BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢN CÔNG NGHỆ HẢI PHÒNG
GIÁO TRÌNH
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
học phần : ECO33021
Số tín chỉ : 02
HẢI PHÒNG , 2024
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
1.1.Sự hình thành phát triển của thương mại điện tử
1.1.1 Quá trình hình thành thương mại điện tử
Vào những năm 60 của thế kỉ XX việc trao đổi những dữ liệu điện tử
thư tín điện tử (e- mail) đã được nhiều doanh nghiệp trên thế giới thực hiện trên
mạng nội bộ (intranet) của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, việc tự động
hoá trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành phát triển,
chẳng hạn như quá trình xử séc ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX, tiếp
theo quá trình xử thẻ tín dụng chuyển tiền điện tử. Tiếp đó sự ra đời
của các trạm giao dịch tự động cho phép khách hàng thể tự thực hiện giao
dịch truy cập trực tiếp với các thông tin về tài khoản của mình.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX,nhiều hệ thống giao dịch tự động được đưa
vào hoạt động với việc sử dụng các thiết bị giao dịch tự động (ATMs-
Automatic Teller Machines) các thiết bị điểm bán hàng (Point-of-Sale
Machines. Khái niệm chuyển tiền số hoá hay chuyển tiền điện tử giữa các ngân
hàng các tổ chức tài chính ra đời phát triển cho đến ngày hôm nay.
Về nguồn gốc, thương mại điện tử được xem như điều kiện thuận lợi của
các giao dịch thương mại điện tử, sử dụng công nghệ như EDI EFT. Cả hai
công nghệ này đều được giới thiệu thập niên 70, cho phép các doanh nghiệp gửi
các hợp đồng điện tử như đơn đặt hàng hay hóa đơn điện tử. Sự phát triển
chấp nhận của thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động (ATM) ngân hàng điện thoại
vào thập niên 80 cũng đã hình thành nên thương mại điện tử. Một dạng thương
mại điện tử khác hệ thống đặt máy bay bởi Sabre Mỹ Travicom
Anh.
Vào thập niên 90, thương mại điện tử bao gồm các hệ thống hoạch định tài
nguyên doanh nghiệp (ERP), khai thác dữ liệu kho dữ liệu.
Năm 1990, Tim Berners-Lee phát minh ra WorldWideWeb trình duyệt web
chuyển mạng thông tin liên lạc giáo dục thành mạng toàn cầu được gọi
Internet (www). Các công ty thương mại trên Internet bị cấm bởi NSF cho đến
năm 1995. [3] Mặc Internet trở nên phổ biến khắp thế giới vào khoảng năm
1994 với sự đề nghị của trình duyệt web Mosaic, nhưng phải mất tới 5 năm để
giới thiệu các giao thức bảo mật (mã hóa SSL trên trình duyệt Netscape vào cuối
năm 1994) DSL cho phép kết nối Internet liên tục. Vào cuối năm 2000, nhiều
công ty kinh doanh Mỹ Châu Âu đã thiết lập các dịch vụ thông qua
World Wide Web Từ đó con người bắt đầu mối liên hệ với từ "ecommerce"
với quyền trao đổi các loại hàng hóa khác nhau thông qua Internet dùng các giao
thức bảo mật dịch vụ thanh toán điện tử.
Tuy nhiên , khi nói tới sự hình thành phát triển của TMĐT trước hết
người ta hay gắn với sự nh thành phát triển của Internet. Kể từ khi
Internet được khai thác để phục vụ cho mục đích thương mại đã hình thành
nhiều thuật ngữ để chỉ về hoạt động kinh doanh như : “thương mại trực tuyến”
(online trade), thương mại điều khiển học (cybertrade), kinh doanh điện tử
(electronic business), thương mại không giấy tờ (paperless trade), gần đây
thương mại điện tử (electronic commerce- EC hoặc E- commerce) được
dụng nhiều trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc tế,
rằng các tên gọi khác vẫn thể được dùng được hiểu với cùng một nội dung.
1.1.2 Quá trình phát triển của TMĐT
1979: Michael Aldrich phát minh ra thương mại điện tử
Michael Aldrich đã giới thiệu mua sắm điện tử bằng cách kết nối một
chiếc TV đã được sửa đổi với một máy tính xử giao dịch thông qua đường
dây điện thoại. Công nghệ này giúp truyền dữ liệu thanh toán một cách an toàn
trở thành nền tảng cho thương mại điện tử hiện đại.
1982: Công ty thương mại điện tử đầu tiên ra mắt
Boston Computer Exchange ra mắt vào năm 1982. Đây một thị trường
trực tuyến dành cho những người quan tâm đến việc bán máy tính đã qua sử
dụng của họ.
1992: Thị trường thương mại điện tử đầu tiên ra mắt
Book Stacks Unlimited được ra mắt vào năm 1992 bởi Charles M. Stack.
Ban đầu chỉ một bảng thông báo quay số nhưng sau đó đã được ra mắt
một thị trường trực tuyến từ tên miền Books.com
1994: Netscape Navigator ra mắt dưới dạng trình duyệt web
Trước khi Google xuất hiện, Marc Andreessen Kim Clark đã tung ra
trình duyệt web đầu tiên trên thế giới tên Netscape Navigator. đã trở
thành trình duyệt web chính trên nền tảng Windows trong suốt những năm 1990.
1995: Amazon ra mắt
Jeff Bezos ra mắt doanh nghiệp giờ đây đã trở thành thị trường thương
mại điện tử lớn nhất thế giới Amazon. Ban đầu một nền tảng Thương
mại điện tử dành cho sách. Cũng trong năm đó, giao thức bảo mật nổi tiếng SSL
đã được ra mắt giúp bán hàng trực tuyến an toàn hơn.
1998: PayPal ra mắt với cách hệ thống thanh toán thương mại điện tử
đầu tiên
PayPal được thành lập bởi 4 nhà sáng lập Max Lebhin, Peter Thiel, Luke
Nosek Ken Howery. một công cụ chuyển tiền sau này được sáp
nhập với công ty ngân hàng trực tuyến của Elon Musk vào năm 2000.
1999: Alibaba ra mắt
Alibaba Online ra mắt một thị trường trực tuyến với hơn 25 triệu đô la
được tài trợ đến năm 2001 đã lãi. Alibaba nhanh chóng trở thành nền tảng
Thương mại điện tử trực tuyến lớn nhất cho các giao dịch B2B, C2C B2C
trên thế giới.
2000: Google ra mắt Google Adwords
Google Adwords mở ra một kỷ nguyên mới của quảng cáo trực tuyến. Đây
công cụ đầu tiên cho phép các nhà bán lẻ quảng cáo sản phẩm của họ tới
những người tìm kiếm trên Google. Đây sự khởi đầu của quảng cáo trả tiền
cho mỗi lần nhấp chuột (PPC).
2004: Shopify ra mắt
Tobias Lutke Scott Lake đã ra mắt Shopify dưới dạng nền tảng Thương
mại điện tử dành cho các cửa hàng trực tuyến hệ thống các điểm bán hàng.
Shopify hiện đang nền tảng được hơn 80% thương hiệu thương mại điện tử
toàn cầu chọn lựa.
2005: Amazon giới thiệu chương trình Amazon Prime
Một động thái chưa từng có, Amazon đã ra mắt Amazon Prime, dịch vụ để
khách hàng của họ được giao hàng miễn phí trong hai ngày với một khoản phí
cố định hàng năm. Chương trình hơn 150 triệu thành viên trên toàn thế giới
đã giúp công ty gia tăng lòng trung thành quay lại mua hàng. Nhiều
nghiên cứu cho thấy 20% thành viên Amazon Prime mua sắm trên Amazon vài
lần mỗi tuần.
2005: Etsy ra mắt
Etsy thị trường trực tuyến đầu tiên dành cho đồ handmade những người
thợ thủ công. Etsy ra mắt vào năm 2005 đánh dấu một cột mốc quan trọng
đối với những người làm đồ handmade bấy giờ, Đây thị trường duy nhất
hơn 4,3 triệu người bán.
