lOMoARcPSD| 58968769
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ MỸ
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ VÀ LỊCH SỬ
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ 1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
Mỹ là tên gọi tắt của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (United States of America).
Nước Mỹ gồm 50 bang, diện tích 9.364.000 km”, rộng thứ tư trên thế giới (sau
Nga, Canada, Trung Quốc). Mỹ có ba bộ phận lãnh thổ cách xa nhau: 48 bang
thuộc lục địa Bắc Mỹ, bang Alaska vùng Bắc cực và quần đảo Hawaii ở Thái Bình
Dương. Lãnh thổ Mỹ tuy rộng, song địa hình tương đối đơn giản. Miền Đông có
các cao nguyên rộng lớn với nhiều khoáng sản, có các đồng bằng ven biển, đất đai
màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Miền Đồng bằng trung tâm chiếm
1/3 diện tích lục địa Mỹ do sông Mississippi bồi đắp, có hai cao nguyên lớn Kansas
và Texas. Đây là vựa lúa, đồng thời có trữ lượng dầu mỏ rất lớn. Miền Tây có hệ
thống núi chạy suốt từ Alaska xuống, có nhiều tài nguyên khoáng sản, đặc biệt
dầu mỏ. Nhìn chung, có thể coi Mỹ là một trong những nước giàu có nhất về tài
nguyên khoáng sản trên thế giới, cả về trữ lượng lẫn sự phong phú về thể loại.
Đáng chú ý hơn cả là: than đá, dầu mỏ, hơi đốt tự nhiên, quặng sắt, kim loại màu
(đồng, chì, kẽm...), quặng kim loại quý và hiếm. Hồi đầu thế kỷ XIX, rừng bao phủ
gần một nửa diện tích đất nước, nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 1/4. .
Ngoài ra, Mỹ còn có các vùng lãnh thổ khác phân bố rải rác trên các đại
dương: Porto ở biển Antilles; quần đảo Marianne, các quần đảo ở động Philippin
gồm 2.141 hòn đảo, có diện tích 7,77 triệu km2; đảo Caroline, Marshall, quần đảo
Palau, đảo Guam, quần đảo Samoa, Wake, Midway và nhiều đảo san hô khác trên
Thái Bình Dương.
Mỹ có 3 miền khí hậu: ven Thái Bình Dương khí hậu ôn hoà, mưa nhiều, ven
Đại Tây Dương khí hậu ôn đới; miền đồng bằng khí hậu ôn đới, mưa nhiều.
lOMoARcPSD| 58968769
Về dân cư, Mỹ là một trong những nước đông dân nhất thế giới, năm 1999 có
264,600 triệu người. Thành phần dân cư tương đối phức tạp, và số lượng tăng rất
nhanh. Trước thế kỷ XVI ở đây chỉ có người da đỏ (Anhđiêng), sau đó họ bị thực
dân Anh tàn sát, tiêu diệt dần và bị đẩy vào sinh sống ở các vùng núi hoang vu.
Đến nay, cả nước Mỹ có không quá 1,5 triệu người da đỏ. Từ đầu thế kỷ XVII
XIX, khoảng 4 triệu người da đen châu Phi đã bị đưa tới Mỹ làm nô lệ. Hiện nay,
người da đen có trên 30 triệu, chiếm 12,4% dân số cả nước. Người da trắng
thành phần chính của dân cư Mỹ, chiếm 84%, đồng nhất là người gốc Anh, Đức,
Italia. Ở Mỹ có khoảng 3,5% các dân tộc da màu khác: người gốc Mêhicô, Puectô
Ricô, gần 2 triệu người nhập cư từ Cuba, hơn 3 triệu người có nguồn gốc châu Á
(gần 1 triệu người Việt Nam). Số người nhập cư vào Mỹ ngày càng tăng, đặc biệt
từ các nước láng giềng Mỹ latinh. Theo dự đoán, có thể đến năm 2050, số người da
trắng sẽ ít hơn các chủng tộc khác cộng lại.
Phần lớn dân Mỹ sống ở thành thị (chiếm 75%). Các thành phố đông dân là
New York (trên 7 triệu người) Los Angeles gần 3,5 triệu), Chicago (gần 3 triệu),
Philadelphia, Đitơroi, Botox, Hauxton...
Đa số dân Mỹ tin theo các tôn giáo, trong đó: Tin lành 61%, Thiên Chúa giáo
25%, Do thái 5%..., chỉ có 7% dân số vô thần.
2. Lịch sử thể chế chính trị
Lịch sử nước Mỹ thực sự bắt đầu từ năm 1607, khi nước Anh thành lập thành
phố Jamestown, quản lý thuộc địa bằng luật pháp, bầu Chính phủ, Thống đốc chịu
trách nhiệm trước Nữ hoàng. Năm 1714, Liên hiệp nước Anh mới được ra đời,
khẳng định vị thế của người Anh ở Bắc Mỹ. Năm 1768, cuộc đấu tranh giành độc
lập dưới sự lãnh đạo của Oasinhtơn bắt đầu.
lOMoARcPSD| 58968769
Tư tưởng liên kết các vùng thành một liên bang thống nhất nảy sinh từ giữa
thế kỷ XVIII, nhưng đều bị Anh bác bỏ. Ngày 4-7-1776, Đại hội lục địa tại
Philadelphia thông qua Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nhà nước liên bang
gồm 13 bang. Sau khi liệt kê hàng loạt những lạm quyền đủ loại của Chính phủ
Anh, Tuyên ngôn này tuyên bố rằng: nhân dân bị áp bức có quyền nổi dậy, quyền
lực tối cao thuộc về nhân dân. Tuy nhiên cơ cấu liên bang còn lỏng lẻo, thực chất là
hợp bang. Năm 1777, Hội nghị Liên bang lần 2 thông qua “Quy chế về Chính phủ
liên bang” hay còn gọi là “Các điều khoản của liên minh” và được phê chuẩn năm
1782. Theo đó, mỗi bang bảo lưu “chủ quyền, tự do, độc lập và mọi quyền lực, tính
pháp lý và chủ quyền”, có Nghị viện, Chính phủ, hiến pháp riêng. Hằng năm các
bang cử 1 đại diện của mình đến họp Quốc hội. Giữa các kỳ họp Quốc hội, chức
năng đó trao cho Uỷ ban các bang.
Năm 1782, bị thua trong chiến tranh với Mỹ, Anh phải ký hòa ước Pari, công
nhận nền độc lập của Mỹ, trao trả vùng lãnh thổ phía Nam cho Mỹ. Năm 1784, Niu
Oóc trở thành Thủ đô lâm thời của Mỹ. Năm 1787, đại biểu các bang nhóm họp,
soạn thảo hiến pháp liên bang. Trong số 55 đại biểu có 24 tài phiệt, 11 chủ tàu
thuỷ, 15 chủ nô. Không thủ tiêu quyền độc lập của các bang, nhưng hiến pháp tập
trung quyền lực cho trung ương, liên minh đã chuyển thành liên bang. Đến năm
1789, trải qua 2 năm đấu tranh quyết liệt giữa các phe nm, các bang đã phê
chuẩn hiến pháp liên bang. Năm 1789, Quốc hội liên bang khai mạc, Oasinhtơn
được bầu là Tổng thống đầu tiên. Năm 1791, thành phố Oasinhtơn được chọn là
Thủ đô chính thức. Lãnh thổ liên bang ngày càng được mở rộng. Năm 1803, Mỹ
mua lại vùng Louisiana của Pháp; năm 1819, mua lại Phlorida của Tây Ban Nha;
năm 1846, mua lại Oregon của Anh; sau đó, sáp nhập Texas, Tân Mêhicô và
Caliphoocnia sau khi đánh bại Mexico.
lOMoARcPSD| 58968769
Đây là thời kỳ phát triển mạnh về kinh tế. Miền Bắc thực hiện công nghiệp
hoá, thi hành chính sách bảo hộ; trong khi đó miền Nam chủ yếu phát triển nông
nghiệp, thực hiện tự do thương mại, duy trì chế độ nô lệ. Năm 1854, Đảng Cộng
hòa ra đời, chủ trương xóa bỏ chế độ nô lệ. Năm 1860, Lincoln, thủ lĩnh Đảng
Cộng hòa trúng cử Tổng thống. Các bang miền Nam tách ra và tuyên bố lập các
hợp bang châu Mỹ. Năm 1861 - 1865, chiến tranh nổ ra giữa hai miền, và kết thúc
với thắng lợi thuộc về miền Bắc, chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Cuộc nội chiến này, theo
C.Mác, không là khác cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội: hệ thống chiếm
hữu nô lệ và hệ thống lao động tự do Đến năm 1870, tất cả các bang miền Nam gia
nhập trở lại liên bang. Phải cấp tiến của Đảng Cộng hòa trong Quốc hội tiến hành
nhiều biện pháp để kiến trúc lại miền Nam, các bang miền Nam đặt dưới sự kiểm
soát của quân đội, bãi bỏ điều luật phân biệt đối xử với người da đen. Tòa án Tối
cao tuyên bố quyền rút khỏi liên bang bị bãi bỏ.
Chiến thắng của miền Bắc đã kích thích mạnh mẽ cho sự phát triển năng
động của nền kinh tế Mỹ. Công cuộc khai phá các vùng đất mới của người da đỏ,
mở đường sát xuyên lục địa đã thúc đẩy quá trình định cư ở miền Tây. Làn sóng
người nhập cư ào ạt đổ vào Mỹ, dân số tăng nhanh (từ 40 triệu năm 1870 đến 74
triệu năm 1900).
Năm 1867, Mỹ mua vùng Alaska của Nga; năm 1893, chiếm Haoại; năm
1895, can thiệp vào Cuba, chiếm Puerto Rico, Guam, Philippin, mở rộng ảnh
hưởng sang châu Á. Năm 1914, Mỹ kiểm soát hoàn toàn kênh đào Panama. Năm
1917, Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, đứng về phía quân Đồng minh
chống Đức.
Năm 1929-1933, Mỹ bị khủng hoảng kinh tế nghiêm trong. Năm 1932,
Rudoven trúng cử Tổng thống, thi hành chính sách mới, nhanh chóng phục hồi nền
kinh tế. Năm 1941, khi bị Nhật Bản tấn công ở Trân Châu Cảng (Pearl Harbour),
lOMoARcPSD| 58968769
Mỹ bắt đầu tham gia chiến tranh thế giới thứ hai và giàu lên nhanh chóng sau chiến
tranh. Mỹ lập ra hàng loạt các tổ chức kinh tế, quân sự, chính trị như: GATT, IMF,
WB, NATO... mở ra thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang với phe xã hội chủ
nghĩa, đứng đầu là Liên Xô. Năm 1950, Mỹ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên.
Từ cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX, Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam.
Những năm 1965 - 1967, Mỹ đưa gần nửa triệu quân vào miền Nam Việt Nam và
ném bom đánh phá miền Bắc. Năm 1973, bị thất bại, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp
định Pari chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Năm 1976, Đảng Dân chủ (Tổng thống Cartơ) cầm quyền, năm 1980 Đảng
Cộng hòa lên thay (Tổng thống Rigân) đẩy mạnh chạy đua vũ trang, làm thâm hụt
ngân sách. Năm 1993, Đảng Dân chủ thắng cử (Tổng thống Klinton) trong hai
khoá liền, có công phục hồi nền kinh tế. Năm 2000, Đảng Cộng hòa cầm quyền, G.
Bus trở thành Tổng thống thứ 43 của Mỹ. Bus thi hành chính sách cứng rắn, thực
hiện mưu đồ bá chủ của Mỹ trên thế giới: triển khai chiến lược phòng thủ tên lửa
quốc gia (NMD), từ sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001, Mỹ đã lợi dụng chiêu bài
chống khủng bố, tăng cường can thiệp chủ quyền các nước: Ápganistan, Irắc và đe
dọa các nước không theo Mỹ, đẩy thế giới vào thế đối đầu, chạy đua vũ trang.
