Giáo trình Luật La Mã | Trường đại học Luật Hà Nội
Cùngvóisự tan rãcủa xãhộinguyên thủylà sự xuấthiện xã hội có giaicấp. Từ khicó của cải dư thừa, đời sốngmỗigiađìnhvà ngoàixã hộiđãcó nhiềusự đổi thay,đànông đảmnhiệmnhữngcôngviệcnặng nhọc như cày,bừa,làm thủy lợi,làmdânbinh...dần dần trỡ thành trụ cột tronggia đình, có quyền quyết định mọi việc, con cái đã bắt đầumang theo họcủa chavà gia đìnhphụ hệ thay thế gia đìnhmẫu hệ thời công xã thị tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45988283
TRƯỜNG OẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI GIÁO TRÌNH lOMoAR cPSD| 45988283
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI • • • # Giáo trình LUẬT LAMÃ ■
NHÀ XUẤT BẢN CỔNG AN NHÂN DÂN HÀ NÔI - 2003 lOMoAR cPSD| 45988283 Chủ biên
ThS. NGUYỄN MINH TUẤN Biên tập TS. PHẠM CÔNG LAC Tập thể tác giả 1. TS. PHÙNG TRUNG TẬP Qiươiig I, II 2. TS. PHẠM CÔNG LẠC Chương III, IV 3.
ThS. NGUYỄN MINH TUẤN Chương V, VII 4.
TS. NGƯXỂN THANH TRÌ Chương VI, VIII 34 (V)4 - 300/1568 CAND - 2003 lOMoAR cPSD| 45988283
Lời giới thiệu
Cùng với sự ra đời của Nhà nước Lamẫ cổ đại, hệ
thông pháp luật Lamã củng được hình thành và phát
triển. Đây là hệ thông pháp luật hoàn chỉnh nhất của
Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Việc nghiên cứu Luật
Lamã có ý nghĩa quan trọng đối với sinh viên luật,
giúp cho sinh viên hiểu thêm về nguồn gốc của nhà
nước và pháp luật. Qua việc nghiên cứu và tim hiểu
Luật Lamã giúp sinh viên nắm bắt đưỢc những vấn đề
cơ bản về lý luận của Luật dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự.
Để giúp cho sinh viên học tập và nghiên cứu về lịch
sử nhà nước và pháp luật nói chung, về luật Lamã nói
riêng, Tô bộ môn Luật dân sự Khoa tư pháp Trường
đại học Luật Hà Nội đã biên soạn giáo trinh Luật
Lamã. Giáo trình này được biên soạn dựa trên các giáo
trinh Luật Lamã của các nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Ba Lan, các công
trinh nghiên cứu của các luật gia Lamã cổ đại và một
số tài liệu trong nước. Mặc dù đã cố gắng trong việc
biên soạn, nhưng đây là lần đầu tiên Tô bộ môn cho ra
mắt giáo trinh này nên chắc chắn còn có nhiều thiếu
sót. Rất mong nhận đưỢc sự đóng góp ý kiến của hạn
đọc để giáo trình này ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn và giới thiệu giáo trình với bạn đọc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI lOMoAR cPSD| 45988283 CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ LUẬT LAMÃ i *
I. KHÁI NIỆM VÊ CÁC CHÊ ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁP LAMÃ
1. K h á i n iệ m v à lư ợ c s ử h ìn h th à n h , p h á t
t r i ể n n h à n ư ớ c L a m ã c ổ đ ạ i
Cùng vói sự tan rã của xã hội nguyên thủy là sự xuất
hiện xã hội có giai cấp. Từ khi có của cải dư thừa, đời sống
mỗi gia đình và ngoài xã hội đã có nhiều sự đổi thay, đàn
ông đảm nhiệm những công việc nặng nhọc như cày, bừa,
