



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 39651089 1
HỆ THỐNG ÔN TẬP MÔN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Câu 1: Hãy phân tích nội dung quy định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Câu 2. Phân tích các quan điểm và giải pháp tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương. Liên hệ
Câu 3: Quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân. Liên hệ Câu
4. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật kiểu mới, tiến bộ.
Câu 5: Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là gì? Nêu các nhóm quan hệ
xã hội được Luật Hiến pháp điều chỉnh.
Câu 6: Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính là gì? Nêu các nhóm quan hệ
xã hội được Luật hành chính điều chỉnh.
Câu 7: Kết hôn trái pháp luật là gì? Xử lý việc kết hôn trái pháp luật?
Câu 8. Vì sao phải tăng cường Pháp chế XHCN hiện nay? Các biện pháp tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới?
Câu 9: Các hình thức của thực hiện pháp luật? lOMoAR cPSD| 39651089 2
Câu 1: Hãy phân tích nội dung quy định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung phát triển năm 2011), Hiến pháp nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam(Hiến Pháp
năm 2013) đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước ta. Đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp,kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đây là một trong những quan điểm và là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc
cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới; thể hiện sự phát
triển mới về nhận thức lý luận của Đảng và nhà nước ta trong quá trình tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân – thời kỳ đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới cả về kinh tế lần chính trị.
Về quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất
* Quyền lực nhà nước là thống nhất thể hiện trên 02 phương diện
- Về phương diện chính trị: là nền tảng của sự thống nhất đó là quyền lực nhà
nước bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân. Nhân dân là nguồn, là chủ thể của
quyền lực nhà nước. Nòng cốt của phạm trù “nhân dân’’ là “liên minh giữa giai
cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Mặt khác, quyền lực nhà nước là ý chí của giai cấp cầm quyền được thực hiện
thông qua Nhà nước. ở Việt Nam, giai cấp công nhân là giai cấp cầm quyền nhưng
liên minh chặt chẽ với nông dân và trí thức. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, không chỉ đại diện cho quyền lợi giai cấp mình mà
còn đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động, và của cả dân tộc. Nhân dân là
chủ thể thống nhất của quyền lực nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Điều 4 Hiến pháp ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung và phát triển năm
2011), Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân được Hiến pháp quan niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
nhà nước, Nhân dân thông qua quyền lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình
cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ quan tư pháp như các Hiến pháp trước lOMoAR cPSD| 39651089 3
đây. Theo điều 70 Hiến pháp năm 2013, Nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm
quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn
và nhiệm vụ về giám sát tối cao và quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước. Đồng thời điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
Nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông
qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong
đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (điều 29 và điều 120)… Có như vậy, nguyên
tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mới đúng, mới bảo đảm thực
hiện đầy đủ, không hình thức. Như vậy, thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu
là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tập trung thống nhất ở Nhân
dân chứ không phải tập trung ở Quốc hội. Quan niệm đó có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập
pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là Nhân dân,
đều do Nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống
nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà
nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung
là xây dựng một nhà nước “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về
mọi mặt của Nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” như Điều 3 Hiến pháp mới đã quy định.
- Về phương diện pháp lý: Đây là sự thống nhất nội tại chứ không phải là
phép cộng các bộ phận quyền lực. Quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Để
thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất cần xác lập cơ chế thực hiện quyền lực:
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Mặc dù Quốc hội là nơi thống nhất quyền lực nhà nước song Quốc hội không
trực tiếp thực hiện cả ba quyền mà trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Quốc hội giữ lại quyền lập pháp để trực tiếp thực hiện bởi
vì quyền lập pháp là quyền quan trọng nhất trong ba quyền, là quyền áp đặt ý chí
chung lên toàn xã hội; hai quyền còn lại ở góc độ nào đó đều mang tính chấp hành
của quyền lập pháp. Quyền hành pháp được giao cho Chính phủ và quyền tư pháp
được giao cho các tòa án nhân dân (Điều 69 Hiến pháp năm 2013 và Điều 94 và
Điều 102 Hiến pháp năm 2013). Có phân công như vậy mới bảo đảm việc thực
hiện quyền không dẫn tới lạm quyền, đồng thời bảo đảm tính chuyên nghiệp và
hiệu quả của mỗi quyền. Tuy nhiên, ba cơ quan này không thực hiện các quyền
được giao một cách hoàn toàn riêng rẽ mà luôn có sự phối hợp để thực hiện từng
quyền một cách hiệu quả, ví dụ Chính phủ, toà án phối hợp với Quốc hội để thực
hiện quyền lập pháp; Chính phủ phối họp với toà án để thực hiện quyền tư pháp.
Không những phối hợp, giữa các cơ quan nhà nước còn có sự kiểm soát lẫn nhau
để bảo đảm không có sự lạm quyền trong quá trình thực hiện các quyền nói trên, lOMoAR cPSD| 39651089 4
ví dụ Quốc hội giám sát Chính phủ, Toà án và Viện kiểm sát, Toà án kiểm soát
đối với các cơ quan hành chính nhà nước; trong nội bộ hệ thống hành chính nhà
nước do Chính phủ đứng đầu cũng có cơ chế kiểm soát riêng. Yeu tố “kiểm soát
quyền lực” là một nét mới quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc “quyền
lực thống nhất”. Ở đây cần lưu ý rằng, mặc dù có cơ che phân công, phối họp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp song các cơ quan thực hiện các quyền này không tồn tại riêng rẽ
hay ngang hàng nhau như trong một số mô hình tổ chức bộ máy nhà nước khác
trên thế giới, ví dụ Hoa Kỳ, Cộng hoà Liên bang Đức,. Ở Việt Nam, Quốc hội luôn
là nơi tập trung quyền lực được chuyển giao từ Nhân dân nên cho dù đã phân công
quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho toà án thực hiện, Quốc hội
vẫn luôn có quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan này cũng như tất cả các cơ
quan khác trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác không có quyền
giám sát tương tự đối với Quốc hội. Thậm chí, các cơ quan nhà nước ở trung ương
cũng đều có nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên của Hiến pháp
năm 2013 là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm của nhà
nước trước Nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn
và nhiệm vụ mà Nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các
yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất
là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để
hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là Nhân dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở Nhân dân, chủ
thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ
chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân. Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân theo Hiến pháp năm 2013 đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
* Về cơ chế phân công, phối hợp
- Thứ nhất, sự phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước thể hiện ở
sựphân định chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình cơ quan nhà nước, như: Quốc
hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền
hành pháp; Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền tư pháp.