II- HIẾN PHÁP
Hiến pháp Mỹ là hiến pháp đặc trưng cho hiến pháp cố điển. Nội dung của
Hiến pháp chỉ có 7 điều, tập trung vào việc quy định trình tự thành lập và thẩm
quyền của các cơ quan Trung ương - Quốc hội, Tổng thốngTòa án tối cao; mối
quan hệ giữa Liên bang với các bang, và trình tự thay đổi Hiến pháp. Hiến pháp
Mỹ không hề có điều nào nói về các đảng phái chính trị, mặc dù các đảng phái
chính trị chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống chính trị của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ.
lOMoARcPSD| 58968769
Trên thực tế rất ít trường hợp có quốc hội lập hiến. Có thể lấy Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ làm ví dụ. Những người tham gia thông qua Hiến pháp đại diện cho
13 bang lúc bấy giờ được gọi là "ông tổ, ông cha" của nhà nước Mỹ. Việc thành lập
quốc hội lập hiến để thông qua hiến pháp rất ít phổ biến trên thế giới. Bởi vì việc
thành lập (bầu cử) ra hai quốc hội với thời gian rất gần nhau, thường là phức tạp.
Hơn nữa, nếu chúng ta xem xét kết quả bầu cử là sự thể hiện mối tương quan lực
lượng xã hội, thì trong một khoảng thời gian ngắn, không mấy khi có những biến
cố lịch sử có tính cách mạng xảy ra. Vì vậy, việc tổ chức bầu lại một quốc hội lập
pháp khác với quốc hội lập . hiến, nhiều khi không thể cho kết quả như mong
muốn. Cho nên nhiều nước dùng luôn quốc hội lập hiến làm quốc hội lập pháp và
ngược lại lấy quốc hội lập pháp làm quốc hội lập hiến. Nhằm tạo nên tính ưu thế
của hiến pháp, các nước thường quy định thủ tục thông qua, sửa đổi hiến pháp một
cách ngặt nghèo hơn. Ví dụ như nếu luật thường, việc biểu quyết thông qua chỉ cần
có quá nửa tổng số đại biểu quốc hội đồng ý là đủ, thì hiến pháp là phải 2/3, hoặc
3/4 tổng số đại biểu quốc hội, hoặc hơn thế nữa sau khi đã được quốc hội thông
qua thì dự án phải được nhân dân bỏ phiếu phúc quyết...
Trong khi đó, trường phái thứ hai cho rằng sửa đổi hiến pháp cho phép loại
bỏ hoàn toàn và thay thế bằng các điều khoản quy định mới, không đi ngược lại
lịch sử và giá trị dân tộc. Đại diện cho trường phái này là Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, trên thực tế, Hoa Kỳ đã trải qua 27 lần sửa đổi hiến pháp, điều
chỉnh về mối quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia, tăng giảm quyền lực cho các
nhánh hành pháp, tư pháp, lập pháp và ngày càng tăng quyền lực cho tổng thống
nhưng về cơ bản Hoa Kỳ vẫn duy trì bản Hiến pháp đầu tiên năm 1789 với các
nguyên tắc dân chủ, nhân quyền được giữ nguyên vẹn.
lOMoARcPSD| 58968769
Hiến pháp Mỹ là một trong những bản hiến pháp đầu tiên và thành công nhất
thế giới. Nó ra đời trong hoàn cảnh nước Mỹ mới giành được độc lập, cần có chính
quyền trung ương mạnh để duy trì liên bang. Thời kỳ 1781-1787 là thời kỳ yếu
kém, bất ổn, tranh chấp liên miên giữa các bang. Quốc hội liên bang không có
quyền chi phối các bang, do thiếu ngân sách, ngược lại, phải trông chờ vào các
khoản thu nhập từ các bang. Các bang được quyền kiểm soát việc đánh thuế, phát
hành tiền riêng, cản trở việc mở rộng buôn bán và phát triển kinh tế. Tại Hội nghị
lập hiến năm 1787, tất cả các đại biểu đều thấy sự cần thiết phải có một nhà nước
liên bang mạnh, đủ quyền lực để lãnh đạo các bang.
Cơ sở để hình thành hiến pháp Mỹ là: truyền thống cai trị của Anh; kinh
nghiệm thực tiễn trong chế độ tự trị của 13 bang, Tuyên ngôn độc lập; học thuyết
tam quyền phân lập của Lộccơ và Môngtétxkiơ. Trên cơ sở nền tảng đó, các đại
biểu thống nhất ở quan điểm: nhà nước gồm 3 nhánh quyền lực độc lập: lập pháp,
hành pháp, tư pháp; Quốc hội gồm 2 viện, Thượng viện có đại biểu các bang bằng
nhau, Hạ viện có số đại biểu theo tỷ lệ dân số (là sự thoả hiệp giữa các bang lớn và
các bang nhỏ). Không đại biểu nào hoàn toàn hài lòng với kết quả, nhưng cần phải
chấp nhận thỏa hiệp để đi đến mục đích chung. Trải qua hơn 2 năm thảo luận, tranh
đấu giữa các phe phái, bản hiến pháp đã được phê chuẩn ở các bang.
Theo hiến pháp, quyền hạn có tính chất quyết định thuộc về người dân.
Quyền lực của các quan chức có giới hạn, họ được bầu theo định kỳ và bị kiểm
soát. Ngoại lệ có Thẩm phán liên bang có nhiệm kỳ vĩnh viễn để tránh những ràng
buộc chính trị.
Hiến pháp có 6 nguyên tắc cơ bản sau:
- Các bang đều bình đẳng, phân quyền giữa liên bang và các
bang.
- Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập.
lOMoARcPSD| 58968769
- Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
- Chính phủ và tất cả mọi người đều làm việc theo pháp luật.
- Nhân dân có quyền bãi miễn Chính phủ bằng cách thay đổi hiến
pháp; giao quyền có thời hạn.
- Hiến pháp, các sắc lệnh của Quốc hội, các hiệp định ký với
nước ngoài đều là những luật pháp tối cao của đất nước.
Bản hiến pháp gồm 7 điều: điều 1 - về quyền lập pháp; điều 2 - về hành
pháp; điều 3 - về tư pháp; 4 điều sau - về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
mối quan hệ giữa liên bang với các bang, sự bảo đảm hình thức chính thể cộng hòa
và an ninh, trật tự của mỗi bang, về thủ tục sửa đổi hiến pháp. Hiến pháp có thể sửa
đổi với 2/3 phiếu thuận ở mỗi viện, sự chấp thuận của 3/4 số bang; Quốc hội của
2/3 số bang có thể khởi xướng việc sửa đổi hiến pháp.
Ngay sau đó, Jephesơn, lãnh tụ phe dân chủ, đã phê phán hiến pháp, đòi bổ
sung thêm 10 điểm, được thông qua năm 1790 và được coi là “Tuyên ngôn nhân
quyền”. Đó là: 1. Quyền tự do tín ngưỡng, ngôn luận và báo chí, hội họp, yêu sách
chính quyền sửa sai; 2. Quyền mang vũ khí; 3. Quân đội không được đóng tại nhà
dân; 4. Không được khám xét, bắt giữ và tịch thu tài sản căn cứ; 5. Cấm xét
xử khi không có cáo trạng; 6. Xét xử nhanh chóng, công khai đối với các vi
phạm hình sự; 7. Xét xử bởi bồi thẩm đoàn khi liên quan đến vụ việc trên 20 USD;
8. Cấm nộp phạt hoặc thế chấp quá nặng và xử tàn ác; 9. Con người còn có những
quyền khác không đề cập cụ thể trong hiến pháp; 10. Các quyền hiến pháp không
quy định sẽ dành cho các bang hoặc người dân (được làm những điều hiến pháp
không cấm).
Sau này, hiến pháp tiếp tục được bổ sung thêm, tổng cộng 26 điều (ví dụ:
năm 1865, xoá bỏ chế độ nô lệ; năm 1876, người da đen có quyền bầu cử; năm
lOMoARcPSD| 58968769
1913, bầu "Thượng nghị sĩ bằng phổ thông đầu phiếu; năm 1920, phụ nữ có quyền
bầu cử; năm 1951, giới hạn Tổng thống không quá 2 nhiệm kỳ; năm 1976, giảm
tuổi bầu cử xuống 18), nhưng những tư tưởng, nội dung chính của nó nhìn chung
vẫn được giữ nguyên.
III. THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC
Hình thức chính thể cộng hòa tổng thống là hình thức tổ chức nhà nước, mà
ở đó tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành
pháp, do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Mọi thành viên của chính phủ
đều do tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước tổng thống, không chịu
trách nhiệm trước nghị viện, không có chức vụ thủ tướng. Người ta gọi đây là
chính phủ một đầu. Không phải là chính phủ lưỡng đầu như ở loại hình quân chủ,
cộng hoà đại nghị, bên cạnh nguyên thủ quốc gia còn có thủ tướng - người đứng
đầu bộ máy hành pháp. Ở những nước này áp dụng triệt để học thuyết phân chia
quyền lực nhà nước, hay còn gọi là cách phân quyền cứng rắn và tăng cường quyền
lực của cá nhân tổng thống. Loại hình này được áp dụng một cách tương đối phổ
biến ở các nước tư bản châu Mỹ latinh, mà khuôn mẫu của nó là Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ.
Vì hai chức vụ này, nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu hành pháp tập
trung vào một người - tổng thống, cho nên tổng thống có toàn quyền trong việc
quyết định nhân sự chính phủ. Ông tự mình lựa chọn, tự mình bổ nhiệm và tự mình
bãi nhiệm vào bất cứ thời gian nào. Về nguyên tắc, các bộ trưởng không hợp thành
một cơ quan bàn bạc chịu trách nhiệm tập thể trước nghị viện, mà chỉ chịu trách
nhiệm trước tổng thống. Các bộ trưởng chỉ là những người giúp việc cho tổng
thống, thực hiện những chính sách của tổng thống, không được mâu thuẫn với
đường lối chính sách của tổng thống.
lOMoARcPSD| 58968769
Khác với tổng thống ở chính thể cộng hòa nghị viện, tổng thống ở chính thể
cộng hoà có thể được nhân dân trực tiếp bầu ra, hoặc gián tiếp bầu ra, tức là với
lượng tuyển cử đoàn rộng rãi hơn. Do vậy, về việc nguyên tắc, tổng thống ở chính
thể này có nhiều quyền lực hơn. Tổng thống Mỹ do dân, cử tri bầu gián tiếp nhưng
chính là trực tiếp bầu ra. Chính sự tấn phong này của nhân dân đã làm cơ sở cho
việc tập trung quyền lực vào trong tay tổng thống nước Mỹ. - Đặc điểm quan trọng
của chính thể cộng hòa tổng thống là việc áp dụng tuyệt đối nguyên tắc phân chia
quyền lực nhà nước. Chính việc áp dụng này là cơ sở cho việc không chịu trách
nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp.
Thay cho cơ chế chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp là cơ
chế kìm chế và đối trọng. Lập pháp và hành pháp, kìm chế và đối trọng lẫn nhau để
không có cơ quan nào lợi dụng quyền lực. Tổng thống và các bộ trưởng toàn quyền
trong lĩnh vực làm luật. Nghị viện không có quyền lật đổ chính phủ. Và ngược lại
tổng thống - nguyên thủ quốc gia cũng khôngquyền giải tán nghị viện trước
thời hạn. Theo quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ, tổng thống không có quyền sáng
kiến pháp luật. Nhưng trên thực tế, tổng thống Mỹ bằng nhiều biện pháp khác nhau
đã can thiệp rất sâu vào hoạt động lập pháp của Quốc hội Mỹ. + Ở chính thế này,
nếu tổng thống và đa số nghị viện ở cùng một đảng t quyền lực nhà nước tập
trung tuyệt đối vào trong tay tổng thống. Trong trường hợp tổng thống và đa s
nghị viện không cùng một đảng thì rất dễ dẫn đến sự mâu thuẫn giữa hành pháp
lập pháp. Tuy nhiên luật hiện pháp tư sản không chứa đựng những quy định giải
quyết những mâu thuẫn này. .
