Khái niệm bào chữa | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Bào chữa là một quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong quá trình tố tụng hình sự, bao gồm bị cáo, người bị kiến nghị, hoặc người bị hại. Bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức, thể hiện qua việc đưa ra các lập luận, chứng cứ để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.
Môn: Luật thương mại quốc tế (KTKTCN)
Trường: Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Quyền con người và quyền công dân là một trong những quyền căn bản nhất, được quan tâm
và ghi nhận trong các văn bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong các quyền liên quan đến quyền con người và quyền công dân, chúng ta không thể không
nói đến quyền tự bào chữa của người bị buộc tội cũng như quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Khoản 4 Điều 13 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Từ quy định của Hiến pháp năm 2013, chúng ta có thể
khẳng định người bào chữa có vai trò rất quan trọng và là chủ thể không thể thiếu trong hoạt
động tố tụng hình sự. Chính vì thế, pháp luật tố tụng hình sự cần phải có những quy định rõ
ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, bảo đảm cho chủ thể này thực hiện
đúng chức năng, vai trò của mình. Khái niệm bào chữa:
Bào chữa có thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau.
- Xét khái niệm bào chữa từ góc độ quyền con người thì quyền bào chữa là
tổng thể các quyền pháp luật quy định cho phép người bị buộc tội sử dụng
nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự đối với họ.
- Nếu xem xét bào chữa ở góc độ là hoạt động tố tụng thì bào chữa là công
việc do người bị buộc tội và người bào chữa thực hiện trên cơ sở quy định
của pháp luật nhằm loại bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội.
- Bào chữa còn được tiếp cận ở góc độ là một chức năng cơ bản trong tố
tụng hình sự. Dưới góc độ này, bào chữa là phương diện hoạt động của tố
tụng hình sự do người bị buộc tội và người bào chữa thực hiện nhằm bác
bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội.
a. Người bào chữa (Điều 72 BLTTHS)
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng kí bào chữa. (khoản 1 Điều 72 BLTTHS)
Theo PGS.TS Võ Khánh Vinh: “Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích
làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý
cần thiết”. Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề
nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải
quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Qua đó sự
tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án
được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị buộc tội oan, sai.
Người bào chữa có thể là những người sau được quy định tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS 2015:
- Luật sư: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định
của pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lí theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người đại diện của người bị buộc tội: Người đại diện cho người bị buộc tội là
cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị buộc tội chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa hoặc người có nhược điểm về
tâm thần; đại diện theo pháp luật của bị can, bị cáo là pháp nhân.
- Bào chữa viên nhân dân:
Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành
với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lí, đủ sức khỏe bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội
là thành viên của tổ chức mình. (khái niệm này được nêu rõ tại khoản 3 Điều 72 BLTTHS 2015)
- Trợ giúp viên pháp lí trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lí.
Tại Khoản 4 Điều 72 quy định: Những người không được bào chữa bao gồm:
a) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã
hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó:
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ trên cả hai phương diện buộc tội và gỡ tội.
Người bào chữa tham gia tố tụng để gỡ tội cho người bị buộc tội và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của những người này.
Người đã tiến hành tố tụng không được coi là người bào chữa trong cùng một
vụ án và họ không thể đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa.
Người thân thích của những người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là
người bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể
sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến
hành tố tụng là người thân thích của họ.
b) Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người
giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật:
Những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực, không chỉ
theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là
người bào chữa trong cùng một vụ án.
c) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa
được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Khoản 5 Điều 72 còn quy định rằng:
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ
án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.
Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
b. Thủ tục đăng ký bào chữa (Quy định tại Điều 78 BLTTHS)
Một người tham gia tố tụng với tư cách bào chữa khi được cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
1. Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa.
2. Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ sau:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu
cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội;
b) Người đại diện của người bị buộc tội xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc
thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoăcu thẻ Căn cước
công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
d) Trợ giúp viên pháp lý, luâtusư thực hiênu trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản
cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiênu trợ giúp pháp lý và
Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực.
3. Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 76 của Bộ luật này
thì người bào chữa xuất trình các giấy tờ:
a) Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử
luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản
phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề là cá nhân;
b) Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước
công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
c) Trợ giúp viên pháp lý, luâtusư thực hiênu trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ trợ
giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản
cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
4. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc
khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ
và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại
khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo
người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên
quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều
kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối việc đăng ký bào chữa
khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 của Bộ luật này; (đã được nêu ở trên)
b) Người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối người bào chữa.
6. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình
tham gia tố tụng, trừ các trường hợp:
a) Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa;
b) Người đại diện hoăcu người thân thích của người bị buôcu tôiuquy định tại điểm
b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa.
7. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ viêcu đăng ký bào chữa và thông
báo cho người bào chữa, cơ sở giam giữ khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi phát hiện người bào chữa thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 của Bộ luật này;
b) Vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa.
Khi hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải thông báo cho người bào chữa, cơ sở giam giữ.
Vấn đề đặt ra ở đây rằng Tại sao lại phải cần có thủ tục đăng kí bào chữa:
Vì nó sẽ đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực hiện một cách đầy
đủ, hiệu quả. Giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định được những người bào chữa
có đủ điều kiện, năng lực để tham gia tố tụng hay không, từ đó nâng cao chất lượng
hoạt động tố tụng. Giúp cơ quan tiến hành tố tụng nắm được thông tin về người bào
chữa, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tố tụng.
Lựa chọn, chỉ định, thay đổi, từ chối người bào chữa (Điều 75,76,77)
- Lựa chọn: Theo quy định tại Điều 75 BLTTHS về lựa chọn người bào chữa:
1. Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.
2. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của
người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lí người bị bắt,
người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại
diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp bị bắt, người bị tạm giữ không
nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lí người bị
bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích
của họ để những người này nhờ người bào chữa.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của
người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lí người bị tạm giam
có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người
thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nếu đích danh người
bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lí người bị tạm giam phải
chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những
người này nhờ người bào chữa.
3. Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị
tạm giữ, người bị tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có
thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ,
người bị tạm giam để có ý kiến về biệc nhờ người bào chữa.
4. Người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ đề nghị Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận từ
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương trở lên cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội
là thành viên của tổ chức mình.
- Chỉ định: Điều 76 BLTTHS quy định về chỉ định người bào chữa:
1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc
người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ.
a) Bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là
20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa;
người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi.
2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ
chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp phải chỉ định bào chữa:
a) Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa;
b) Trung tâm trợ giúp pháp lí nhà nước cử trợ giúp viên pháp lí, luật sư bào
chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lí;
c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình;
- Thay đổi hoặc từ chối người bào chữa: Theo Điều 77 BLTTHS được quy định như sau:
1. Những người sau đây có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa: a) Người bị buộc tội;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Người thân thích của người bị buộc tội.
Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý
của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp
( người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người
có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi) được quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 76 của bộ luật này.
2. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn
điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì
Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị
tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối.
3. Trường hợp chỉ định người bào chữa, người bị buộc tội và người đại diện
hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.
Trường hợp thay đổi người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác
được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 76 của Bộ luật này.
Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội hoặc
người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 76 của BLTTHS và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
d.Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74 BLTTHS năm 2015).
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ
người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc
từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm
phạm an ninh quốc gia thì viện trưởng viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp người bào chữa đều tham gia tố tụng
từ khi khởi tố bị can. Đối với một số trường hợp đặc biệt thì thời điểm người bào
chữa tham gia tố tụng cũng có sự thay đổi.
e) Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Ðiều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: "Người bị buộc tội có quyền
tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho
người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền
và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này".
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định một cách đầy đủ và toàn diện
về quyền của người bào chữa, bao gồm:
1/ Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội
Đây là quyền quan trọng nhất của người bào chữa, là cơ sở để người bào chữa
thực hiện các quyền khác của mình. Người bào chữa có quyền gặp gỡ, trao
đổi, tiếp xúc với người bị buộc tội, hỏi người bị buộc tội 1 để có thể nắm
được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm
lí, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào
chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho
những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn
đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị người bị buộc tội để họ
có thái độ khai báo tốt hơn để được giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam,
người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, thẻ
luật sư hoặc thẻ trợ giúp viên pháp lí hoặc chứng minh nhân dân hoặc thẻ
căn cước công dân. Cơ quan quản lí người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo đang bị tạm giam phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở
giam giữ và yêu cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh.