Sự phân định càng rõ ràng cụ thể thì hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan
nhà nước càng được nâng cao,… Vì vậy, sự phân công quyền lực là cơ sở để thực
hiện tốt nhất nội dung quyền lực nhà nước là thống nhất.
Sự phân công quyền lực cơ quan nhà nước hạn chế được sự lạm quyền, chuyên
quyền độc đoán tập trung vào một cá nhân, tổ chức hay một cơ quan nhất định.
Mỗi cơ quan nhà nước sẽ thực nhiệm một nhiệm vụ chuyên biệt góp phần thực lOMoAR cPSD| 39651089 5
hiện tốt, có hiệu quả những hoạt động của tổ chức. Tuy nhiên luôn có sự phối hợp
lẫn nhau giữa ba quyềnn lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Do vậy, thông thường, người ta giao cho một cơ quan chủ yếu thực hiện một
quyền nào đó, còn các cơ quan khác cùng tham gia hỗ trợ cho cơ quan nói trên
trong việc thực hiện quyền lực đó. Chẳng hạn, việc thực hiện quyền lập pháp được
giao cho Quốc hội thực hiện chủ yếu, còn các cơ quan khác sẽ hỗ trợ thêm cho
Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, đối với các quyền lực khác cũng được phân
công tương tự như vậy.
- Thứ hai, sự phân công quyền lực nhà nước còn bao hàm cả sự phối hợp
quyềnlực. Sự phối hợp các quyền lực trong nhà nước được điều chỉnh một cách
nhịp nhàng và đồng bộ trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước
có tác dụng chế ước, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước để tránh nguy
cơ lạm dụng quyền lực, đồng thời, sự phối hợp còn có tác dụng hạn chế hoặc tránh
được sự xung đột quyền lực. Do vậy, pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước
này có thể đảm nhận mang tính trợ giúp một phần công việc thuộc thẩm quyền của
cơ quan chức năng khác khi có cơ sở cho rằng cơ quan trợ giúp cho điều kiện thực
hiện công việc đó tốt hơn so với cơ quan cần sự trợ giúp. Chẳng hạn, sự trợ giúp
của Chính phủ đối với Quốc hội trong việc soạn thảo các dự án luật giúp Quốc hội
thực hiện tốt hơn quyền lập pháp. Sự phối hợp còn tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau,
gắn kết chặt chẽ với nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lực nhà nước, hạn chế những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động của mỗi cơ quan.
- Thứ ba, sự phân công quyền lực không thể thực hiện một cách cứng nhắc
màluôn song hành với sự phối hợp để tạo thành sự thống nhất quyền lực nhà nước.
Sự phân công và phối hợp phải được xác định một cách uyển chuyển, linh hoạt,
sinh động. Khác với thuyết tam quyền phân lập như các kiểu nhà nước tư bản,
quyền lực nhà nước của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là có sự thống
nhất, phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, Đây cũng chính là một đặc điểm nổi bật riêng có của nhà nước
ta. Hạn chế sự chuyên quyền độc đoán mà thống nhất quyền lực nhà nước thuộc
về giai cấp thống trị - là toàn thể nhân dân lao động. * Kiểm soát QLNN
Kiểm soát quyền lực bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Quyền
lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực của Nhân
dân, được Nhân dân uỷ quyền, Nhân dân giao quyền. Nhân dân không trực tiếp
thực hiện QLNN của mình mà lại giao cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất
yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát QLNN. Nhân dân là
người nâng thuyền cũng là người lật thuyền, chính nhân dân mới thực sự là người
làm chủ của đất nước. Mọi luật pháp mọi quy định mọi hoạt động của các tổ chức
bộ máy nhà nước đều phải được nhân dân thừa nhận và thực hiện chức năng kiểm lOMoAR cPSD| 39651089 6
tra giám sát, có quyền can thiệp quyết định những sự kiện trọng đại của đất nước.
Với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra.
Xuất phát từ đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước được phân định
thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Phân công quyền lực nhà nước là
cơ sở, đòi hỏi khách quan để thực hiện được việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
* Liên hệ một số giải pháp hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc phân công,
phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp:
Thứ nhất, phải thực hiện đầy đủ cơ chế bãi miễn đại biểu của cử tri - một
phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân
Bãi nhiệm là một chế định pháp lý thể hiện bản chất ưu việt và mang tính chất
dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại biểu được nhân dân bầu
ra phải chịu sự giám sát của nhân dân, khi đại biểu không được sự tín nhiệm của
nhân dân thì nhân dân bãi miễn. Dân có quyền bầu, thì cũng có quyền bãi miễn
những người phụ lòng tin của mình. Theo quy định của pháp luật hiện hành, có
hai hình thức bãi miễn đại biểu. Đó là, đối với đại biểu Quốc hội thì bị cử tri hoặc
Quốc hội bãi nhiệm; Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân thì bị cư tri hoặc Hội
đồng nhân dân bãi nhiệm.
Theo đó, đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân
tùy theo mức độ sai phạm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi miễn. Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri bãi nhiệm đại
biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Mặt trận Tổ quốc tỉnh nơi có đại biểu bị bãi miễn. Đối với đại biểu Hội đồng nhân
dân thì có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn hoặc đưa ra để cử tri ở đơn vị bầu ra
đại biểu ấy bãi miễn theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Mặt
trận Tổ quốc cùng cấp. Tuy nhiên, cần phải cụ thể hóa hơn nữa quy trình thủ tục
bãi miễn, nhân dân mới có điều kiện để thực hiện. Khi đó, kiểm soát quyền lực
nhà nước bằng hình thức bãi miễn mới thực chất.