Trên thực tế, ở Mỹ không hiếm những trường hợp tổng thống và đa số nghị
viện ở hai đảng khác nhau. Nhưng lịch sử nước Mỹ, sự mâu thuẫn nói trên chưa
bao giờ gây hậu quả nghiêm trọng. Giải thích vấn đề này, nhiều học giả cho rằng,
chính là do các đảng phái ở Mỹ không được tổ chức một cách chặt chẽ như ở các
lOMoARcPSD| 58968769
nước tư bản khác. Nếu như ở Anh với kỷ luật chặt chẽ, những quyết định sẽ được
Nghị viện quyết định, thông qua các đảng viên của mình thì ở Mỹ, tổng thống Mỹ
không thể nắm chắc được con số chính xác những người ủng hộ mình, mặc dù họ
là đảng viên thuộc đảng phái của mình. Chính vì vậy, để tranh thủ mọi lực lượng,
trong tuần trăng mật", ngoài việc bổ nhiệm các đảng viên của mình vào các chức
vụ quan trọng, tổng thống Mỹ còn dành một số đáng kể các chức vụ cho người của
đảng đối lập. Hiện tượng này biến thành câu ngạn ngữ của người Mỹ: "Cái trục nào
kêu chút chít, phải cho nó ăn mỡ".. | Theo quan điểm của không ít nhà luật học,
chính thể cộng hòa tổng thống, phương tiện kiểm tra hoạt động hành pháp của nghị
viện không đa dạng bằng ở chính thể đại nghị, nhưng việc kiểm tra này lại có kết
quả hơn. Vì nghị viện truy cứu trách nhiệm của hành pháp đến cùng mà không bị
giải thể. Nếu như thực hiện đúng những quy định của hiến pháp ở các nước theo
chính thể cộng hòa tổng thống, thì nghị viện sẽ có thực quyền hơn, cũng vì lẽ nghị
viện là một thiết chế bền vững hơn.
Nói tóm lại, nguyên thủ quốc gia ở chính thể này có nhiều quyền lực trong
việc lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo lực lượng vũ trang, cũng như bộ máy hành chính
dân sự.
Ngoài ra, tổng thống còn can thiệp sâu vào hoạt động lập pháp của nghị viện.
Việc thiết lập một chính thể cộng hòa tổng thống được nhiều nhà luật học tư
sản ca ngợi là phù hợp với thời cuộc hiện nay. Giải thích hiện tượng này họ cho
rằng, với một thể chế như vậy sẽ cho phép quyền lực nhà nước tập trung vào bộ
máy hành pháp, mà người đứng đầu bộy là tổng thống. Với việc tập trung
quyền lực nhà nước vào trong tay một người đã tạo điều kiện khách quan cho việc
giải quyết nhanh nhạy nhiều tình huống xảy ra trong thời đại của khoa học - kỹ
thuật - công nghệ, góp phần không nhỏ đấy đất nước tiến lên. Nói như vậy, không
có nghĩa cứ nhà nước tư sản nào được tổ chức theo loại hình chính thể này đều là
lOMoARcPSD| 58968769
những nước có nền kinh tế phát triển. Trên thực tế, việc áp dụng chính thế này có
nhiều thành công ở Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Nhưng, cũng ở châu Mỹ latinh, loại
hình này không thu được kết quả như ở nhiều nước. Trước sự khủng hoảng chính
trị ở Braxin năm 1993, nhiều người đã đề nghị thay chính thể cộng hòa tổng thống
hiện hành ở nước này bằng một chính thể quân chủ lập hiến.
Lịch sử lập hiến của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng, trong khi các nước ở
châu u đang tiến hành xây dựng một chính thể cộng hoà đại nghị, thì các nhà lập
hiến của Mỹ lại đặt ra chính thể cộng hòa tổng thống, mà quyền lực của tổng thống
không khác nào một vị quân vương. Nhiều người cho rằng, đó là một bước lùi của
nền lập hiến Mỹ. Giải thích hiện tượng này có ba quan điểm không đồng nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, vì nước Mỹ ở xa xôi cách biệt, đường biển lúc bấy
giờ đi lại còn khó khăn, do vậy các nhà lập hiến Mỹ không thể tiếp thu một cách
kịp thời những gì gọi là tiến bộ của châu u lục địa và của cả nước Anh. Quan điểm
thứ hai thì lại cho rằng, vì muốn ngăn chặn làn sóng cách mạng dân chủ tư sản của
nhân dân, đề phòng việc quần chúng cách mạng trên đà phát triển sẽ tiến tới xóa bỏ
sở hữu tư nhân và những đặc quyền đặc lợi của chính giai cấp tư sản.
Nhằm mục đích ngăn chặn làn sóng cách mạng của nhân dân, các nhà lập
hiến đã đặt ra một thiết chế bảo thủ, đó là tổng thống. Quan điểm thứ ba, thiết chế
tổng thống là thiết chế thể hiện đúng quan điểm thỏa hiệp của giai cấp tư sản Mỹ,
áp dụng đầy đủ học thuyết phân chia quyền lực của mình. Nhưng lúc bấy giờ là
bảo thủ, còn hiện nay lại hết sức phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước
Hoa Kỳ.
Chế độ tổng thống mà đại diện là nước Mỹ là chế độ áp dụng tuyệt đối học
thuyết phân chia quyền lực nhà nước. Theo quy định của hiến pháp các nước thuộc
loại chính thể này, thì hành pháp không chịu trách nhiệm trước quốc hội, tổng
lOMoARcPSD| 58968769
thống không có quyền giải tán quốc hội và quốc hội cũng không có quyền lật đổ
tổng thống.
Nhưng trên thực tế, hành pháp và lập pháp buộc phải kết hợp với nhau, bởi lẽ
rất giản dị là họ buộc phải chung sống với nhau. Lập pháp không thể thực hiện
được ý chí của mình, nếu như hành pháp luôn luôn chống đối. Ngược lại tổng
thống không thể nào thống trị quốc dân nếu không có sự thoả thuận với quốc hội.
Vì muốn thống trị, tổng thống phải cần đến luật lệ, đến ngân sách, đến thuế, những
phương tiện quốc hội nắm giữ. Hơn nữa, theo quy định của Hiến pháp Mỹ, thời
gian tuyển cử Quốc hội và tổng thống rất ngắn: một năm một lần 1/3 tổng số
thượng nghị sĩ được bầu lại, hai năm một lần Hạ nghị viện, bốn năm một nhiệm kỳ
tổng thống. Với thời gian này, tổng thống cũng như Quốc hội đều bị cử tri kiểm tra
chặt chẽ.
1. Lập pháp
Quốc hội là cơ quan lập pháp Mỹ, gồm hai viện: Hạ viện và Thượng viện.
Theo hiến pháp, Quốc hội có quyền: quy định các loại thuế và thu thuế liên bang,
ban hành luật và các quy định thống nhất trên các lĩnh vực toàn liên bang, tuyên bố
chiến tranh và hòa bình, thông qua ngân sách quốc gia, giám sát hoạt động của cơ
quan hành pháp và tư pháp, phê chuẩn các điều ước quốc tế, buộc tội Tổng thống,
bác bỏ quyền phủ quyết của Tổng thống, buộc tội các Thẩm phán, kiến nghị sửa
đổi hiến pháp...
1.1. Hạ viện
Hạ viện được cử tri cả nước bầu ra trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu
theo tỷ lệ số dân ở từng bang. Trong thành phần Hạ viện, có 435 đại biểu chính
lOMoARcPSD| 58968769
thức được bầu từ 50 bang, 3 đại biểu dự khuyết đại diện cho các vùng có số dân
chưa đạt 500 nghìn người (Đông Samoa, Guam, Virginxkie), nhiệm kỳ 2 năm. Các
Hạ nghị sĩ không bị hạn chế số nhiệm kỳ. Hiện nay, có khoảng 30% Hạ nghị sĩ
đương chức 5 - 7 khóa, 15% - trên 10 khoá.
Hạ viện chủ yếu chịu trách nhiệm về các vấn đề đối nội, ngân sách, thuế
khoá.
Cơ cấu tổ chức của Hạ viện và Thượng viện về cơ bản giống nhau, gồm bộ
phận chính thức được thành lập trên cơ sở do luật định, bộ phận không chính thức
do các đảng chính trị thành lập. Bộ phận chính thức gồm Chủ tịch viện (còn gọi là
người phát ngôn của Hạ viện), Thư ký, các uỷ ban thường trực, các uỷ ban khác và
bộ máy giúp việc. Bộ phận không chính thức gồm hai tổ chức đảng đoàn (đa số và
thiểu số).
Chủ tịch Hạ viện được bầu ra trong số các thành viên, trên thực tế đó là
người của đảng đa số. Chủ tịch Hạ viện có quyền: 1. Điều khiển các cuộc họp của
Hạ viện, 2. Bổ nhiệm người đứng đầu và một số thành viên các uỷ ban, 3, sắp đặt
chương trình lập pháp, 4. Quyết định giao các dự luật cho các uỷ ban. Hạ viện có
22 uỷ ban, số lượng thành viên các uỷ ban không giống nhau và được thành lập
theo sự thỏa thuận giữa hai đảng: Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ trên cơ sở tỷ lệ
số thành viên trong viện. Để lựa chọn người đề cử vào các uỷ ban, các đảng thành
lập Ban bổ nhiệm. Thông thường Chủ nhiệm các uỷ ban do những Nghị sĩ làm việc
lâu năm nhất nắm giữ. Các uỷ ban thường trực, đặc biệt là Uỷ ban Quy tắc, có vai
trò rất quan trọng. Nó có nhiệm vụ: chuẩn bị các văn bản luật, giữ mối liên lạc với
các cơ quan hành pháp liên bang về các vấn đề thuộc thẩm quyền, kiểm tra và giám
sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và hoạt động của các chức danh trong bộ
máy nhà nước, các tổ chức xã hội, công ty tư nhân; là cầu nối giữa các tổ chức
chính trị - xã hội với Quốc hội, giữa Quốc hội và dư luận xã hội.
lOMoARcPSD| 58968769
1.2. Thượng viện
Thượng viện bao gồm 100 thành viên, được bầu từ 50 bang, mỗi bang 2 đại
biểu. Nhiệm kỳ của Thượng nghị sĩ là 6 năm, cứ 2 năm bầu lại 1/3. Thượng viện
quyết định các đạo luật về đối ngoại, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế, thông qua
việc đề cử các thành viên Nội các, Thẩm phán, Chánh án, các đại sứ và quan chức
ngoại giao..., qua đó kiểm soát nhân sự cơ quan hành pháp và tư pháp.
Cơ cấu tổ chức của Thượng viện cũng giống như Hạ viện. Chủ tịch Thượng
viện là Phó Tổng thống, có quyền điều khiển các phiên họp nhưng không tham gia
bỏ phiếu, trừ trường hợp khi số phiếu có tỷ lệ 50/50. Do Phó Tổng thống chủ yếu
thực hiện chức năng hành pháp, nên Thượng viện bầu Chủ tịch lâm thời để điều
hành công việc của Thượng viện. Đó là Thượng nghị sĩ do đảng đa số bầu ra,
thường là người có thâm niên cao nhất. Thượng viện có 16 uỷ ban thường trực.
Trước đây Chủ tịch lâm thời có quyền bổ nhiệm Chủ nhiệm các uỷ ban, từ năm
1910, quy định người cao tuổi nhất trong uỷ ban đảm nhiệm chức vụ này.
Ngoài các uỷ ban thường trực, các viện còn thành lập các uỷ ban chuyên biệt:
uỷ ban điều tra, uỷ ban đặc biệt... hoạt động trong một thời gian nhất định, vì một
mục đích cụ thể. Quốc hội còn thành lập các uỷ ban hỗn hợp (thường trực và lâm
thời). Có 4 uỷ ban hỗn hợp thường trực là: Thư viện Quốc hội, In ấn, Thuế, Kinh
tế. Các uỷ ban hỗn hợp lâm thời được thành lập để giải quyết những bất đồng,
nhằm đạt sự thống nhất của hai viện. Các uỷ ban Quốc hội chia thành gần 300 tiểu
ban, phụ trách các vấn đề chuyên sâu, cụ thể. Các trường tiểu ban do Chủ nhiệm
Uỷ ban chỉ định (theo nguyên tắc phân quyền xuống dưới). Có gần 25 nghìn
chuyên gia làm việc trong các cơ quan nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin
phục vụ Quốc hội. Quốc hội Mỹ có một thư viện đồ sộ, lớn nhất thế giới.
