Hệ thống pháp luật châu âu lục địa học phần Lý luận chung
Hệ thống pháp luật châu âu lục địa học phần Lý luận chung của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem!
Preview text:
lOMoARc PSD|36215725
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CHÂU ÂU LỤC ĐỊA (CIVIL LAW)
Đôi nét về hệ thống pháp luật châu Âu lục địa :
Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa là được xem là hệ thống pháp luật lớn nhất
thế giới, được xây dựng trên nền tảng di sản của Luật La Mã cổ đại, phát triển ở
các nước Pháp, Đức và một số nước lục địa châu Âu, có ảnh hưởng rộng khắp tại
nhiều nước trên thế giới
Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa là: •
Một hệ thống toàn diện các quy tắc và nguyên tắc thường được sắp xếp
theoquy tắc và dễ dàng tiếp cận với luật công và luật tư •
Một hệ thống được tổ chức tốt ủng hộ sự hợp tác, trật tự và khả năng
dựđoán dựa trên cơ sở phân loại logic và năng động được phát triển từ luật La
Mã I. Giới thiệu chung: 1. Tên gọi:
Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa còn được gọi bằng những tên khác như
hệ thống pháp luật Continental, hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, hệ thống pháp
luật Pháp-Đức, hệ thống dân luật La Mã -Đức, hệ thống Civil Law… Hệ thống
này bao gồm pháp luật của phần lớn các nước Châu Âu lục địa mà điển hình là Pháp, Đức, Italia…
Thuật ngữ Civil Law trong luật học có hai nghĩa phổ biến. Thứ nhất, Civil
Law là tên gọi của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, là hệ thống pháp luật lớn
nhất thế giới mà nền tảng là luật La Mã cổ đại. Thứ hai, Civil Law còn có nghĩa
là luật dân sự - ngành luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và nhân thân giữa các
cá nhân, thuộc lĩnh vực luật tư, điều chỉnh quan hệ giữa tư nhân với tư nhân.
Trong lĩnh vực luật so sánh, Civil Law được hiểu theo nghĩa thứ nhất là hệ thống
pháp luật lớn nhất trên thế giới mà nền tảng của nó là luật La Mã cổ đại 2. Phân nhóm:
Đóng góp vào sự phát triển của hệ thống luật này là nhiều trường phái pháp
luật trong đó có: trường pháp pháp luật lịch sử (một nhánh trong đó là trường phái
pháp điển hóa hiện đại, thế kỷ XVI ở Đức), trường phái nhân văn thế kỉ XVI ở
Pháp, trường phái pháp luật tự nhiên thế kỉ XVII- XVIII, trường phái luật học sư,
trường phái hậu luật học sư.
Vì thế, các học giả luật so sánh cho rằng hệ thống Civil law phải được chia
nhỏ thành 3 nhóm khác nhau: -
Civil Law của Pháp: ở Pháp, Tây Ban Nha, và những nước thuộc địa cũ củaPháp; lOMoARc PSD|36215725 -
Civil Law của Đức: ở Đức, Áo, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Nhật Bản, Hàn Quốc
vàCộng hòa Trung Hoa (Luật Trung Hoa hiện nay theo truyền thống học thuật,
thì được xếp vào hệ thống pháp luật XHCN, nhưng trên thực tế nhiều qui định về
dân sự, về tố tụng, về hệ thống Toà án lại mang nhiều đặc điểm của Civil Law);
- Civil Law của những nước Scandinavian: Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Ailen.
3. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật
châu Âu lục địa (Civil Law) :
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Civil Law bao gồm
3 giai đoạn: giai đoạn pháp luật tập quán trước thế kỉ XIII, giai đoạn phát triển
luật thành văn từ thế kỉ XIII đến cuối thế kỉ XVIII, giai đoạn pháp điển hóa pháp
luật đầu thế kỉ XIX đến nay.
3.1. Giai đoạn pháp luật tập quán (trước thế kỉ XIII):
Luật lục địa có nghĩa đen là “công dân của nước Ý”, của thành phố Roma.
Vào thời kì đế chế La Mã (trước Công nguyên), tức là khi thuật ngữ này ra đời,
nó chỉ được áp dụng cho công dân thành phố Roma. Trong giai đoạn phát triển,
đế quốc La Mã đã tiến hành xâm lược và biến hầu hết các bộ tộc trong khu vực
Tây Âu lục địa trở thành thuộc địa của mình với chính sách đô hộ kéo dài trong
suốt 04 thế kỉ. Quá trình đô hộ đã kéo theo sự du nhập và ảnh hưởng sâu sắc của
Luật La Mã) đến khu vực này. Tuy nhiên, đến năm 476, các nhà lãnh đạo Odoacer
của Đức tổ chức một cuộc nổi dậy lật đổ sự thống trị của Hoàng đế Romulus
Augustulus. Từ đó trở về sau, không có hoàng đế La Mã nào cai trị ở vùng đất
Italy. Năm 476 được coi là năm đế chế Tây La Mã tan rã và sụp đổ. Trong khi đó,
đế chế Đông La Mã vẫn còn tồn tại.