Thứ hai, phải tiếp tục tăng cường và sử dụng có hiệu quả các phương tiện
thông tin đại chúng - phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân
Trong Nhà nước dân chủ và pháp quyền, các phương tiện thông tin đại chúng như
báo chí, truyền thanh, truyền hình có vai trò to lớn trong việc kiểm soát quyền lực
nhà nước của nhân dân. Bởi, thông qua các phương tiện này, một mặt nhân dân
được cung cấp những thông tin có giá trị và liên tục về các hoạt động của Nhà
nước, của những người được nhân dân giao quyền, ủy quyền. Điều đó đòi hỏi Nhà
nước phải công khai, minh bạch các hoạt động của mình. Một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa như Nhà nước ta đang hoàn thiện phải có trách nhiệm trong
việc cung cấp những quyết định và các hành vi của các quan chức trong bộ máy
nhà nước. Việc được tiếp cận thông tin cho phép công dân chất vấn, đánh giá, tạo
dư luận xã hội đối với các hoạt động của nhà nước mà họ cho là không đúng,
không hợp lòng dân. Việc người dân được tiếp cận thông tin góp phần ngăn chặn lOMoAR cPSD| 39651089 7
các hành vi sai trái của quan chức nhà nước, nâng cao trách nhiệm của họ trước
nhân dân. Mặt khác, qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhân dân lại có diễn
đàn bày tỏ nguyện vọng, suy nghĩ của mình. Các phóng viên, nhà báo với những
phương tiện ngày càng hiện đại có điều kiện khả năng phát hiện và phản ánh ý
nguyện của nhân dân, của xã hội cho Nhà nước. Chính vì vai trò quan trọng của
bộ máy công luận nói trên mà nó trở thành một công cụ đắc lực trong việc kiểm soát quyền lực.
Thứ ba, thực hiện đúng và đầy đủ cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa Nhân dân và Nhà nước
Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân và
Nhà nước là cơ chế bên ngoài tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bao
gồm các yếu tố có quan hệ tác động qua lại với nhau một cách chặt chẽ sau:
Các nguyên tắc, các quy định ghi nhận việc giao quyền của nhân dân cho Nhà
nước thể hiện trong Hiến pháp và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước... Đây
là yếu tố về cơ sở pháp lý thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa nhân dân và Nhà nước. Đây cũng chính là căn cứ cho quá trình tổ
chức và hoạt động của quyền lực nhà nước theo các quy định được nhân dân giao
quyền và ủy quyền và trong giới hạn đó nhân dân thực hiện việc kiểm soát quyền
lực nhà nước của mình.
Hệ thống các hình thức, phương thức và quy tắc phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực nhà nước giữa Nhân dân và Nhà nước. Đó là các hình thức, phương
thức thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trưng cầu dân ý, bầu cử, bãi miễn đại
biểu, phương tiện thông tin đại chúng. Đây là các hình thức, các phương thức thực
hiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Các
hình thức, phương thức này không những được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn
phải được cụ thể hóa trong các đạo luật thì nhân dân mới có điều kiện trở thành
chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước trong việc phân công và kiểm
soát quyền lực nhà nước.
Tóm lại, Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề có phạm vi
nghiên cứu rất rộng, phức tạp liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị của Đảng
lãnh đạo; quyền làm chủ của nhân dân; tổ chức bộ máy nhà nước về lập pháp, hành
pháp, tư pháp và quyền lực nhà nước ở địa phương. Vấn đề này đòi hỏi vừa phải
nghiên cứu một cách có hệ thống, tìm kiếm các giá trị phổ quát của nhân loại, lại
vừa phải tập trung làm rõ tính chất, đặc điểm, thực trạng phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Câu 2. Phân tích các quan điểm và giải pháp tiếp tục hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương. Liên hệ
* Chính quyền địa phương: Là một bộ phận hữu cơ hợp thành của Nhà nước
được tổ chức ở các đơn vị hành chính, phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, lOMoAR cPSD| 39651089 8
hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc thù, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
trong phạm vi địa phương theo quy định của pháp luật. * Phân tích:
- Các quan điểm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương
ở Việt Nam hiện nay:
+ Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa hương bảo
đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm chính
quyền địa phương ở các cấp hoạt động hiệu quả, góp phần bảo đảm quyền dân chủ
của nhân dân địa phương: tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia các công
việc của chính quyền địa phương. Việc tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
phải được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bỏ phiếu kín, hợp lệ, hợp
pháp, thực chất và tránh hình thức. Hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp phải
bảo đảm tính dân chủ, công khai minh bạch, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Cần
tăng cường trách nhiệm giải trình của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và người đứng
đầu các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân các cấp. Tăng cường phân cấp,
phân quyền cho chính quyền địa phương gắn với việc phát huy dân chủ, mở rộng
sự tham gia của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương. Có cơ chế phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp ở chính quyền cấp cơ
sở; tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
+ Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương bảo đảm tính
thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, tránh hiện tượng
cắt khúc hay nhiều khâu trung gian trong tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương mỗi cấp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
phải luôn gắn với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổng thể về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; phân định rành mạch và kết hợp
chặt chẽ giữa quản lý theo ngành, theo lãnh thổ. Hoạt động của chính quyền địa
phương được vận hành trên cơ sở các nguyên tắc do Hiến pháp và pháp luật quy
định như nguyên tắc tập trung và dân chủ, nguyên tắc tập thể quyết định và cá
nhân phụ trách; nguyên tắc công khai, minh bạch... Do vậy, tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong thời gian tới cần phải quán
triệt quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: "cải cách thủ
tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian,
tinh giản biên chế. Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối,
trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với
người dân và doanh nghiệp".
