số lượng lớn, những người khác bằng một số tiền nhỏ, và
một số không ở tất cả. Nguyên lý về "Giá -số lượng", là điển hình và đại diện cho hành
vi của một nhóm người tiêu dùng.
- Những yếu tố khác không đổi :Trong việc xây dựng lý thuyết của họ, các nhà
kinh tế sử dụng giả thuyết (đặt ra những yêu cầu để đảm bảo trong quá trình nghiên
cứu)- điều kiện những yếu tố khác không đổi. Điều này có nghĩa là, tất cả các biến
khác sẽ không có thay đổi gì trong suốt quá trình nghiên cứu ngoại trừ những gì được
mô hình đề cập xem xét. Ví dụ, hãy xem xét các mối quan hệ giữa giá của Pepsi và số
lượng người mua nó. Giả định rằng tất cả các yếu tố có thể ảnh hưởng đến số tiền của
người mua Pepsi (ví dụ, giá của Pepsi, giá của Coca-Cola, và thu nhập của người tiêu
dùng và sở thích), chỉ có giá của Pepsi thay đổi. Điều này rất hữu ích, bởi khi những
mối liên kết khác được cố định (hay không thay đổi), việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa giá và lượng người mua Pepsi sẽ trở nên dễ dàng hơn.
- Mô hình đồ họa : Nhiều biểu thức kinh tế được biểu thị bằng các mô hình đồ
họa. Hay nói cách khác, với những dữ liệu đã cho, cùng với lý thuyết kinh tế được xác
lập, tất cả sẽ được phát họa trên đồ thị (biểu đồ, hình vẽ) để nhìn nhận một cách cụ thể hơn. (1) Mô hình Heckscher -Ohlin
Mô hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mô hình H-O, là một mô hình toán
cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động
quốc tếdùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng nào trên cơ sở những
yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia. Eli Heckscher và Bertil Ohlin của Thụy Điển là
hai người đầu tiên xây dựng mô hình này, nên mô hình mang tên họ, dù sau này có
nhiều người khác tham gia phát triển mô hình. Mô hình dựa vào lý luận về lợi thế so sánh của . David Ricardo
Mô hình ban đầu do Heckscher và Ohlin xây dựng chưa phải là mô hình toán,
chỉ giới hạn với hai quốc gia, hai loại hàng hóa có thể đem trao đổi quốc tế và hai loại
yếu tố sản xuất (đây là hai biến nội sinh). Vì thế mô hình ban đầu còn được gọi là Mô hình 2 x 2 x 2.
Về sau, mô hình được Paul Samuelson là người đầu tiên áp dụng toán học vào,
nên có khi được gọi là Mô hình Heckscher-Ohlin-Samuelson hay Mô hình H-O-S.
Jaroslav Vanek mở rộng để áp dụng cho nhiều quốc gia và nhiều sản phẩm, nên cũng
thường được gọi là Mô hình Heckscher-Ohlin-Vanek.
Mô hình Heckscher-Ohlin dựa trên các giả thiết sau: - Công nghệ
sản xuất cố định ở mỗi quốc gia và như nhau giữa các quốc gia. 2
- Công nghệ đó ở mỗi quốc gia đều có lợi tức theo quy mô cố định. - Lao
động và vốn có thể di chuyển tự do trong biên giới mỗi quốc gia, nhưng
không thể di chuyển tự do từ quốc gia này sang quốc gia khác. - Cạnh tranh
trong nước là hoàn hảo.
Mô hình Heckscher-Ohlin phiên bản 2 x 2 x 2 sử dụng hàm Cobb-Douglass vì
nó phù hợp với giả thiết về lợi tức theo quy mô không đổi.
Mô hình đưa ra những kết luận sau: Nước nào có nhiều yếu tố đầu vào nào hơn
thì nước đó sẽ xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng yếu tố đầu vào đó và nhập khẩu các
sản phẩm thâm dụng yếu tố đầu vào kia. Kết luận này được kinh tế học gọi là Định lý Heckscher-Ohlin.
Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm của Wassily W. Leontief năm 1954 về mô
hình Heckscher-Ohlin dùng số liệu thống kê của Hoa Kỳ đã cho thấy dù Hoa Kỳ là
nước sẵn vốn hơn là lao động, nhưng nước này vẫn xuất khẩu đáng kể các sản phẩm
thâm dụng lao động và nhập khẩu nhiều sản phẩm thâm dụng vốn. Kinh tế học gọi
phát hiện này của Leontief là Nghịch lý Leontief. Những nghiên cứu thực nghiệm khác
cũng cho thấy mô hình này không được chấp nhận về mặt thống kê, từ đó đề nghị cần
điều chỉnh mô hình, cụ thể là thay đổi các giả thiết, nhất là giả thiết về công nghệ. (2) Mô hình IS-LM
Mô hình IS-LM: cũng được biết đến như là mô hình Hicks-Hansen, được nhà
kinh tế học người Anh John Hicks (1904-1989) và nhà kinh tế học của Hoa Kỳ Alvin
Hansen (1887-1975) đưa ra và phát triển. Mô hình IS-LM đã được sử dụng để kết hợp
các hoạt động khác nhau của nền kinh tế: nó là sự kết hợp của thị trường tài chính (tiền tệ) với thị trường hàng
hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế đóng thì mô hình không chịu
ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài nền kinh tế: xuất khẩu ròng (NX), tỷ giá hối
đoái,lãi suất thế giới... Trong tiếng Anh, IS- là LM
viết tắt của Investment/Saving - Liquidity
preference/Money supply (Đầu tư/Tiết kiệm - Nhu cầu thanh khoản/Cung tiền).
(3) Mô hình Mundell-Fleming
Mô hình Mundell-Fleming (The Mundell-Fleming model) là một mô hình kinh
tế học vĩ mô sử dụng đường 2
IS và LM để phân tích tác động của các chính sách kinh
tế vĩ môđược thực hiện trong một nền kinh tế mở cửa. Mô hình mang tên 2 nhà kinh tế
học là Robert Mundell và John Marcus Fleming. Đây là mô hình lý thuyết
được Robert Mundell vàMarcus Fleming phát triển một cách độc lập trong những năm .
1960 Mô hình cho thấy mối quan hệ giữa sản lượng với tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong ngắn hạn.
(4) Mô hình tăng trưởng Solow
Mô hình tăng trưởng Solow là một mô hình thuyết minh về cơ chế tăng trưởng kinh tế Robert do
Solow và Trevor Swan xây dựng rồi được các học giả kinh tế khác
bổ sung. Solow đã nhận được giải Nobel về kinh tế năm 1987 nhờ cống hiến này. Mô
hình này còn gọi là Mô hình tăng trưởng tân cổ điển vì một số giả thiết của mô hình
dựa theo lý luận của kinh tế học tân cổ điển. Mô hình này còn có cách gọi khác, đó
là Mô hình tăng trưởng ngoại sinh, bởi vì không liên quan đến các nhân tố bên trong, 3
rốt cục tăng trưởng của một nền kinh tế sẽ hội tụ về một tốc độ nhất định ở trạng thái
bền vững. Chỉ các yếu tố bên ngoài, đó là công nghệ và tốc độ tăng trưởng lao động
mới thay đổi được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở trạng thái bền vững.
(5) Mô hình tổng cầu và tổng cung
Mô hình tổng cầu và tổng cung hay còn gọi là mô hình AD-AS là mô hình dùng
để giải thích hai biến số.
Biến số thứ nhất là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được đo bằng GDP thực
tế. Biến số thứ hai là mức giá được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI hay chỉ số điều chỉnh GDP. (6) Mô hình động
tổng quan của Keynes
Cuộc Đại khủng hoảng (Great Depression) làm thay đổi hẳn cục diện kinh tế
học, chuyển hướng kinh tế học sang nghiên cứu làm thế nào để kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng và vai trò của chính phủ. Cuốn sách Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi
suất và tiền tệ của John Maynard Keynes có ảnh hưởng thực sự tới KTHVM. Keynes
đưa ra Lý thuyết kinh tế học suy thoái, khẳng định rằng kinh tế thị trường không thể tự
phục hồi từ suy thoái và cần thiết phải có chi tiêu công để kích thích nhu cầu. Nhiều
chủ đề quan trọng của cuốn sách thực ra đã có từ trước, nhưng Keynes là người tổng
hợp xuyên suốt các chủ đề này.
Keynes cũng là người đưa ra hướng nghiên cứu kinh tế mới:(simultaneous
determination) xác định đồng thời các biến số (lao động, thu nhập, lãi suất, và giá)
cùng một lúc theo thời gian, thay vì tách rời như trước. Từ đây các nhà kinh tế học bắt
đầu sử dụng các mô hình động tổng quan.