Ở giai đoạn này, các tập quán địa phương chiếm ưu thế trên khắp châu Âu
lục địa, có thể kể đến như các luật tập quán của Pháp, Đức, các dân tộc Slavian
và nổi bật là bộ luật 12 bảng của người La Mã. Luật La Mã có ảnh hưởng bao
trùm lên châu Âu, đặc biệt dưới thời hoàng đế Đông La Mã Justinian, đến năm
528 ông đã ra lệnh hệ thống hóa và củng cố luật La Mã, và đã tạo nên được công
trình pháp luật lớn mang tên Corpus Juris Civilist (Tập hợp các chế định luật dân
sự). Đây được coi là một trong những tiền đề đầu tiên ảnh hưởng đến việc hình
thành hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
Mặc dù giai đoạn này có xuất hiện pháp luật, nhưng pháp luật vẫn được
đánh giá là còn khá giản đơn, lẫn lộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo. Kể từ khi
đế quốc La Mã tan rã, hệ thống pháp luật của các quốc gia ở châu Âu trở nên rời
rạc, không thống nhất, sử dụng nhiều nguồn luật khác nhau để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, trong đó luật tập quán đóng vai trò như một nguồn luật chủ yếu. lOMoARc PSD|36215725
3.2. Giai đoạn phát triển luật thành văn (thế kỉ XIII đến cuối thế kỉ XVIII):
Dưới sự phát triển rầm rộ của thương mại và các cơ hội giao lưu giữa các
dân tộc châu Âu lục địa, các nhà tư tưởng đã bước đầu nhận thấy được vai trò và
tầm quan trọng của luật La Mã, muốn những giá trị đích thực của nó được phục
hưng trước khi bị chìm vào quên lãng. Đến khoảng thế kỉ thứ XIII, các quốc gia
châu Âu lục địa mới nhìn nhận lại vai trò của luật La Mã.
Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII, thông qua các việc nghiên cứu, giảng dạy
Luật La Mã, các trường đại học ở châu Âu đã có những đóng góp lớn cho việc
xây dựng một hệ thống pháp luật chung cho châu Âu lục địa đó là Jus commune.
Trong giai đoạn này xuất hiện 5 trường phái: -
Trường phái của các giáo sư luật: xuất hiện từ thế kỷ XIII ở Bologna – nơi
tập trung hàng ngàn sinh viên từ khắp châu Âu. Các giáo sư làm công việc tìm
hiểu và giải thích ý nghĩa ban đầu của Corpus Juris Civilis. -
Trường phái các nhà bình luận: xuất hiện thế kỷ XIII-XIV ở Italia. Các
luật gia đã không còn tìm hiểu và giải thích ý nghĩa ban đầu của Corpus Juris mà
tìm cách giải thích nó sao cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội đương thời. Trường
phái này đã biến Luật La Mã thành nền tảng của khoa học pháp lý châu Âu. -
Trường phái nhân văn: xuất hiện ở Pháp vào thế kỉ XV. Trường phái này
cố gắng phục hồi nguyên gốc luật La Mã -
Trường phái các nhà pháp điển hiện đại: xuất hiện ở Đức thế kỷ XVI.
Trường phái này quan tâm đến việc làm thế nào để áp dụng các quy phạm pháp
luật trong thực tiễn, làm cho nó không mâu thuẫn với tập quán pháp ở Đức -
Trường phái luật tự nhiên: xuất hiện ở Đức thế kỷ XVII-XVIII. Trường phái này
phản đối quan niệm cho rằng trật tự xã hội do Thượng đế quyết định và khẳng
định: bên cạnh pháp luật nhà nước còn có pháp luật tự nhiên. Pháp luật nhà nước
có thể phản ánh đúng hoặc sai so với luật tự nhiên
Tóm lại từ thế kỉ XIII-XVIII, trên cơ sở ảnh hưởng sâu rộng của Corpus Juris
Civilis, hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã hình thành nên một hệ thống pháp
luật lớn trên thế giới
3.3. Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật (đầu thế kỉ XIX đến nay):
Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của rất nhiều văn bản pháp luật quan trọng của
những nước lớn, từ đó đánh dấu sự phát triển và lan rộng của luật La Mã. Đầu
tiên, chúng ta phải nhắc đến bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789
của Pháp. Những quy định cơ bản của bản tuyên ngôn nổi tiếng này đã trở thành
những nguyên tắc cơ bản của các bản hiến pháp của các quốc gia lục địa châu Âu
và các nước khác trên thế giới. Vào thế kỉ XIX, các bộ luật quan trọng của Pháp, lOMoARc PSD|36215725
Đức ra đời (như bộ luật dân sự Napoleon của Pháp, bộ luật dân sự của Đức…)
đánh dấu giai đoạn phát triển rực rỡ của khoa học pháp lý.