+ Thứ ba, thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý cho chính quyền địa
phương ở mỗi cấp, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao; bảo đảm sự
kiểm soát quyền lực nhà nước của Trung ương đối với địa phương.
Việc phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính
quyền cần quan tâm đến yếu tố vùng, miền, đặc thù của các địa phương. Cùng với lOMoAR cPSD| 39651089 9
việc phân định thầm quyền, phải làm rõ mối quan hệ giữa các cơ quan chính quyền
ở trung ương và chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền, giữa Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
phải thực hiện nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa
phương trong việc tổ chức và thực hiện chính sách, pháp luật ở địa phương trong
phạm vi được phân cấp. Quán triệt và thực hiện nguyên tắc "đổi mới mạnh mẽ
phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa
phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương".
Đồng thời, thực hiện sự phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa trung ương và địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương cần "phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục sự chồng chéo, trùng
lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức”.
Đẩy mạnh nhiệm vụ cải cách hành chính ở các cấp chính quyền địa phương.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền địa phương tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp
bảo đảm chính quyền địa phương phải trực tiếp giải quyết công việc cụ thể của
dân, bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần vào sự ổn định và phát triển
đất nước và của mỗi địa phương.
+ Thứ tư, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc kiện toàn tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương.
Nhanh chóng thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về kiện toàn, tổ
chức bộ máy chính quyền địa phương bằng các quy định pháp luật nhằm bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương. Tổ chức, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chức năng và
nhiệm vụ chính quyền địa phương mỗi cấp; phân biệt rõ chính quyền địa phương
ở nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính kinh tế - đặc biệt để tổ chức bộ
máy phù hợp. Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác phổ biến, quán triệt quan
điểm, chủ trương của Đảng đến đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và các
tầng lớp nhân dân; bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức quan điểm của Đảng
về đổi mới, tổ chức kiện toàn chính quyền địa phương các cấp. Các cấp ủy đảng
thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời đối với những cơ quan, tổ chức
đảng, đảng viên vi phạm quy định của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương.
- Giải pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay.
+ Giải pháp xây dựng, hoàn thiện mô hình chính quyền địa phương
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: "Tiếp
tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng
kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản
trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". Để tiếp lOMoAR cPSD| 39651089 10
tục xây dựng, hoàn thiện mô hình chính quyền địa phương phù hợp cần thực hiện một số giải pháp sau:
Cụ thể hóa các tiêu chí đối với mỗi cấp chính quyền và tiêu chí để xây dựng và
hoàn thiện chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, tính chất của chính
quyền ở đô thị và nông thôn, hải đảo và đặc khu hành chính - kinh tế đặc biệt.
Đối với mô hình chính quyền địa phương ở đô thị: Điều chỉnh lại chức năng,
thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở địa bàn đô thị để bảo
đảm tính tập trung, thống nhất, nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý hành chính
ở đô thị. Tiếp tục tiến hành thực hiện các đề án thí điểm mô hình tổ chức chính
quyền địa phương ở đô thị.
Đổi mới cơ cấu, mô hình chính quyền địa phương ở nông thôn bảo đảm và phát
huy dân chủ, tính tự quản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Tiếp tục đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng nông thôn, góp phần khắc phục
những trở ngại về khoảng cách địa lý, bảo đảm sự tiện lợi cho nhân dân trong việc
thụ hưởng các dịch vụ công, tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Đối với chính quyền địa phương ở hải đảo: tổ chức chính quyền ở hải đảo trên
nguyên tắc phải bảo đảm tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
cấp chính quyền tại địa bàn hải đảo, bảo đảm linh hoạt, phát huy lợi thế của địa
phương, phát huy tiềm năng kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia, phát triển hải đảo.
Đối với chính quyền địa phương ở đặc khu hành chính - kinh tế đặc biệt: tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện luật về đơn vị, hành chính - kinh tế đặc biệt. Theo đó
phải tạo ra khung pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt để tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương nơi đây được áp dụng những cơ chế đặc thù trong việc đề xuất
và thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở địa phương theo
quy định của pháp luật.
+ Giải pháp xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương
Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định pháp luật liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
các cấp để kịp thời khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền.
Ban hành quy định pháp luật để tiếp tục thực hiện thống nhất chủ trương sắp
xếp, kiện toàn các cơ cấu bên trong của Hội đồng nhân dân và Úy ban nhân dân
các cấp theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó.
Thực hiện chủ trương của Đảng về nhất thể hóa một số chức danh cấp ủy đảng
với chính quyền ở một số nơi có điều kiện để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương.
Tiếp tục nghiên cứu, tổ chức thực hiện thí điểm việc sắp xếp, hợp nhất, sáp nhập
các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Tổng kết và
xây dựng mô hình về cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân lOMoAR cPSD| 39651089 11
dân cấp tỉnh, cấp huyện phù hợp với địa bàn đô thị, nông thôn, hải đảo và đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt.
Nghiên cứu giảm hợp lý số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và giảm
đại biểu Hội đồng nhân dân công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước; giảm số
lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; nâng cao chất lượng
hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân, phân định rõ trách nhiệm
của tập thể Ủy ban nhân dân và thành viên Ủy ban nhân dân, đặc biệt là trách
nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế giám sát, kiểm soát chặt chẽ để phòng ngừa
sự lạm quyền trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
+ Giải pháp thực hiện nhiệm vụ của chính quyền địa phương
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thẩm quyền, trình tự bạn hành các văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân. Đổi mới quy trình ban hành và nâng
cao chất lượng nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp. Hoạt động ban hành
nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải công khai thảo luận dân chủ tại các kỳ họp.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân ở các
cấp. Cần có các chế tài cụ thể và khả thi hơn để bảo đảm hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân có hiệu quả. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ trách
nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những yêu cầu, kết luận về giám
sát của Hội đồng nhân dân.