2009: BigC Commerce ra mắt
BigC Commerce một nền tảng Thương mại điện tử được do Eddie
Machaalani Mitchell Harper khởi xướng. Không giống như Shopify, BigC
Commerce không phí giao dịch nên mang lại lợi thế cho các thương hiệu
mới tham gia thị trường.
2008: Ra mắt Groupon
Groupon một thị trường toàn cầu kết nối khách hàng với thương nhân địa
phương thông qua các giao dịch khuyến mãi. Đến năm 2010, đã mặt
150 thành phố Bắc Mỹ 100 thành phố Châu Âu, Châu Á Nam Mỹ.
Groupon sau đó đã ra mắt thị trường hàng hóa vào năm 2015 tên Cửa hàng
Groupon. Đó một cách để thu hẹp khoảng cách giữa cửa hàng trực tuyến
cửa hàng truyền thống.
2009: Amazon mua lại Zappos với giá 1,2 tỷ USD
Điều này đánh dấu thương vụ mua lại thị trường thương mại điện tử lớn đầu
tiên của một khổng lồ công nghệ.
2011: Google Wallet được giới thiệu
Đây phương thức thanh toán kỹ thuật số đầu tiên ra đời sau Paypal trở
thành tiêu chuẩn toàn cầu. Google Wallet giới thiệu một cách để các nhân gửi
nhận tiền từ thiết bị di động hoặc máy tính để bàn. Sau này, trở thành một
phần của Google Pay.
2011: Facebook triển khai hình thức quảng cáo đầu tiên
Quảng cáo đầu tiên của Facebook được cung cấp cho chủ sở hữu Trang
doanh nghiệp thông qua các câu chuyện được tài trợ. Đây cách để các thương
hiệu quảng cáo trên newfeed người dùng thông qua các mẫu quảng cáo trả
phí.
2011: Stripe ra mắt
Stripe một công ty xử thanh toán độc đáo ra mắt vào năm 2011 cung
cấp cho các thương hiệu một cách xử thanh toán dễ dàng hơn.
2011: WooC Commerce ra mắt
WooC Commerce đối thủ cạnh tranh của Shopify. WooC Commerce giới
thiệu cách đầu tiên để khởi chạy các trang web Thương mại điện tử trên
WordPress.
2014: Apple Pay được giới thiệu
Apple Pay được ra mắt trở thành phương thức thanh toán lớn thứ ba sau
Google Pay PayPal cho người mua sắm trực tuyến. cho phép người dùng
thanh toán cho các sản phẩm dịch vụ bằng thiết bị Apple.
2014: Jet.com ra mắt
Jet được ra mắt vào năm 2014 bởi Marc Lore (người đã bán công ty
Diapers.com trước đây của mình cho Amazon), đây một thị trường mua hàng số
lượng lớn với giá thấp nhất mọi nơi. Công ty đã huy động được 820 triệu đô la
được Walmart mua lại vào năm 2016 với giá 3,3 tỷ đô la.
2017: Bán hàng trên Instagram
Instagram đã triển khai tích hợp với BigC Commerce cho phép người dùng
nhấp vào hình ảnh của sản phẩm ngay lập tức chuyển đến trang sản phẩm của
cửa hàng trực tuyến đó. Điều này đánh dấu một bước ngoặt để các nhà bán lẻ
quảng cáo trên phương tiện truyền thông hội biến Instagram trở thành nền
tảng truyền thông hội hàng đầu thúc đẩy việc bán hàng
2017: Doanh thu của Cyber Monday Thứ Hai điện tử vượt 6,5 tỷ đô la
Ngày Cyber Monday lập kỷ lục mới về doanh số bán hàng Thương mại điện
tử vượt qua 6,5 tỷ đô la, gấp đôi so với năm 2015.
2020: COVID-19 thúc đẩy giao dịch thương mại điện tử tăng 77%
Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy nhiều người tiêu dùng mua sắm trực tuyến
hơn bao giờ hết. Các nghiên cứu cho thấy rằng vào tháng 5 năm 2020, giao dịch
Thương mại điện tử đạt 82,5 tỷ đô la, tăng 77% so với năm trước.
1.2 Khái niệm đặc trưng của TMĐT
1.2.1 Khái niệm
Thương mại điện tử sẽ trở thành đòn bẩy kinh tế cho sự tăng trưởng thương
mại nhiều quốc gia trong môi trường toàn cầu hóa. Đồng thời, sẽ trở thành
một nhân tố kinh tế ý nghĩa toàn cầu. sở hạ tầng của thương mại điện tử
mạng máy tính, khi ã đạt đến trình độ tiêu chuẩn cho hoạt động kinh doanhđ
hoạt động của các chính phủ. Thương mại điện tử đã trở thành yếu tố xúc tác
làm thay đổi cấu hoạt động quản của các tổ chức.
Sự ra đời của thương mại điện tử gắn liền với sự hình thành phát triển
của Internet. Kể từ khi Internet được khai thác để phục vụ cho mục đích thương
mại, đã hình thành nhiều thuật ngữ để chỉ về hoạt động kinh doanh như: “thương
mại trực tuyến" (online trade) (còn gọi “thương mại tại tuyến”), “thương mại
điều khiển học” (cybertrade), "kinh doanh điện tử" (electronic business),
"thương mại không giấy tờ” (paperless commerce hoặc paperless trade) v..v;
gần đây “thương mại điện tử” (electronic commerce EC hoặc E- commerce)
được sử dụng nhiều trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc
tế, rằng các tên gọi khác vẫn thể được dùng được hiểu với cùng một nội
dung.
Thương mại điện tử (EC hay E-Commerce): theo Kalakota Whinston
(1997) “Thương mại điện tử quá trình mua, bán trao đổi sản phẩm, dịch
vụ thông tin thông qua hệ thống máy tính trên nền Internet” một khái niệm
được sử dụng để tả quá trình mua bán hoặc trao đổi sản phẩm, dịch vụ
thông tin qua mạng máy tính, kể cả Internet. Thuật ngữ "Thương mại"
(Commerce) được nhiều người hiểu là một số giao dịch được thực hiện giữa các
hoạt động kinh doanh vậy, thương mại điện tử cũng thường được hiểu theo
định nghĩa thu gọn mua bán trên mạng, hay mua bán thông qua các
phương tiện điện tử. Họ đồng nghĩa Thương mại điện tử với E-Trade.
Thuật ngữ “Thương mại” trong bài giảng này được hiểu theo nghĩa rộng,
các hoạt động kinh tế nhằm đạt được mục tiêu sinh lợi của các doanh nghiệp
chủ yếu trên thị trường. vậy, “Thương mại điện tử (Thương mại điện tử)
cũng được hiểu tương thích với kinh doanh điện tử thể xem xét dưới các
góc độ sau đây:
: Thương mại điện t tử thể thực hiện dưới nhiều hìnhTừ góc độ số hóa
thức phụ thuộc vào mức độ số hoá của các sản phẩm/dịch vụ mua bán, quá trình
mua bán, vận chuyển giao nhận vhàng.
Hình 1.2. Thương mại điện tử theo mức độ số hoá
Nguồn : Trần Văn Hoè, Giáo trình thương mại điện tử căn bản, NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân, HN, 2015
Hình trên cho thấy mức độ hóa học của điện tử thương mại. Một sản
phẩm thể sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm số hóa, một tổ chức thể
một quan cụ thể hoặc một quan số hóa một quá trình cũng thể quá
trình vật chất hay số hóa. Điều này tạo nên tám hình khối, mỗi khối ba cạnh.
Trong truyền thông thương mại, tất cả các khía cạnh này đều hữu hình (Hình
khối bên dưới bên trái). Trong thương mại điện tử tinh khiết, tất cả các cạnh này
đều số hóa (Hình khối phía bên phải). Tất cả các khối còn lại đều tính
của truyền thông thương mại tinh chất thương mại, tùy thuộc vào mức độ hóa
học của các hoạt động trong giao dịch thể xem đó giao dịch thương mại
hệ thống hoặc điện tử thương mại giao dịch.