Giống như Nghị viện Anh, Quốc hội Mỹ còn có một loại uỷ ban nữa là Uỷ
ban Toàn viện. Đó là phiên họp toàn thể của mỗi viện, nhưng chủ tọa không phải là
lOMoARcPSD| 58968769
Chủ tịch viện, mà là một trong số các Nghị sĩ được đề cử. Uỷ ban Toàn viên của
Hạ viện được triệu tập thường để thảo luận các dự luật liên quan đến lĩnh vực công,
của Thượng viện - để xem xét các điều ước quốc tế.
Hai đảng: Cộng hòa và Dân chủ chi phối hoạt động của Quốc hội. Ở cả hai
viện, các đảng đều thành lập đảng đoàn, đứng đầu là lãnh tụ (Chủ tịch), và ban lãnh
đạo. Ban lãnh đạo kiểm tra, giám sát các Nghị sĩ đảng mình thực hiện đúng nghị
quyết của Đảng, bảo đảm sự thống nhất trong nội bộ. Ban lãnh đạo Đảng Dân chủ
được thành lập trên cơ sở đại diện vùng lãnh thổ; Đảng Cộng hòa - đó là thành viên
của Uỷ ban Quy tắc, Chủ nhiệm các uỷ ban khác và các quan chức cao cấp của
đảng. Đảng đa số ở viện nào thì sẽ nắm giữ những chức vụ chủ chốt của viện đó:
Chủ tịch viện, Chủ nhiệm các uỷ ban, tiểu ban.
1.3. Quá trình thông qua một dự luật
Để trở thành luật, một dự luật phải trải qua một chu trình: dluật - Hạ viện -
uỷ ban tch hợp - tiểu ban thích hợp - uỷ ban quy tắc (ấn định lịch trình tranh cãi) -
gửi lại uỷ ban chuyên trách thảo luận - ra hội nghị toàn thể Hạ viện thảo luận biểu
quyết. Chu trìnhThượng viện cũng tương tự, nhưng không có uỷ ban quy tắc.
Trước đây, các Thượng nghị sĩ có quyền tranh cãi vô thời hạn nộp dự luật,
nhưng sau quy định, nếu 11 đại biểu đề nghị thì hội nghị sẽ biểu quyết, nếu được
2/3 phiếu sẽ chấm dứt tranh luận.
Dự luật thông qua ở hai viện sẽ gửi lên Tổng thống phê chuẩn. Nếu dự luật
chưa thống nhất, hai viện sẽ thành lập uỷ ban hỗn hợp để chỉnh lý, bổ sung. Tổng
thống có 10 ngày để xem xét. Có 4 khả năng: Tổng thống ký ngay; Tổng thống phủ
quyết, dự luật quay lại Quốc hội, nếu hai viện biểu quyết lại đạt 2/3 số phiếu trở
lên, dự luật vẫn có hiệu lực; Hết 10 ngày nhưng Tổng thống không ký, kỳ họp
lOMoARcPSD| 58968769
Quốc hội đã kết thúc, dự luật lại phải trải qua các bước từ đầu; Tổng thống phủ
quyết một vài điểm trong dự luật, gửi lại để Quốc hội thảo luận.
Ở mỗi giai đoạn nêu trên, dự luật đềukhả năng bị bác bỏ, vì vậy, trên thực
tế số dự luật đưa ra rất nhiều, nhưng chỉ một số rất ít trở thành luật (khoảng 6%).
Giới nghiên cứu phương Tây cho rằng, Quốc hội Mỹ là cơ quan lập pháp tự
chủ và vững vàng nhất thế giới. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, giám sát các
nhánh quyền lực khác và việc thi hành pháp luật; phục vụ cử tri; đại diện cho các
lợi ích khác nhau; giải quyết mâu thuẫn trong xã hội; giáo dục dân chúng. Điều đó
xuất phát từ nhiều nguyên nhân: do điều kiện lịch sử, người dân muốn trao quyền
tối cao cho Quốc hội, chứ không phải cơ quan hành pháp đại diện của vua Anh;
Quốc hội thể hiện tốt nhất tính dân chủ do được bầu trực tiếp, đại diện cho nguyện
vọng của nhân dân; do cơ chế hai viện có quyền ngang nhau, hai viện Quốc hội có
khả năng kiềm chế nhau và đối trọng với Tổng thống.
2. Hành pháp
2.1. Vai trò của Tổng thống
Tổng thống Mỹ là một trong những chức vụ có nhiều quyền lực nhất thế giới.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu bộ máy hành pháp, vừa là tổng
tư lệnh các lực lượng vũ trang.
Về lập pháp, Tổng thống giám sát chặt chẽ quá trình sáng tạo luật, có quyền
triệu tập Quốc hội bất thường, hằng năm gửi thông điệp đến Quốc hội, đề xuất
những văn bản pháp luật (có 30% dự luật là của Tổng thống); quyền phủ quyết dự
luật (từ 1789 - 1989, quyền này được sử dụng 1.421 lần, chỉ có 103 trường hợp
Quốc hội vượt qua được quyền phủ quyết này). Quốc hội không thể buộc Tổng
thống trả lời bất cứ vấn đề nào, ngoại trừ đang có lời buộc tội.
lOMoARcPSD| 58968769
Về hành pháp, Tổng thống có quyền thành lập Chính phủ, bổ nhiệm (với sự
đồng ý của Thượng viện) các Bộ trưởng, Thẩm phán liên bang, hội đồng cố vấn,
đại sứ... tất cả khoảng 3.000 chức vụ (nếu kể cả quân đội, cảnh sát, các cơ quan
tình báo thì con số được bổ nhiệm lên đến 75.000 chức vụ). Tổng thống thường chỉ
thay đổi các vị trí then chốt, bộ máy bên dưới ít thay đổi, và Thượng viện cũng ít
khi phủ định sự bổ nhiệm (thực tế mới chỉ có 8 lần).
Tổng thống có quyền chuẩn bị dự án ngân sách, các dự luật tài chính; ban
hành các văn bản lệnh thừa hành, quy tắc, quy chế, kế hoạch cải tổ. Hiện nay có
trên 15.000 lệnh thừa hành đang có hiệu lực.
Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Tổng thống có quyền tuyên bố tình
trạng khẩn cấp trong cả nước hay từng địa phương, có quyền dùng sức mạnh quân
sự lập trật tự.
Về đối ngoại, Tổng thống có quyền thay mặt quốc gia ký kết các hiệp định
với các nước, hoạch định chính sách đối ngoại. Quyền tuyên bố chiến tranh và hòa
bình thuộc về Quốc hội, nhưng từ khi lập quốc đến nay, Quốc hội chỉ sử dụng 5
lần, còn Tổng thống sử dụng quyền này trên 200 lần, sau đó báo cáo Quốc hội.
Về tư pháp, Tổng thống bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án liên bang, ra lệnh
ân xá.
Trên thực tế, Tổng thống có quyền lực nhiều hơn so với quy định của hiến
pháp. Tổng thống thường dùng các biện pháp gây ảnh hưởng của mình trong Quốc
hội, quan tâm đến quyền lợi của các lãnh tụ các nhóm trong Quốc hội, các đảng
viên của đảng mình và vận động sự ủng hộ của dân chúng, nhất là trong việc sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
Tuy nhiên, Tổng thống vẫn có thể bị truất quyền, trong trường hợp bị luận
tội. Quy trình như sau: đầu tiên Uỷ ban pháp luật của Hạ viện soạn thảo công thức
lOMoARcPSD| 58968769
buộc tội, Hạ viện xem xét, thông qua, sau chuyển sang Thượng viện dưới sự chủ
tọa của Chánh án Tòa án Tối cao. Nếu đạt 2/3 số phiếu thông qua, Tổng thống bị
truất quyền. Trong lịch sử có Gionsơn, Níchsơn, Clintợn bị khởi tố, Giônsơn thiếu
1 phiếu để kết tội, Níchsơn phải từ chức, còn Clinton không đủ số phiếu cần thiết.
2.2. Cơ cấu Chính phủ
Chính phủ gồm 3 bộ phận: Văn phòng Điều hành của Tổng thống, các bộ, và
các tổ chức độc lập, các công ty của Chính phủ.
Văn phòng Điều hành có khoảng 1.400 nhân viên, gồm 11 đơn vị: Văn
phòng Nhà trắng (bộ phận trung tâm quan trọng nhất), Văn phòng quản ngân
sách, Hội đồng cố vấn kinh tế, Hội đồng an ninh quốc gia, Hội đồng giám sát tình
báo, Văn phòng đại diện thương mại... Tổng thống là Chủ tịch các cơ quan trên,
ngoài ra có các chủ tịch lâm thời. Tổng thống có thể thành lập thêm những cơ quan
mới hoặc giải tán các cơ quan trên.
Người đứng đầu Văn phòng Điều hành có vai trò như Thủ tướng, quản lý toà
Bạch ốc, bảo đảm công việc hằng ngày, giúp Tổng thống quan hệ với Quốc hội, với
báo chí và công chúng; xác định chính sách tài chính; bảo đảm việc thông qua các
quyết định của Tổng thống, cố vấn cho Tổng thống về các quan điểm khác nhau;
giúp Tổng thống soạn thảo và vạch phương hướng chủ đạo...
Chính phủ Mỹ có 16 bộ: Nông nghiệp, Thương mại, Quốc phòng, Giáo dục,
Năng lượng, Y tế, Nhà ở và phát triển đô thị, Nội vụ, Tư pháp, Lao động, Ngoại
giao, Giao thông vận tải, Tài chính, Các vấn đề về cựu chiến binh, Môi trường
(mới thành lập năm 1993) và sau khi xảy ra sự kiện khủng bố trên lãnh thổ Mỹ
ngày 11/9/2001, Tổng thống Bush đã quyết định thành lập thêm Bộ An ninh Nội
địa (cuối năm 2002). Ngoài ra còn có 3 cơ quan quan trọng, ngân sách có khi còn
cao hơn các bộ đó là: CIA, FBI (Điều tra liên bang) AID (Viện trợ quốc tế). 18
lOMoARcPSD| 58968769
vị đứng đầu các cơ quan trên hợp thành Hội đồng Nội các, mỗi tháng họp một lần.
Nội các chỉ đóng vai trò tư vấn cho Tổng thống, không có quyền quyết định.
Ngoài các chức năng chuyên môn, Bộ Ngoại giao còn quản lý hàng trăm đại
sứ quán, lãnh sự quán ở nước ngoài, các cơ quan thông tin, Đài tiếng nói Hoa Kỳ...
Bộ Quốc phòng còn phụ trách hơn 1.000 căn cứ quân sự ở trên 140 nước, Bộ Nội
vụ không bao gồm an ninh và cảnh sát, mà chỉ lo về đất đai, sông ngòi, công viên
và dinh thự. Các cơ quan cảnh sát trực thuộc thị xã, quận, không có cơ quan cảnh
sát toàn quốc.
Các uỷ ban độc lập, các công ty của Chính phủ và các cơ quan được coi là
chính thức: Hội nghị Quản lý, Ban Phát thanh quốc tế, Uỷ ban Bầu cử liên bang,
Quỹ Khoa học quốc gia, Cục Thông tin, Uỷ ban Thương mại quốc tế, "Tổng cục
Bưu điện... (khoảng 60 tổ chức) là các cơ quan do
Quốc hội lập ra. Đứng đầu các tổ chức này là Hội đồng uỷ viên, do Tổng
thống bổ nhiệm và bãi miễn. Các tổ chức này độc lập với các bộ và được Quốc hội
giám sát ngân sách và chương trình hoạt động rất chặt chẽ.
Chính phủ có thẩm quyền: khởi thảo, vạch ra chính sách đối nội, đối ngoại;
quản lý, bao quát tất cả các lĩnh vực cơ bản trong xã hội, điều hoà, phối hợp các cơ
quan hoạt động; ban hành các văn bản dưới luật; trình các dự luật lên Quốc hội... .
Các cơ quan hành pháp hoạt động độc lập, không bị Quốc hội giải tán, chỉ
chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Các thành viên chính phủ không được kiêm
nhiệm chức vụ trong Quốc hội.
3. Tư pháp
Ở Mỹ đồng thời tồn tại hai hệ thống tư pháp liên bang và bang, gồm 3 cấp:
tối cao, thượng thẩm và sơ thẩm. "Trong xét xử, cấp dưới không chịu sự chỉ đạo

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58968769
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ MỸ
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ VÀ LỊCH SỬ
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ 1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
Mỹ là tên gọi tắt của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (United States of America).