Keynes cũng nhấn mạnh tới tính ỳ của lương và giá cả (thay vì biến động tức
thời như lý thuyết cổ điển). Keynes nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế.
Cuối cùng, Kinh tế học Keynes đã tạo cơ sở cho các mô hình kinh tế lượng
đẳng thức đồng thời (simultaneous-equation econometric models)sau này phát triển sâu rộng.
Sự phát triển Kinh tế học Keynes chính là trung tâm của sự phát triển của Kinh
tế học Vĩ mô trong giai đoạn giữa thế kỷ. Nó cũng là thủy tổ của Lý thuyết Cân bằng
tổng quan (general-equilibrium) sau này (mà xuất phát từ hai cuốn: Value and Capital
của John R. Hicks và Foundations of EconomicAnalysis của Paul A. Samuelson).
1.1 Kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô
Kinh tế học vĩ mô (macroeconomics): Nghiên cứu sự hoạt động của nền kinh tế
như một tổng thể thống nhất.Dựa trên nền tảng tổng thể, kinh tế học vĩ mô tìm kiếm
mọi cách để có được một cái nhìn tổng quan,phát thảo chúng và rồi sâu chuỗi các mối
quan hệ đó lại với nhau dựa trên cấu trúc vốn có của nó trong nền kinh tế.
Kinh tế vĩ mô nghiên cứu các vấn đề tổng thể trong nền kinh tế như vấn đề về tăng
trưởng kinh tế, suy thoái, lạm phát, cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái… Bạn có thể
bắt gặp các vấn đề kinh tế vĩ mô ở các mặt báo kinh tế hằng ngày, và vấn đề mà họ đề 4
cập sẽ không ngoài những dự kiện đã nói trên. Chẵng hạn như vấn đề về tăng trưởng
GDP của Việt Nam, tính đến quý 2 năm 2015 là 6,12% cao hơn so với mức tăng
trưởng ở quý 1; bên cạnh đó tỷ lệ lạm phát của năm 2015 tính đến quý 1đều được duy
trì dưới mức 1%, cho thấy sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ trong vấn đề điều tiết
sự thay đổi giá cả trong nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn địn vĩ mô.
Kinh tế học vĩ mô chú trọng tới sự tương tác tổng quát giữa các chủ thể kinh tế như
hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ trong việc quyết định các vấn đề kinh tế. Nó
không đề cập đến thị trường thịt, cá, trứng hay xe đạp, xe máy mà chỉ bàn đến thị
trường tổng quát, trong đó các sản phẩm được cộng lại với nhau thành một chỉ tiêu duy
nhất. Như vậy, nền kinh tế vĩ mô chủ yếu giải quyết các cấu khối lớn như mức sản
xuất, mức thất nghiệp, mức lạm phát…của cả quốc gia. Để hoàn thiện hơn trong việc
phân tích vĩ mô của một nền kinh tế, trong quá trình giải quyết các vấn đề không tránh
khỏi việc sử dụng phân tích vi mô, chính vì điều đó khiến cho mối quan hệ giữa phân
tích vi mô và vĩ mô trở nên có quan hệ chặt chẽ hơn.
Kinh tếvi mô (microeconomics): Nghiên cứu sự hoạt động của các đơn vị kinh
tế đơn lẻ. Các đơn vị này là bất cứ cá nhân hoặc thực thể nào tham gia vào sự vận hành
của nền kinh tế, chẳng hạn như người tiêu dùng, nhà đầu tư, người sản xuất…Kinh tế
học vi mô giải thích vì sao các đơn vị này lại đưa ra các quyết định về kinh tế và làm
thế nào họ có được các quyết định đó. Đồng thời qua nghiên cứu hành vi và tác động
qua lại của các doanh nghiệp và người tiêu dùng để cho thấy phương thức hoạt động
và quá trình hoạt động và quá trình tiến triển của các ngành công nghiệp và các thị
trường, mặt khác nó còn nghiên cứu ảnh hưởng của các chính sách chính phủ và sự
biến động của nền kinh tế toàn cầu đối với các ngành công nghiệp và các thị trường.
Tóm lại, dù là kinh tế học vi mô hay vĩ mô, thì mỗi bên đều có tầm vai trò riêng,
mỗi phạm trù nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu riêng của mình đối với nền kinh tế.
Với kinh tế học vĩ mô, nó sẽ đánh giá toàn bộ bãi biển chứ không phải là đất, cát, đá…
có trên bãi biển đó. Còn đối với vi mô thì ngược lại, nó xem xét từng chi tiết nhỏ (bao
gồm: đất, đá, cát…) trên bãi biển đó.Tuy vậy, không có nghĩa là chúng rời rạc và
không có mối liên hệ với nhau. Đôi khi, một vấn đề chúng ta cần nghiên cứu lại vừa
mang tính vi mô vừa mang tính vĩ mô. Ví dụ, khi nghiên cứu về thất nghiệp: Nói về
thất nghiệp, chúng ta nhận định ngay đó là vấn đề vĩ mô vì nó đại diện cho sự tổng
quan về lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, chúng ta lại thấy một khía cạnh khác từ vi mô,
bởi nó xuất phát từ quyết định của cá nhân trong nền kinh tế. Rằng họ mất bao lâu để
tìm kiếm cong việc mới, hay cách mà họ tìm kiếm công việc là như thế nào, hay điều
gì ngăn cản việc tuyển dụng của các hãng…đây lại là những vấn đề của vi mô.
1.2 Mô hình giới hạn năng lực sản xuất (PPF: Production possibilities frontier)
Để tạo ra được hàng hóa và dịch vụ, các nhà sản xuất phải tập trung tối ưu nhất các
nguồn lực đầu vào đê phục vụ cho quá trình sản xuất.Tuy nhiên, xã hội lại đối mặt với
vấn đề khan hiếm các nguồn lực, và vì vậy việc quản lý nguồn lực của xã hội có ý 5
nghĩa quan trọng. Khan hiếm có nghĩa là xã hội có các nguồn lực hạn chế và vì thế
không thể sản xuất mọi hàng hóa và dịch vụ mà mọi người mong muốn. Giống như
một hộ gia đình không thể đáp ứng mọi mong muốn của tất cả mọi người, xã hội cũng
không thể làm cho mỗi cá nhân có được mức sống cao nhất như họ khao khát. Khi
chúng ta tăng nguồn lực để sản xuất yếu tố này, thì sẽ làm cho nguồn lực của yếu tố
khác giảm xuống. Để mô tả tình hình này các nhà kinh tế học đưa ra khái niệm “đường
giới hạn khả năng sản xuất của xã hội (Production possibilities frontier - PPF)”.
Để đơn giản chúng ta giả sử rằng:
- Lao động toàn dụng: Tức toàn bộ lực lượng lao động trong nền kinh tế đều sàng
để được sử dụng hết cho sản xuất.
- Mọi nguồn lực mà nền kinh tế có được chỉ để tập trung cho việc sản xuất hai
loại mặt hàng chủ yếu cho nền kinh tế lúc bấy giờ đó là: robot và thực phẩm.
- Các nguồn lực trong nền kinh tế cố định: Tức số lượng và chất lượng sản xuất không đổi
- Khoa học công nghệ cố định: Nền tảng khoa học công nghệ, yếu tố giúp xác
định phương thức sản xuất được giữ nguyên.
Bảng số liệu dưới đây cung cấp thông tin về khả năng sản xuất của hai mặt hàng
thực phẩm và Robot, khi đã toàn dụng lao động trong nền kinh tế, và được thể hiện ở
các phương án sản xuất khác nhau: Phương Thực phẩm Robot án sản số Sản số Sản xuất ĐVLĐ Lượng ĐVLĐ Lượng A 4 25 0 0 B 3 22 1 9 C 2 17 2 17 D 1 10 3 24 E 0 0 4 30
Với bảng số liệu trên ta có thể vẽ nên đường cong mà được gọi là đường giới hạn
khả năng sản xuất của xã hội và được biểu hiện như hình vẽ sau: Đ ườ ng gi ớ i h ạ n kh ả năng sả n xuấất 30 25 20 ẩm 15 10 hực ph 5 T 00 5 10 15 20 25 30 35 Robot 6
Dọc theo các điểm A, B, C, D, E nền kinh tế ngày càng có ít thực phẩm và có nhiều
robot hơn. Dọc theo các điểm đó các nguồn lực dùng để sản xuất thực phẩm đã chuyển
sang để sản xuất robot. Đường giới hạn khả năng sản xuất là đường cong, vì không
phải mọi nguồn lực đều có hiệu quả như nhau trong việc sản xuất hai loại hàng hóa.