Mua hàng trực tuyến thông qua phương tiện điện tử điện thoại thông
minh... thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán quá trình vận chuyển lại
được thực hiện bằng phương tiện vận chuyển tải hệ thống thì đó không phải
thương mại điện tử thuần túy nhưng nếu việc mua hàng, giao nhận hàng
thanh toán đều được số hóa thì đó thương mại điện tử thuần túy.
Từ góc độ các lĩnh vực kinh doanh: Thương mại điện tử diễn ra hầu
khắp các lĩnh vực kinh doanh, thúc đẩy các lĩnh vực kinh doanh phát triển, đồng
thời tạo nên bản sắc mới của hoạt động kinh doanh trên phạm vi toàn cầu .
Từ góc kinh doanh viễn thông: Thương mại điện tử công việc chuyển
giao thông tin, sản phẩm dịch vụ hoặc thanh toán thông qua điện thoại, mạng
máy tính hay bất kỳ phương tiện điện tử nào khác.
Từ góc độ của quá trình kinh doanh: Thương mại điện tử ứng dụng
công nghệ Internet để tự động hóa các dòng chuyển sản phẩm các giao dịch
kinh doanh.
Từ góc độ kinh doanh dịch vụ: Thương mại điện tử phương tiện tiện lợi
cho doanh nghiệp, người tiêu dùng cắt giảm chi phí dịch vụ trong khi vẫn nâng
cao chất lượng hàng hóa, tăng tốc độ dịch vụ chuyển giao.
Từ góc độ hỗ trợ trực tuyến góc độ: Thương mại điện tử cung cấp thông tin
khả năng mua bán sản phẩm trên Internet.
Nhìn về một cách tổng quát, các định nghĩa thương mại điện tử được chia
thành hai nhóm tùy thuộc vào các quan điểm khác nhau:
Theo nghĩa rộng, thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng các giao dịch
tài chính chính thương mại bằng phương pháp tiện ích điện tử như: trao đổi
dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ
tín dụng.
Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần hẹp thương mại điện
tử trong việc mua bán hàng hóa dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử,
đặc biệt qua Internet các mạng lưới truyền thông khác.
Tóm lại, thương mại điện tử nhiều định nghĩa theo nhiều phạm vi khác
nhau. Về bản, thương mại điện tử theo nghĩa hẹp được hiểu các hoạt động
thương mại hàng hóa dịch vụ thông qua thương mại điện tử mạng
Internet. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được hiểu tất cả các hoạt động
thương mại các hoạt động liên quan được thực hiện một phần hoặc toàn bộ
thông qua các phương tiện điện tử Internet.
1.2.2 Đặc trưng của thương mại điện tử
- Thương mại điện tử không thể hiện các văn bản giao dịch trên giấy thể
hiện bằng phương tiện điện tử khác. Đặc trưng này làm thay đổi căn bản văn hóa
giao dịch, bởi lẽ độ tin cậy không còn phụ thuộc vào cam kết bằng giấy tờ
bằng niềm tin lẫn nhau giữa các đối tác. Giao dịch không dùng giấy cũng làm
giảm đáng kể chi phí nhân lực để chu chuyển, lưu trữ tìm kiếm các văn
bản khi cần thiết. Giao dịch không dùng giấy đòi hỏi kỹ thuật bảo đảm an ninh
an toàn dữ liệu mới. Đó an ninh an toàn giao dịch thương mại điện tử.
- Thương mại điện tử phụ thuộc công nghệ thông tin người sử dụng.
Cùng với sở mạng, thương mại điện tử cần đội ngũ nhân viên không chỉ
thành thạo về công nghệ, còn kiến thức kỹ năng về quản trị kinh doanh
nói chung, về thương mại nói riêng.
- Thương mại điện tử phụ thuộc mức độ số hóa (thương mại số hóa). Tùy
thuộc vào mức độ số hóa của nền kinh tế khả năng hội nhập số hóa với nền
kinh tế toàn cầu thương mại điện tử thể đạt được các cấp độ t thấp đến
cao.
- Thương mại điện tử tốc độ nhanh. Nhờ áp dụng kỹ thuật số nên tất cả
các bước của quá trình giao dịch đều được tiến hành thông qua mạng máy tính.
Tất cả những điều này đã làm cho thương mại điện tử đạt tốc độ nhanh nhất
trong các phương thức giao dịch, tạo nên tính cách mạng trong giao dịch thương
mại.
So với các hoạt động thương mại truyền thống, thương mại điện tử một
số điểm khác biệt bản sau:
- Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực
tiếp với nhau không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Trong thương mại truyền
thống, các bên thương gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao
dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật như chuyển tiền, séc, hóa
đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex,.. chỉ
được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các
phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin
một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch. Thương mại điện tử
cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực
đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người khắp mọi nơi đều hội
ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu không đòi hỏi nhất
thiết phải mối quen biết với nhau.
- Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong một
thị trường không biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện
tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu. Thương mại điện tử
càng phát triển, thì máy tính nhân tr thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng
ra thị trường trên khắp thế giới. Với thương mại điện tử, một doanh nhân mới
thành lập đã thể kinh doanh Nhật Bản, Đức Chilê..., không hề phải
bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
- Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều sự tham gia của ít
nhất ba chủ thể, trong đó một bên không thể thiếu được người cung cấp
dịch vụ mạng, các quan chứng thực. Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ
thể tham gia quan hệ giao dịch (giống như giao dịch thương mại truyền thống)
đã xuất hiện một bên thứ ba, đó nhà cung cấp dịch vụ mạng, các quan
chứng thực... những người tạo môi trường cho các giao dịch thương mại điện
tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng quan chứng thực nhiệm vụ chuyển đi,
lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng
thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại
điện tử.
- Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ phương tiện
để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính
thị trường. Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại nh kinh doanh mới
được hình thành. dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình
thành nên các nhà trung gian ảo các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh
tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa dịch vụ trên
mạng máy tính.
1.3 Lợi ích của thương mại điện tử
Hiện nay, mặc thương mại điện tử (TMĐT) mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong các hoạt động kinh tế, nhưng đã đang góp phần đẩy mạnh các quá trình
thương mại thông thường mở ra các cách làm ăn mới, tổ chức công việc
mới. TMĐT giúp phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các quá trình
cạnh tranh giá, đặc biệt việc sử dụng “intelligent agents". Lợi ích của thương
mại điện tử được thể hiện các điểm sau:
Đối với các doanh nghiệp:
Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu ít hơn nhiều so với thương mại
truyền thống, các công ty thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận nhà cung
cấp, khách hàng đối tác trên toàn thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung
cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức thể mua với giá thấp hơn bán
được nhiều sản phẩm hơn.
Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web
Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 không mất
thêm nhiều chi phí biến đổi.
Thương mại điện tử góp phần giảm lượng tồn kho đòi hỏi về sở vật
chất kỹ thuật : Thông qua việc áp dụng phương pháp quản dây chuyền cung
ứng “kéo" ("pull"-type supply chain management). Quá trình này bắt đầu từ đặt
hàng của khách hàng sử dụng phương pháp sản xuất đúng thời hạn. Phương
pháp kéo thúc đẩy sự tương thích sâu sắc giữa nhu cầu của khách hàng với sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh khi marketing
trên thị trường.
Thương mại điện tử kích thích sự sáng tạo tạo điều kiện để khởi động
những dự án kinh doanh mới, tăng khả năng thành công của các phương án kinh
doanh nhờ thay đổi quy trình cho hợp lý, tăng năng suất của người bán hàng,
trang bị kiến thức cho người lao động, đặc biệt lao động quản lý.
Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, chi phí thông tin, chi phí in
ấn, gửi văn bản truyền thống.