Nước Mỹ gồm 50 bang, diện tích 9.364.000 km”, rộng thứ tư trên thế giới (sau
Nga, Canada, Trung Quốc). Mỹ có ba bộ phận lãnh thổ cách xa nhau: 48 bang
thuộc lục địa Bắc Mỹ, bang Alaska vùng Bắc cực và quần đảo Hawaii ở Thái Bình
Dương. Lãnh thổ Mỹ tuy rộng, song địa hình tương đối đơn giản. Miền Đông có
các cao nguyên rộng lớn với nhiều khoáng sản, có các đồng bằng ven biển, đất đai
màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Miền Đồng bằng trung tâm chiếm
1/3 diện tích lục địa Mỹ do sông Mississippi bồi đắp, có hai cao nguyên lớn Kansas
và Texas. Đây là vựa lúa, đồng thời có trữ lượng dầu mỏ rất lớn. Miền Tây có hệ
thống núi chạy suốt từ Alaska xuống, có nhiều tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là
dầu mỏ. Nhìn chung, có thể coi Mỹ là một trong những nước giàu có nhất về tài
nguyên khoáng sản trên thế giới, cả về trữ lượng lẫn sự phong phú về thể loại.
Đáng chú ý hơn cả là: than đá, dầu mỏ, hơi đốt tự nhiên, quặng sắt, kim loại màu
(đồng, chì, kẽm...), quặng kim loại quý và hiếm. Hồi đầu thế kỷ XIX, rừng bao phủ
gần một nửa diện tích đất nước, nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 1/4. .
Ngoài ra, Mỹ còn có các vùng lãnh thổ khác phân bố rải rác trên các đại
dương: Porto ở biển Antilles; quần đảo Marianne, các quần đảo ở động Philippin
gồm 2.141 hòn đảo, có diện tích 7,77 triệu km2; đảo Caroline, Marshall, quần đảo
Palau, đảo Guam, quần đảo Samoa, Wake, Midway và nhiều đảo san hô khác trên Thái Bình Dương.
Mỹ có 3 miền khí hậu: ven Thái Bình Dương khí hậu ôn hoà, mưa nhiều, ven
Đại Tây Dương khí hậu ôn đới; miền đồng bằng khí hậu ôn đới, mưa nhiều. lOMoAR cPSD| 58968769
Về dân cư, Mỹ là một trong những nước đông dân nhất thế giới, năm 1999 có
264,600 triệu người. Thành phần dân cư tương đối phức tạp, và số lượng tăng rất
nhanh. Trước thế kỷ XVI ở đây chỉ có người da đỏ (Anhđiêng), sau đó họ bị thực
dân Anh tàn sát, tiêu diệt dần và bị đẩy vào sinh sống ở các vùng núi hoang vu.
Đến nay, cả nước Mỹ có không quá 1,5 triệu người da đỏ. Từ đầu thế kỷ XVII
XIX, khoảng 4 triệu người da đen châu Phi đã bị đưa tới Mỹ làm nô lệ. Hiện nay,
người da đen có trên 30 triệu, chiếm 12,4% dân số cả nước. Người da trắng là
thành phần chính của dân cư Mỹ, chiếm 84%, đồng nhất là người gốc Anh, Đức,
Italia. Ở Mỹ có khoảng 3,5% các dân tộc da màu khác: người gốc Mêhicô, Puectô
Ricô, gần 2 triệu người nhập cư từ Cuba, hơn 3 triệu người có nguồn gốc châu Á
(gần 1 triệu người Việt Nam). Số người nhập cư vào Mỹ ngày càng tăng, đặc biệt
từ các nước láng giềng Mỹ latinh. Theo dự đoán, có thể đến năm 2050, số người da
trắng sẽ ít hơn các chủng tộc khác cộng lại.
Phần lớn dân Mỹ sống ở thành thị (chiếm 75%). Các thành phố đông dân là
New York (trên 7 triệu người) Los Angeles gần 3,5 triệu), Chicago (gần 3 triệu),
Philadelphia, Đitơroi, Botox, Hauxton...
Đa số dân Mỹ tin theo các tôn giáo, trong đó: Tin lành 61%, Thiên Chúa giáo
25%, Do thái 5%..., chỉ có 7% dân số vô thần.
2. Lịch sử thể chế chính trị
Lịch sử nước Mỹ thực sự bắt đầu từ năm 1607, khi nước Anh thành lập thành
phố Jamestown, quản lý thuộc địa bằng luật pháp, bầu Chính phủ, Thống đốc chịu
trách nhiệm trước Nữ hoàng. Năm 1714, Liên hiệp nước Anh mới được ra đời,
khẳng định vị thế của người Anh ở Bắc Mỹ. Năm 1768, cuộc đấu tranh giành độc
lập dưới sự lãnh đạo của Oasinhtơn bắt đầu. lOMoAR cPSD| 58968769
Tư tưởng liên kết các vùng thành một liên bang thống nhất nảy sinh từ giữa
thế kỷ XVIII, nhưng đều bị Anh bác bỏ. Ngày 4-7-1776, Đại hội lục địa tại
Philadelphia thông qua Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nhà nước liên bang
gồm 13 bang. Sau khi liệt kê hàng loạt những lạm quyền đủ loại của Chính phủ
Anh, Tuyên ngôn này tuyên bố rằng: nhân dân bị áp bức có quyền nổi dậy, quyền
lực tối cao thuộc về nhân dân. Tuy nhiên cơ cấu liên bang còn lỏng lẻo, thực chất là
hợp bang. Năm 1777, Hội nghị Liên bang lần 2 thông qua “Quy chế về Chính phủ
liên bang” hay còn gọi là “Các điều khoản của liên minh” và được phê chuẩn năm
1782. Theo đó, mỗi bang bảo lưu “chủ quyền, tự do, độc lập và mọi quyền lực, tính
pháp lý và chủ quyền”, có Nghị viện, Chính phủ, hiến pháp riêng. Hằng năm các
bang cử 1 đại diện của mình đến họp Quốc hội. Giữa các kỳ họp Quốc hội, chức
năng đó trao cho Uỷ ban các bang.
Năm 1782, bị thua trong chiến tranh với Mỹ, Anh phải ký hòa ước Pari, công
nhận nền độc lập của Mỹ, trao trả vùng lãnh thổ phía Nam cho Mỹ. Năm 1784, Niu
Oóc trở thành Thủ đô lâm thời của Mỹ. Năm 1787, đại biểu các bang nhóm họp,
soạn thảo hiến pháp liên bang. Trong số 55 đại biểu có 24 tài phiệt, 11 chủ tàu
thuỷ, 15 chủ nô. Không thủ tiêu quyền độc lập của các bang, nhưng hiến pháp tập
trung quyền lực cho trung ương, liên minh đã chuyển thành liên bang. Đến năm
1789, trải qua 2 năm đấu tranh quyết liệt giữa các phe nhóm, các bang đã phê
chuẩn hiến pháp liên bang. Năm 1789, Quốc hội liên bang khai mạc, Oasinhtơn
được bầu là Tổng thống đầu tiên. Năm 1791, thành phố Oasinhtơn được chọn là
Thủ đô chính thức. Lãnh thổ liên bang ngày càng được mở rộng. Năm 1803, Mỹ
mua lại vùng Louisiana của Pháp; năm 1819, mua lại Phlorida của Tây Ban Nha;
năm 1846, mua lại Oregon của Anh; sau đó, sáp nhập Texas, Tân Mêhicô và
Caliphoocnia sau khi đánh bại Mexico. lOMoAR cPSD| 58968769
Đây là thời kỳ phát triển mạnh về kinh tế. Miền Bắc thực hiện công nghiệp
hoá, thi hành chính sách bảo hộ; trong khi đó miền Nam chủ yếu phát triển nông
nghiệp, thực hiện tự do thương mại, duy trì chế độ nô lệ. Năm 1854, Đảng Cộng
hòa ra đời, chủ trương xóa bỏ chế độ nô lệ. Năm 1860, Lincoln, thủ lĩnh Đảng
Cộng hòa trúng cử Tổng thống. Các bang miền Nam tách ra và tuyên bố lập các
hợp bang châu Mỹ. Năm 1861 - 1865, chiến tranh nổ ra giữa hai miền, và kết thúc
với thắng lợi thuộc về miền Bắc, chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Cuộc nội chiến này, theo
C.Mác, không là gì khác cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội: hệ thống chiếm
hữu nô lệ và hệ thống lao động tự do Đến năm 1870, tất cả các bang miền Nam gia
nhập trở lại liên bang. Phải cấp tiến của Đảng Cộng hòa trong Quốc hội tiến hành
nhiều biện pháp để kiến trúc lại miền Nam, các bang miền Nam đặt dưới sự kiểm
soát của quân đội, bãi bỏ điều luật phân biệt đối xử với người da đen. Tòa án Tối
cao tuyên bố quyền rút khỏi liên bang bị bãi bỏ.
Chiến thắng của miền Bắc đã kích thích mạnh mẽ cho sự phát triển năng
động của nền kinh tế Mỹ. Công cuộc khai phá các vùng đất mới của người da đỏ,
mở đường sát xuyên lục địa đã thúc đẩy quá trình định cư ở miền Tây. Làn sóng
người nhập cư ào ạt đổ vào Mỹ, dân số tăng nhanh (từ 40 triệu năm 1870 đến 74 triệu năm 1900).
Năm 1867, Mỹ mua vùng Alaska của Nga; năm 1893, chiếm Haoại; năm
1895, can thiệp vào Cuba, chiếm Puerto Rico, Guam, Philippin, mở rộng ảnh
hưởng sang châu Á. Năm 1914, Mỹ kiểm soát hoàn toàn kênh đào Panama. Năm
1917, Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, đứng về phía quân Đồng minh chống Đức.
Năm 1929-1933, Mỹ bị khủng hoảng kinh tế nghiêm trong. Năm 1932,
Rudoven trúng cử Tổng thống, thi hành chính sách mới, nhanh chóng phục hồi nền
kinh tế. Năm 1941, khi bị Nhật Bản tấn công ở Trân Châu Cảng (Pearl Harbour), lOMoAR cPSD| 58968769
Mỹ bắt đầu tham gia chiến tranh thế giới thứ hai và giàu lên nhanh chóng sau chiến
tranh. Mỹ lập ra hàng loạt các tổ chức kinh tế, quân sự, chính trị như: GATT, IMF,
WB, NATO... mở ra thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang với phe xã hội chủ
nghĩa, đứng đầu là Liên Xô. Năm 1950, Mỹ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên.
Từ cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX, Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam.
Những năm 1965 - 1967, Mỹ đưa gần nửa triệu quân vào miền Nam Việt Nam và
ném bom đánh phá miền Bắc. Năm 1973, bị thất bại, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp
định Pari chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Năm 1976, Đảng Dân chủ (Tổng thống Cartơ) cầm quyền, năm 1980 Đảng
Cộng hòa lên thay (Tổng thống Rigân) đẩy mạnh chạy đua vũ trang, làm thâm hụt
ngân sách. Năm 1993, Đảng Dân chủ thắng cử (Tổng thống Klinton) trong hai
khoá liền, có công phục hồi nền kinh tế. Năm 2000, Đảng Cộng hòa cầm quyền, G.
Bus trở thành Tổng thống thứ 43 của Mỹ. Bus thi hành chính sách cứng rắn, thực
hiện mưu đồ bá chủ của Mỹ trên thế giới: triển khai chiến lược phòng thủ tên lửa
quốc gia (NMD), từ sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001, Mỹ đã lợi dụng chiêu bài
chống khủng bố, tăng cường can thiệp chủ quyền các nước: Ápganistan, Irắc và đe
dọa các nước không theo Mỹ, đẩy thế giới vào thế đối đầu, chạy đua vũ trang. II- HIẾN PHÁP
Hiến pháp Mỹ là hiến pháp đặc trưng cho hiến pháp cố điển. Nội dung của
Hiến pháp chỉ có 7 điều, tập trung vào việc quy định trình tự thành lập và thẩm
quyền của các cơ quan Trung ương - Quốc hội, Tổng thống và Tòa án tối cao; mối
quan hệ giữa Liên bang với các bang, và trình tự thay đổi Hiến pháp. Hiến pháp
Mỹ không hề có điều nào nói về các đảng phái chính trị, mặc dù các đảng phái
chính trị chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống chính trị của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. lOMoAR cPSD| 58968769
Trên thực tế rất ít trường hợp có quốc hội lập hiến. Có thể lấy Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ làm ví dụ. Những người tham gia thông qua Hiến pháp đại diện cho
13 bang lúc bấy giờ được gọi là "ông tổ, ông cha" của nhà nước Mỹ. Việc thành lập
quốc hội lập hiến để thông qua hiến pháp rất ít phổ biến trên thế giới. Bởi vì việc
thành lập (bầu cử) ra hai quốc hội với thời gian rất gần nhau, thường là phức tạp.