Đường giới hạn khả năng sản xuất cho biết sản lượng tối đa của hai (hay nhiều) sản
phẩm có thể sản xuất được với một số lượng tài nguyên nhất định.Hay nói cách khác
đường giới hạn khả năng sản xuất là tập hợp tất cả các cách phối hợp khác nhau về sản
xuất hai (hay nhiều loại hàng hóa) mà một đất nước có thể lựa chọn từ một số lượng
nhất định nguồn tài nguyên.Đường giới hạn khả năng sản xuất minh họa cho sự khan hiếm các nguồn lực.
Trong mô hình đường giới hạn khả năng sản xuất trên, nhận thấy những nhóm
nước tại điểm E và D là biểu hiện cho những nhóm nước phát triển, bởi nguồn lực của
họ tập trung vào việc phát triển khoa học công nghệ ( Robot). Nhóm còn lại thuộc
nhóm nước đang phát triển, nguồn lực được phân chia đều cho việc phát triển công
nghệ, bên cạnh việc đảm bảo nguồn lương thực phục vụ cho nhu cầu xã hội.Tại A nó
đại diện cho những nước nghèo, hay nhóm nước đông dân cư, công nghệ không được
tập trung mà chỉ tập trung giải quyết nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống.
Tóm lại: Tại bất kỳ thời điểm nào, trong trạng thái toàn dụng lao động, nền kinh tế
phải hy sinh một điều tốt nào đó để được nhiều hơn một điều tốt khác. Bởi do sự khan
hiếm nguồn lực yêu cầu nền kinh tế không thể nào có được cả hai điều mình muốn. Xã
hội phải đưa ra những quyết định lựa chọn giữa những điều có thể thay thế
nhau.Không có nguồn thực phẩm miễn phí bên cạnh ngành công nghiệp robot miễn
phí.Tất cả đều phải lựa chọn dựa trên nguồn lực hiện tại đó.
Ý nghĩa của đường giới hạn khả năng sản xuất: cho biết đất nước có thể lựa
chọn những phương án nằm từ đường PPF vào phía trong mà không thể chọn những
phương án nằm bên ngoài đường PPF. Trong đó:
- Chỉ những phương án nằm ngay trên đường giới hạn mới là những phương án
có hiệu quả vì chúng sử dụng hết nguồn lực.
- Những phương án nằm ở phía trong là những phương án hiệu quả thấp hoặc
không hiệu quả vì chúng không sử dụng hết nguồn lực. Trong trường hợp này, chúng
ta có thể sản xuất tăng thêm số lượng một số sản phẩm mà không cần phải giảm số
lượng sản phẩm của những mặt hàng khác bằng cách đưa các nguồn lực chưa sử dụng
hết vào sản xuất hoặc tổ chức nền kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả hơn.
- Những phương án nằm ngoài đường giới hạn là những phương án không thực
hiện được vì không đủ nguồn lực.
Do đó để đưa ra những phương án có hiệu quả thì phải nắm chắc được nguồn lực
hiện có. Đường giới hạn khả năng sản xuất có thể thay đổi qua từng thời kỳ do sự thay
đổi của các nguồn lực, vì vậy nó có thể dịch chuyển sang phải khi các nguồn lực có sự
thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Mặt khác, đường PPF còn phản ánh nội dung
quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng. Chi phí cơ hội: 7
Nếu ta di chuyển dọc theo đường giới hạn khả năng sản xuất, chẳng hạn từ điểm A
đến điểm B của hình trên, ta sẽ thấy xuất hiện thêm nhiều phương án mới với việc sử
dụng nguồn lực để sản xuất robot và thực phẩm. Từ nhận xét này, các nhà kinh tế giới
thiệu khái niệm chi phí cơ hội của việc sản xuất thêm một loại hàng hóa đó.
Khái niệm chi phí cơ hội được minh họa qua đường giới hạn khả năng sản xuất.
Nhìn vào hình ta giả sử nền kinh tế quyết định sản xuất thêm robot từ 9 đơn vị ở điểm
lên 17 đơn vị ở điểm C thì chi phí cơ hội của quyết định này là bao nhiêu? Đó là một
lương thực thực phẩm bị mất đi để sản xuất thêm robot. Trong trường hợp này chi phí
cơ hội của 8 đơn vị robot được sản xuất thêm là 5 đơn vị thực phẩm.
Chi phí cơ hội của một quyết định là giá trị hàng hoá dịch vụ bị bỏ qua khi chúng
ta lựa chọn quyết định đó mà bỏ qua các quyết định khác trong điều kiện khan hiếm
các yếu tố thực hiện quyết định.Trong trường hợp có nhiều hơn 2 lựa chọn thì chi phí
cơ hội là sự lựa chọn tốt nhất trong các sự lựa chọn mà chúng ta bỏ qua.
Chi phí cơ hội là một khái niệm rất có ích và quan trọng nhất được sử dụng trong lý
thuyết lựa chọn.Nó được áp dụng rộng rãi và rất phổ biến trong cuộc sống.Nếu chúng
ta hiểu cặn kẽ khái niệm này thì nó trở thành một công cụ hữu ích nhất giúp chúng ta
đưa ra quyết định lựa chọn có hiệu quả hàng loạt các tình huống khác nhau xảy ra
trong hoạt động kinh tế. Chúng thích hợp cả trường hợp ra quyết định tầm vi mô (các
quyết định của cá nhân) và các quyết định tầm vĩ mô (các quyết sách của xã hội về
việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế).
*Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng: “Nếu ta chuyển dần các nguồn lực để
sản xuất tăng thêm những đơn vị bằng nhau của một loại sản phẩm nào đó thì số lượng
những mặt hàng khác mà ta phải hy sinh hay từ bỏ không sản xuất được ngày càng
nhiều. Hay nói cách khác: để có thêm số lượng bằng nhau về một mặt hàng, xã hội
phải hy sinh ngày càng nhiều số lượng mặt hàng khác”.
Thật vậy, mặt dù một nguồn lực của nền kinh tế có thể đặt vào nhiều cách sử dụng
khác nhau, tuy nhiên, mỗi nguồn lực có một số các đặc tính cơ bản và mỗi cách sử
dụng có một số các yêu cầu riêng, vì vậy việc chuyển dịch cách sử dụng của các nguồn
lực không thể được thực hiện một cách dễ dàng và hoàn hảo. Ví dụ: một vùng đất khô
cằn, đầy sỏi đá dùng để xây dựng nhà máy không thể dễ dàng chuyển thành vùng đất
sản xuất nông nghiệp được;…
Chi phí cơ hội tăng dần không phải là dấu hiệu của tính phi hiệu quả mà nó chỉ thể
hiện các nguồn lực của nền kinh tế không thể thay đổi cách sử dụng một cách hoàn hảo.
2. Hệ thống kinh tế thị trường và vòng chu chuyển trong nền kinh tế
2.1 Các hệ thống kinh tế
Ở mỗi xã hội cần phát triển một hệ thống kinh tế, đó là một tập hợp các thể chế và
một cơ chế phối hợp để ứng phó với với các vấn đề có thể có trong nền kinh tế. Hệ
thống kinh tế xác định những hàng hóa và dịch vụ nào được sản xuất, phương thức sản 8
xuất những hàng hóa đó, sản xuất cho ai, bằng cách nào thích ứng với thay đổi và làm
thế nào để thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ.
Hệ thống kinh tế suy luận hai vấn đề cơ bản như sau:
- Những người sở hữu các yếu tố sản xuất
- Các phương thức được sử dụng để thúc đẩy, phối hợp và trực tiếp tác động đến các hoạt động kinh tế.
Hệ thống kinh tế phân thành hai thái cực: Hệ thống kinh tế chỉ huy và hệ thống kinh tế thị trường
2.1.1 Hệ thống kinh tế chỉ huy
Hệ thống chỉ huy hay còn được gọi kinh tế tập trung, được biết đến như đại diện
của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản.Trong hệ thống đó, chính phủ sở hữu hầu
hết các nguồn tài sản và ra quyết định kinh tế thông qua một kế hoạch kinh tế trung
ương.Một bảng kế hoạch tập trung của chính phủ bổ nhiệm làm cho gần như tất cả các
quyết định quan trọng liên quan đến việc sử dụng các nguồn lực, các thành phần và
phân bố của các đầu ra, và các tổ chức sản xuất.
Chính phủ sở hữu hầu hết các công ty kinh doanh,và yêu cầu sản xuất theo chỉ thị
của chính phủ. Ban kế hoạch tập trung xác định các mục tiêu sản xuất cho từng doanh
nghiệp và xác định số lượng các nguồn lực được phân bổ cho từng doanh nghiệp để nó
có thể đạt sản lượng mục tiêu. Việc phân chia ra giữa vốn và hàng tiêu dùng được
quyết định trực thuộc vào Trung ương, và tư liệu sản xuất được phân bổ giữa các
ngành công nghiệp trên cơ sở ưu tiên kế hoạch dài hạn từ của trung ương.