làm thủy lợi, làm dân binh... dần dần trỡ thành trụ cột trong
gia đình, có quyền quyết định mọi việc, con cái đã bắt đầu
mang theo họ của cha và gia đình phụ hệ thay thế gia đình
mẫu hệ thời công xã thị tộc. Sự mất bình đẳng trong gia đình
giữa chồng và vợ, cha và con đã xuất hiện. Trong mỗi thị
tộc, ngưcd có địa vị đã lợi dụng chức phận để chiếm đoạt
một phần sản phẩm của cả thị tộc cùng với sự nắm quyền
điều hành thị tộc. Những người nắm quyền đó đã trở thành
những giàu có và xã hội nguyên thủy đã bắt đầu tan rã,
nhường chỗ cho xã hội mới, xã hội có giai cấp của thời cổ
đại. Đất đai ở Lamã vừa hạn hẹp lại vừa thiếu mầu mỡ, phần
lóíi là đất ven đổi khô và cằn. Khi đồ sắt xuất hiện, trổng trọt lOMoAR cPSD| 45988283
mới có hiệu quả. Trồng trọt phát triển, chế rượu nho là nghề
cổ truyền của Lamã. Dân Lamã đã xuất khẩu rượu nho để
đổi lương thực ở các nước phương Đông. Nghề thủ công ở
Lamã phát triển mạnh và thương nghiệp phát triển theo. Dân
Lamã mang các sản phẩm sản xuất được đi bán ở các vùng
dân cư khác ven Địa Trung Hải và mua lương thực ở nước ngoài về.
Tiền tệ đã ra đời, mỗi thành bang đều có đúc tiền riêng.
Mặc dù ra đời muộn hơn các quốc gia phương Đông, nhưng
Rôma đã nhanh chóng giàu mạnh hơn. Do sự phát triển sản
xuất, phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc. Giai cấp quý tộc
chiếm giữ nhiều ruộng đất và nô lệ nên có khả năng mở rộng
sản xuất, tích lũy nhiều sản phẩm. Nông dân vốn có ít ruộng,
phải vay nợ và khi không trả được nợ đã biến thành những
nô lệ. Chủ nô là giai cấp bóc lột chủ yếu ở Lamã, nô lệ đa số
là người nước ngoài, số đông là tù binh bị bắt và bị bán làm
nô lệ. Họ là các công cụ biết nói của chủ nô.
ở Rôma vào năm 500 trước công nguyên, chế độ cộng
hòa được thiết lập, vua Tarcvinha bị phế truất, quyền hành
trong nước do một hội đồng đại biểu quý tộc là Viện nguyên
lão nắm giữ. Viện nguyên lão có quyền định ra những chính
sách hành chính, ngân sách, ngoại giao, tôn giáo. Viện
nguyên lão cử ra hai quan chấp chính đứng đầu nhà nước
Lamã. Bên cạnh các quan chấp chính còn có các quan "bảo
dân" lúc đầu là 2, sau là 10 người, họ được tham gia viện
nguyên lão, có quyền giám sát mọi chủ trương có liên quan
đến quyền lợi của người bình dân.
Sang thế kỷ thứ IV trước công nguyên, Rôma bắt đầu
bành trướng, xâm lược các bộ tộc láng giềng, trở thành một
đế quốc rộng lớn. Nền cộng hòa bị lung lay và khủng hoảng lOMoAR cPSD| 45988283
trầm trọng khi Xeđa thiết lập chế độ độc tài quân sự. Vào
năm 45 trước công nguyên, Xêđa toàn thắng trở về Rôma
cướp chính quyền, thủ tiêu nền cộng hòa. Xêđa nắm trong
tay mọi quyền hành, nền Đế chế thực sự ngự trị ở Rôma vào
năm 30 trước công nguyên.
Nhà nước Lamã phát triển qua các thời kỳ và qua các chế độ sau:
- Thời kỳ đế chế trước năm 500 trước công nguyên.
- Thời kỳ cộng hòa từ năm 500 trước công nguyên đến
năm 44 trước công nguyên.
- Thời kỳ đế chế độc tài từ năm 30 trước công nguyên trở đi.