Giảm chi phí giao dịch: Nhờ thương mại điện tử thời gian giao dịch
giảm đáng kể chi phí giao dịch cũng giảm theo. Thời gian giao dịch qua
Internet chỉ bằng 70% so với giao dịch qua fax bằng 5% so với giao dịch qua
bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch thông
qua bưu điện. Chi phí thanh toán điện tử cũng giảm.
Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua
mạng, quan hệ với trung gian khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng
thời việc biệt hóa sản phẩm dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với
khách hàng củng cố lòng trung thành.
Thông tin cập nhật: mọi thông tin trên web như: sản phẩm, dịch vụ, giá
cả... đều thể được cập nhật nhanh chóng kịp thời.
Chi phí đăng kinh doanh: Một số nước khu vực khuyến khích bằng
cách giảm hoặc không thu phí đăng kinh doanh qua mạng trên thực tế, do
đặc thù riêng biệt nên việc thu phí đăng kinh doanh qua mạng cũng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn.
Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, cải thiện hình ảnh doanh nghiệp; cải
thiện chất lượng dịch vụ khách hàng; m kiếm các đối tác kinh doanh mới; đơn
giản hóa chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng năng suất, tăng khả năng
tiếp cận thông tin; tăng sự linh hoạt trong giao dịch hoạt động kinh doanh.
Đối với người tiêu dùng:
Vượt giới hạn về không gian thời gian: Thương mại điện tử cho phép
khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc trên khắp thế giới.
Nhiều lựa chọn về sản phẩm dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép
người mua nhiều lựa chọn hơn tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn.
Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng phong phú hơn nên
khách hàng thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp.
Thông tin phong phú, thuận tiện chất lượng cao hơn: Khách hàng thể
dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng dễ dàng thông qua các công cụ tìm
kiếm (search engines); đồng thời với các thông tin đa phương tiện (âm thanh,
hình ảnh).
Đấu giá: hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều thể
tham gia mua bán trên các sàn đấu giá đồng thời thể tìm, sưu tầm
những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng
cách miễn thuế đối với các giao dịch trên mạng.
Đối với hội:
TMĐT bước đầu chỉ một hiện tượng kinh tế, hiện nay đã trở thành bộ
phận của một quá trình cải biến hội rộng lớn hơn trên nền tảng của xu thế
toàn cầu hóa, của quá trình dịch chuyển đến nền kinh tế dựa trên sở tri thức
thông tin, với công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ thông tin...)
biến chuyển nhanh chóng, rút ngắn thời gian từ nghiên cứu đến ứng dụng. ít
nhất hai yếu t hội dùng để xem xét trình độ phát triển hiệu quả của
TMĐT: (1) khả năng liên kết bởi TT, các điều kiện hệ quả (ví dụ: thu
nhập thời gian), (2) niềm tin.
Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc,
mua sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn giao thông.
Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp sẽ tạo áp lực
giảm giá, do đó khả năng mua sắm của khách hàng sẽ cao hơn, nâng cao mức
sống của mọi người. TMĐT làm tăng thêm lòng tin của người dân, tạo điều kiện
cho các dịch vụ khác phát triển.
Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo thể tiếp cận với các
sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet TMĐT.
Đồng thời cũng thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua
mạng.
Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng, như:
y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với
chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, vấn y tế...
các dụ thành công điển hình.
1.4. Các yếu tố cản trở sự phát triển của TMĐT
Các yếu tố cản trở sự phát triển của TMĐT hay những hạn chế của thương
mại điện tử thể phân chia thành hai nhóm, những vấn đề về kỹ thuật phi kỹ
thuật.
Những vấn đề kỹ thuật của thương mại điện tử: Những vấn đề kỹ thuật của
thương mại điện tử bao gồm:
- Thiếu sự an toàn của cả hệ thống, độ tin cậy, các chuẩn mực sở kỹ
thuật cho những giao tiếp cần thiết.
- Độ rộng giải tần còn thiếu.
- Các công cụ phát triển phần mềm thay đổi thường xuyên.
- Còn tồn tại rất nhiều khó khăn trong việc hợp nhất Internet, phần mềm
thương mại điện tử với một số ứng dụng sở dữ liệu hiện có.
- Thiết bị ngoại vi cần những máy chủ trang web đặc biệt sở hạ tầng
kỹ thuật khác bổ sung cho máy chủ của mạng giao dịch.
- Một số phần mềm thương mại điện tử không khớp với phần cứng hoặc
không tương thích với hệ thống vận hành hoặc các thiết bị khác.
- Tuy nhiên, những vấn đề kỹ thuật thể dần dần được khắc phục cùng với
sự tiến bộ của công nghệ chuyển giao công nghệ từ những quốc gia phát triển
sang các quốc gia đang phát triển. Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia thương
mại điện tử cũng cần một kế hoạch thích hợp để tối thiểu hoá ảnh hưởng tiêu
cực của những vấn đề kỹ thuật.
Trên thực tế còn tồn tạiNhững vấn đề phi kỹ thuật của Thương mại điện tử :
rất nhiều những vấn đề phi kỹ thuật đã làm giảm tốc độ phát triển sự mở rộng
nhanh chóng của thương mại điện từ, những vấn đề đó bao gồm:
- Chi phí hạch toán các chi phí: Chi phí phát triển thương mại điện từ
trong các hộ gia đình thể rất cao thể gặp những trục trặc do thiếu kinh
nghiệm. rất nhiều hội cho áp dụng các phương pháp tổ chức sản xuất kinh
doanh tiến bộ (Quốc tế hoá sản xuất theo chiều rộng chiều sâu, sử dụng
phương pháp JIT, v.v.) nhưng ứng dụng đâu như thế nào thì không đơn
giản. Hơn nữa, việc so sánh giữa chi phí bỏ ra lợi ích thu được từ thương mại
điện tử của các doanh nghiệp hộ gia đình đang phải giải quyết vấn đề đo
lường những lợi ích hình như thế nào, chẳng hạn như cải thiện dịch vụ khách
hàng giá trị của quảng cáo.
- Vấn đề an toàn bảo mật: Mặc vấn đề an toàn bảo mật đã được cải
thiện nhiều trong quá trình phát triển không ngừng của thương mại điện tử
nhưng khách hàng vẫn coi đây vấn đề cốt tử trong giao dịch của họ do đó
thương mại điện tử phải đối mặt với một nhiệm vụ khó khăn lâu dài thuyết
phục khách hàng rằng giao dịch trực tuyến an toàn vẫn bảo đảm mật
riêng của các nhân giao dịch.
- Thiếu niềm tin đối với khách hàng: Khách hàng thường không tin tưởng
vào những đối tác giao dịch không hiện diện, không thể hiện trên giấy thanh
toán bằng tiền điện từ.
Những vấn đề phi kỹ thuật khác:
- Không thể cảm quan trực tiếp được sản phẩm trong giao dịch thương mại
điện tử, chẳng hạn, người mua không thể xem xét trực tiếp được quần áo khi họ
muốn mua thời trang cho mình.
- Nhiều vấn đề pháp không thể giải quyết được trong thương mại điện tử,
đặc biệt những qui định của chính phủ những tiêu chuẩn cần thiết rất khó
thiết lập điều chỉnh kịp thời.
- Thiếu các dịch vụ trợ giúp cần thiết như vấn đề bảo hộ bản quyền trong
các giao dịch thương mại điện từ còn yếu, các chuyên gia về thuế trong thương
mại điện tử còn ít, v.v.
- Thiếu một lực lượng bán hàng kỹ thuật trong thương mại điện tử để
bảo đảm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Thương mại điện tử cũng thể dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ cần
thiết giữa những người tham gia giao dịch.
Thương mại điện tử cũng thể dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ cần thiết
giữa những người tham gia giao dịch.