Tóm lại là, khoảng từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII, dưới sự ảnh hưởng sâu rộng
của Copus Juris Civilis, hệ thống pháp luật chung của lục địa châu Âu đã được ra
đời. Thông qua các giai đoạn trên, chúng ta có thể phần nào lí giải được nguồn
gốc lịch sử hình thành nên hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Từ đó, chúng ta
sẽ dễ dàng hơn trong việc nghiên cứu các đặc trưng cơ bản của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
II. Các đặc trưng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa:
1. Có nguồn gốc từ luật La Mã:
Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật dân
sự La Mã cổ đại. Hầu hết các quốc gia ở châu Âu lục địa đều chịu sự đô hộ kéo
dài của đế quốc La Mã nên Luật La Mã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp
luật của các nước châu Âu lục địa. Qua phân tích về quá trình hình thành và phát
triển của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa ở trên, có thể thấy các bộ luật lớn
như Bộ luật dân sự Napoleon (1804), Bộ luật dân sự Đức (1896) đều được hình
thành trên cơ sở kết hợp luật tập quán địa phương và Luật La Mã. Trên nền tảng
của Luật La Mã, hệ thống pháp luật chung châu Âu lục địa ra đời và được nhiều
nước ở châu Âu tiếp thu một cách linh hoạt, từ đó tạo nên một truyền thống pháp
luật lớn trên thế giới với những đặc trưng riêng biệt.
2. Hình thức của pháp luật:
Đặc trưng về hình thức pháp luật ở mỗi dòng họ pháp luật chịu ảnh hưởng và
được quy định bởi nguồn gốc của các chính họ pháp luật đó. Đối với các quốc gia
thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, hình thức pháp luật chủ yếu là pháp
luật thành văn, bên cạnh đó còn có các hình thức pháp luật khác như tập quán
pháp, án lệ. Cụ thể nhóm sẽ tìm hiểu về 3 hình thức pháp luật trong hệ thống pháp
luật Châu Âu lục địa: tập quán pháp, án lệ và pháp luật thành văn
2.1. Tập quán pháp:
Hệ thống pháp luật Civil Law thừa nhận tập quán pháp là những quy tắc xử
sự hình thành một cách tự phát tồn tại từ lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác và mang tính bắt buộc chung như quy phạm pháp luật.
Giai đoạn hình thành hình thức pháp luật này còn lẫn lộn giữa các các quy
phạm đạo đức, tôn giáo. Luật pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn
giáo, cùng với trình độ dân trí thấp, điều kiện xã hội chưa phát triển, do đó các
văn bản pháp luật còn chưa được hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao.
Bản chất của tập quán pháp được dựa trên hai yêu tố: lOMoARc PSD|36215725 –
Yếu tố khách quan: việc các xử sự, thái độ, hành vi đã trở thành thói quenmột cách tự nhiên. –
Yếu tố chủ quan: chủ thể pháp luật cho rằng thói quen đó mang tính
bắt buộc(chấp nhận nó là luật). 2.2. Án lệ:
Án lệ được hiểu là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được
coi là tiền lệ làm cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự.
Trong giai đoạn trước đây, án lệ không được coi trọng trong hệ thống pháp
luật thuộc dòng họ Civil Law. Civil Law là dòng họ coi trọng lý luận pháp luật,
có trình độ hệ thống hóa, pháp điển hóa cao với Bộ luật dân sự ra đời rất sớm và
đồ sộ. Đại diện cho dòng họ này có thể kể đến Pháp, Đức, Ý… Vì thế tiền lệ pháp không được coi trọng.
Theo quan điểm lí luận phổ biến của các hệ thống pháp luật ở lục địa châu
Âu, các nguyên tắc, các giải pháp pháp lý rút ra từ án lệ không có cùng giá trị với
luật thành văn. Thực tiễn xét xử của Tòa án không bị ràng buộc bởi những quy
phạm do chính nó tạo ra và cũng không có thể dựa vào các quy phạm đó để biện
luận cho quyết định của mình. Án lệ chỉ được áp dụng khi mà thẩm phán thấy nó
phù hợp với vụ án đang xét xử.