Hơn nữa, nếu chúng ta xem xét kết quả bầu cử là sự thể hiện mối tương quan lực
lượng xã hội, thì trong một khoảng thời gian ngắn, không mấy khi có những biến
cố lịch sử có tính cách mạng xảy ra. Vì vậy, việc tổ chức bầu lại một quốc hội lập
pháp khác với quốc hội lập . hiến, nhiều khi không thể cho kết quả như mong
muốn. Cho nên nhiều nước dùng luôn quốc hội lập hiến làm quốc hội lập pháp và
ngược lại lấy quốc hội lập pháp làm quốc hội lập hiến. Nhằm tạo nên tính ưu thế
của hiến pháp, các nước thường quy định thủ tục thông qua, sửa đổi hiến pháp một
cách ngặt nghèo hơn. Ví dụ như nếu luật thường, việc biểu quyết thông qua chỉ cần
có quá nửa tổng số đại biểu quốc hội đồng ý là đủ, thì hiến pháp là phải 2/3, hoặc
3/4 tổng số đại biểu quốc hội, hoặc hơn thế nữa sau khi đã được quốc hội thông
qua thì dự án phải được nhân dân bỏ phiếu phúc quyết...
Trong khi đó, trường phái thứ hai cho rằng sửa đổi hiến pháp cho phép loại
bỏ hoàn toàn và thay thế bằng các điều khoản quy định mới, không đi ngược lại
lịch sử và giá trị dân tộc. Đại diện cho trường phái này là Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, trên thực tế, Hoa Kỳ đã trải qua 27 lần sửa đổi hiến pháp, điều
chỉnh về mối quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia, tăng giảm quyền lực cho các
nhánh hành pháp, tư pháp, lập pháp và ngày càng tăng quyền lực cho tổng thống
nhưng về cơ bản Hoa Kỳ vẫn duy trì bản Hiến pháp đầu tiên năm 1789 với các
nguyên tắc dân chủ, nhân quyền được giữ nguyên vẹn. lOMoAR cPSD| 58968769
Hiến pháp Mỹ là một trong những bản hiến pháp đầu tiên và thành công nhất
thế giới. Nó ra đời trong hoàn cảnh nước Mỹ mới giành được độc lập, cần có chính
quyền trung ương mạnh để duy trì liên bang. Thời kỳ 1781-1787 là thời kỳ yếu
kém, bất ổn, tranh chấp liên miên giữa các bang. Quốc hội liên bang không có
quyền chi phối các bang, do thiếu ngân sách, ngược lại, phải trông chờ vào các
khoản thu nhập từ các bang. Các bang được quyền kiểm soát việc đánh thuế, phát
hành tiền riêng, cản trở việc mở rộng buôn bán và phát triển kinh tế. Tại Hội nghị
lập hiến năm 1787, tất cả các đại biểu đều thấy sự cần thiết phải có một nhà nước
liên bang mạnh, đủ quyền lực để lãnh đạo các bang.
Cơ sở để hình thành hiến pháp Mỹ là: truyền thống cai trị của Anh; kinh
nghiệm thực tiễn trong chế độ tự trị của 13 bang, Tuyên ngôn độc lập; học thuyết
tam quyền phân lập của Lộccơ và Môngtétxkiơ. Trên cơ sở nền tảng đó, các đại
biểu thống nhất ở quan điểm: nhà nước gồm 3 nhánh quyền lực độc lập: lập pháp,
hành pháp, tư pháp; Quốc hội gồm 2 viện, Thượng viện có đại biểu các bang bằng
nhau, Hạ viện có số đại biểu theo tỷ lệ dân số (là sự thoả hiệp giữa các bang lớn và
các bang nhỏ). Không đại biểu nào hoàn toàn hài lòng với kết quả, nhưng cần phải
chấp nhận thỏa hiệp để đi đến mục đích chung. Trải qua hơn 2 năm thảo luận, tranh
đấu giữa các phe phái, bản hiến pháp đã được phê chuẩn ở các bang.
Theo hiến pháp, quyền hạn có tính chất quyết định thuộc về người dân.
Quyền lực của các quan chức có giới hạn, họ được bầu theo định kỳ và bị kiểm
soát. Ngoại lệ có Thẩm phán liên bang có nhiệm kỳ vĩnh viễn để tránh những ràng buộc chính trị.
Hiến pháp có 6 nguyên tắc cơ bản sau: -
Các bang đều bình đẳng, phân quyền giữa liên bang và các bang. -
Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập. lOMoAR cPSD| 58968769 -
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. -
Chính phủ và tất cả mọi người đều làm việc theo pháp luật. -
Nhân dân có quyền bãi miễn Chính phủ bằng cách thay đổi hiến
pháp; giao quyền có thời hạn. -
Hiến pháp, các sắc lệnh của Quốc hội, các hiệp định ký với
nước ngoài đều là những luật pháp tối cao của đất nước.
Bản hiến pháp gồm 7 điều: điều 1 - về quyền lập pháp; điều 2 - về hành
pháp; điều 3 - về tư pháp; 4 điều sau - về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
mối quan hệ giữa liên bang với các bang, sự bảo đảm hình thức chính thể cộng hòa
và an ninh, trật tự của mỗi bang, về thủ tục sửa đổi hiến pháp. Hiến pháp có thể sửa
đổi với 2/3 phiếu thuận ở mỗi viện, sự chấp thuận của 3/4 số bang; Quốc hội của
2/3 số bang có thể khởi xướng việc sửa đổi hiến pháp.
Ngay sau đó, Jephesơn, lãnh tụ phe dân chủ, đã phê phán hiến pháp, đòi bổ
sung thêm 10 điểm, được thông qua năm 1790 và được coi là “Tuyên ngôn nhân
quyền”. Đó là: 1. Quyền tự do tín ngưỡng, ngôn luận và báo chí, hội họp, yêu sách
chính quyền sửa sai; 2. Quyền mang vũ khí; 3. Quân đội không được đóng tại nhà
dân; 4. Không được khám xét, bắt giữ và tịch thu tài sản vô căn cứ; 5. Cấm xét
xử khi không có cáo trạng; 6. Xét xử nhanh chóng, công khai đối với các vi
phạm hình sự; 7. Xét xử bởi bồi thẩm đoàn khi liên quan đến vụ việc trên 20 USD;
8. Cấm nộp phạt hoặc thế chấp quá nặng và xử tàn ác; 9. Con người còn có những
quyền khác không đề cập cụ thể trong hiến pháp; 10. Các quyền hiến pháp không
quy định sẽ dành cho các bang hoặc người dân (được làm những điều hiến pháp không cấm).
Sau này, hiến pháp tiếp tục được bổ sung thêm, tổng cộng 26 điều (ví dụ:
năm 1865, xoá bỏ chế độ nô lệ; năm 1876, người da đen có quyền bầu cử; năm lOMoAR cPSD| 58968769
1913, bầu "Thượng nghị sĩ bằng phổ thông đầu phiếu; năm 1920, phụ nữ có quyền
bầu cử; năm 1951, giới hạn Tổng thống không quá 2 nhiệm kỳ; năm 1976, giảm
tuổi bầu cử xuống 18), nhưng những tư tưởng, nội dung chính của nó nhìn chung vẫn được giữ nguyên.
III. THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC
Hình thức chính thể cộng hòa tổng thống là hình thức tổ chức nhà nước, mà
ở đó tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành
pháp, do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Mọi thành viên của chính phủ
đều do tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước tổng thống, không chịu
trách nhiệm trước nghị viện, không có chức vụ thủ tướng. Người ta gọi đây là
chính phủ một đầu. Không phải là chính phủ lưỡng đầu như ở loại hình quân chủ,
cộng hoà đại nghị, bên cạnh nguyên thủ quốc gia còn có thủ tướng - người đứng
đầu bộ máy hành pháp. Ở những nước này áp dụng triệt để học thuyết phân chia
quyền lực nhà nước, hay còn gọi là cách phân quyền cứng rắn và tăng cường quyền
lực của cá nhân tổng thống. Loại hình này được áp dụng một cách tương đối phổ
biến ở các nước tư bản châu Mỹ latinh, mà khuôn mẫu của nó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Vì hai chức vụ này, nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu hành pháp tập
trung vào một người - tổng thống, cho nên tổng thống có toàn quyền trong việc
quyết định nhân sự chính phủ. Ông tự mình lựa chọn, tự mình bổ nhiệm và tự mình
bãi nhiệm vào bất cứ thời gian nào. Về nguyên tắc, các bộ trưởng không hợp thành
một cơ quan bàn bạc chịu trách nhiệm tập thể trước nghị viện, mà chỉ chịu trách
nhiệm trước tổng thống. Các bộ trưởng chỉ là những người giúp việc cho tổng
thống, thực hiện những chính sách của tổng thống, không được mâu thuẫn với
đường lối chính sách của tổng thống. lOMoAR cPSD| 58968769
Khác với tổng thống ở chính thể cộng hòa nghị viện, tổng thống ở chính thể
cộng hoà có thể được nhân dân trực tiếp bầu ra, hoặc gián tiếp bầu ra, tức là với
lượng tuyển cử đoàn rộng rãi hơn. Do vậy, về việc nguyên tắc, tổng thống ở chính
thể này có nhiều quyền lực hơn. Tổng thống Mỹ do dân, cử tri bầu gián tiếp nhưng
chính là trực tiếp bầu ra. Chính sự tấn phong này của nhân dân đã làm cơ sở cho
việc tập trung quyền lực vào trong tay tổng thống nước Mỹ. - Đặc điểm quan trọng
của chính thể cộng hòa tổng thống là việc áp dụng tuyệt đối nguyên tắc phân chia
quyền lực nhà nước. Chính việc áp dụng này là cơ sở cho việc không chịu trách
nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp.
Thay cho cơ chế chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp là cơ
chế kìm chế và đối trọng. Lập pháp và hành pháp, kìm chế và đối trọng lẫn nhau để
không có cơ quan nào lợi dụng quyền lực. Tổng thống và các bộ trưởng toàn quyền
trong lĩnh vực làm luật. Nghị viện không có quyền lật đổ chính phủ. Và ngược lại
tổng thống - nguyên thủ quốc gia cũng không có quyền giải tán nghị viện trước
thời hạn. Theo quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ, tổng thống không có quyền sáng
kiến pháp luật. Nhưng trên thực tế, tổng thống Mỹ bằng nhiều biện pháp khác nhau
đã can thiệp rất sâu vào hoạt động lập pháp của Quốc hội Mỹ. + Ở chính thế này,
nếu tổng thống và đa số nghị viện ở cùng một đảng thì quyền lực nhà nước tập
trung tuyệt đối vào trong tay tổng thống. Trong trường hợp tổng thống và đa số
nghị viện không cùng một đảng thì rất dễ dẫn đến sự mâu thuẫn giữa hành pháp và
lập pháp. Tuy nhiên luật hiện pháp tư sản không chứa đựng những quy định giải
quyết những mâu thuẫn này. .