1.5 Các lĩnh vực ứng dụng của thương mại điện tử
Một số ứng dụng chung nhất liên quan đến thương mại điện tử được liệt
dưới đây:
- Chính phủ điện tử
- Thương mại hóa hàng hóa dịch vụ
- Ngân hàng, tài chính
- Dịch vụ du lịch trực tuyến
- Dịch vụ việc làm trực tuyến
- Dịch vụ đào tạo trực tuyến
- Xuất bản trực tuyến

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ HẢI PHÒNG GIÁO TRÌNH
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Mã học phần : ECO33021 Số tín chỉ : 02
GV phụ trách giảng dạy : Ths. Bùi Thị Bích Ngọc
HẢI PHÒNG , 2024
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1.Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử
1.1.1 Quá trình hình thành thương mại điện tử
Vào những năm 60 của thế kỉ XX việc trao đổi những dữ liệu điện tử và
thư tín điện tử (e- mail) đã được nhiều doanh nghiệp trên thế giới thực hiện trên
mạng nội bộ (intranet) của mình. Cũng trong khoảng thời gian này, việc tự động
hoá trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành và phát triển,
chẳng hạn như quá trình xử lý séc ra đời vào những năm 60 của thế kỷ XX, tiếp
theo là quá trình xử lý thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tử. Tiếp đó là sự ra đời
của các trạm giao dịch tự động cho phép khách hàng có thể tự thực hiện giao
dịch và truy cập trực tiếp với các thông tin về tài khoản của mình.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX,nhiều hệ thống giao dịch tự động được đưa
vào hoạt động với việc sử dụng các thiết bị giao dịch tự động (ATMs-
Automatic Teller Machines) và các thiết bị điểm bán hàng (Point-of-Sale
Machines. Khái niệm chuyển tiền số hoá hay chuyển tiền điện tử giữa các ngân
hàng và các tổ chức tài chính ra đời và phát triển cho đến ngày hôm nay.
Về nguồn gốc, thương mại điện tử được xem như là điều kiện thuận lợi của
các giao dịch thương mại điện tử, sử dụng công nghệ như EDI và EFT. Cả hai
công nghệ này đều được giới thiệu thập niên 70, cho phép các doanh nghiệp gửi
các hợp đồng điện tử như đơn đặt hàng hay hóa đơn điện tử. Sự phát triển và
chấp nhận của thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động (ATM) và ngân hàng điện thoại
vào thập niên 80 cũng đã hình thành nên thương mại điện tử. Một dạng thương
mại điện tử khác là hệ thống đặt vé máy bay bởi Sabre ở Mỹ và Travicom ở Anh.
Vào thập niên 90, thương mại điện tử bao gồm các hệ thống hoạch định tài
nguyên doanh nghiệp (ERP), khai thác dữ liệu và kho dữ liệu.
Năm 1990, Tim Berners-Lee phát minh ra WorldWideWeb trình duyệt web
và chuyển mạng thông tin liên lạc giáo dục thành mạng toàn cầu được gọi là
Internet (www). Các công ty thương mại trên Internet bị cấm bởi NSF cho đến
năm 1995. [3] Mặc dù Internet trở nên phổ biến khắp thế giới vào khoảng năm
1994 với sự đề nghị của trình duyệt web Mosaic, nhưng phải mất tới 5 năm để
giới thiệu các giao thức bảo mật (mã hóa SSL trên trình duyệt Netscape vào cuối
năm 1994) và DSL cho phép kết nối Internet liên tục. Vào cuối năm 2000, nhiều
công ty kinh doanh ở Mỹ và Châu Âu đã thiết lập các dịch vụ thông qua
World Wide Web Từ đó con người bắt đầu có mối liên hệ với từ "ecommerce"
với quyền trao đổi các loại hàng hóa khác nhau thông qua Internet dùng các giao
thức bảo mật và dịch vụ thanh toán điện tử.
Tuy nhiên , khi nói tới sự hình thành và phát triển của TMĐT trước hết
người ta hay gắn nó với sự hình thành và phát triển của Internet. Kể từ khi
Internet được khai thác để phục vụ cho mục đích thương mại đã hình thành
nhiều thuật ngữ để chỉ về hoạt động kinh doanh như : “thương mại trực tuyến”
(online trade), thương mại điều khiển học (cybertrade), kinh doanh điện tử
(electronic business), thương mại không có giấy tờ (paperless trade), gần đây
thương mại điện tử (electronic commerce- EC hoặc E- commerce) được sư
dụng nhiều và trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù
rằng các tên gọi khác vẫn có thể được dùng và được hiểu với cùng một nội dung.
1.1.2 Quá trình phát triển của TMĐT
1979: Michael Aldrich phát minh ra thương mại điện tử
Michael Aldrich đã giới thiệu mua sắm điện tử bằng cách kết nối một
chiếc TV đã được sửa đổi với một máy tính xử lý giao dịch thông qua đường
dây điện thoại. Công nghệ này giúp truyền dữ liệu thanh toán một cách an toàn
và trở thành nền tảng cho thương mại điện tử hiện đại.
1982: Công ty thương mại điện tử đầu tiên ra mắt
Boston Computer Exchange ra mắt vào năm 1982. Đây là một thị trường
trực tuyến dành cho những người quan tâm đến việc bán máy tính đã qua sử dụng của họ.
1992: Thị trường thương mại điện tử đầu tiên ra mắt
Book Stacks Unlimited được ra mắt vào năm 1992 bởi Charles M. Stack.
Ban đầu nó chỉ là một bảng thông báo quay số nhưng sau đó nó đã được ra mắt
là một thị trường trực tuyến từ tên miền Books.com
1994: Netscape Navigator ra mắt dưới dạng trình duyệt web
Trước khi Google xuất hiện, Marc Andreessen và Kim Clark đã tung ra
trình duyệt web đầu tiên trên thế giới có tên là Netscape Navigator. Nó đã trở
thành trình duyệt web chính trên nền tảng Windows trong suốt những năm 1990.
1995: Amazon ra mắt
Jeff Bezos ra mắt doanh nghiệp mà giờ đây đã trở thành thị trường thương
mại điện tử lớn nhất thế giới – Amazon. Ban đầu nó là một nền tảng Thương
mại điện tử dành cho sách. Cũng trong năm đó, giao thức bảo mật nổi tiếng SSL
đã được ra mắt giúp bán hàng trực tuyến an toàn hơn.
1998: PayPal ra mắt với tư cách là hệ thống thanh toán thương mại điện tử đầu tiên
PayPal được thành lập bởi 4 nhà sáng lập – Max Lebhin, Peter Thiel, Luke
Nosek và Ken Howery. Nó là một công cụ chuyển tiền mà sau này được sáp
nhập với công ty ngân hàng trực tuyến của Elon Musk vào năm 2000. 1999: Alibaba ra mắt
Alibaba Online ra mắt là một thị trường trực tuyến với hơn 25 triệu đô la
được tài trợ và đến năm 2001 đã có lãi. Alibaba nhanh chóng trở thành nền tảng
Thương mại điện tử trực tuyến lớn nhất cho các giao dịch B2B, C2C và B2C trên thế giới.
2000: Google ra mắt Google Adwords
Google Adwords mở ra một kỷ nguyên mới của quảng cáo trực tuyến. Đây
là công cụ đầu tiên cho phép các nhà bán lẻ quảng cáo sản phẩm của họ tới
những người tìm kiếm trên Google. Đây là sự khởi đầu của quảng cáo trả tiền
cho mỗi lần nhấp chuột (PPC). 2004: Shopify ra mắt
Tobias Lutke và Scott Lake đã ra mắt Shopify dưới dạng nền tảng Thương
mại điện tử dành cho các cửa hàng trực tuyến và hệ thống các điểm bán hàng.
Shopify hiện đang là nền tảng được hơn 80% thương hiệu thương mại điện tử toàn cầu chọn lựa.