- Hoàn cảnh, phạm vi: chủ động và riêng tư; không bị hạn chế số lần và độ
dài thời gian gặp (trong giờ làm việc nếu bị tạm giữ hoặc tạm giam. Theo
khoản 3 Điều 12 Thông tư 46/2019); có thể có giám sát của Cơ Sở Giam
Giữ nếu thấy cần thiết, như là vì lí do an ninh chẳng hạn, chứ không thể
lấy lý do cơ quan điều tra không đồng ý, hoặc điều tra viên bận không
tham dự, để từ chối việc Người bào chữa yêu cầu gặp mặt người bị tạm
giữ, tạm giam. Trường hợp phát hiện người bào chữa vi phạm quy định về
việc gặp thì phải dừng ngay việc gặp và lập biên bản, báo cáo người có
thẩm quyền xử lí theo quy định của pháp luật (Điều 80 BLTTHS)
Một số hạn chế của quyền này là:
- Người bào chữa không được gặp, hỏi người bị buộc tội trong những trường hợp sau:
- Người bị buộc tội đang bị khám nghiệm, lấy lời khai, hỏi cung, đang bị áp giải
hoặc đang bị giam, giữ ở nơi khác.
- Người bị buộc tội đang bị xét xử tại phiên tòa.
2/Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì
được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
Đây là quyền đặc biệt quan trọng đối với tư cách của người bị buộc tội cũng như là
quyền bào chữa họ và người thực hiện quyền bào chữa là người bào chữa.
Quyền này được quy định tại khoản 2 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự,
theo đó, người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị
bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can. (So với BLTTHS 2003 không quy
định người bào chữa có mặt khi người tiến hành tố tụng lấy lời khai của người bị bắt).
Người bào chữa có thể tham gia hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
khi việc hỏi của người có thẩm quyền kết thúc. (So với BLTTHS 2003
quy định người bào chữa có quyền này chỉ khi được sự đồng ý của Điều Tra Viên).
Người bào chữa, xem các biên bản về hoạt động tố tụng liên quan
đến người mà mình bào chữa. Một số hạn chế
- Người bào chữa không được có mặt trong các trường hợp sau:
+ Hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng về những vấn đề bí
mật nhà nước, bí mật quân sự.
+ Hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng về những vấn
đề đã được hỏi, đã được ghi trong biên bản hỏi cung bị can, lấy lời khai người
bị hại, người làm chứng.
Việc người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm
giữ, hỏi cung bị can có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người
bị bắt, bị tạm giữ, bị can sẽ ổn định tâm lí hơn, những người tiến hành các hoạt
động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được
quá trình điều tra và tình hình chứng cứ, điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc
chuẩn bị bào chữa và tham gia tranh tụng của họ tại phiên toà. Người bào chữa
còn có quyền hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để
làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can.
3/Quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và
hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS;
Nội dung cụ thể như sau:
- Người bào chữa có quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng,
nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác do cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thực hiện.
- Người bào chữa có quyền hỏi, phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến vụ án.
- Người bào chữa có quyền ghi chép lại những nội dung đã hỏi, phát biểu ý kiến.
- Người bào chữa có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng giải thích những vấn đề chưa rõ.
Người bào chữa cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi tham gia các hoạt động này, bao gồm:
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án, nắm bắt tình hình diễn biến của vụ án.
- Tìm hiểu về nhân thân, hoàn cảnh của người bị buộc tội.
- Xác định những vấn đề cần hỏi, phát biểu ý kiến. Về ý nghĩa
- Đối với người bị buộc tội, quyền này giúp họ được tham gia trực tiếp
vào các hoạt động này, từ đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Đối với người bào chữa, quyền này giúp họ nắm bắt tình hình diễn
biến của các hoạt động này, từ đó có thể kịp thời có ý kiến, kiến nghị
với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Đối với hoạt động tố tụng hình sự, quyền này góp phần bảo đảm tính
khách quan, toàn diện, chính xác của quá trình điều tra, truy tố, xét
xử, góp phần bảo vệ công lý, phòng ngừa tội phạm.