Một nền kinh tế chỉ huy chính thống sẽ hoàn toàn dựa vào một kế hoạch từ phía
trung ương phân bổ tài sản.Nhưng, trong thực tế, ngay cả những mệnh lệnh ưu việt,
nền kinh tế Liên Xô cũng đã từng dung nạp một số quyền sở hữu tư nhân và thành lập
một số thị trường trước khi sụp đổ vào năm 1992. Dưới sự sụp đỗ đó, cải cách của Nga
và hầu hết các quốc gia Đông Âu ở các mức độ khác nhau đã chuyển đổi được nền
kinh tế chỉ huy của họ sang thể chế tư bản chủ nghĩa, hệ thống kinh tế định hướng thị
trường. Cải cách của Trung Quốc đã không đi xa, nhưng họ đã làm giảm đáng kể sự
phụ thuộc vào kế hoạch tập trung. Đối với Việt Nam chúng ta, từ sau năm 1985, với kế
hoạch đổi mới kinh tế 5 năm lần thứ nhất, đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế định
hướng kinh tế thị trường, dần thoát khỏi kinh tế chỉ huy.
Bắc Hàn và Cuba là những ví dụ nổi bật còn lại cuối cùng của nền kinh tế kế hoạch
tập trung chủ yếu. Các quốc gia khác sử dụng chủ yếu là các hệ thống chỉ huy bao gồm
Turkmenistan, Lào, Belarus, Libya, Myanmar, và Iran.Later trong chương này, chúng
ta sẽ khám phá những lý do chính khiến cho sự sụp đổ chung của hệ thống tập trung này.
2.1.2 Hệ thống kinh tế thị trường
Việc thay thế nền kinh tế chỉ huy đến hệ thống thị trường, hay chủ nghĩa tư bản.Hệ
thống này được đặc trưng bởi sự sở hữu tư nhân về tài nguyên và sử dụng các thị
trường và giá cả để phối hợp hoạt động kinh tế trực tiếp.Những người tham gia hành 9
động với lợi ích riêng của họ.Các cá nhân và doanh nghiệp tìm cách để đạt được mục
tiêu kinh tế của mình thông qua các quyết định liên quan đến công việc, tiêu thụ, hoặc
sản xuất của doanh nghiệp đó.Hệ thống cho phép sở hữu riêng vốn, các mức giá riêng
biệt của từng doanh nghiệp, và điều phối hoạt động kinh tế thông qua các thị trường
nơi mà người mua và người bán đến với nhau. Hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và
các nguồn lực được cung cấp bởi bất cứ ai sẵn sàng và có thể làm như vậy. Kết quả là
sự cạnh tranh giữa người mua và người bán hoạt động độc lập của mỗi sản phẩm và tài
nguyên.Như vậy, việc ra quyết định kinh tế được phân tán rộng rãi.Ngoài ra, lợi ích
tiềm năng cao tạo động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp đổi mới và các doanh
nghiệp hiện có để đi tiên phong trong các sản phẩm và quy trình mới.
Trong chủ nghĩa tư bản hay giấy thông hành “faire capitalism”- vai trò của chính
phủ sẽ được giới hạn để bảo vệ tài sản cá nhân và thiết lập một môi trường thích hợp
cho hoạt động của hệ thống thị trường. Thuật ngữ "laissez-faire" có nghĩa là "để cho
nó được", đó là, giữ cho chính phủ can thiệp vào nền kinh tế. Ý tưởng là can thiệp như
vậy sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của hệ thống thị trường. Nhưng trong chủ
nghĩa tư bản hiện hữu tại Hoa Kỳ và hầu hết các nước khác, chính phủ đóng một vai
trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó không chỉ cung cấp các quy tắc cho hoạt động
kinh tế mà còn thúc đẩy sự ổn định kinh tế và tăng trưởng, cung cấp hàng hoá và dịch
vụ nhất định mà nếu không sẽ ở dưới mức sản xuất hoặc không sản xuất được, và sửa
đổi việc phân phối thu nhập. Chính phủ, tuy nhiên, không phải là lực lượng kinh tế chủ
đạo trong việc quyết định sản xuất cái gì, làm thế nào để sản xuất ra nó, và ai sẽ có được lực lượng đó.
2.1.3 Đặc điểm của hệ thống kinh tế thị trường
2.1.3.1 Quyền sở hữu cá nhân
Trong hệ thống thị trường, các cá nhân và các công ty tư nhân, sở hữu hầu hết các
nguồn tài sản (đất đai và vốn) mà không phụ thuộc vào chính phủ. Sự sở hữu này là
một trong những đặc trưng đại diện cho chủ nghĩa tư bản.Với quyền sở hữu của mình,
các cá nhân hay chủ doanh nghiệp có quyền tự do trao đổi, thương lượng và rồi đi đến
ký kết các hợp đồng khi họ nghĩ lợi ích đôi bên đã được tối đa. Họ có quyền định đoạt
tài sản của mình, đưa ra các quyết định cho tài sản đó khi họ thấy phù hợp.Chẳng hạn
quyền sở hữu bất động sản, cho thấy các chủ sở hữu được pháp luật ghi nhận quyền sở
hữu của mình cho đến khi họ chết, họ có quyền chuyển nhượng sở hữu hay duy trì nó.
Quyền sở hữu này khuyến khích đầu tư, đổi mới, bảo trì tài sản và thúc đẩy tăng
trưởng.Không một ai xây dựng nhà xưởng, mở rộng nông trại hay đầu tư chứng khoán,
nếu tất cả những việc làm đó không mang lại lợi ích cho riêng mình, mở rộng thêm
quyền sở hữu tài sản riêng cho mình.
Quyền sở hữu cũng mở rộng đến vấn đề sở hữu trí tuệ thông qua bằng sáng chế,
bản quyền, hay nhãn hiệu. Bảo vệ lâu dài như vậy khuyến khích mọi người viết sách,
làm âm nhạc,và các chương trình máy tính và phát minh ra sản phẩm mới, tạo ra quy
trình sản xuất hiệu quả hơn mà không sợ rằng những người khác sẽ ăn cắp chúng và
nhận được các phần thưởng mà họ có thể nhận được từ những việc làm đó. 10
Hơn nữa, quyền sở hữu thúc đẩy trao đổi trong xã hội.Những người sở hữu các tài
sản khác nhau có quyền mang tài sản ra và tiến hành trao đổi một cách hợp pháp.Chủ
trang trại chăn nuôi gia cầm có quyền trao đổi tài sản với chủ xưởng sản xuất ôtô nếu
hai bên thống nhất được quyền lợi.Ngoài ra, quyền sở khuyến khích các chủ sở hữu để
duy trì hoặc cải thiện tài sản của họ để duy trì hoặc tăng giá trị của nó.Cuối cùng,
quyền sở hữu cho phép những người chủ sở hữu tiến hành sản xuất ra nhiều hơn
những hàng hóa và dịch vụ dựa trên tài sản họ đang sử dụng, chứ không chỉ dừng lại ở
việc bảo vệ và duy trì tài sản hiện tại.
2.1.3.2 Tự do thành lập doanh nghiệp và lựa chọn
Trong hệ thống kinh tế thị trường, những người sở hữu tài sản có quyền tự do kinh
doanh và đưa ra sự lựa chọn phù hợp. -
Tự do kinh doanh hay thành lập doanh nghiệp nghĩa là họ có quyền lựa chọn
những ngành nghề kinh doanh, sản xuất và tạo ra giá trị hàng hóa và dịch vụ riêng mà
họ cảm thấy phù hợp và có khả năng tạo ra lợi ích ở các thị trường khác nhau. -
Tự do lựa chọn cho phép chủ sở hữu có quyền sử dụng hoặc định đoạt tài sản
và tiền bạc của họ khi họ nhìn thấy lợi ích.Nó cũng cho phép người lao động có quyền
nhận bất kỳ việc làm nào mang lại thu nhập cho họ với khả năng hiện tại. Cuối cùng,
nó đảm bảo rằng người tiêu dùng có thể tự do mua hàng hoá và dịch vụ đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của họ với nguồn ngân sách hiện tại.