Trong thời gian gần đấy, án lệ đang ngày càng chiếm một vị trí quan trọng
trong hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law. Mặc dù có nhiều cản trở như
đã nói, ý nghĩa quan trọng của án lệ trong các hệ thống thuộc dòng họ Civil Law
ngày càng được thừa nhận và được chứng minh trong quá trình phát triển của pháp luật
2.3. Pháp luật thành văn:
Trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng Civil law, luật thành văn
giữ vai trò quan trọng và ngày càng được chú trọng phát triển. Pháp luật thành
văn được coi trọng và có trình độ hệ thống hóa, phát điển hóa cao. Luật thành văn
là những văn bản chứa đựng những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
Trước hết, trong hệ thống pháp luật của nhà nước thuộc dòng Civil Law, luật
thành văn giữ vai trò quan trọng và được ưu tiên áp dụng khi đem ra xét xử. Bởi
lẽ, ở các nước thuộc hệ thống pháp luật Civil Law, luật thành văn chủ yếu do các
nhà làm luật hay nghị viện (cơ quan lập pháp hay hành pháp) soạn thảo ra. Do đó
luật thành văn trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng họ Civil Law
thường mang tính khái quát cao, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật
của các nước thuộc dòng Civil law. Hơn thế nữa, đối với các quốc gia thuộc dòng
Civil Law, luật thành văn thường được ưu tiên trong xét xử của tòa. Thực tiễn lOMoARc PSD|36215725
xét xử cũng cho thấy so với tập quán pháp, án lệ thì luật thành văn vẫn được ưu tiên hàng đầu: -
Vai trò của tập quán pháp trong hệ thống nguồn luật của các quốc gia
thuộcdòng họ Civil Law không đồng đều, tập quán pháp chỉ là yếu tố góp phần
tìm ra giải pháp công minh để giải quyết các vấn đề pháp luật. Do đó trong quá
trình xét xử không được ưu tiên áp dụng. -
Án lệ ở các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu âu lục địa được coi
lànguồn thứ cấp của hệ thống pháp luật do đó nó không có giá trị áp dụng trực
tiếp như luật thành văn.
Trên cơ sở đó có thể khẳng định luật thành văn có vị trí quan trọng nhất trong
hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng Civil Law và luôn được ưu tiên trong thực tiễn xét xử
Trong hệ thống pháp luật thành văn ta thấy xuất hiện rất nhiều bộ luật khác
nhau, ngoài các bộ luật cơ bản. Các quy phạm pháp luật trong bộ luật thường
được xây dựng cụ thể với các chế tài rõ ràng vì vậy có thể áp dụng trực tiếp vào
các quan hệ xã hội mà không cần thông qua văn bản pháp luật trung gian như
nghị định hay thông tư ban hành.
Luật thành văn là hệ thống các quy phạm pháp luật được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật bao gồm: Hiến pháp, luật, bộ luật, văn bản dưới luật và các
điều ước quốc tế,…
3. Nguồn của pháp luật:
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết phân chia quyền lực nên không
thừa nhận vai trò lập pháp của các cơ quan xét xử. Do đó, trong hệ thống pháp
luật Châu Âu lục địa thì luật thành văn là nguồn độc tôn trọng thời gian rất dài.
Trong khi đó án lệ chỉ áp dụng một cách hạn chế để khắc phục những hạn chế
của pháp luật thành văn. Bên cạnh những nguồn luật nói trên thì hệ thống pháp
luật châu Âu lục địa còn có những nguồn luật khác như: tập quán pháp, học
thuyết, các nguyên tắc chung của pháp luật.
3.1. Tập quán pháp:
Tập quán pháp là cách xử sự có ý nghĩa về mặt pháp lý mà sự cần thiết và
phạm vi của nó được chủ thể pháp luật công nhận một cách tự phát, không cần
một văn bản mang tính bắt buộc nào. Tập quán pháp được chia làm 3 loại: -
Tập quán áp dụng đương nhiên: là những tập quán mà nhà nước và xã hội
thừa nhận một cách phổ biến như con cái sinh ra mang họ bố, con gái khi lấy chồng mang họ chồng,… -
Tập quán áp dụng theo sự dẫn chiếu của pháp luật: Trong Bộ luật dân sự
Napoleon tại các Điều 645, 663, 671, 674 đã dẫn đến việc áp dụng các tập quán
địa phương trong lĩnh vực sở hữu đất đai, sử dụng nguồn nước, hàng rào phân lOMoARc PSD|36215725
cách, trồng cây gần giới hạn đất láng giềng, các công trình xây dựng liền kề đất
người bên cạnh. Ngoài ra Bộ luật này còn dẫn chiếu về áp dụng tập quán trong
lĩnh vực hợp đồng, giải thích hợp đồng như “Điều nào không rõ ràng thì giải
thích theo thông lệ nơi hợp đồng giao kết” (Điều 1159), “Hợp đồng có tính bắt