4/Quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian,
địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều
tra theo quy định. (khác BLTTHS 2003 quy định người bào chữa phải đề nghị
với cơ quan tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm để có mặt khi hỏi cung bị can).
- Nội dung cụ thể như sau:
+ Người bào chữa có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến
hành hoạt động điều tra.
+ Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm thực
hiện yêu cầu của người bào chữa.
- Quyền này có ý nghĩa quan trọng đối với người bào chữa và hoạt động tố tụng hình sự.
- Đối với người bào chữa, quyền này giúp họ chủ động chuẩn bị hồ sơ,
tài liệu, nghiên cứu vụ án, từ đó có thể tham gia tố tụng một cách hiệu
quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
- Đối với hoạt động tố tụng hình sự, quyền này góp phần bảo đảm tính
khách quan, toàn diện, chính xác của quá trình tố tụng, góp phần bảo
vệ công lý, phòng ngừa tội phạm.
- Trường hợp người bào chữa đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng báo trứơc mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến
hành trừ trường hợp quy định tại điều 291 của BLTTHS.
5/Quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết
định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa: - Nội dung cụ thể như sau:
+ Người bào chữa có quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham
gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
+ Người bào chữa có quyền ghi chép lại những nội dung đã xem.
+ Người bào chữa có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải thích những vấn đề chưa rõ.
+ Nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu
nại đến cơ quan có thẩm quyền.
Quyền này có ý nghĩa quan trọng đối với người bào chữa và hoạt động tố tụng hình sự.
- Đối với người bào chữa, quyền này giúp họ nắm bắt đầy đủ thông tin
về vụ án, từ đó có thể:
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, chính xác.
+ Xây dựng kế hoạch bào chữa phù hợp với tình hình thực tế của vụ án.
+ Phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong quá trình tố tụng, từ đó có thể kiến
nghị cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết.
- Đối với hoạt động tố tụng hình sự, quyền này góp phần bảo đảm tính khách
quan, toàn diện, chính xác của quá trình tố tụng, góp phần bảo vệ công lý, phòng ngừa tội phạm.
6/ Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, đề nghị thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
- Nội dung cụ thể như sau:
+ Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội mà mình bào chữa nếu thấy việc
áp dụng các biện pháp đó không có căn cứ và trái pháp luật.
+ Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm xem xét, giải
quyết đề nghị của người bào chữa về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế. Ví dụ 1:
Tình huống: A bị khởi tố về tội "Trộm cắp tài sản". Cơ quan điều tra đã áp dụng
biện pháp tạm giam đối với A.
Lý do đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: o
A là lao động chính trong gia đình, có vợ và hai con nhỏ. o
A có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. o
Hành vi phạm tội của A là lần đầu phạm tội và có tính chất ít nghiêm trọng. o
A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có dấu hiệu
bỏ trốn, cản trở điều tra.
Kết quả: Cơ quan điều tra đã chấp nhận đề nghị của người bào chữa và thay đổi
biện pháp ngăn chặn đối với A thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
- Quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế của người bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với người bị buộc
tội, người bào chữa và hoạt động tố tụng hình sự.
- Đối với người bị buộc tội, quyền này giúp họ được bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, được giảm bớt những khó khăn, bất lợi trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử.
- Đối với người bào chữa, quyền này giúp họ thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
- Đối với hoạt động tố tụng hình sự, quyền này góp phần bảo đảm tính
hợp pháp, chính xác của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế, góp phần bảo vệ công lý, phòng ngừa tội phạm.
7/ Quyền đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của bộ luật này; đề
nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Ví dụ 1:
Tình huống: A bị khởi tố về tội "Trộm cắp tài sản". Tại cơ quan điều tra, A khai
nhận mình đã thực hiện hành vi phạm tội một mình. Tuy nhiên, người bào chữa
của A cho rằng có người khác cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội.
Hành vi đề nghị: Người bào chữa của A đề nghị cơ quan điều tra triệu tập thêm
người khác có liên quan đến vụ án để làm rõ vai trò của họ trong vụ án.