2005: Amazon giới thiệu chương trình Amazon Prime
Một động thái chưa từng có, Amazon đã ra mắt Amazon Prime, dịch vụ để
khách hàng của họ được giao hàng miễn phí trong hai ngày với một khoản phí
cố định hàng năm. Chương trình có hơn 150 triệu thành viên trên toàn thế giới
và đã giúp công ty gia tăng lòng trung thành và quay lại mua hàng. Nhiều
nghiên cứu cho thấy 20% thành viên Amazon Prime mua sắm trên Amazon vài lần mỗi tuần. 2005: Etsy ra mắt
Etsy là thị trường trực tuyến đầu tiên dành cho đồ handmade và những người
thợ thủ công. Etsy ra mắt vào năm 2005 và đánh dấu một cột mốc quan trọng
đối với những người làm đồ handmade bấy giờ, Đây là thị trường duy nhất có
hơn 4,3 triệu người bán.
2009: BigC Commerce ra mắt
BigC Commerce là một nền tảng Thương mại điện tử được do Eddie
Machaalani và Mitchell Harper khởi xướng. Không giống như Shopify, BigC
Commerce không có phí giao dịch nên nó mang lại lợi thế cho các thương hiệu
mới tham gia thị trường. 2008: Ra mắt Groupon
Groupon là một thị trường toàn cầu kết nối khách hàng với thương nhân địa
phương thông qua các giao dịch và khuyến mãi. Đến năm 2010, nó đã có mặt ở
150 thành phố ở Bắc Mỹ và 100 thành phố ở Châu Âu, Châu Á và Nam Mỹ.
Groupon sau đó đã ra mắt thị trường hàng hóa vào năm 2015 có tên là Cửa hàng
Groupon. Đó là một cách để thu hẹp khoảng cách giữa cửa hàng trực tuyến và cửa hàng truyền thống.
2009: Amazon mua lại Zappos với giá 1,2 tỷ USD
Điều này đánh dấu thương vụ mua lại thị trường thương mại điện tử lớn đầu
tiên của một gã khổng lồ công nghệ.
2011: Google Wallet được giới thiệu
Đây là phương thức thanh toán kỹ thuật số đầu tiên ra đời sau Paypal và trở
thành tiêu chuẩn toàn cầu. Google Wallet giới thiệu một cách để các cá nhân gửi
và nhận tiền từ thiết bị di động hoặc máy tính để bàn. Sau này, nó trở thành một phần của Google Pay.
2011: Facebook triển khai hình thức quảng cáo đầu tiên
Quảng cáo đầu tiên của Facebook được cung cấp cho chủ sở hữu Trang
doanh nghiệp thông qua các câu chuyện được tài trợ. Đây là cách để các thương
hiệu quảng cáo trên newfeed người dùng thông qua các mẫu quảng cáo có trả phí. 2011: Stripe ra mắt
Stripe là một công ty xử lý thanh toán độc đáo ra mắt vào năm 2011 và cung
cấp cho các thương hiệu một cách xử lý thanh toán dễ dàng hơn.
2011: WooC Commerce ra mắt
WooC Commerce là đối thủ cạnh tranh của Shopify. WooC Commerce giới
thiệu cách đầu tiên để khởi chạy các trang web Thương mại điện tử trên WordPress.
2014: Apple Pay được giới thiệu
Apple Pay được ra mắt và trở thành phương thức thanh toán lớn thứ ba sau
Google Pay và PayPal cho người mua sắm trực tuyến. Nó cho phép người dùng
thanh toán cho các sản phẩm và dịch vụ bằng thiết bị Apple. 2014: Jet.com ra mắt
Jet được ra mắt vào năm 2014 bởi Marc Lore (người đã bán công ty
Diapers.com trước đây của mình cho Amazon), đây một thị trường mua hàng số
lượng lớn với giá thấp nhất ở mọi nơi. Công ty đã huy động được 820 triệu đô la
và được Walmart mua lại vào năm 2016 với giá 3,3 tỷ đô la.
2017: Bán hàng trên Instagram
Instagram đã triển khai tích hợp với BigC Commerce cho phép người dùng
nhấp vào hình ảnh của sản phẩm và ngay lập tức chuyển đến trang sản phẩm của
cửa hàng trực tuyến đó. Điều này đánh dấu một bước ngoặt để các nhà bán lẻ
quảng cáo trên phương tiện truyền thông xã hội và biến Instagram trở thành nền
tảng truyền thông xã hội hàng đầu thúc đẩy việc bán hàng
2017: Doanh thu của Cyber Monday – Thứ Hai điện tử vượt 6,5 tỷ đô la
Ngày Cyber Monday lập kỷ lục mới về doanh số bán hàng Thương mại điện
tử vượt qua 6,5 tỷ đô la, gấp đôi so với năm 2015.
2020: COVID-19 thúc đẩy giao dịch thương mại điện tử tăng 77%
Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy nhiều người tiêu dùng mua sắm trực tuyến
hơn bao giờ hết. Các nghiên cứu cho thấy rằng vào tháng 5 năm 2020, giao dịch
Thương mại điện tử đạt 82,5 tỷ đô la, tăng 77% so với năm trước.
1.2 Khái niệm và đặc trưng của TMĐT 1.2.1 Khái niệm
Thương mại điện tử sẽ trở thành đòn bẩy kinh tế cho sự tăng trưởng thương
mại ở nhiều quốc gia trong môi trường toàn cầu hóa. Đồng thời, nó sẽ trở thành
một nhân tố kinh tế có ý nghĩa toàn cầu. Cơ sở hạ tầng của thương mại điện tử là
mạng máy tính, khi nó đã đạt đến trình độ tiêu chuẩn cho hoạt động kinh doanh
và hoạt động của các chính phủ. Thương mại điện tử đã trở thành yếu tố xúc tác
làm thay đổi cơ cấu hoạt động và quản lý của các tổ chức.
Sự ra đời của thương mại điện tử gắn liền với sự hình thành và phát triển
của Internet. Kể từ khi Internet được khai thác để phục vụ cho mục đích thương
mại, đã hình thành nhiều thuật ngữ để chỉ về hoạt động kinh doanh như: “thương
mại trực tuyến" (online trade) (còn gọi là “thương mại tại tuyến”), “thương mại
điều khiển học” (cybertrade), "kinh doanh điện tử" (electronic business),
"thương mại không có giấy tờ” (paperless commerce hoặc paperless trade) v..v;
gần đây “thương mại điện tử” (electronic commerce EC hoặc E- commerce)
được sử dụng nhiều và trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc
tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể được dùng và được hiểu với cùng một nội dung.
Thương mại điện tử (EC hay E-Commerce): theo Kalakota và Whinston
(1997) “Thương mại điện tử là quá trình mua, bán và trao đổi sản phẩm, dịch
vụ và thông tin thông qua hệ thống máy tính trên nền Internet”
là một khái niệm
được sử dụng để mô tả quá trình mua và bán hoặc trao đổi sản phẩm, dịch vụ và
thông tin qua mạng máy tính, kể cả Internet. Thuật ngữ "Thương mại"
(Commerce) được nhiều người hiểu là một số giao dịch được thực hiện giữa các
hoạt động kinh doanh vì vậy, thương mại điện tử cũng thường được hiểu theo
định nghĩa thu gọn là mua và bán trên mạng, hay mua bán thông qua các
phương tiện điện tử. Họ đồng nghĩa Thương mại điện tử với E-Trade.
Thuật ngữ “Thương mại” trong bài giảng này được hiểu theo nghĩa rộng,
là các hoạt động kinh tế nhằm đạt được mục tiêu sinh lợi của các doanh nghiệp
chủ yếu trên thị trường. Vì vậy, “Thương mại điện tử” (Thương mại điện tử)
cũng được hiểu tương thích với kinh doanh điện tử và có thể xem xét dưới các góc độ sau đây:
Từ góc độ số hóa: Thương mại điện tử tử có thể thực hiện dưới nhiều hình
thức phụ thuộc vào mức độ số hoá của các sản phẩm/dịch vụ mua bán, quá trình
mua bán, vận chuyển và giao nhận vhàng.