Tất nhiên, dù là lựa chọn nào thì cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật quy
định.Nếu đó là sự lựa chọn bất hợp pháp thì sẽ bị pháp luật trừng trị đúng quy định
pháp lý.Chẵng hạn như mua bán trao đổi hàng cấm, ma túy, mua bán trẻ em, mại
dâm… đều bị pháp luật trừng trị nghiêm ngặt. 2.1.3.3 Lợi ích cá nhân
Lợi ích cá nhân đó là nhân tố thúc đẩy cho các chủ sở hữu đưa ra các quyết định
lựa chọn kinh doanh của mình.Mỗi chủ sở hữu sẽ cố gắng hết sức sao cho đạt được
mục tiêu kinh doanh của mình.Họ cố gắng tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu chi phí
và tổn thất. Chủ doanh nghiệp thì cố gắng bán được nhiều hàng hóa với giá cáo, công
nhân thì cố gắng đạt được lợi ích biên của mình bằng cách tìm đúng việc, có mức thỏa
thuận lợi tối đa, cùng với các khoản phúc lợi và thưởng khác. Người tiêu dùng thì cố
gắng tìm kiếm duy trì để mua được hàng với mức giá thấp hơn, đảm bảo tối thiểu hóa
chi tiêu của mình.Lợi ích cá nhân giúp định hướng và tạo tính nhất quán ở những vấn
đề khác nhau trong một nền kinh tế hỗn độn. 2.1.3.4 Sự cạnh tranh
Một trong những đặc điểm quan trọng của kinh tế thị trường đó chính là sự cạnh
tranh giữa các đơn vị trong thị trường đó. Nền tảng của sự cạnh tranh là sự tự do trong
lựa chọn để làm sao đó thu hồi dòng vốn của mình. Sự cạnh tranh yêu cầu:
- Hai hay nhiều người mua và hai hoặc nhiều người bán hàng, hoạt động độc lập
đối với một sản phẩm hay một tài nguyên thị trường cụ thể. (Thông thường có nhiều
hơn hai người mua hay người bán.)
- Người bán hoặc người mua có quyền tự do lựa chọn việc vào hoặc ra khỏi thị
trường cạnh tranh để bảo toàn lợi ích của mình. 11
Sự cạnh tranh của người bán và người mua khuếch tán quyền lực của mình trong
thị trường.Khi có nhiều người mua và nhiều người bán, sẽ phát sinh những trao đổi
trong thị trường và từ đó xác lập các mức giá cạnh tranh nhất có thể có.
Sự cạnh tranh cũng đồng nghĩa với việc chủ doah nghiệp có quyền tự do vào hoặc
ra một ngành bất kỳ, không có rào cản nào ngăn chặn việc mở rộng một ngành công
nghiệp. Việc chuyển đổi tự do trong các ngành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng, đôi khi có thể thay đổi được thị hiếu, công nghệ và nguồn lực
hiện tại trong thị trường.
Sự khuếch tán quyền lực kinh tế gắn liền với các giới hạn cạnh tranh để hạn chế
quyền lực của nó. Một nhà sản xuất khi kinh doanh mà chi phí cao hơn doanh thu thì
hiển nhiên sẽ bị thua lỗ so với nhà sản xuất khác. Khi thua lỗ, họ sẽ tìm cách cắt giảm
chi phí, mà một trong những bước gần nhất đó là chi phí cho người lao động. Khi cắt
giảm lương, người lao động nhận mức thấp hơn so với mức thị trường đáng có và rồi
doanh nghiệp đó sẽ mất đi nhân công. Hay một doanh nghiệp không sử dụng công
nghệ thành công thì cũng không đạt được hiệu quả trong sản xuất.Cạnh tranh là nền
tảng cơ bản điều tiết kinh tế thị trường.
2.1.3.5 Thị trường và giá cả
Hệ thống kinh tế thị trường được hình thành dựa trên sự tự do hoạt động kinh
doanh của các tổ chức, và cùng với lợi ích cá nhân của họ. Vậy tại sao nó lại không bị
sụp đổ khi xảy ra những mâu thuẫn trong lợi ích cá nhân? Chẵng hạn, người tiêu dùng
thích được mang quần áo làm từ vải gấm, tuy nhiên, nhà sản xuất lại sản xuất ra lụa,
các nhà cung cấp lại tìm kiếm nguyên liệu để tập trung cung cấp các nguồn vải sợi thô
khác. Rõ ràng có một sự bế tắc dễ dàng nhận thấy giữa các mối quan hệ trong nền kinh
tế. Trong thực tế, hàng triệu các quyết định của các hộ gia đình và các doanh nghiệp
được đánh giá cao khi phối hợp với nhau trên các thị trường và tại các mức giá cả, đó
là những thành phần quan trọng của hệ thống thị trường.Họ cung cấp cho hệ thống khả
năng của mình để phối hợp hàng triệu quyết định kinh tế hàng ngày.
Thị trường là một tổ chức hay là một cơ chế mà tại đó mang người mua và người
bán tiếp xúc với nhau. Hệ thống thị trường truyền tải các quyết định của người mua và
người bán về các sản phẩm và nguồn lực hiện có.Các quyết định được thực hiện dựa
trên mỗi bên, từ đó xác lập một mức giá cho nhóm hàng hóa và dịch vụ cùng với giá
cả nguồn tài nguyên hiện có trên thị trường. Đó là điều mà các chủ sở hữu, các hãng
sản xuất và người tiêu dùng tạo nên và theo đuổi vì mục đích lợi ích của họ.
Nếu như cạnh tranh là được xem như cơ chế quản lý của kinh tế thị trường, thì hệ
thống kinh tế thị trường tự nó hình thành nên cơ chế tổ chức và phối hợp. Nó là nơi tập
hợp tất cả các quyết định của người mua và người bán, qua đó xác lập các mức giá cân
bằng cần có để đảm bảo lợi ích đôi bên tương ứng với nguồn lực hiện có, đưa nó đến
với vị trí cân bằng. Những người tham gia vào thị trường nếu như tuân theo quy luật
của nó thì sẽ đạt được những lợi ích đáng có. Ngược lại, khi ai đó không làm đúng với
những diễn biến hiện tại trên thị trường, đi ngược lại những gì đang xảy ra thì sẽ gặp
phải những điều không đáng có. Hay nói cách khác, thông qua hệ thống kinh tế thị 12
trường, ta sẽ xác định được nên kinh tế nên sản xuất cái gì, sản xuất nó như thế nào
cho hiệu quả, và sản xuất nó cho ai, phân chia như thế nào.
2.1.3.6 Công nghệ và tư liệu sản xuất
Trong hệ thống kinh tế thị trường, tự do cạnh tranh, lợi ích cá nhân, tự do lựa chọn,
và đưa ra quyết định là tiền đề cho sự tiến bộ về khoa học, công nghệ. Những nhà sáng
tạo nên công nghệ mới được nhận những phần thưởng xứng đáng với những gì họ đã
tạo ra. Bên cạnh đó, tư liệu sản xuất cũng ngày càng được nâng cao và phát triển hơn
dựa trên sự tiến bộ công nghệ đó như các công cụ, dụng cụ mới, máy móc thiết bị, hệ
thống nhà xưởng, giao thông vận tải, truyền thông…
Sự tiến bộ công nghệ và tư liệu sản xuất là điều rất quan trọng đối với kinh tế thị
trường, bởi thông qua đó hiệu quả sản xuất được nâng cao.Cách duy nhất để nâng cao
hiệu quả trong quá trình sản xuất đó là dùng các tư liệu sản xuất một cách hợp lý.Việc
sản xuất hiệu quả hơn nghĩa là sẽ có nhiều hàng hóa và dịch vụ được tạo ra hơn và
ngày càng phong phú, đa dạng hơn. 2.1.3.7 Chuyên môn hóa
Chuyên môn hóa là một việc phi thường được xuất hiện từ kinh tế thị trường.
Chuyên môn hóa là việc sử dụng các nguồn lực của một cá nhân, công ty, khu vực, hay
quốc gia để sản xuất một hoặc một vài hàng hóa hoặc dịch vụ chứ không phải là toàn
bộ các hàng hoá và dịch vụ. Những hàng hóa, dịch vụ được trao đổi sau đó cho một
loạt các sản phẩm mong muốn.Những người sản xuất ra hàng hóa này lại tiêu dùng
những hàng hóa mà người khác sản xuất ra và ngược lại.Việt Nam sản xuất ra quần áo,
những bộ âu phục, tuy nhiên lại xuất khẩu nó ra bên ngoài, và bán chúng cho các nước
Châu Âu. Trong khi đó, người Việt Nam lại nhập cac mặt hàng may mặc từ Trung
Quốc hay Thái Lan về tiêu dùng trong nước.
Phân chia lao động: Chuyên môn hóa nhân lực là một cách nói khác của phân
chia lao động – việc mà sẽ giúp đóng góp thêm vào sản lượng nền kinh tế bằng nhiều cách:
+ Chuyên môn hóa tận dụng được các năng lực khác nhau của người lao động.
Phân chia nhiệm vụ đúng với năng lực của mỗi thành viên, làm tăng hiệu quả cho quá trình sản xuất.