Nhà nước Lamã không những là một nhà nước vững
mạnh về kinh tế, mà còn phát triển mạnh về văn hóa. Dựa
trên cơ sở chữ viết của các nước, cư dân Lamã đã xây dựng
nên hệ thống chữ cái đofn giản và khoa học, là nền tảng cho
chữ viết của nhiều quốc gia sau này. Người Rôma ban đầu
sử dụng 20 chữ cái, sau tăng lên 23 chữ, gọi là chữ La tinh.
Người Lamã cũng đã phát triển ra hệ chữ số, ngày nay gọi là
"số Lamã". Các chữ cái của Rôma gồm: A, B, c , D, E, F, G,
H, J, I, K, L, M, N, o , p, Q, R, s, T, u, V, X, Y, z. Những
chữ số Lamã gồm: I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII..., L = 50, c = 100, M = 1000.
Lamã còn là cái nôi sinh ra nhiều học giả uyên bác về
triết học, văn học nghệ thuật. Cùng với các nhà sử học của
Hy lạp, các nhà sử học của Rôma đã tập hợp tư liệu, phân
tích, trình bày có hệ thống lịch sử một nước hay một cuộc
chiến tranh. Hê-Rô-Đốt, Taxít đã trở thành những cha đẻ
của nền sử học cổ đại của Hy Lạp và Rôma. 7 lOMoAR cPSD| 45988283
ở Lamã cổ đại, những giá trị tư tưcmg liên quan đến nhà
nước và pháp quyền đã được tích lũy trong điều kiện phát
triển cao. Nhiều học giả rất tiêu biểu về pháp luật là Xi-Xê-
Rôn (106 - 43 TCN) và Pô-ly-bi (201 - 120 TCN) đều là
người Lamã. Họ đại diên cho chế độ Lamã coi nhà nước
Lamã là một cộng đồng pháp lý và là nhà nước của dân, là
trật tự chung, riêng nô lệ không được coi là dân. Quan điểm
của hai ông là tán thành hình thức nhà nước hỗn hợp, kết
hợp các giá trị của các chế độ quân chủ, quý tộc và cộng hòa
nhằm hạn chế sự tiếm quyền và thoái hóa quyền lực.
2. Những cơ sở của luật tư pháp Lamã
Như đã trình bày ở phần 1, Lamã là một quốc gia vào thế
kỷ thứ VII trước công nguyên (TCN) và tồn tại đến thế kỷ
thứ VII sau công nguyên. Theo truyền thuyết về sự hình
thành Lamã, thì ban đầu là sự nghiệp của một số thị tộc La
tinh và cứ 100 thị tộc liên hợp thành một bộ lạc. Sau đó bộ
lạc Xabelian sáp nhập vào (khoảng 100 thị tộc). Bộ lạc thứ
ba gồm những phần tử khác nhau cũng tương ứng với 100 thị
tộc. Do vậy, 300 thị tộc ban đầu đã thành lập được ba bộ lạc.
Và theo cơ cấu cứ 10 thị tộc lập thành một bào tộc, và 10
bào tộc (curia) lập thành một bộ lạc (Tơri). Thị tộc của
người Lamã ở những thời kỳ đầu của thành Lamã đã tồn tại
chế độ tài sản đều là của chung thị tộc, các thành viên trong
thị tộc có quyền thừa kế của nhau, chế độ phụ quyền đã hình
thành. Con cháu ứiuộc nữ hệ đã mất quyền thừa kế. Sự phân
hóa xã hội càng sâu sắc vào thế kỷ VI TCN thông qua cuộc
cải cách của vua Xer-vi-tu-li. Theo vỊ vua này, cơ cấu công
xã Lamã theo nguyên tắc tài sán - lãnh thổ. Tầng lớp quý tộc
và bình dân vẫn sống trong cùng một công xã. Xã hội thị tộc 8 lOMoAR cPSD| 45988283
của người Lamã được quản lý bằng ba cơ quan gồm: Viện
nguyên lão, Đại hội nhân dân, và "vua" (Rex).