Xây dựng Quy chế hoạt động của Ủy ban nhân dân trong đó xác định rõ trách
nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân với các vị trí khác như Phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân và các thành viên của Ủy ban nhân dân. Quy chế cần quy định rõ những
công việc phải đưa ra tập thể ủy ban nhân dân bàn bạc và quyết định, những công
việc thuộc trách nhiệm và quyền hạn của cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân dân và
những công việc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân giao cho các Phó Chủ tịch và thành viên Ủy ban nhân dân.
Thực hiện nguyên tắc công khai tài sản, thu nhập tại thời điểm ứng cử, bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp hoặc trước khi được bổ nhiệm đối với những
người có chức vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương. Hoàn thiện cơ
chế đểtiếp nhận thông tin khiếu nại, tố cáo nhanh chóng, hiệu quả và bảo vệ người
khiếu nại, tố cáo, cung cấp thông tin liên quan đến việc kê khai tài sản, thu nhập
có dấu hiệu không trung thực của người có chức vụ, quyền hạn như Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch và thành viên Uy ban nhân dân, người đứng đầu các cơ quan chuyên môn.
Đổi mới các hình thức đánh giá năng lực và công tác hằng năm đối với Chủ tịch
Ủy ban nhân dân, các Phó Chủ tịch và thành viên Ủy ban nhân dân. Đổi mới quy
trình cung cấp thông tin trước và trong khi lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Hội đồng nhân dân bầu; quy định rõ các biện pháp xác định trách nhiệm
cụ thể đối với những chủ thể được lấy phiếu tín nhiệm và có cơ chế giám sát việc lOMoAR cPSD| 39651089 12
thực hiện trách nhiệm và lời hứa của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và thành viên của Ủy ban nhân dân.
+ Bảo đảm thực hiện sự phân công, phân cấp, ủy quyền giữa chính quyền
trung ương với chính quyền địa phương
Phân định rõ hơn vị trí, tính chất của chính quyền địa phương ở mỗi cấp trong
mối quan hệ với cấp trên và trung ương theo nguyên tắc chính quyền trung ương
quyết định chủ trương, chính sách, nhiệm vụ lớn ở tầm vĩ mô, còn chính quyền địa
phương thực hiện những nhiệm vụ cụ thể; đồng thời, khẳng định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc tổ chức thực hiện
Hiến pháp và pháp uật, thực hiện những nhiệm vụ ở địa phương theo phân cấp.
Thực hiện sự phân định thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương và giữa
các cấp chính quyền địa phương đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phát
huy mọi tiềm năng, thế mạnh của chính quyền địa phương các cấp; đồng thời,
tránh sự chồng chéo, trùng lắp hay đùn đẩy, né tránh trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ.
Thực hiện sự phân công, phân cấp và ủy quyền giữa chính quyền trung ương
và chính quyền phải xóa bỏ tư duy "bao cấp" một chiều, trên xuống dưới; khắc
phục tình trạng đã phân cấp nhưng chính quyền Trung ương vẫn giành quyền quyết
định hoặc can thiệp vào hoạt động của chính quyền địa phương.
Việc phân công, phân cấp và ủy quyền phải chú ý đến năng lực thực tế, tương
xứng với thẩm quyền và nguồn lực cần thiết (tổ chức, nhân sự, tài chính); tránh
tình trạng nhiều nhiệm vụ các cơ quan nhà nước ở trung ương giao cho chính
quyền địa phương thực hiện nhưng không đi kèm với việc phân bổ nguồn lực để
thực hiện, gây khó khăn cho chính quyền địa phương.
+ Bảo đảm hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội đối với chính quyền địa phương cấp tỉnh.
Phát huy vai trò kiểm soát của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với cơ
quan hành chính nhà nước cấp dưới, của Chính phủ đối với Ủy ban nhân dân các
cấp; bảo đảm sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc kiểm soát quyền lực nhà
nước của chính quyền địa phương.
Đổi mới hình thức, thủ tục nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân với Ủy ban nhân dân cùng cấp trong quá trình tổ chức thực hiện
Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Hoàn thiện quy định pháp luật và quy chế hóa mối quan hệ giữa các cơ quan
kiểm tra, giám sát của Đảng với cơ quan thanh tra, điều tra, truy tố và xét xử của
Nhà nước, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
ở địa phương đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. lOMoAR cPSD| 39651089 13
Hoàn thiện quy định pháp luật phát huy các hình thức giám sát của cử tri, công
dân, phương tiện truyền thông, báo chí, tổ chức xã hội đối với tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương.
Quy định rõ quy trình, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người đứng
đầu và biện pháp theo dõi quá trình thực hiện những kiến nghị về giám sát của
nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
+ Tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng về điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính ở cấp huyện và cấp xã dựa trên những căn cứ, tiêu chí khoa học
Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ "kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các
cấp, đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả"'
. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước tiên cần thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung
hoặc thay thế các quy định pháp luật về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính, bảo đảm
phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; xây dựng và hình thành
cấp có thẩm quyền về quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Các đơn vị
hành chính cấp huyện, cấp xã sau khi được sắp xếp phải đạt tiểu chuẩn về diện tích
tự nhiên, quy mô dân số theo quy định của pháp luật.
+ Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử và hiện
đại hóa nền hành chính nhà nước ở địa phương
Nhận thức và quán triệt quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII: "Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi
thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân
và doanh nghiệp". Theo đó, cần thực hiện các giải pháp:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý và xây dựng cơ sở dữ liệu nền tảng
phục vụ cho việc triển khai phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số ở địa
phương đặt trong tổng thể phát triển chính phủ điện tử và chính phủ số. Thực hiện
chiến lược chuyển đổi số quốc gia theo lộ trình. Tăng cường đầu tư tái cấu trúc hạ
tầng công nghệ thông tin các bộ, ngành, địa phương; chuyển đổi hạ tầng công nghệ
thông tin thành hạ tầng số ứng dụng điện toán đám mây.