+ Chuyên môn hóa khuyến khích “vừa học vừa làm”. Ngay cả khi khả năng của hai
người giống hệt nhau, chuyên môn hóa vẫn có thể được thuận lợi.Bằng cách dành thời
gian để một nhiệm vụ duy nhất, một người có nhiều khả năng để phát triển kỹ năng
cần thiết và nâng cao kỹ thuật hơn bởi làm việc tại một số nhiệm vụ khác nhau.
+ Chuyên môn hóa giúp tiết kiệm thời gian. Bằng cách dành thời gian để một
nhiệm vụ duy nhất, một người tránh mất thời gian phát sinh trong việc chuyển đổi từ một công việc khác.
Với những lý do trên, chuyên môn hóa góp phần làm gia tăng sản lượng đầu ra với
nguồn lực bị giới hạn.
Phân chia lãnh thổ: Chuyên môn hóa cũng được hình thành từ việc phân chia
lãnh thổ, khu vực hay phạm vi hoạt động. Chẵng hạn, cà phê thường được trồng ở 13
vùng Tây Nguyên, ta cũng có thể trồng ở những đất đỏ khác, tuy nhiên, sẽ tốn thêm
chi phí chăm sóc vì độ ẩm, không khí, lượng mưa không phù hợp.
Tóm lại, cả con người và lãnh thổ địa lý đều cần được chuyên môn hóa để đạt được
hiệu quả tối ưu trong quá trình sản xuất. 2.1.3.8 Sử dụng tiền
Một điều dễ nhận thấy ở hệ thống kinh tế thị trường, đó là việc sử dụng rộng rãi
tiền tệ.Tiền có nhiều chức năng, tuy nhiên, trước hết ta tiếp cận nó dưới góc độ là
phương tiện thanh toán (trao đổi).Nó tạo sự dễ dàng trong trao đổi thương mại.
Chuyên môn hóa yêu cầu trao đổi.Trao đổi có thể, và đôi khi, xảy ra thông qua trao
đổi hàng hóa và dịch vụ.Nhưng trao đổi hàng hóa đặt ra những vấn đề nghiêm trọng
bởi vì nó đòi hỏi một sự trùng hợp của những mong muốn giữa người mua và người bán.
2.1.3.9 Hoạt động chủ động tuy nhiên dưới sự quản lý của Chính phủ
Mọi hoạt động trong hệ thống kinh tế thị trường là chủ động, nhưng cũng bị giới
hạn, và chính phủ là đặc trưng cuối cùng của hệ thống thị trường trong nền kinh tế
công nghiệp tiên tiến hiện đại này.Mặc dù một hệ thống thị trường thúc đẩy một mức
độ cao về hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của mình.Tuy nhiên, cũng có lúc
thị trường thất bại, tụt dốc.Và khi đó, chính phủ sẽ là người hỗ trợ cuối cùng trong thị
trường. Chúng ta sẽ khám phá vai trò của chính phủ ở những phần tiếp theo, để có thể
thấy họ làm tăng hiệu quả tổng thể của hệ thống kinh tế bằng nhiều cách.
2.2 Mô hình vòng chu chuyển trong nền kinh tế
Trong một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh thường tồn tại các tác nhân kinh tế
cùng hoạt động như: hộ gia đình, chính phủ, các hãng kinh doanh và các khu vực kinh
tế đối ngoại. Những tác nhân này tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên không khí cho nền
kinh tế trên thị trường, những trao đổi, các giao dịch diễn ra tạo nên các luồng hàng
hóa và dịch vụ, các luồng tiền tệ di chuyển giữa các chủ thể vĩ mô này. Để tìm được
vấn đề cốt lõi bên trong của các giao dịch và hiểu được phương pháp tính toán chúng
ta sẽ được nghiên cứu lần lượt các phương pháp tính ở phần sau. Thu nhậ p Thị trườ ng sả n Đầ u tư cho xuấ t SX Tiế t kiệ m cá Thị trường nhân (S) tài chính Các hãng TK công ầ kinh doanh Thuế Đ u Hộ gia đình Chính phủ tư ( I) Chi mua hh-dv (G) Doanh thu 14 Tiêu dùng ( C Th ị trườ ng hàng ) hóa và dị ch v ụ
Vòng chu chuyển vĩ mô được miêu tả như sau: hộ gia đình nhận thu nhập và dùng
nó để nộp thuế cho Chính phủ, để chi mua cho hàng hóa và dịch vụ, và để tiết kiệm
thông qua thị trường tài chính. Các hãng kinh doanh có nguồn thu nhập từ việc bán
hàng hóa và dịch vụ của mình và sử dụng nó để trả cho các hãng sản xuất. Thông qua
thị trường tài chính, hộ gia đình và các hãng kinh doanh thực hiện hoạt động vay
mượn để mua sắm, đầu tư, ví như mua nhà, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng nhà
xưởng…Với chính phủ nguồn thu nhập của họ là từ thuế và sử dụng nó để chi mua
hàng hóa và dịch vụ ( G ). Với khoản vượt quá của doanh thu từ thuế của Chính phủ
được gọi là tiết kiệm cộng đồng, hay nói cụ thể hơn nó thể hiện là ngân sách chính phủ thặng dư hay thâm hụt.
Ngoài ra, để dễ dàng tiếp cận với cách tính toán GDP trong nền kinh tế, mô hình
dưới đây miêu tả tóm tắt dòng chu chuyển trong nền kinh tế chỉ có hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ. C + I + G I C + I + G - Ti S C G Ti Hộ gia Chính phủ Nhà sả n xuấ t đình Tr+ Td Yd = Y - Td + Tr Y + 15 Trong đó: Yd: thu nhập khả dụng
C: chi tiêu của hộ gia đình I: đầu tư Y: thu nhập (sản lượng) S: tiết kiệm
Tr: trợ cấp của chính phủ T : thuế trực thu d Ti: thuế gián thu
Vòng chu chuyển vĩ mô trên đươc giải thích như sau: Các hãng trả thu nhập yếu
tố Y cho các hộ gia đình, bên cạnh việc nộp các khoản thuế trực thu Td cho chính phủ.
Lúc này, khi thu thuế Td Chính phủ cũng cùng lúc đó chuyển giao thu nhập (hay trợ
cấp) đến tay hộ gia đình. Do đó, khoản thu nhập khả dụng mà hộ gia đình nhận được
sẽ là Yd = Y - Td + Tr. Với mức thu nhập khả dụng này, hộ gia đình sẽ sử dụng để tiêu
dùng C hay tiết kiệm S. Khoản tiêu dùng này được bổ sung thêm các khoản bơm vào
bao gồm chi cho đầu tư I và chi tiêu của Chính phủ G cho hàng hóa và dịch vụ. Từ (C
+ I + G) hay GDP theo giá thị trường, chúng ta phải trừ đi khoản rò rỉ là thuế gián thu
Ti để nhận được Y, GDP theo giá cơ bản mà các hãng trả cho các hộ gia đình Y = C + I + G - Ti
Thuế trực thu: người nộp thuế chính là người chịu thuế, thường đánh vào thu
nhập (ví dụ: thuế thiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập…)
Thuế gián thu: người nộp thuế không phải là người chịu thuế, thường đánh vào chi tiêu ( ví dụ: VAT)
Vậy thông qua vòng chu chuyển vĩ mô giúp gợi ra ba cách đo lường hoạt động
kinh tế của một nền kinh tế bao gồm: giá trị của các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
ra; mức thu nhập yếu tố, biểu thị giá trị của các dịch vụ yếu tố được cung ứng; hoặc
giá trị của chi tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ. Lúc này, ta giả sử rằng tất cả các
khoản thanh toán đều được dùng để mua các nguồn lực thực. Do vậy, chúng ta cần có
một con số ước tính như nhau về toàn bộ hoạt động kinh tế, dù đó là giá trị của sản
lượng, mức thu nhập hay chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ.
Nếu toàn bộ thu nhập được chi tiêu thì thu nhập yếu tố sẽ bằng chi tiêu của các
hộ gia đình. Giá trị sản phẩm sẽ bằng tổng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ nếu hàng
hóa được bán hết. Giá trị sản phẩm cũng bằng thu nhập của các hộ gia đình. Vì lợi
nhuận được tính bằng doanh thu trừ đi tiền thuê các yếu tố đầu vào và vì các khoản lợi
nhuận này rốt cuộc cũng đến tay các hộ gia đình sở hữu các hãng, nên các khoản thu
nhập của hộ gia đình – hoặc thu được từ việc cunh ứng đất đai, lao động và vốn, hoặc
từ lợi nhuận của các hãng- phải đúng bằng giá trị sản lượng. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Kinh tế học là gì? So sánh sự khác nhau giữa kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, kinh tế
học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Cho ví dụ?