Viện nguyên lão (Sênat) là những thủ lĩnh của 300 thị tộc
hợp thành, do vậy số lượng thành viên của viện nguyên lão
là 300 người. Viện nguyên lão là cơ quan có quyền lực tối
cao, có quyền quyết định mọi công việc quan trọng của nhà
nước Lamã. Viện nguyên lão có các quvền thảo luận trước
về các đạo luật, có quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những
nghị quyết của đại hội nhân dân.
Cơ quan quyền lực thứ hai của người Lamã là đại hội
nhân dân (Đại hội Curi), là đại hội của tất cả đàn ông của
300 thị tộc và mỗi người thể hiện V muốn của mình bằng
một lá phiếu trong đại hội. Đại hội của các bào tộc có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước Lamã như
tuyên chiến hay hòa bình, xét xử, tế lễ và bầu ra một ông
vua (Rex) trong số người đại diện cho bào tộc. Người làm
vua không được cha truyền con nối và có thể bị bãi miẻn
trong đại hội nhân dân. Vua (Rex) chỉ được hiểu theo nghĩa
"thủ lĩnh" quân sự của ba bộ lạc ngưòd Lamã và quyền hành
không bao trùm như các vua sau này.
Lãnh thổ Lamã ngày càng được mở rộng, do các cuộc
chiến tranh xâm lược mà dân cư được tăng lên. Dân Lamã
còn do người ở các nơi khác di cư đến, dân cư của các vùng
bị chinh phục và phần nhiều là các miền La tinh. Tất cả
những thần dân mới này của nhà nước Lamã đều ở ngoài các
thị tộc, bào tộc và bộ lạc cũ. Họ không thuộc Populus
Romanus (dân Lamã chính thống). Họ có ruộng đất, tự do
thân thể, phải nộp thuế, phải đi lính nhưng họ không có chức
vụ, không được tham gia đại hội nhân dân (đại hội của các
bào tộc), không được chia đất đai do nhà nước chiếm được,
họ là tầng lớp bình dân (Plebs). Vào thời vua Xer-vi-tu-li và lOMoAR cPSD| 45988283
theo vị vua này thì tất cả đàn ông có nghĩa vụ cầm vũ khí, xã
hội Lamã được chia thành 6 đẳng cấp, tùy theo số tài sản của họ.
- Đẳng cấp thứ nhất gồm những người có mức tài sàn
trên 100.000 đổng axơ (axơ làm bằng đổng có khối lượng
327,5 gam, và được viết tắt là AS);
- Đẳng cấp thứ hai, là những người có từ 75.000 axơ đến dưới 100.000 axơ;
- Đẳng cấp thứ ba, gồm những người có từ 50.000 axơ đến dưói 75.000 axơ;
- Đẳng cấp thứ tư, gồm những người có từ 25.000 axơ đến dưới 50.000 axơ;
- Đẳng cấp thứ năm, gồm những người có từ 11.500 axơ đến dưới 25.000 axơ;
Còn đẳng cấp thứ sáu là những người đàn ông ít của cải
nhất được miễn làm nghĩa vụ quân sự và miễn đóng thuế.
Sự phân chia đẳng cấp trên tạo điều kiện cho những
người giàu có chiếm được đa sô' phiếu trong đại hội nhân
dân. Đại hội nhân dân là đại hội các Centurie (Comitia
Centuriata), thì những ngưòi công dân đều đứng theo biên
chế nhà binh thành từng đội vào các Centurie, mỗi Centurie
khoảng 100 người và là một đơn vị có quyền biểu quyết. Sô'
lượng Centurie được phân bổ đẳng cấp. Đẳng cấp thứ nhất
cung cấp 80 Centurie; đẳng cấp thứ hai cung cấp 22
Centurie; đẳng cấp thứ ba cung cấp 30 Centurie và đẳng cấp
thứ sáu cũng cung cấp Centurie của mình để giữ thể diện.
Các kỵ sĩ gổm những công dân giàu có cũng cung cấp 18
Centurie, vậy tổng Centurie là 193, số phiếu quá bán phải là
97. Nhưng sự mất bình đẳng trong quá trình bầu cử đã xẩy
ra, tính dân chủ chỉ là giả hiệu vì theo số lượng Centurie đã 10