Hai là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICTs),
đặc biệt công nghệ 4.0 (công nghệ được sử dụng và phát triển trong cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư) vào đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng
suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước; giảm chi phí và thời gian xử lý
công việc. Phát triển, nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến
mức độ 3 và 4 trên cổng dịch vụ công, hệ thống một cửa điện tử các cấp.
Ba là, xây dựng, vận dụng mô hình quản trị chính quyền đô thị hiện đại, từng
bước xây dựng và phát triển mô hình đô thị thông minh.
Liên hệ tăng cường các biện pháp tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương
Việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu toàn diện để hướng tới xây dựng chính quyền
địa phương theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển chung
của đất nước trong giai đoạn mới, cần bám sát các định hướng: Hoàn thiện pháp lOMoAR cPSD| 39651089 14
luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bảo đảm sự lãnh
đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ, đồng thời thực hiện phân cấp,
phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ
quan ngang bộ và chính quyền cấp tỉnh; giữa các cấp chính quyền địa phương. Xác
định rõ thẩm quyền của chính quyền địa phương, Kiến tạo môi trường thuận lợi
để chính quyền địa phương có thể chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống của nhân dân.
Một là, hoàn thiện pháp luật về phân định thẩm quyền giữa chính quyền
cấp trên và chính quyền địa phương cấp cơ sở
Chính quyền địa phương thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan cấp trên giao
kèm theo điều kiện bảo đảm thực hiện ở địa phương (kinh phí, con người). Cùng
với việc phân quyền theo nguyên tắc nói trên, Hiến pháp năm 2013 còn quy định
về ủy quyền. Khoản 3, Điều 112 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, chính
quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp
trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Quy định này chỉ ra rằng,
chính quyền địa phương còn là chủ thể được ủy quyền của chính quyền trung ương
trong việc thực thi một số công vụ nhất định. Tuy nhiên, đối với các công vụ do
cơ quan nhà nước cấp trên giao thì chính quyền địa phương sẽ được cơ quan nhà
nước cấp trên bảo đảm các điều kiện để thực hiện.
Bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trong việc thực hiện các
nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Mỗi địa
phương có những thế mạnh riêng, với phạm vi thẩm quyền của mình, chính quyền
địa phương cần phát huy, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Việc bảo đảm tăng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương phải được xem là
nguyên tắc căn bản trong phân cấp, phân quyền. Khi đã tăng tính chịu trách nhiệm,
chính quyền địa phương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thẩm quyền
được giao, tránh việc đùn đẩy trách nhiệm hoặc trông chờ, ỷ lại vào cấp trên.
Xây dựng chính quyền địa phương chính quyền tự quản. Một số thẩm quyền,
trách nhiệm của chính quyền địa phương tự quản: Nhóm những vấn đề ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của người dân địa phương và việc giải quyết những vấn đề
đó được người dân hoặc các cơ quan của chính quyền tự quản địa phương thực
hiện trực tiếp, tự chủ và độc lập phù hợp với Hiến pháp và luật; thẩm quyền giải
quyết các vấn đề được các cơ quan nhà nước chuyển giao theo quy định của pháp
luật. Đây là những thẩm quyền không thuộc vấn đề của địa phương nhưng có gắn
bó mật thiết với nhân dân địa phương và việc chuyển giao cho tự quản địa phương
vừa giúp cho công việc được thực hiện nhanh, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của cư
dân địa phương, vừa giảm sự cồng kềnh của Nhà nước.
Hai là, cần xác định rõ vị trí, tính chất và vai trò của từng loại đơn vị hành chính. lOMoAR cPSD| 39651089 15
Đây là một vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức hợp
lý các cấp chính quyền địa phương. Thực hiện tốt điều này sẽ làm cho bộ máy
hành chính trở nên ngày càng tinh gọn hơn tránh sự cồng kềnh, tăng hiệu quả, chất
lượng quản lý cũng như đảm bảo lợi ích mang lại cho người dân. Bên cạnh việc
xác định rõ vị trí, tính chất và vai trò của từng loại đơn vị hành chính, phân cấp,
điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền ở từng loại đơn vị hành chính,
từng cấp chính quyền thì cần có kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại về mặt quy mô của
các đơn vị hành chính theo hướng giảm bớt về số lượng đơn vị, mở rộng quy mô
về diện tích, dân số của từng đơn vị, đặc biệt là đối với các đơn vị hành chính cấp
cơ sở. Vì vậy, cần thực hiện tổng kết việc thực hiện một số nghị quyết của Bộ
Chính trị, Quốc hội, Chính phủ và các văn bản pháp luật có liên quan về đơn vị
hành chính và phân loại đơn vị hành chính các cấp. Từ đó làm cơ sở xây dựng và
thực hiện kế hoạch, lộ trình sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai
đoạn tiếp theo để thực hiện mục tiêu đến năm 2030 các đơn vị hành chính cấp
huyện, cấp xã trên cả nước được sắp xếp cơ bản, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta, phù hợp với quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính. Đặc
biệt, cần nghiên cứu xây dựng đề án thí điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh
ở những nơi có đủ điều kiện.
Ba là, đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương cần phải tiếp tục đổi mới cho phù hợp
với đặc điểm dân cư, phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ và đặc thù quản lý
hành chính nhà nước giữa nông thôn và thành phố mà Đảng ta đã đề ra nhiều năm
nay. Ở nước ta, quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố, thị xã
thuộc tỉnh là những đơn vị hành chính có tổ chức dân cư, phân chia đơn vị hành
chính và tính chất quản lý nhà nước hoàn toàn khác với cấp huyện thuộc tỉnh ở
tính chất trung gian thể hiện rõ nét hơn so với cấp huyện. Chính vì thế, không nên
rập khuôn tổ chức chính quyền ba cấp hành chính ở đô thị giống như ở nông thôn.
Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2019), trong đó có quy định về đơn vị hành chính đô thị
quận, phường (Điều 44 và Điều 58 của Luật được sửa đổi, bổ sung là: Chính quyền
địa phương ở quận, phường là cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể
Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương. Cấp chính quyền
địa phương ở quận, phường gồm có HĐND, UBND quận, phường).