2. Chi phí cơ hội của việc bạn chỉ ở nhà mà không phải làm gì trong một ngày là gì? 16
3. Đường giới hạn khả năng sản xuất là gì? Nêu đặc điểm của đường giới hạn khả năng sản xuất?
4. Tại sao nền kinh tế hiện đại đều được tổ chức theo mô hình kinh tế hỗn hợp trong đó
có cả thị trường và Nhà nước đều điều tiết các hoạt động kinh tế?
5. Hãy giải thích vì sao thu nhập của nền kinh tế lại đúng bằng chi tiêu của nền kinh tế?
6.Cho biết những đặc điểm cơ bản của hệ thống kinh tế thị trường, kinh tế chỉ huy? PHẦN ĐỌC THÊM:
MƯỜI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA KINH TẾ
Từ “kinh tế” có nguồn gốc từ Hy Lạp được dịch ra từ từ “oikinomos”, có
nghĩa là “cái mà quản lý một hộ gia đình”. Theo nguyên gốc thì dường như là riêng
biệt. Nhưng thật ra, hộ gia đình và kinh tế có điểm tương đồng lẫn nhau.
Một hộ gia đình phải đối mặt với nhiều quyết định. Nó quyết định những thành
viên trong gia đình làm những việc gì và họ phải tạo ra cái gì: Ai là người nấu bữa
tối? Ai là quần áo? Ai chuẩn bị món tráng miệng? Ai đưa ra sự lựa chọn để xem kênh
truyền hình nào? Trong thời gian ngắn, một hộ gia đình phải sử dụng những nguồn
lực khan hiếm giữa những nguồn lực khác, tạo khả năng chi tiêu cho mỗi thành viên
dựa trên khả năng, sự nỗ lực và mong muốn của thành viên đó.
Giống như một hộ gia đình, xã hội cũng đối mặt với nhiều quyết định. Xã hội
quyết định công việc gì sẽ làm và ai sẽ là người làm chúng. Nó cần có người để tạo ra
thức ăn, người khác tạo ra quần áo, những người khác nữa thì tạo ra các phần mềm
máy tính. Một khi xã hội quyết định người (giống như là một mảnh đất, tòa nhà, máy
móc) làm những công việc khác nhau, nó phải chỉ định được đầu ra của hàng hóa và
dịch vụ mà họ sản xuất. Giống như việc quyết định người nào ăn cá trứng muối, người
nào sẽ ăn khoai tây. Ai sẽ đi xe Ferrari và ai sẽ phải đi xe buýt.
Việc quản lý nguồn tài nguyên của xã hội là quan trọng bởi vì nguồn tài nguyên
là có hạn. Sự khan hiếm có nghĩa là xã hội được giới hạn nguồn tài nguyên và vì thế
không thể sản xuất tất cả hàng hóa và dịch vụ mà con người mong muốn có được.
Cũng như một thành viên trong gia đình không thể có những gì mà họ muốn, mỗi cá
nhân trong xã hội không thể đạt được những tiêu chí cao nhất trong cuộc sống mà họ khao khát.
Kinh tế học là việc học bằng cách nào để quản lý nguồn lực khan hiếm của xã
hội. Trong hầu hết các xã hội, nguồn tài nguyên được dùng không chỉ bởi những nhà
độc tài hùng mạnh mà còn thông qua hàng triệu hộ gia định và các hãng khác. Những
nhà kinh tế phải hiểu biết làm sao để mọi người có những quyết định như thế nào: họ
làm việc bao nhiêu, họ mua những gì, họ tiết kiệm như thế nào, và họ đầu tư cho
những khoản tiết kiệm bằng cách nào. Những nhà kinh tế phải học cách tác động giữa
con người với những yếu tố khác như thế nào. Ví dụ, họ kiểm tra nhiều người mua và
bán hàng hóa với nhau có mối quan tâm đến giá cả và số lượng mà hàng hóa được
bán như thế nào. Cuối cùng những nhà kinh tế phân tích sự ảnh hưởng và xu hướng
tác động đến hiệu quả toàn bộ của nền kinh tế, bao gồm sự tăng trưởng thu nhập bình
quân, phần trăm lao động không có việc làm, và tỷ suất của giá cả đang tăng lên. 17
Việc học kinh tế có rất nhiều mặt, nhưng nó được thống nhất những ý tưởng
cùng nhau. Trong chương này, chúng ta gặp 10 nguyên lý cơ bản của kinh tế . Đừng lo
lắng nếu bạn không hiểu chúng ngay lần đầu tiên hoặc nếu bạn không bị thuyết phục.
Chúng ta khảo sát những ý kiến trong những chương sau. Mười nguyên lý cơ bản
được giới thiệu ở đây để trao cho bạn một cái nhìn tổng quát về kinh tế. Việc quan tâm
một chương là có cơ hội nhìn lại những điều thu hút sắp đến.
MỌI NGƯỜI ĐƯA RA QUYẾT ĐỊNH BẰNG CÁCH NÀO
Không có gì bí ẩn về nền kinh tế. Dù cho chúng ta đang nói về nền kinh tế của
Los Angles, Mỹ, hay toàn bộ thế giới, một nền kinh tế cũng giống như một nhóm
người giao thiệp với một nhóm người khác khi họ cùng sống với nhau. Bởi vì hành vi
của nền kinh tế phản ánh hành vi của những cá nhân người tạo ra nền kinh tế, chúng
ta bắt đầu học về kinh tế với 4 nguyên lý cơ bản của cá nhân tạo ra những quyết định.
NGUYÊN LÝ 1: MỌI NGƯỜI ĐỐI MẶT VỚI SỰ ĐÁNH ĐỔI
Bạn đã từng nghe câu: “không có gì là cho không cả”. Có nhiều cái đúng với
châm ngôn này. Để có thứ mà bạn thích, chúng ta phải trao những thứ khác mà chúng
ta thích. Đưa ra quyết định để đánh đổi một mục đích khác.
Hãy xem một học sinh sẽ sử dụng giá trị tài nguyên của mình đó là thời gian
như thế nào. Cô (hoặc anh) ấy có thể dùng hết thời gian cho việc học môn kinh tế,
hoặc cho môn tâm lý học, hoặc chia đều cho cả hai lĩnh vực. Cứ mỗi giờ cô ấy học 1
môn, và trao 1 giờ để học một môn khác. Và mỗi giờ cô ấy dành cho việc học, cô có
thể dùng vào việc ngủ trưa, đi xe đạp, xem tivi hoặc làm việc bán thời gian để tăng thêm thu nhập.
Hoặc những ông bố bà mẹ chi trả những khoản thu nhập như thế nào. Họ có
thể mua thức ăn, quần áo hoặc một kỳ nghỉ. Hoặc họ có thể tiết kiêm tiền đó vào
khoản lương hưu hoặc dành cho việc học của con cái họ. Khi họ chi trả tiền cho bất
cứ hàng hóa nào, họ sẽ có ít hơn 1 đôla trả cho hàng hóa khác.
Khi mọi người tập họp lại thành nhóm trong xã hội, họ đối mặt với những sự
đánh đổi khác nhau. Sự đánh đổi kinh điển đó là giữa “súng và bơ”. Xã hội chi nhiều
hơn cho việc phòng thủ quốc gia (súng) để bảo về bờ cõi khỏi sự xâm lược nước
ngoài, nó chi trả ít hơn cho hàng hóa tiêu dùng (bơ) để phát triển cuộc sống hằng
ngày. Điều quan trọng trong xã hội hiện nay đó là sự đánh đổi giữa môi trường trong
sạch và thu nhập cao. Luật yêu cầu các hãng phải giảm ô nhiễm môi trường tăng chi
phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Bởi chi phí tăng cao, lợi nhuận kiếm được của các
hãng sẽ ít hơn, trả tiền lương thấp hơn, hoặc phối hợp của cả ba. Như vậy, trong khi
những quy định về ô nhiễm môi trường mang lại lợi ích làm sạch môi trường và cải
thiện sức khỏe, chúng lại làm giảm thu nhập của các xí nghiệp, của công nhân và khách hàng.
Một vấn đề khác mà xã hội phải đối mặt đó là giữa năng suất và bình đẳng.
Năng suất là cái được tạo ra nhiều nhất với sự khan hiếm của nguồn lực xã hội. Sự
bình đẳng nghĩa là việc đóng góp thống nhất giữa các thành viên trong tổ chức. Nói
cách khác, năng suất chính là kích cỡ của các mảng khác nhau trong nền kinh tế, còn
sự bình đẳng là bằng cách nào đó để chia đều thành các miếng cho cá nhân. 18
Khi chính sách của chính phủ được đưa ra, hai mục đích này thường xung đột
lẫn nhau. Ví như các chính sách đưa ra nhằm cân bằng sự đóng góp của nền kinh tế.