buộc không chỉ về những gì đã được nói rõ mà còn về những hậu quả mà sự công
bằng, tập quán hoặc pháp luật coi là thuộc về nghĩa vụ bản chất của nó” (Điều 1159) -
Tập quán trái pháp luật: Một số tập quán trái pháp luật nhưng vì các tập
quán đó rất phổ biến trong xã hội nên buộc nhà nước phải thừa nhận. Ví dụ như
“Mọi chứng thư tặng cho lúc còn sống phải lập trước mặt công chứng viên, theo
các hình thức thông thường của hợp đồng và phải lưu bản chính, nếu không sẽ
vô hiệu” (Điều 931 Bộ luật Napoleon). Tuy nhiên, việc tặng cho tài sản trong
thực tiễn không theo quy định trên rất phổ biến, vì vậy mà nhà nước buộc phải chấp nhận. 3.2. Án lệ:
Trong các hệ thống pháp luật thuộc Civil Law, án lệ không được coi là nguồn
cơ bản như pháp luật thành văn bởi theo quan điểm lí luận phổ biến của các hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa, án lệ đưa ra những giải pháp không chắc chắn,
có thể bị hủy bỏ, sửa đổi bất cứ lúc nào và luôn bị phụ thuộc vào vụ việc mới.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của pháp luật, ý nghĩa quan trọng của án lệ
được thừa nhận và chứng minh. Trong xu hướng hội tụ, các hệ thống pháp luật
thuộc dòng họ Civil Law sẽ ngày càng coi trọng phán quyết của tòa án. Điều này thể hiện ở hai điểm: -
Thứ nhất, từ thế kỷ XIX, cơ chế bảo hiến đã ra đời, do đó đã tồn tại các
tổchức bảo hiến (ở Đức là Tòa án bảo hiến). -
Thứ hai, trong quá trình xét xử, để đảm bảo sự thống nhất trong việc xét
xử,đảm bảo tính đúng đắn về chuyên môn nghiệp vụ cũng như thể hiện sự tôn
trọng phán quyết của tòa cấp trên, tòa cấp dưới luôn có xu hướng tham khảo
những bản án đã được tuyên, căn cứ vào đó để đưa ra quyết định cho vụ án cụ
thể của mình. Các phán quyết của Tòa án rất hay quy chiếu đến các phán quyết đã tuyên trước đó.
Có thể khẳng định, xu hướng phát triển của án lệ trong cấu trúc nguồn luật
của hệ thống pháp luật các nước thuộc dòng họ Civil Law, điển hình là Pháp và
Đức, là ngày càng được thừa nhận và chú trọng phát triển, trở thành nguồn luật
cơ bản bên cạnh pháp luật thành văn
3.3. Pháp luật thành văn : lOMoARc PSD|36215725
Pháp luật thành văn vẫn được coi là nguồn quan trọng nhất trong hệ thống
các nguồn pháp luật. Nguồn pháp luật thành văn trong dòng họ Civil Law bao
gồm các loại văn bản sau đây:
+ Hiến pháp: Đạo luật cơ bản của nhà nước là văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất do nghị viện ban hành. Ở một số nước sau khi hai viện thông qua còn phải
lấy trưng cầu dân ý, hiến pháp chỉ được thông qua khi được đa số cử tri bỏ phiếu
thuận (ví dụ: Hiến pháp năm 1958 của Cộng hoà Pháp). Để bảo vệ hiến pháp phần
lớn các nước châu Âu đều thành lập Toà án hiến pháp hoặc Hội đồng bảohiến.
+ Các công ước quốc tế: Các công ước quốc tế thông thường được kí kết khi
không trái với hiến pháp quốc gia, trong trường hợp cần thiết thì phải sửa đổi hiến
pháp trước khi kí kết điều ước quốc tế. Nhìn chung, các nước lục địa châu Âu đều
có quan điểm tương đối thống nhất là công ước quốc tế có hiệu lực dưới hiến
pháp nhưng trên các đạo luật quốc gia.
+ Bộ luật: Lúc mới ra đời bộ luật có nghĩa là tuyển tập những luật khác nhau.
Vào thời kì phong kiến, các bộ luật không còn là tuyển tập các luật mà là một văn
bản luật tổng hợp trình bày có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
loại quan hệ xã hội khác nhau bao gồm cả hình sự, dân sự, hành chính, thương
mại, đất đai, hôn nhân gia đình … như Bộ luật 1683 của Đan Mạch, Bộ luật 1687
của Na Uy, Bộ luật 734 của Thuỵ Điển và Phần Lan... Hiện nay, thuật ngữ bộ luật
được sử dụng rộng rãi để chỉ các văn bản luật tổng hợp và trình bày có hệ thống
các quy phạm điều chỉnh một lĩnh vực các quan hệ xã hội nhất định. + Luật:
Luật là những văn bản quy phạm pháp luật do nghị viện ban hành theo một trình
tự, thủ tục nhất định và phải được đa số nghị sĩ ở cả hai viện bỏ phiếu thuận. Luật
bao gồm nhiều loại: luật tổ chức, luật tài chính, luật thông quan bằng hình thức
trưng cầu ý dân, luật thông thường. Đối tượng điều chỉnh của luật có thể vô hạn,
đối tượng điều chỉnh của luật cũng có thể có giới hạn. Luật ở các nước lục địa
châu Âu thông thường có hiệu lực kể từ khi người đứng đầu nhà nước kí lệnh
công bố cho đến khi bị bãi bỏ.