Bên cạnh đó cần tăng cường mối quan hệ giữa HDND và UBND các cấp. Để
đảm bảo quyền và lợi ích cho nhân dân. Cần đi sâu đi sát với người dân để kịp thời
nắm bắt tâm tư nguyện vọng sửa đổi phù hợp với thực tế để hoàn thành tốt moii
nhiệm vụ, đảm bảo cơ chế vận hành ổn định, hiệu quả của các cơ quan tổ chức bộ
máy nhà nước. Tất cả đều vì quyền và lợi ích của toàn thể nhân dân. lOMoAR cPSD| 39651089 16
Câu 3: Quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân. Liên hệ Hôi đ ̣
ồng nhân dân và ủy ban nhân dân là cơ quan có vị trí và vai trò rất cao trong viêc tḥ
ực thi quyền lực nhà nước tại các địa phương, các cấp khác nhau, hôi đ ̣
ồng nhân dân do nhân dân tại địa phương bầu ra để giúp họ được thực
hiên ̣ quyền và nghĩa vụ của nhân dân trong các hoạt đông nḥ à nước cũng như
quyền tự do dân chủ, nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hôi cḥ ủ nghĩa của
dân do dân và vì dân, vì thế vai trò của hai cơ quan này có vai trò rất quan trọng trong viêc tḥ ực hiên dân cḥ ủ
1. Vị trí, chức năng của HĐND *Vị trí
Điều 113, HP 2013 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên” Qua đó thể hiện vị trí của HĐND là:
- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương: Hội đồng
nhân dân thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi địa phương mình.
- Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương: Hội đồng
nhân do nhân dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, theo nguyên tắc phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Hội đồng nhân dân trong nhà nước ta là cơ quan
gần gũi nhân dân nhất nên có thể hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân
dân, nắm vững đặc điểm địa phương. Hội đồng nhân dân còn là một tổ chức mang
tính chất quần chúng, bao gồm nhiều đại biểu của mọi tầng lớp nhân dân, dân tộc, tôn giáo,...
*Chức năng của HĐND
- Quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương: như quyết định những
chủ trương, biện pháp quan trọng để phát triển tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng an ninh,
không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân đân địa phương,
làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
- Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước cấp
trên và trung ương ở địa phương.
- Thực hiện các quyền giám sát đối với các hoạt động của Thường trực hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở các địa phương, giám
sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân. 2. Vị trí, chức năng của UBND * Vị trí:
Điều 114 HP 2013 quy định: “ Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương
do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân lOMoAR cPSD| 39651089 17
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng
nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”.
Qua đó thể hiện vị trí của UBND là:
- Ủy ban nhân dân được xác định là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân:
Vì Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra nên Ủy ban nhân dân
chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết
của Hội đồng nhân dân và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Ủy ban nhân được xác định là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
Ủyban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước,
chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp cũng như các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên.
*Chức năng của UBDND:
UBND tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương.
UBND tồ chức thực hiện Nghị quyết của HĐND và thực hiện các nhiệm vụ do
Chính quyền địa phương cấp trên giao.
Tuy nhiên chức năng bao hàm của UBND là quản lý nhà nước, vì quản lý nhà
nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của UBND. Như vậy
chức năng của UBND cũng giống như chức năng của Chính phủ nhưng lại khác ở
phạm vi và hiệu lực thực hiện.
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA HĐND VÀ UBND
- Trong cách thức tổ chức
HĐND là hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới, HĐND không
phải là cơ quan đại diện, tư vấn hay là cơ quan hành chính nhà nước, mà là cơ quan
đại diện quyền lực Nhà nước của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ. HĐND được coi
là một bộ phận hợp thành quyền lực Nhà nước chung của toàn quốc. UBND cũng
không phải là một cơ quan hành chính của cấp trên đặt ra ở địa phương để quản lý
mà là một cơ cấu thuộc HĐND với nhiệm vụ chính là “chấp hành” HĐND, đồng
thời được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương.
Vậy cả hai cơ quan này đều thuộc cơ cấu chính quyền địa phương thống nhất, cùng
có chức năng quản lý địa phương theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại
giữa UBND và HĐND vẫn còn có sự phân biệt nhất định. UBND là cơ quan trực
thuộc hai chiều: vừa trực thuộc HĐND vừa trực thuộc cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên nên UBND có tính độc lập tương đối, không còn lệ thuộc hoàn toàn vào HĐND nửa.
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đều được tổ chức ở các cấp đơn vị hành chính sau đây:
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);
- Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện);
- Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). lOMoAR cPSD| 39651089 18
HĐND và UBND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo Hiến pháp, Luật và các văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên, theo Điều 5 Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực
hiệnnguyên tắc tập trung dân chủ.
- Hiện đại, minh bạch, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân.
- Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
- Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với
trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
- Trong cách thức thành lập
Theo Điều 83 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định như sau:
1. “ Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dânbầu
Chủ tịch Hội đồng nhân dân trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân theo giới
thiệu của chủ tọa kỳ họp.
Trong nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân trong số
đại biểu Hội đồng nhân dân theo giới thiệu của Thường trực Hội đồng nhân dân.
Trường hợp khuyết Thường trực Hội đồng nhân dân thì Hội đồng nhân dân bầu
Chủ tịch Hội đồng nhân dân trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo giới thiệu
của chủ tọa kỳ họp được chỉ định theo quy định tại khoản 2 Điều 80 của Luật này.
2. Hội đồng nhân dân bầu Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban,
PhóTrưởng ban của Hội đồng nhân dân trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo
giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân. “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bầu
Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong số đại biểu Hội đồng nhân
dân theo giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh”. (Vế này không còn
vì đã được sửa đổi bổ sung theo Luật TCCQDP năm 2019)
3. Hội đồng nhân dân bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân theo giới thiệu của Chủ tịch
Hội đồng nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân được bầu tại kỳ họp thứ nhất của
Hội đồng nhân dân phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
được bầu trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.