Kết quả: Cơ quan điều tra đã chấp nhận đề nghị của người bào chữa và triệu tập
thêm người khác có liên quan đến vụ án. Qua quá trình điều tra, cơ quan điều tra
đã xác định có hai người khác cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội với A. Quyền này có ý nghĩa:
- Đối với người bị buộc tội, quyền này giúp họ được bảo vệ khỏi những tác
động tiêu cực của biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, từ đó có thể yên
tâm để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng.
- Đối với người bào chữa, quyền này giúp họ thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đặc biệt là trong
trường hợp người bị buộc tội bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế không phù hợp.
- Đối với hoạt động tố tụng hình sự, quyền này góp phần bảo đảm tính
khách quan, toàn diện, chính xác của quá trình tố tụng, góp phần bảo
vệ công lý, phòng ngừa tội phạm.
8/ Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị
hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình
bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều 88).
Người bào chữa có thể gặp hỏi người bị buộc tội ở bất kì giai đoạn tố
tụng nào (điều tra, truy tố, xét xử), (xét hỏi tại tòa) để phát hiện, thu thập chứng cứ.
- Tuỳ từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao
cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án.
- Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định chung.
- Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập (Điều 88 BLTTHS);
Vd: trong các trường hợp chúng ta biết cái tailieu đó nằm ở cơ quan cá
nhân đó tổ chức cá nhân đó mà chúng ta không thể tự thu thập được, thì
chúng ta có thể có quyền yêu cầu/đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu
thập để thu thập chứng cứ và đưa vào hồ sơ của vụ án.
- Đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án (điểm 1 khoản 1 Điều
73) để thu thập chứng cứ.
9/Quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
- Quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan được thực hiện theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
+ Người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá tất cả các chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án, bao gồm cả những chứng cứ, tài liệu, đồ vật do cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập, cũng như những chứng cứ, tài liệu,
đồ vật do người bào chữa thu thập.
+ Người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. -
Quyền này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm cho người bào chữa
thực hiện tốt vai trò của mình trong quá trình tố tụng hình sự, cụ thể là:
+ Giúp người bào chữa nắm được đầy đủ, toàn diện về chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án, từ đó có cơ sở để đánh giá, phân tích và đưa ra ý kiến
bào chữa cho thân chủ của mình một cách chính xác, khách quan.
+ Giúp người bào chữa phát hiện những chứng cứ, tài liệu, đồ vật chưa được thu
thập đầy đủ, chính xác, hoặc có dấu hiệu bị tẩy xóa, sửa chữa, giả mạo, từ đó
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá lại, đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật.
* Thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra đánh giá
Đây là một quy định hoàn toàn mới về quyền của người bào chữa. Như vậy,
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định mới là ngoài các cơ quan tiến hành
tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án thì người bào chữa
cũng là chủ thể được quyền thu thập chứng cứ.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần nghiên cứu các quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 về thu thập chứng cứ, cụ thể:
Ở Khoản 2 Điều 88 và Khoản 4 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
10/ Quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng
cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
- Quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ,
giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản có ý nghĩa quan trọng sau đây:
+ Tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Thông qua quyền này, người bào chữa có
thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập thêm chứng cứ,
giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản để làm rõ các tình tiết của
vụ án, từ đó có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
+ Tăng cường tính khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác của vụ án. Việc
thu thập đầy đủ chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản
sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có cái nhìn khách quan,
toàn diện, đầy đủ và chính xác về vụ án, từ đó đưa ra kết luận đúng đắn.
+ Tạo sự công bằng trong việc giải quyết vụ án. Việc thu thập đầy đủ chứng
cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản sẽ giúp cho người bị
buộc tội có cơ hội được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách công bằng.
- Thủ tục thực hiện quyền này
+ Để thực hiện quyền này, người bào chữa phải làm đơn đề nghị gửi cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong đơn đề nghị, người bào chữa phải nêu
rõ nội dung đề nghị, lý do đề nghị và các tài liệu, chứng cứ kèm theo.
+ Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm xem xét, giải
quyết đơn đề nghị của người bào chữa trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị.