+ Sắc lệnh: do tổng thống ban hành (ở Pháp từ năm 1958 Thủ tướng cũng có
thể ban hành) có hiệu lực thấp hơn luật, tuy nhiên có những sắc lệnh được ban
hành thuộc lĩnh vực luật theo sự uỷ quyền của nghị viện thì có hiệu lực như luật
gọi là sắc lệnh - luật.
+ Nghị định: do Chính phủ ban hành trong lĩnh vực lập quy và có hiệu lực thấp
hơn luật và sắc lệnh. Tuy nhiên, cũng có những nghị định do nghị viện uỷ quyền
ban hành trong lĩnh vực luật, khi chưa được nghị viện phê chuẩn nó có hiệu lực
như nghị định thông thường nhưng sau khi được nghị viện phê chuẩn nó sẽ có hiệu lực như luật. lOMoARc PSD|36215725
+ Quyết định: do tổng thống ban hành. Những quyết định này không cần các bộ
trưởng liên quan tiếp kí.
3.4. Học thuyết :
Trong quá khứ học thuyết từng là nguồn chính của hệ thống pháp luật châu
Âu lục địa. Tuy nhiên, sự thắng lợi của các tư tưởng dân chủ tư sản và sự ra đời
của bộ luật cơ bản Pháp vào đầu thế kỉ XIX, sự thống trị của học thuyết được thay
thế bằng sự thống trị của luật.
Ngày nay, học thuyết mặc dù không còn là nguồn luật chính nhưng nó có vai
trò tạo ra ngân hàng các khái niệm và tư duy pháp lý để các nhà lập pháp sử dụng.
Một số nguồn học thuyết pháp lý trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa như: -
Các học thuyết thần quyền ở Tây Âu: Một trong những học thuyết được
phổ biến rộng rãi là “học thuyết mặt trời và mặt trăng”, trong đó cho rằng “mặt
trăng tỏa sáng nhờ mặt trời, vương quyên chói sáng nhờ giáo hoàng”. Thuyết lý
“hai gươm” cũng được phổ biến rộng rãi, theo đó nhà Vua có được gươm báu của
mình là chính quyền, nhờ có giáo hội và do đó cũng phải phục tùng giáo hội. -
Học thuyết thần quyền của Tômát Đacanh (Thomas Aquinas): Thomas Aquinas
cho rằng, thế giới được xây dựng trên cơ sở tôn ti trật tự thánh thần, trong đó các
hình thức tối cao đem sức sống cho hình thức thấp nhất. Đứng đầu tôn ti trật tự
đó là Chúa, thực thể quy định nguyên tắc phục tùng của đẳng cấp dưới đối với
đẳng cấp trên. Chính ở đây ông đã thần thánh hóa chế độ đẳng cấp phong kiến.
Ông còn có những luật thuyết của về Nhà nước hay học thuyết phản động. -
Học thuyết chính trị của Montesquieu (Mongtexkio) ở Pháp: Tác phẩm nổi
tiếng của ông là “Tinh thần pháp luật” , tác phẩm đã trình bày những nguyên nhân
quyết định nền pháp lý cho mỗi quốc gia; trình bày sự phù hợp cần thiết giữa luật
lệ và chế độ cai trị của một nước; trình bày những quan hệ giữa các luật lệ với nhau. -
Học thuyết chính trị pháp lý của I.Kant ở Đức: Theo Kant có ba loại pháp
luật: pháp luật tự nhiên, pháp luật thực tế, và pháp luật công lý. Pháp luật tự nhiên
là những nguyên tắc tiên nhiệm tất nhiên. Pháp luật thực tế, mà nguồn là những
ý chí của người lập pháp. Pháp luật công lý là những đòi hỏi khát vọng không
được pháp luật quy định và nó không được bảo đảm bằng cưỡng chế.
3.5. Các nguyên tắc chung của pháp luật :
Là các nguyên tắc có thể thành văn và không thành văn được chấp nhận
trong pháp luật quốc gia của hầu hết các nước. Các nguyên tắc chung có thể được
thể hiện trong hiến pháp, các luật, tuy nhiên cũng có nhiều nguyên tắc chung của
pháp luật không được thể hiện trong luật thành văn hiện hành mà có nguồn gốc
từ án lệ hoặc Luật La Mã cổ đại. Việc thừa nhận những nguyên tắc chung này dựa
trên quan điểm quan niệm là pháp luật là đại lượng của công bằng, công lí. Những lOMoARc PSD|36215725
nguyên tắc chung giúp chúng ta lấp các chỗ trống của pháp luật, giúp các thẩm
phán tìm ra giải pháp công bằng nhất khi giải quyết các vụ việc trong thực tiễn.