4. Hội đồng nhân dân bầu Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban
nhândân theo giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.
5. Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân không giữ chức vụquá
hai nhiệm kỳ liên tục ở cùng một đơn vị hành chính.
6. Kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dâncấp
tỉnh phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp huyện phải được Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Hội đồng nhân lOMoAR cPSD| 39651089 19
dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã phải được Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp huyện phê chuẩn.
7. Kết quả bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấptỉnh
phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải được Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn.
8. Khi Hội đồng nhân dân tiến hành bầu các chức danh quy định tại Điều này,nếu
có đại biểu Hội đồng nhân dân ứng cử hoặc giới thiệu thêm người ứng cử ngoài
danh sách đã được cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu thì Thường trực
Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định; riêng tại kỳ họp
thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân thì chủ tọa kỳ họp trình Hội đồng nhân
dân xem xét, quyết định.
9 Người giữ chức vụ quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình ngay sau khi được Hội đồng nhân dân bầu.
10. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bầu Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân phải gửi kết quả bầu đến cơ quan, người có
thẩm quyền quy định tại khoản 6 và khoản 7 Điều này để phê chuẩn. Trong thời
hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết quả bầu, cơ quan, người có thẩm
quyền phải xem xét, phê chuẩn; trường hợp không phê chuẩn thì phải trả lời bằng
văn bản, nêu rõ lý do và yêu cầu Hội đồng nhân dân tổ chức bầu lại chức danh
không được phê chuẩn”.
UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu ra là cơ quan
chấp hành của HĐND. Tại kỳ họp thứ nhất mỗi khóa của HĐND, HĐND sẽ bầu
ra UBND cùng cấp của mình theo hình thức bỏ phiếu kín. Tuy nhiên kết quả bầu
cử các thành viên của UBND phải được Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê
chuẩn (Đối với cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương thì kết quả đó sẽ được
Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn).
UBND được HĐND cùng cấp bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách đề
cử chức vụ từng người, gồm có các chức vụ sau: Chủ tịch, phó Chủ tịch và Ủy
viên. Chủ tịch UBND được bầu ra trong số đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của
Chủ tịch HĐND, các thành viên khác của UBND được bầu ra theo sự giới thiệu
của Chủ tịch UBND và không nhất thiết phải là đại biểu của HĐND. Trong nhiệm
kỳ nếu khuyết Chủ tịch UBND thì Chủ tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng
cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu. Người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND
trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu của HĐND.
*Trong hoạt động
Chính vì mối quan hệ đặc biệt của HĐND và UBND trong cách thức thành lập
nên hoạt động của hai cơ quan này cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau, thể hiện như sau:
- HĐND có quyền giám sát đối với mọi hoạt động của UBND cùng cấp. lOMoAR cPSD| 39651089 20
- UBND chịu trách nhiệm và báo công tác trước HĐND cùng cấp và trước
cơquan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp. UBND còn có trách nhiệm cung
cấp các tài liệu liên quan đến hoạt động giám sát khi HĐND có yêu cầu.
- UBND còn phối hợp với Thường trực HĐND và các ban của HĐND cùng
cấpchuẩn bị nội dung các kỳ họp của HĐND, xây dựng đề án trình HĐND xem xét các quyết định.
- HĐND có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên trong UBND(
Điều 89 Luật tổ chức Chính quyền địa phương). Điều 89 của Luật Tổ chức chính
quyền địa phương số 77/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 21/2017/QH14 và Luật số 47/2019/QH14 ... kể từ ngày Nghị quyết này có
hiệu lực thi hành cho đến khi Quốc hội có quy định khác.
- Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND
raNghị quyết và giám sát việc thực hiện Nghị quyết đó. Trong phạm vi, quyền hạn
do pháp luật quy định, UBND ra Quyết định, Chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm
tra việc thi hành các văn bản đó. Các văn bản của UBND ban hành không được
trái với Nghị quyết của HĐND cùng cấp và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên. Các Quyết định của UBND mà không thích đáng thì HĐND có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ.
- Trong hoạt động của mình, HĐND và UBND phối hợp chặt chẽ với Mặt
trậnTổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội
khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc
quản lý Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Phiên họp của UBND là mỗi tháng một lần nếu họp bất thường thì do Chủ
tịchUBND quyết định hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp,
đối với phiên họp UBND cấp tỉnh thì theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ( Điều
113 Luật Tồ chức Chính quyền địa phương năm 2015). HĐND họp mỗi năm ít
nhất hai kỳ.HĐND quyết định kế hoạch tổ chức các kỳ họp thường lệ vào kỳ họp
thứ nhất của Hội đồng nhân dân đối với năm bắt đầu nhiệm kỳ và vào kỳ họp cuối
cùng của năm trước đó đối với các năm tiếp theo của nhiệm kỳ theo đề nghị của
Thường trực Hội đồng nhân dân; HĐND họp bất thường khi Thường trực HĐND,
Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND yêu
cầu; Cử tri ở xã, phường, thị trấn có quyền làm đơn yêu cầu HĐND xã, phường,
thị trấn họp, bàn và quyết định những công việc của xã, phường, thị trấn. Khi trong
đơn yêu cầu có chữ ký của trên mười phần trăm tổng số cử tri của xã, phường, thị
trấn theo danh sách cử tri bầu cử đại biểu HĐND cấp xã tại cuộc bầu cử gần nhất
thì Thường trực HĐND cấp xã có trách nhiệm tổ chức kỳ họp HĐND bất thường
để bàn về nội dung mà cử tri kiến nghị. Đơn yêu cầu của cử tri được xem là hợp
lệ khi có kèm theo đầy đủ chữ ký, họ tên, ngày, tháng, năm sinh và địa chỉ của
từng người ký tên. Những người ký tên trong đơn yêu cầu được cử một người làm
đại diện tham dự kỳ họp HĐND bàn về nội dung mà cử tri kiến nghị; HĐND họp
công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Thường trực HĐND, Chủ