Trên thực tế, ở Mỹ không hiếm những trường hợp tổng thống và đa số nghị
viện ở hai đảng khác nhau. Nhưng lịch sử nước Mỹ, sự mâu thuẫn nói trên chưa
bao giờ gây hậu quả nghiêm trọng. Giải thích vấn đề này, nhiều học giả cho rằng,
chính là do các đảng phái ở Mỹ không được tổ chức một cách chặt chẽ như ở các lOMoAR cPSD| 58968769
nước tư bản khác. Nếu như ở Anh với kỷ luật chặt chẽ, những quyết định sẽ được
Nghị viện quyết định, thông qua các đảng viên của mình thì ở Mỹ, tổng thống Mỹ
không thể nắm chắc được con số chính xác những người ủng hộ mình, mặc dù họ
là đảng viên thuộc đảng phái của mình. Chính vì vậy, để tranh thủ mọi lực lượng,
trong tuần trăng mật", ngoài việc bổ nhiệm các đảng viên của mình vào các chức
vụ quan trọng, tổng thống Mỹ còn dành một số đáng kể các chức vụ cho người của
đảng đối lập. Hiện tượng này biến thành câu ngạn ngữ của người Mỹ: "Cái trục nào
kêu chút chít, phải cho nó ăn mỡ".. | Theo quan điểm của không ít nhà luật học, ở
chính thể cộng hòa tổng thống, phương tiện kiểm tra hoạt động hành pháp của nghị
viện không đa dạng bằng ở chính thể đại nghị, nhưng việc kiểm tra này lại có kết
quả hơn. Vì nghị viện truy cứu trách nhiệm của hành pháp đến cùng mà không bị
giải thể. Nếu như thực hiện đúng những quy định của hiến pháp ở các nước theo
chính thể cộng hòa tổng thống, thì nghị viện sẽ có thực quyền hơn, cũng vì lẽ nghị
viện là một thiết chế bền vững hơn.
Nói tóm lại, nguyên thủ quốc gia ở chính thể này có nhiều quyền lực trong
việc lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo lực lượng vũ trang, cũng như bộ máy hành chính dân sự.
Ngoài ra, tổng thống còn can thiệp sâu vào hoạt động lập pháp của nghị viện.
Việc thiết lập một chính thể cộng hòa tổng thống được nhiều nhà luật học tư
sản ca ngợi là phù hợp với thời cuộc hiện nay. Giải thích hiện tượng này họ cho
rằng, với một thể chế như vậy sẽ cho phép quyền lực nhà nước tập trung vào bộ
máy hành pháp, mà người đứng đầu bộ máy là tổng thống. Với việc tập trung
quyền lực nhà nước vào trong tay một người đã tạo điều kiện khách quan cho việc
giải quyết nhanh nhạy nhiều tình huống xảy ra trong thời đại của khoa học - kỹ
thuật - công nghệ, góp phần không nhỏ đấy đất nước tiến lên. Nói như vậy, không
có nghĩa cứ nhà nước tư sản nào được tổ chức theo loại hình chính thể này đều là lOMoAR cPSD| 58968769
những nước có nền kinh tế phát triển. Trên thực tế, việc áp dụng chính thế này có
nhiều thành công ở Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Nhưng, cũng ở châu Mỹ latinh, loại
hình này không thu được kết quả như ở nhiều nước. Trước sự khủng hoảng chính
trị ở Braxin năm 1993, nhiều người đã đề nghị thay chính thể cộng hòa tổng thống
hiện hành ở nước này bằng một chính thể quân chủ lập hiến.
Lịch sử lập hiến của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng, trong khi các nước ở
châu u đang tiến hành xây dựng một chính thể cộng hoà đại nghị, thì các nhà lập
hiến của Mỹ lại đặt ra chính thể cộng hòa tổng thống, mà quyền lực của tổng thống
không khác nào một vị quân vương. Nhiều người cho rằng, đó là một bước lùi của
nền lập hiến Mỹ. Giải thích hiện tượng này có ba quan điểm không đồng nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, vì nước Mỹ ở xa xôi cách biệt, đường biển lúc bấy
giờ đi lại còn khó khăn, do vậy các nhà lập hiến Mỹ không thể tiếp thu một cách
kịp thời những gì gọi là tiến bộ của châu u lục địa và của cả nước Anh. Quan điểm
thứ hai thì lại cho rằng, vì muốn ngăn chặn làn sóng cách mạng dân chủ tư sản của
nhân dân, đề phòng việc quần chúng cách mạng trên đà phát triển sẽ tiến tới xóa bỏ
sở hữu tư nhân và những đặc quyền đặc lợi của chính giai cấp tư sản.
Nhằm mục đích ngăn chặn làn sóng cách mạng của nhân dân, các nhà lập
hiến đã đặt ra một thiết chế bảo thủ, đó là tổng thống. Quan điểm thứ ba, thiết chế
tổng thống là thiết chế thể hiện đúng quan điểm thỏa hiệp của giai cấp tư sản Mỹ,
áp dụng đầy đủ học thuyết phân chia quyền lực của mình. Nhưng lúc bấy giờ là
bảo thủ, còn hiện nay lại hết sức phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước Hoa Kỳ.
Chế độ tổng thống mà đại diện là nước Mỹ là chế độ áp dụng tuyệt đối học
thuyết phân chia quyền lực nhà nước. Theo quy định của hiến pháp các nước thuộc
loại chính thể này, thì hành pháp không chịu trách nhiệm trước quốc hội, tổng lOMoAR cPSD| 58968769
thống không có quyền giải tán quốc hội và quốc hội cũng không có quyền lật đổ tổng thống.
Nhưng trên thực tế, hành pháp và lập pháp buộc phải kết hợp với nhau, bởi lẽ
rất giản dị là họ buộc phải chung sống với nhau. Lập pháp không thể thực hiện
được ý chí của mình, nếu như hành pháp luôn luôn chống đối. Ngược lại tổng
thống không thể nào thống trị quốc dân nếu không có sự thoả thuận với quốc hội.
Vì muốn thống trị, tổng thống phải cần đến luật lệ, đến ngân sách, đến thuế, những
phương tiện quốc hội nắm giữ. Hơn nữa, theo quy định của Hiến pháp Mỹ, thời
gian tuyển cử Quốc hội và tổng thống rất ngắn: một năm một lần 1/3 tổng số
thượng nghị sĩ được bầu lại, hai năm một lần Hạ nghị viện, bốn năm một nhiệm kỳ
tổng thống. Với thời gian này, tổng thống cũng như Quốc hội đều bị cử tri kiểm tra chặt chẽ. 1. Lập pháp
Quốc hội là cơ quan lập pháp Mỹ, gồm hai viện: Hạ viện và Thượng viện.
Theo hiến pháp, Quốc hội có quyền: quy định các loại thuế và thu thuế liên bang,
ban hành luật và các quy định thống nhất trên các lĩnh vực toàn liên bang, tuyên bố
chiến tranh và hòa bình, thông qua ngân sách quốc gia, giám sát hoạt động của cơ
quan hành pháp và tư pháp, phê chuẩn các điều ước quốc tế, buộc tội Tổng thống,
bác bỏ quyền phủ quyết của Tổng thống, buộc tội các Thẩm phán, kiến nghị sửa đổi hiến pháp... 1.1. Hạ viện
Hạ viện được cử tri cả nước bầu ra trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu
theo tỷ lệ số dân ở từng bang. Trong thành phần Hạ viện, có 435 đại biểu chính lOMoAR cPSD| 58968769
thức được bầu từ 50 bang, 3 đại biểu dự khuyết đại diện cho các vùng có số dân
chưa đạt 500 nghìn người (Đông Samoa, Guam, Virginxkie), nhiệm kỳ 2 năm. Các
Hạ nghị sĩ không bị hạn chế số nhiệm kỳ. Hiện nay, có khoảng 30% Hạ nghị sĩ
đương chức 5 - 7 khóa, 15% - trên 10 khoá.
Hạ viện chủ yếu chịu trách nhiệm về các vấn đề đối nội, ngân sách, thuế khoá.
Cơ cấu tổ chức của Hạ viện và Thượng viện về cơ bản giống nhau, gồm bộ
phận chính thức được thành lập trên cơ sở do luật định, bộ phận không chính thức
do các đảng chính trị thành lập. Bộ phận chính thức gồm Chủ tịch viện (còn gọi là
người phát ngôn của Hạ viện), Thư ký, các uỷ ban thường trực, các uỷ ban khác và
bộ máy giúp việc. Bộ phận không chính thức gồm hai tổ chức đảng đoàn (đa số và thiểu số).
Chủ tịch Hạ viện được bầu ra trong số các thành viên, trên thực tế đó là
người của đảng đa số. Chủ tịch Hạ viện có quyền: 1. Điều khiển các cuộc họp của
Hạ viện, 2. Bổ nhiệm người đứng đầu và một số thành viên các uỷ ban, 3, sắp đặt
chương trình lập pháp, 4. Quyết định giao các dự luật cho các uỷ ban. Hạ viện có
22 uỷ ban, số lượng thành viên các uỷ ban không giống nhau và được thành lập
theo sự thỏa thuận giữa hai đảng: Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ trên cơ sở tỷ lệ
số thành viên trong viện. Để lựa chọn người đề cử vào các uỷ ban, các đảng thành
lập Ban bổ nhiệm. Thông thường Chủ nhiệm các uỷ ban do những Nghị sĩ làm việc
lâu năm nhất nắm giữ. Các uỷ ban thường trực, đặc biệt là Uỷ ban Quy tắc, có vai
trò rất quan trọng. Nó có nhiệm vụ: chuẩn bị các văn bản luật, giữ mối liên lạc với
các cơ quan hành pháp liên bang về các vấn đề thuộc thẩm quyền, kiểm tra và giám
sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và hoạt động của các chức danh trong bộ
máy nhà nước, các tổ chức xã hội, công ty tư nhân; là cầu nối giữa các tổ chức
chính trị - xã hội với Quốc hội, giữa Quốc hội và dư luận xã hội. lOMoAR cPSD| 58968769 1.2. Thượng viện
Thượng viện bao gồm 100 thành viên, được bầu từ 50 bang, mỗi bang 2 đại
biểu. Nhiệm kỳ của Thượng nghị sĩ là 6 năm, cứ 2 năm bầu lại 1/3. Thượng viện
quyết định các đạo luật về đối ngoại, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế, thông qua
việc đề cử các thành viên Nội các, Thẩm phán, Chánh án, các đại sứ và quan chức
ngoại giao..., qua đó kiểm soát nhân sự cơ quan hành pháp và tư pháp.
Cơ cấu tổ chức của Thượng viện cũng giống như Hạ viện. Chủ tịch Thượng
viện là Phó Tổng thống, có quyền điều khiển các phiên họp nhưng không tham gia
bỏ phiếu, trừ trường hợp khi số phiếu có tỷ lệ 50/50. Do Phó Tổng thống chủ yếu
thực hiện chức năng hành pháp, nên Thượng viện bầu Chủ tịch lâm thời để điều
hành công việc của Thượng viện. Đó là Thượng nghị sĩ do đảng đa số bầu ra, và
thường là người có thâm niên cao nhất. Thượng viện có 16 uỷ ban thường trực.
Trước đây Chủ tịch lâm thời có quyền bổ nhiệm Chủ nhiệm các uỷ ban, từ năm
1910, quy định người cao tuổi nhất trong uỷ ban đảm nhiệm chức vụ này.
Ngoài các uỷ ban thường trực, các viện còn thành lập các uỷ ban chuyên biệt:
uỷ ban điều tra, uỷ ban đặc biệt... hoạt động trong một thời gian nhất định, vì một
mục đích cụ thể. Quốc hội còn thành lập các uỷ ban hỗn hợp (thường trực và lâm
thời). Có 4 uỷ ban hỗn hợp thường trực là: Thư viện Quốc hội, In ấn, Thuế, Kinh
tế. Các uỷ ban hỗn hợp lâm thời được thành lập để giải quyết những bất đồng,
nhằm đạt sự thống nhất của hai viện. Các uỷ ban Quốc hội chia thành gần 300 tiểu
ban, phụ trách các vấn đề chuyên sâu, cụ thể. Các trường tiểu ban do Chủ nhiệm
Uỷ ban chỉ định (theo nguyên tắc phân quyền xuống dưới). Có gần 25 nghìn
chuyên gia làm việc trong các cơ quan nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin
phục vụ Quốc hội. Quốc hội Mỹ có một thư viện đồ sộ, lớn nhất thế giới.