Hình 1.2. Thương mại điện tử theo mức độ số hoá
Nguồn : Trần Văn Hoè, Giáo trình thương mại điện tử căn bản, NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân, HN, 2015
Hình trên cho thấy mức độ hóa học của điện tử thương mại. Một sản
phẩm có thể là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm số hóa, một tổ chức có thể là
một cơ quan cụ thể hoặc một cơ quan số hóa và một quá trình cũng có thể là quá
trình vật chất hay số hóa. Điều này tạo nên tám hình khối, mỗi khối có ba cạnh.
Trong truyền thông thương mại, tất cả các khía cạnh này đều hữu hình (Hình
khối bên dưới bên trái). Trong thương mại điện tử tinh khiết, tất cả các cạnh này
đều là số hóa (Hình khối phía bên phải). Tất cả các khối còn lại đều là vô tính
của truyền thông thương mại và tinh chất thương mại, tùy thuộc vào mức độ hóa
học của các hoạt động trong giao dịch mà có thể xem đó là giao dịch thương mại
hệ thống hoặc điện tử thương mại giao dịch.
Mua hàng trực tuyến thông qua phương tiện điện tử là điện thoại thông
minh... thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán và quá trình vận chuyển lại
được thực hiện bằng phương tiện vận chuyển tải hệ thống thì đó không phải là
thương mại điện tử thuần túy nhưng nếu việc mua hàng, giao nhận hàng và
thanh toán đều được số hóa thì đó là thương mại điện tử thuần túy.
Từ góc độ các lĩnh vực kinh doanh: Thương mại điện tử diễn ra ở hầu
khắp các lĩnh vực kinh doanh, thúc đẩy các lĩnh vực kinh doanh phát triển, đồng
thời tạo nên bản sắc mới của hoạt động kinh doanh trên phạm vi toàn cầu .
Từ góc kinh doanh viễn thông: Thương mại điện tử là công việc chuyển
giao thông tin, sản phẩm và dịch vụ hoặc thanh toán thông qua điện thoại, mạng
máy tính hay bất kỳ phương tiện điện tử nào khác.
Từ góc độ của quá trình kinh doanh: Thương mại điện tử là ứng dụng
công nghệ Internet để tự động hóa các dòng chuyển sản phẩm và các giao dịch kinh doanh.
Từ góc độ kinh doanh dịch vụ: Thương mại điện tử là phương tiện tiện lợi
cho doanh nghiệp, người tiêu dùng cắt giảm chi phí dịch vụ trong khi vẫn nâng
cao chất lượng hàng hóa, tăng tốc độ dịch vụ chuyển giao.
Từ góc độ hỗ trợ trực tuyến góc độ: Thương mại điện tử cung cấp thông tin
khả năng mua và bán sản phẩm trên Internet.
Nhìn về một cách tổng quát, các định nghĩa thương mại điện tử được chia
thành hai nhóm tùy thuộc vào các quan điểm khác nhau:
Theo nghĩa rộng, thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là các giao dịch
tài chính chính và thương mại bằng phương pháp tiện ích điện tử như: trao đổi
dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại điện
tử trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử,
đặc biệt là qua Internet và các mạng lưới truyền thông khác.

Tóm lại, thương mại điện tử có nhiều định nghĩa theo nhiều phạm vi khác
nhau. Về cơ bản, thương mại điện tử theo nghĩa hẹp được hiểu là các hoạt động
thương mại hàng hóa và dịch vụ thông qua thương mại điện tử và mạng
Internet. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được hiểu là tất cả các hoạt động
thương mại và các hoạt động liên quan được thực hiện một phần hoặc toàn bộ
thông qua các phương tiện điện tử và Internet.
1.2.2 Đặc trưng của thương mại điện tử
- Thương mại điện tử không thể hiện các văn bản giao dịch trên giấy mà thể
hiện bằng phương tiện điện tử khác. Đặc trưng này làm thay đổi căn bản văn hóa
giao dịch, bởi lẽ độ tin cậy không còn phụ thuộc vào cam kết bằng giấy tờ mà
bằng niềm tin lẫn nhau giữa các đối tác. Giao dịch không dùng giấy cũng làm
giảm đáng kể chi phí và nhân lực để chu chuyển, lưu trữ và tìm kiếm các văn
bản khi cần thiết. Giao dịch không dùng giấy đòi hỏi kỹ thuật bảo đảm an ninh
và an toàn dữ liệu mới. Đó là an ninh và an toàn giao dịch thương mại điện tử.
- Thương mại điện tử phụ thuộc công nghệ thông tin và người sử dụng.
Cùng với cơ sở mạng, thương mại điện tử cần có đội ngũ nhân viên không chỉ
thành thạo về công nghệ, mà còn có kiến thức và kỹ năng về quản trị kinh doanh
nói chung, về thương mại nói riêng.
- Thương mại điện tử phụ thuộc mức độ số hóa (thương mại số hóa). Tùy
thuộc vào mức độ số hóa của nền kinh tế và khả năng hội nhập số hóa với nền
kinh tế toàn cầu mà thương mại điện tử có thể đạt được các cấp độ từ thấp đến cao.
- Thương mại điện tử có tốc độ nhanh. Nhờ áp dụng kỹ thuật số nên tất cả
các bước của quá trình giao dịch đều được tiến hành thông qua mạng máy tính.
Tất cả những điều này đã làm cho thương mại điện tử đạt tốc độ nhanh nhất
trong các phương thức giao dịch, tạo nên tính cách mạng trong giao dịch thương mại.
So với các hoạt động thương mại truyền thống, thương mại điện tử có một
số điểm khác biệt cơ bản sau:
- Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực
tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Trong thương mại truyền
thống, các bên thương gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao
dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc, hóa
đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex,.. chỉ
được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các
phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin
một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch. Thương mại điện tử
cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực
đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội
ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất
thiết phải có mối quen biết với nhau.
- Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong một
thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện
tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu. Thương mại điện tử
càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng
ra thị trường trên khắp thế giới. Với thương mại điện tử, một doanh nhân dù mới
thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức và Chilê..., mà không hề phải
bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
- Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít
nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp
dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực. Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ
thể tham gia quan hệ giao dịch (giống như giao dịch thương mại truyền thống)
đã xuất hiện một bên thứ ba, đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan
chứng thực... là những người tạo môi trường cho các giao dịch thương mại điện
tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi,
lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng
thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại điện tử.
- Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện
để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính
là thị trường. Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới
được hình thành. Ví dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình
thành nên các nhà trung gian ảo là các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và
tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
1.3 Lợi ích của thương mại điện tử
Hiện nay, mặc dù thương mại điện tử (TMĐT) mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong các hoạt động kinh tế, nhưng đã và đang góp phần đẩy mạnh các quá trình
thương mại thông thường và mở ra các cách làm ăn mới, và tổ chức công việc
mới. TMĐT giúp phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các quá trình
cạnh tranh giá, đặc biệt là việc sử dụng “intelligent agents". Lợi ích của thương
mại điện tử được thể hiện ở các điểm sau:
Đối với các doanh nghiệp:
• Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư ít hơn nhiều so với thương mại
truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận nhà cung
cấp, khách hàng và đối tác trên toàn thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung
cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán
được nhiều sản phẩm hơn.
• Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web
và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất
thêm nhiều chi phí biến đổi.
• Thương mại điện tử góp phần giảm lượng tồn kho và đòi hỏi về cơ sở vật
chất kỹ thuật : Thông qua việc áp dụng phương pháp quản lý dây chuyền cung
ứng “kéo" ("pull"-type supply chain management). Quá trình này bắt đầu từ đặt
hàng của khách hàng và sử dụng phương pháp sản xuất đúng thời hạn. Phương
pháp kéo thúc đẩy sự tương thích sâu sắc giữa nhu cầu của khách hàng với sản
phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp và tạo ra lợi thế cạnh tranh khi marketing trên thị trường.