Một vài trong số chúng như hệ thống chính sách phúc lợi xã hội hay bảo hiểm thất
nghiệp, cố giúp những người cần chúng trong xã hội. Mặt khác như thuế thu nhập cá
nhân yêu cầu những người có thu nhập cao đóng góp cho chính phủ nhiều hơn những
người khác. Trong khi để đạt được sự bình đẳng lớn hơn, thì những chính sách lại làm
giảm đi năng suất. Khi chính phủ phân phối lại khoảng thu nhập từ người giàu đến
nghèo, nó làm giảm đi tiền thưởng dành cho công việc; kết quả là mọi người làm việc
ít hơn và sản xuất hàng hóa và dịch vụ cũng ít hơn. Nói cách khác, khi chính phủ cố
gắng cắt chiếc bánh (kinh tế) thành nhiều miếng bằng nhau, thì miếng bánh nhỏ hơn.
Thừa nhận rằng mọi người đối mặt với sự đánh đổi không phải chính nó nói
cho chúng ta biết quyết định gì cho việc họ sẽ hoặc nên làm. Một sinh viên không nên
từ nỏ việc học môn tâm lý học bởi vì làm như vậy sẽ tăng thêm thời gian học môn kinh
tế. Xã hội không nên dừng việc bảo vệ môi trường bởi vì quy định về môi trường làm
giảm tiêu chuẩn sinh hoạt của chúng ta. Người nghèo không nên bị bỏ qua bởi vì giúp
chúng xuyên tạc tính động viên trong công việc. Tuy nhiên mọi người đưa ra được
quyết định tốt chỉ khi họ hiểu những sự lựa chọn đó. Việc học về kinh tế của chúng ta
vì thế mà bắt đầu với những kiến thức về sự đánh đổi của cuộc sống.
NGUYÊN LÝ 2: CHI PHÍ CHO NHỮNG CÁI MÀ BẠN TỪ BỎ ĐỂ CÓ ĐƯỢC NÓ.
Bởi vì mọi người đối mặt với sự đánh đổi, đưa ra những quyết định yêu cầu so
sánh giữa những hành động khác nhau. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp tuy nhiên
chi phí cho các việc làm là không rõ ràng giống như khi mới xuất hiện.
Xét một quyết định thi vào trường đại học. Lợi ích chính là việc làm giàu trí tuệ
và có cơ hội tốt hơn cho nghề nghiệp trong cuộc sống. Nhưng chi phí của nó là gì? Để
trả lời được câu hỏi này, bạn phải chú ý đến khoảng tiền mà bạn chi trả cho học phí,
sách vở, ăn ở…tuy nhiên tổng số này không thực sự cung cấp đúng những gì mà bạn
phải trả trong 1 năm học đại học.
Có hai vấn đề cần tính toán. Đầu tiên, nó bao gồm những thứ mà không phải
chi phí thực sự cho việc học đại học. Ngay cả khi bạn không đi học, bạn cũng cần phải
ngủ và ăn. Tiền ăn ở khi đi học đại học cũng có thể đắc hơn nhiều so với cái mà bạn
tự lo liệu. Thứ hai, việc tính toán lờ đi chi phí lớn nhất dành cho đi học đó là thời gian
của bạn. Khi bạn trải qua một năm để nghe giảng, đọc sách, viết báo, bạn không thể
có thời gian dành cho công việc. Đối với nhiều sinh viên, khoản tiền lương từ bỏ để đi
học là khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học.
Chi phí cơ hội là những cái mà bạn từ bỏ để có được nó. Khi đưa ra bất cứ
quyết định nào, những người đưa ra quyết định cần nhận thấy chi phí cơ hội gắn với
mỗi hành động cụ thể. Trên thực tế họ thường ý thức được. Những vận động viên đại
học những người mà có thể kiếm được hàng triệu bạc nếu họ bỏ học và chơi những
môn thể thao chuyên của họ vì thế nhận thấy chi phí cho việc học đại học là rất cao.
Nó không có gì ngạc nhiên khi họ quyết định lợi ích không xứng với những gì họ bỏ ra. 19
NGUYÊN LÝ 3: CON NGƯỜI DUY LÝ KHI NGHĨ VỀ ĐIỂM CẬN BIÊN
Những nhà kinh tế cho rằng con người có lý trí. Người có lý trí là người có
những việc làm một cách có hệ thống và có mục đích để đạt được những mục tiêu và
tạo ra những cơ hộ sẵn có. Khi bạn học về kinh tế, bạn phải đối mặt với những quyết
định của một công ty, một doanh nghiệp rằng cần phải thuê bao nhiêu lao động, sản
xuất bao nhiêu hàng hóa và bán như thế nào để tối đa hóa lợi nhuận. Bạn cũng sẽ đối
mặt với những cá nhân người sẽ cho ra quyết định rằng sẽ chi ra bao nhiêu thời gian
làm việc và hàng hóa hay dịch vụ nào được bán để có được thu nhập và sự thỏa mãn lớn nhất.
Những người duy lý thường biết rằng những quyết định trong cuộc sống hiếm
khi rõ rằng như hai màu đen trắng, nó thường là một màu sám. Ví như với một buổi
ăn tối, người ta thường chọn lựa giữa việc nhịn ăn hoặc ăn thật nhiều nhưng dù là
như thế nào họ luôn kèm theo một thìa khoai tây nghiền.Khi đến gần kề một kỳ thi,
bạn quyết định là không học hoặc là học trong vòng 24h một ngày những dù thế nào
bạn cũng phải dành thời gian cho việc xem những chú thích thay vì ngồi xem tivi.
Những nhà kinh tế sử dụng việc thay đổi điểm cận biên để miêu tả lượng nhỏ sự điều
chỉnh tăng thêm với những kế hoạch hiện tại. Hãy nhớ rằng sự thây đổi của điểm cận
biên là sự điều chỉnh xung quanh biên độ của việc bạn làm. Người duy lý thường
quyết định bằng việc so sánh chi phí biên và lợi nhuận biên.
Ví dụ, xem xét việc một hãng hàng không quyết định bao nhiêu để tính phí cho
một khách hàng chờ. Giả sử, chuyến bay đến Mỹ có 200 chỗ ngồi giá là 100.000$.
Trong trường hợp trung bình giá mỗi vé là 100.000$/200 là 500$. Vì thế họ có thể
nghĩ rằng hãng này không thể bán vé với giá ít hơn 500$. Nhưng thật ra, hãng này có
thể tìm cách để tăng lợi nhuận của nó theo cách nghĩ về điểm cận biên. Tưởng tượng
nếu máy bay cất cánh và những vị khách chờ trả cho mỗi chỗ là 300$. Hẵng này có
nên bán vé hay không? Và câu trả là là tất nhiên có. Nếu máy bay cất cánh khi vẫn
còn chỗ trống, giá sẽ sẽ được cộng thêm cho mỗi hành khách một chút xíu. Mặc dù giá
của mỗi hành khách là trung bình là 500$. Chi phí biên chỉ đơn thuần là chi phí tính
cho giá của những túi đậu phụng và những cốc soda mà hành khách sẽ sử dụng. Khi
những hành khách chờ trả nhiều hơn chi phí biên, thì khi đó việc bán vé là có lợi.
Quyết định cận biên có thể giúp giải thích một vài câu hỏi khó của nền kinh tế.
Một vài câu hỏi có tính chất kinh điển như: Tại sao nước lại rẻ, trong khi kim cương
thì đắt? Con người cần nước để sống sót, trong khi kim cương thì không; nhưng vì một
vài lý do, con người sẵn lòng trả nhiều tiền hơn cho kim cương thay vì một cốc nước.
Lý do của sự sẵn lòng chi trả đó là dựa trên nền tảng lợi nhuận biên mà mỗi đơn vị
hàng hóa sẽ cho ra lợi. Lợi nhuận biên lần lượt phụ thuộc bao nhiêu đơn vị của một
người có. Nước là yếu tố cần thiết, nhưng lợi nhuận biên của một tách nước là nhỏ bởi
nước rất phong phú. Ngược lại, không ai cần kim cương để sống, nhưng vì kim cương
là rất hiếm, mọi người quan tâm tới giá trị biên của nó là lớn.
Nhà sản xuất đưa ra quyết định hợp lý chỉ khi lợi nhuận cận biên vượt quá chi
phí cận biên. Nguyên lý này có thể giải thích tại sao hãng hàng không bán với giá vé
thấp hơn chi phí trung bình và tại sao người ta sẵn sàng trả cho kim cương nhiều hơn 20