Một số nguyên tắc chung của Luật La Mã cổ đại được nhiều quốc gia lục địa Châu Âu thừa nhận:
Affectio tua nomen imponit operi tuo- Động cơ của anh đặt tên cho hành vi của anh.
Non bis in idem- Không ai bị xét xử về một tội phạm đã được kết án bằng một
bản án đã có hiệu lực.
Affectus punitur licet non sequatur affectus- Ý định cần phải bị trừng phạt mặc
dù không đạt được mục đích.
Affirmantis est probare- Ai khẳng định, người đó chứng minh.
Nemo in propria causa testis esse debet- Không ai có thể tự làm chứng cho mình.
Nemo jus sibi dicere potest- Không ai có thể tự mình phán xử mình.
Nemo cogitationis poenam patitur- Không ai có thể trừng phạt vì suy nghĩ của mình.
Non obligal lex nisi promulgate- Một đạo luật chỉ có thể bắt buộc thực hiện khi đã công bố.
4. Sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp:
Bắt đầu từ TK XVII- XVIII, Châu Âu phân chia rành mạch luật công và luật
tư. Thậm chí còn phân chia thành nhánh tòa Tư pháp và Nhánh tòa Hành chính.
Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa được phân định thành công pháp và tư pháp,
đây là điểm cơ bản để phân biệt hệ thống pháp luật Châu Âu và hệ thống pháp luật Anh-Mỹ. -
Công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
trong đó một bên chủ thể luôn luôn là nhà nước và bên còn lại là các cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Công pháp bao gồm các ngành luật như: Luật hiến pháp, luật hành
chính, luật hình sự, luật ngân hàng,… -
Tư pháp bao gồm các ngành luật điều chỉnh quan hệ xã hội giữa các cá
nhân, tổ chức với nhau. Tư pháp bao gồm các ngành luật như: Luật dân sự, luật
hôn nhân và gia đình, luật thương mại, luật lao động.
Cơ sở phân chia pháp luật thành luật công và luật tư dựa vào phương pháp điều chỉnh: -
Luật công hướng đến các lợi ích công cộng nên phương pháp điều chỉnh
chủ yếu là quyền uy phục tùng, mệnh lệnh nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước và
giai cấp thống trị. Do đó, luật công mang tính mệnh lệnh, bắt buộc. lOMoARc PSD|36215725 -
Luật tư hướng đến các lợi ích, tự do của các cá nhân, tổ chức nên phương
pháp điều chỉnh đặc trưng là bình đẳng, tự do thỏa thuận ý chí của các bên. Do
đó, luật tư mang tính bình đẳng hơn.
Sự phân chia này ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc của hệ thống Tòa án, cụ thể
là có sự phân chia thành hệ thống tòa án có thẩm quyền xét xử chung và hệ thống
tòa hành chính. Ngoài ra có sự hình thành của những tòa án chuyên biệt để xét xử
những lĩnh vực cụ thể xuất phát từ sự phân chia đó. Ví dụ như: Trong hệ thống
Tòa án Pháp, thành lập các tòa độc lập phụ trách các lĩnh vực cụ thể như tòa dân
sự, tòa lao động, tòa thương mại... Điều này xuất phát từ lí do các mối quan hệ
giữa các chủ thể ngang bằng với nhau về quyền và nghĩa vụ (quan hệ tư) thì nên
chịu sự điều chỉnh bằng một nguồn luật khác với nguồn luật điều chỉnh các mối
quan hệ giữa các chủ thể có quyền và nghĩa vụ không ngang bằng ( quan hệ công).
Nguyên nhân dẫn đến sự phân chia bao gồm: -
Bắt nguồn từ Luật La Mã: Đế chế La Mã đề cao luật tư, điều chỉnh chế
địnhhợp đồng. Trong khi các nước châu Á xem trọng luật công. -
Do chế độ phong kiến của châu Âu lục địa là phân quyền cát cứ:Chế
độphong kiến ở Châu Âu quyền lực không chỉ trong tay vua mà cònphân chia cho
các quý tộc và các tầng lớp khác, từ đó hình thành ý thức dânchủ, phân chia rạch ròi công tư. -
Ảnh hưởng phong trào văn hóa Phục Hưng: Khi nhà nước La Mã còn tồn
tại,đã ban hành rất nhiều chính sách tốt cho người dân. Sau khi đế chế La Mã sụp
đổ, thời kỳ Đêm trường trung cổ ở Châu Âu kéo dài. Sau đó, thời kỳ Phục Hưng
khôi phục lại những hưng thịnh của xã hội. Trường phái pháp luật tự nhiên ra đời.