• Thương mại điện tử kích thích sự sáng tạo và tạo điều kiện để khởi động
những dự án kinh doanh mới, tăng khả năng thành công của các phương án kinh
doanh nhờ thay đổi quy trình cho hợp lý, tăng năng suất của người bán hàng,
trang bị kiến thức cho người lao động, đặc biệt là lao động quản lý.
• Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí giấy tờ, chi phí thông tin, chi phí in
ấn, gửi văn bản truyền thống.
• Giảm chi phí giao dịch: Nhờ có thương mại điện tử thời gian giao dịch
giảm đáng kể và chi phí giao dịch cũng giảm theo. Thời gian giao dịch qua
Internet chỉ bằng 70% so với giao dịch qua fax và bằng 5% so với giao dịch qua
bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch thông
qua bưu điện. Chi phí thanh toán điện tử cũng giảm.
• Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua
mạng, quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng
thời việc cá biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với
khách hàng và củng cố lòng trung thành.
• Thông tin cập nhật: mọi thông tin trên web như: sản phẩm, dịch vụ, giá
cả... đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
• Chi phí đăng ký kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng
cách giảm hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng và trên thực tế, do
đặc thù riêng biệt nên việc thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
• Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, cải thiện hình ảnh doanh nghiệp; cải
thiện chất lượng dịch vụ khách hàng; tìm kiếm các đối tác kinh doanh mới; đơn
giản hóa và chuẩn hóa các quy trình giao dịch; tăng năng suất, tăng khả năng
tiếp cận thông tin; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.
Đối với người tiêu dùng:
• Vượt giới hạn về không gian và thời gian: Thương mại điện tử cho phép
khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc trên khắp thế giới.
• Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép
người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn.
• Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên
khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp.
• Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể
dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm
kiếm (search engines); đồng thời với các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh).
• Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể
tham gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm
những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
• Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng
cách miễn thuế đối với các giao dịch trên mạng.
Đối với xã hội:
TMĐT bước đầu chỉ là một hiện tượng kinh tế, hiện nay đã trở thành bộ
phận của một quá trình cải biến xã hội rộng lớn hơn trên nền tảng của xu thế
toàn cầu hóa, của quá trình dịch chuyển đến nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức
và thông tin, với công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ thông tin...)
biến chuyển nhanh chóng, rút ngắn thời gian từ nghiên cứu đến ứng dụng. Có ít
nhất hai yếu tố xã hội dùng để xem xét trình độ phát triển và hiệu quả của
TMĐT: (1) khả năng liên kết bởi TMĐT, các điều kiện và hệ quả (ví dụ: thu
nhập và thời gian), (2) niềm tin.
• Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc,
mua sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn giao thông.
• Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp sẽ tạo áp lực
giảm giá, do đó khả năng mua sắm của khách hàng sẽ cao hơn, nâng cao mức
sống của mọi người. TMĐT làm tăng thêm lòng tin của người dân, tạo điều kiện
cho các dịch vụ khác phát triển.
• Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các
sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và TMĐT.
Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua mạng.
• Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng, như:
y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với
chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế...
là các ví dụ thành công điển hình.
1.4. Các yếu tố cản trở sự phát triển của TMĐT
Các yếu tố cản trở sự phát triển của TMĐT hay những hạn chế của thương
mại điện tử có thể phân chia thành hai nhóm, những vấn đề về kỹ thuật và phi kỹ thuật.
Những vấn đề kỹ thuật của thương mại điện tử: Những vấn đề kỹ thuật của
thương mại điện tử bao gồm:
- Thiếu sự an toàn của cả hệ thống, độ tin cậy, các chuẩn mực và cơ sở kỹ
thuật cho những giao tiếp cần thiết.
- Độ rộng giải tần còn thiếu.
- Các công cụ phát triển phần mềm thay đổi thường xuyên.
- Còn tồn tại rất nhiều khó khăn trong việc hợp nhất Internet, phần mềm
thương mại điện tử với một số ứng dụng cơ sở dữ liệu hiện có.
- Thiết bị ngoại vi cần những máy chủ trang web đặc biệt và cơ sở hạ tầng
kỹ thuật khác bổ sung cho máy chủ của mạng giao dịch.
- Một số phần mềm thương mại điện tử không khớp với phần cứng hoặc
không tương thích với hệ thống vận hành hoặc các thiết bị khác.
- Tuy nhiên, những vấn đề kỹ thuật có thể dần dần được khắc phục cùng với
sự tiến bộ của công nghệ và chuyển giao công nghệ từ những quốc gia phát triển
sang các quốc gia đang phát triển. Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia thương
mại điện tử cũng cần có một kế hoạch thích hợp để tối thiểu hoá ảnh hưởng tiêu
cực của những vấn đề kỹ thuật.
Những vấn đề phi kỹ thuật của Thương mại điện tử : Trên thực tế còn tồn tại
rất nhiều những vấn đề phi kỹ thuật đã làm giảm tốc độ phát triển và sự mở rộng
nhanh chóng của thương mại điện từ, những vấn đề đó bao gồm:
- Chi phí và hạch toán các chi phí: Chi phí phát triển thương mại điện từ
trong các hộ gia đình có thể rất cao và có thể gặp những trục trặc do thiếu kinh
nghiệm. Có rất nhiều cơ hội cho áp dụng các phương pháp tổ chức sản xuất kinh
doanh tiến bộ (Quốc tế hoá sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu, sử dụng
phương pháp JIT, v.v.) nhưng ứng dụng ở đâu và như thế nào thì không đơn
giản. Hơn nữa, việc so sánh giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu được từ thương mại
điện tử của các doanh nghiệp và hộ gia đình đang phải giải quyết vấn đề đo
lường những lợi ích vô hình như thế nào, chẳng hạn như cải thiện dịch vụ khách
hàng và giá trị của quảng cáo.
- Vấn đề an toàn và bảo mật: Mặc dù vấn đề an toàn và bảo mật đã được cải
thiện nhiều trong quá trình phát triển không ngừng của thương mại điện tử
nhưng khách hàng vẫn coi đây là vấn đề cốt tử trong giao dịch của họ và do đó
thương mại điện tử phải đối mặt với một nhiệm vụ khó khăn và lâu dài là thuyết
phục khách hàng rằng giao dịch trực tuyến là an toàn và vẫn bảo đảm bí mật
riêng của các cá nhân giao dịch.
- Thiếu niềm tin đối với khách hàng: Khách hàng thường không tin tưởng
vào những đối tác giao dịch không hiện diện, không thể hiện trên giấy và thanh
toán bằng tiền điện từ.
Những vấn đề phi kỹ thuật khác:
- Không thể cảm quan trực tiếp được sản phẩm trong giao dịch thương mại
điện tử, chẳng hạn, người mua không thể xem xét trực tiếp được quần áo khi họ
muốn mua thời trang cho mình.
- Nhiều vấn đề pháp lý không thể giải quyết được trong thương mại điện tử,
đặc biệt là những qui định của chính phủ và những tiêu chuẩn cần thiết rất khó
thiết lập và điều chỉnh kịp thời.
- Thiếu các dịch vụ trợ giúp cần thiết như vấn đề bảo hộ bản quyền trong
các giao dịch thương mại điện từ còn yếu, các chuyên gia về thuế trong thương
mại điện tử còn ít, v.v.
- Thiếu một lực lượng bán hàng có kỹ thuật trong thương mại điện tử để
bảo đảm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Thương mại điện tử cũng có thể dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ cần
thiết giữa những người tham gia giao dịch.
Thương mại điện tử cũng có thể dẫn đến phá vỡ các mối quan hệ cần thiết
giữa những người tham gia giao dịch.
1.5 Các lĩnh vực ứng dụng của thương mại điện tử
Một số ứng dụng chung nhất liên quan đến thương mại điện tử được liệt kê dưới đây: - Chính phủ điện tử
- Thương mại hóa hàng hóa dịch vụ - Ngân hàng, tài chính
- Dịch vụ du lịch trực tuyến
- Dịch vụ việc làm trực tuyến
- Dịch vụ đào tạo trực tuyến - Xuất bản trực tuyến