Giống như Nghị viện Anh, Quốc hội Mỹ còn có một loại uỷ ban nữa là Uỷ
ban Toàn viện. Đó là phiên họp toàn thể của mỗi viện, nhưng chủ tọa không phải là lOMoAR cPSD| 58968769
Chủ tịch viện, mà là một trong số các Nghị sĩ được đề cử. Uỷ ban Toàn viên của
Hạ viện được triệu tập thường để thảo luận các dự luật liên quan đến lĩnh vực công,
của Thượng viện - để xem xét các điều ước quốc tế.
Hai đảng: Cộng hòa và Dân chủ chi phối hoạt động của Quốc hội. Ở cả hai
viện, các đảng đều thành lập đảng đoàn, đứng đầu là lãnh tụ (Chủ tịch), và ban lãnh
đạo. Ban lãnh đạo kiểm tra, giám sát các Nghị sĩ đảng mình thực hiện đúng nghị
quyết của Đảng, bảo đảm sự thống nhất trong nội bộ. Ban lãnh đạo Đảng Dân chủ
được thành lập trên cơ sở đại diện vùng lãnh thổ; Đảng Cộng hòa - đó là thành viên
của Uỷ ban Quy tắc, Chủ nhiệm các uỷ ban khác và các quan chức cao cấp của
đảng. Đảng đa số ở viện nào thì sẽ nắm giữ những chức vụ chủ chốt của viện đó:
Chủ tịch viện, Chủ nhiệm các uỷ ban, tiểu ban.
1.3. Quá trình thông qua một dự luật
Để trở thành luật, một dự luật phải trải qua một chu trình: dự luật - Hạ viện -
uỷ ban thích hợp - tiểu ban thích hợp - uỷ ban quy tắc (ấn định lịch trình tranh cãi) -
gửi lại uỷ ban chuyên trách thảo luận - ra hội nghị toàn thể Hạ viện thảo luận và biểu
quyết. Chu trình ở Thượng viện cũng tương tự, nhưng không có uỷ ban quy tắc.
Trước đây, các Thượng nghị sĩ có quyền tranh cãi vô thời hạn nộp dự luật,
nhưng sau quy định, nếu 11 đại biểu đề nghị thì hội nghị sẽ biểu quyết, nếu được
2/3 phiếu sẽ chấm dứt tranh luận.
Dự luật thông qua ở hai viện sẽ gửi lên Tổng thống phê chuẩn. Nếu dự luật
chưa thống nhất, hai viện sẽ thành lập uỷ ban hỗn hợp để chỉnh lý, bổ sung. Tổng
thống có 10 ngày để xem xét. Có 4 khả năng: Tổng thống ký ngay; Tổng thống phủ
quyết, dự luật quay lại Quốc hội, nếu hai viện biểu quyết lại đạt 2/3 số phiếu trở
lên, dự luật vẫn có hiệu lực; Hết 10 ngày nhưng Tổng thống không ký, kỳ họp lOMoAR cPSD| 58968769
Quốc hội đã kết thúc, dự luật lại phải trải qua các bước từ đầu; Tổng thống phủ
quyết một vài điểm trong dự luật, gửi lại để Quốc hội thảo luận.
Ở mỗi giai đoạn nêu trên, dự luật đều có khả năng bị bác bỏ, vì vậy, trên thực
tế số dự luật đưa ra rất nhiều, nhưng chỉ một số rất ít trở thành luật (khoảng 6%).
Giới nghiên cứu phương Tây cho rằng, Quốc hội Mỹ là cơ quan lập pháp tự
chủ và vững vàng nhất thế giới. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, giám sát các
nhánh quyền lực khác và việc thi hành pháp luật; phục vụ cử tri; đại diện cho các
lợi ích khác nhau; giải quyết mâu thuẫn trong xã hội; giáo dục dân chúng. Điều đó
xuất phát từ nhiều nguyên nhân: do điều kiện lịch sử, người dân muốn trao quyền
tối cao cho Quốc hội, chứ không phải cơ quan hành pháp đại diện của vua Anh;
Quốc hội thể hiện tốt nhất tính dân chủ do được bầu trực tiếp, đại diện cho nguyện
vọng của nhân dân; do cơ chế hai viện có quyền ngang nhau, hai viện Quốc hội có
khả năng kiềm chế nhau và đối trọng với Tổng thống. 2. Hành pháp
2.1. Vai trò của Tổng thống
Tổng thống Mỹ là một trong những chức vụ có nhiều quyền lực nhất thế giới.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu bộ máy hành pháp, vừa là tổng
tư lệnh các lực lượng vũ trang.
Về lập pháp, Tổng thống giám sát chặt chẽ quá trình sáng tạo luật, có quyền
triệu tập Quốc hội bất thường, hằng năm gửi thông điệp đến Quốc hội, đề xuất
những văn bản pháp luật (có 30% dự luật là của Tổng thống); quyền phủ quyết dự
luật (từ 1789 - 1989, quyền này được sử dụng 1.421 lần, chỉ có 103 trường hợp
Quốc hội vượt qua được quyền phủ quyết này). Quốc hội không thể buộc Tổng
thống trả lời bất cứ vấn đề nào, ngoại trừ đang có lời buộc tội. lOMoAR cPSD| 58968769
Về hành pháp, Tổng thống có quyền thành lập Chính phủ, bổ nhiệm (với sự
đồng ý của Thượng viện) các Bộ trưởng, Thẩm phán liên bang, hội đồng cố vấn,
đại sứ... tất cả khoảng 3.000 chức vụ (nếu kể cả quân đội, cảnh sát, các cơ quan
tình báo thì con số được bổ nhiệm lên đến 75.000 chức vụ). Tổng thống thường chỉ
thay đổi các vị trí then chốt, bộ máy bên dưới ít thay đổi, và Thượng viện cũng ít
khi phủ định sự bổ nhiệm (thực tế mới chỉ có 8 lần).
Tổng thống có quyền chuẩn bị dự án ngân sách, các dự luật tài chính; ban
hành các văn bản lệnh thừa hành, quy tắc, quy chế, kế hoạch cải tổ. Hiện nay có
trên 15.000 lệnh thừa hành đang có hiệu lực.
Là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Tổng thống có quyền tuyên bố tình
trạng khẩn cấp trong cả nước hay từng địa phương, có quyền dùng sức mạnh quân sự lập trật tự.
Về đối ngoại, Tổng thống có quyền thay mặt quốc gia ký kết các hiệp định
với các nước, hoạch định chính sách đối ngoại. Quyền tuyên bố chiến tranh và hòa
bình thuộc về Quốc hội, nhưng từ khi lập quốc đến nay, Quốc hội chỉ sử dụng 5
lần, còn Tổng thống sử dụng quyền này trên 200 lần, sau đó báo cáo Quốc hội.
Về tư pháp, Tổng thống bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án liên bang, ra lệnh ân xá.
Trên thực tế, Tổng thống có quyền lực nhiều hơn so với quy định của hiến
pháp. Tổng thống thường dùng các biện pháp gây ảnh hưởng của mình trong Quốc
hội, quan tâm đến quyền lợi của các lãnh tụ các nhóm trong Quốc hội, các đảng
viên của đảng mình và vận động sự ủng hộ của dân chúng, nhất là trong việc sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
Tuy nhiên, Tổng thống vẫn có thể bị truất quyền, trong trường hợp bị luận
tội. Quy trình như sau: đầu tiên Uỷ ban pháp luật của Hạ viện soạn thảo công thức lOMoAR cPSD| 58968769
buộc tội, Hạ viện xem xét, thông qua, sau chuyển sang Thượng viện dưới sự chủ
tọa của Chánh án Tòa án Tối cao. Nếu đạt 2/3 số phiếu thông qua, Tổng thống bị
truất quyền. Trong lịch sử có Gionsơn, Níchsơn, Clintợn bị khởi tố, Giônsơn thiếu
1 phiếu để kết tội, Níchsơn phải từ chức, còn Clinton không đủ số phiếu cần thiết.
2.2. Cơ cấu Chính phủ
Chính phủ gồm 3 bộ phận: Văn phòng Điều hành của Tổng thống, các bộ, và
các tổ chức độc lập, các công ty của Chính phủ.
Văn phòng Điều hành có khoảng 1.400 nhân viên, gồm 11 đơn vị: Văn
phòng Nhà trắng (bộ phận trung tâm quan trọng nhất), Văn phòng quản lý và ngân
sách, Hội đồng cố vấn kinh tế, Hội đồng an ninh quốc gia, Hội đồng giám sát tình
báo, Văn phòng đại diện thương mại... Tổng thống là Chủ tịch các cơ quan trên,
ngoài ra có các chủ tịch lâm thời. Tổng thống có thể thành lập thêm những cơ quan
mới hoặc giải tán các cơ quan trên.
Người đứng đầu Văn phòng Điều hành có vai trò như Thủ tướng, quản lý toà
Bạch ốc, bảo đảm công việc hằng ngày, giúp Tổng thống quan hệ với Quốc hội, với
báo chí và công chúng; xác định chính sách tài chính; bảo đảm việc thông qua các
quyết định của Tổng thống, cố vấn cho Tổng thống về các quan điểm khác nhau;
giúp Tổng thống soạn thảo và vạch phương hướng chủ đạo...
Chính phủ Mỹ có 16 bộ: Nông nghiệp, Thương mại, Quốc phòng, Giáo dục,
Năng lượng, Y tế, Nhà ở và phát triển đô thị, Nội vụ, Tư pháp, Lao động, Ngoại
giao, Giao thông vận tải, Tài chính, Các vấn đề về cựu chiến binh, Môi trường
(mới thành lập năm 1993) và sau khi xảy ra sự kiện khủng bố trên lãnh thổ Mỹ
ngày 11/9/2001, Tổng thống Bush đã quyết định thành lập thêm Bộ An ninh Nội
địa (cuối năm 2002). Ngoài ra còn có 3 cơ quan quan trọng, ngân sách có khi còn
cao hơn các bộ đó là: CIA, FBI (Điều tra liên bang) và AID (Viện trợ quốc tế). 18 lOMoAR cPSD| 58968769
vị đứng đầu các cơ quan trên hợp thành Hội đồng Nội các, mỗi tháng họp một lần.
Nội các chỉ đóng vai trò tư vấn cho Tổng thống, không có quyền quyết định.
Ngoài các chức năng chuyên môn, Bộ Ngoại giao còn quản lý hàng trăm đại
sứ quán, lãnh sự quán ở nước ngoài, các cơ quan thông tin, Đài tiếng nói Hoa Kỳ...
Bộ Quốc phòng còn phụ trách hơn 1.000 căn cứ quân sự ở trên 140 nước, Bộ Nội
vụ không bao gồm an ninh và cảnh sát, mà chỉ lo về đất đai, sông ngòi, công viên
và dinh thự. Các cơ quan cảnh sát trực thuộc thị xã, quận, không có cơ quan cảnh sát toàn quốc.
Các uỷ ban độc lập, các công ty của Chính phủ và các cơ quan được coi là
chính thức: Hội nghị Quản lý, Ban Phát thanh quốc tế, Uỷ ban Bầu cử liên bang,
Quỹ Khoa học quốc gia, Cục Thông tin, Uỷ ban Thương mại quốc tế, "Tổng cục
Bưu điện... (khoảng 60 tổ chức) là các cơ quan do
Quốc hội lập ra. Đứng đầu các tổ chức này là Hội đồng uỷ viên, do Tổng
thống bổ nhiệm và bãi miễn. Các tổ chức này độc lập với các bộ và được Quốc hội
giám sát ngân sách và chương trình hoạt động rất chặt chẽ.
Chính phủ có thẩm quyền: khởi thảo, vạch ra chính sách đối nội, đối ngoại;
quản lý, bao quát tất cả các lĩnh vực cơ bản trong xã hội, điều hoà, phối hợp các cơ
quan hoạt động; ban hành các văn bản dưới luật; trình các dự luật lên Quốc hội... .
Các cơ quan hành pháp hoạt động độc lập, không bị Quốc hội giải tán, chỉ
chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Các thành viên chính phủ không được kiêm
nhiệm chức vụ trong Quốc hội. 3. Tư pháp
Ở Mỹ đồng thời tồn tại hai hệ thống tư pháp liên bang và bang, gồm 3 cấp:
tối cao, thượng thẩm và sơ thẩm. "Trong xét xử, cấp dưới không chịu sự chỉ đạo