Người ta quan niệm rằng: Có 1 loại pháp luật mà vị trí của nó được đặt cao hơn
Luật do nhà nước ban hành. Chính sự thắng thế của Luật tự nhiên đã tác động rất
lớn đối với việc phân chia thành luật công, luật tư.
5. Vai trò, hoạt động của thẩm phán:
Ở những hệ thống pháp luật khác nhau thì vai trò làm luật của thẩm phán cũng
khác nhau. Về nguyên tắc chỉ có luật do cơ quan có thẩm quyền thay mặt cho
nhân dân, cho quyền lực nhà nước ban hành mới có giá trị là nguyên tắc cơ bản.
Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa dựa trên quy trình tố tụng thẩm vấn, các
thẩm phán chỉ tiến hành hoạt động xét xử mà không được tham gia hoạt động lập
pháp, họ không được tạo ra các chế định, các quy phạm pháp luật. Thẩm phán
trong hệ thống pháp luật này chỉ đóng vai trò là người giải thích và áp dụng luật
vào trong thực tiễn đời sống, không được ban hành các quy phạm pháp luật mới
trong quá trình xét xử. Nguyên nhân là do dòng họ Civil Law chịu ảnh hưởng sâu
sắc của học thuyết phân chia quyền lực nên không thừa nhận vai trò lập pháp của
cơ quan xét xử. Các luật gia ở châu Âu hầu như có cùng quan điểm thống nhất lOMoARc PSD|36215725
rằng hoạt động lập pháp là hoạt động của Nghị viện, Tòa án là cơ quan áp dụng
luật để xét xử chứ không phải bằng hoạt động xét xử để tạo ra luật.
Ngày nay việc áp dụng song song và xem án lệ là nguồn luật bổ trợ ngày càng
trở nên phổ biến hơn. Cụ thể như các Tòa án Tối cao của Đức, Thụy Sĩ hay tòa
án phá án của Pháp đều công bố các tuyển tập án lệ như là nguồn bổ sung cho
những khiếm khuyết của luật thành văn nói riêng và của hệ thống pháp luật nói chung.
III. Sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law ở các
khu vực trên thế giới:
Sự phát triển phát triển pháp luật ra ngoài châu Âu. Bắt nguồn từ việc rất
nhiều các quốc gia khu vực Tây Âu (Pháp, Bỉ,Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) có
nhiều thuộc địa ở các khu vực khác trên thế giới nên nó đã tạo điều kiện vô cùng
thuận lợi để luật La Mã phát triển sang các châu lục khác; từ đó tạo sức ảnh hưởng
gián tiếp để hình thành nên các hệ thống pháp luật các trên thế giới. 1. Châu Á:
Một số nước Đông Âu (Thổ Nhĩ Kì, Iraq, Israel, Jordanie,…) pháp luật châu
Âu lục dịa được cấy ghép xen kẽ với pháp luật Hồi giáo tạo nên hệ thống pháp
luật pha trộn. Các nước vùng viễn đông như Trung Quốc, Lào, Campuchia, Việt
Nam, Nhật Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc trong lĩnh vực công pháp và tư pháp.
Pháp luật của Pháp đã ảnh hưởng quan trọng đến Bộ luật Dân sự, Bộ luật Thương
mại ở nhiều nước Trung Đông. Bộ luật Dân sự Đức có ảnh hưởng lớn đến Bộ luật
Dân sự các nước như châu Á. 2. Châu Mỹ:
Những thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Hà Lan là những
vùng lãnh thổ đã tiếp nhận các chế định pháp luật thuộc dòng họ Civil Law và
xây dựng theo hình mẫu của châu Âu. Các nước châu Mỹ Latin thông qua các bộ
luật lớn theo mô hình của Pháp. Luật của Bồ Đào Nha và Italia cũng chịu ảnh
hưởng của Pháp, Đức. Những bộ luật dân sự thế kỷ 19 thì gần hơn với Bộ luật
Napoleon và những bộ luật dân sự thế kỷ 20 thì lại giống với luật dân sự của Đức.
Luật ở Hà Lan hay dân luật ở Hà Lan thì rất khó để xếp vào một nhóm nào, nhưng
cũng phải thừa nhận rằng Luật dân sự của Hà Lan có ảnh hưởng không nhỏ đến
luật tư hiện đại của nhiều quốc gia. 3. Châu Phi:
Pháp luật châu Âu lục địa phổ biến là do trước khi người Tây Âu đô hộ những
nước này không có hệ thống pháp luật phát triển nên họ dễ dàng tiếp nhận pháp
luật của người đô hộ. Một số nước khác thuộc Liên hiệp Anh nhưng vẫn chịu ảnh lOMoARc PSD|36215725
hưởng của hệ thống pháp luật này như Mavriky và quần đảo Ceishel. Ngoài ra,
Bắc phi cũng chịu ảnh hưởng do tiếp nhận các đạo luật của Pháp, Ý.