+ Nếu xét thấy đề nghị của người bào chữa là có căn cứ, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải thực hiện việc thu thập chứng cứ, giám định bổ sung,
giám định lại, định giá lại tài sản. Ví dụ:
Tình huống: B bị khởi tố về tội "Cố ý gây thương tích". Tại tòa án, B khai nhận
mình chỉ có ý định đánh người chứ không có ý định gây thương tích nặng.
Lý do đề nghị giám định bổ sung: o
Kết quả giám định pháp y cho thấy người bị hại bị thương tích ở mức độ nặng. o
Người bào chữa của B cho rằng kết quả giám định pháp y không chính
xác, không phù hợp với lời khai của B.
Kết quả: Tòa án đã chấp nhận đề nghị của người bào chữa và giám định bổ
sung thương tích của người bị hại. Kết quả giám định bổ sung cho thấy người bị
hại bị thương tích ở mức độ nhẹ.
+ Trong trường hợp xét thấy đề nghị của người bào chữa là không có căn cứ, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bào chữa biết
lý do không thực hiện việc thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
11/ Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa khi kết thúc điều tra.
Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa, người bào chữa sẽ nắm được nội dung, nắm được
những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa. ngoài ra
người bào chữa cũng có điều khiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi
phạm pháp luật trong quá trình điều tra từ đó đưa ra những yêu cầu khiếu nại
cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền. Để bảo đảm thực hiện quyền đọc, ghi
chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án của người bào chữa, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 quy định về việc đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ
vụ án tại Điều 82 như sau: (ghi điều 82 vào ppt)
Theo đó, sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm bố trí thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp
tài liệu trong hồ sơ vụ án. Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài
liệu bằng các phương tiện điện tử nhưng không được đưa hồ sơ vụ án ra khỏi nơi
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để sao chụp tài liệu. Khi nhận hồ sơ từ
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đọc, ghi chép, sao chụp, người bào
chữa phải kiểm tra tài liệu, bút lục có trong hồ sơ được giao.
Sau khi đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, người bào chữa phải bàn giao nguyên trạng
hồ sơ vụ án cho cơ quan đã cung cấp hồ sơ. Nếu để mất, thất lạc, hư hỏng tài liệu, hồ
sơ vụ án thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người bào chữa cố ý để mất, thất lạc, hư hỏng tài liệu, hồ sơ vụ án thì tùy
theo nguyên nhân và bối cảnh xảy ra sự việc, nếu về mặt chủ quan cố ý thực hiện các
hành vi nêu trên thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội làm
sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc theo quy định tại Điều 375 Bộ luật Hình sự 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017.
: Tòa án không công khai nội dung tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật
nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự nhưng phải thông
báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ không được công khai.
12/ Quyền tham gia hỏi, tranh luận (căn cứ khoản 2 Điều 307, khoản 2,3
Điều 309, Điều 310, Khoản 2 Điều 311, khoản 2 Điều 312, Điều 314, 315,
khoản 2 Điều 316, khoản 2 Điều 320, Khoản 1 Điều 322);
Tại phiên toà xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người
bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án
để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người
bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ
những lời buộc tội bị cáo.
- Quyền tham gia hỏi, tranh luận của người bào chữa được thực hiện thông qua các nội dung sau:
+ Câu hỏi của người bào chữa phải được đặt ra một cách rõ ràng, ngắn gọn, dễ
hiểu, liên quan đến vụ án. Câu hỏi không được nhằm mục đích câu giờ, xuyên tạc
sự thật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng.
+ Người bào chữa có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trả lời câu hỏi của mình.
+ Người bào chữa có quyền tranh luận với Kiểm sát viên, người bị hại, người
làm chứng về những vấn đề liên quan đến vụ án. Tranh luận của người bào chữa
phải được thực hiện một cách trung thực, khách quan, đúng pháp luật.
Để quyền này được thực hiện một cách hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người bào chữa và thân chủ của họ.
13/Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
- được thực hiện thông qua các nội dung sau:
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại bằng đơn hoặc khiếu nại trực tiếp.
+ Khiếu nại phải có nội dung cụ thể, nêu rõ quyết định, hành vi tố tụng bị
khiếu nại, căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình khiếu nại hoặc ủy quyền
cho người khác khiếu nại.
+ Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tố tụng được quy định tại Điều 470 đến Điều 477
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
+ Theo đó, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tố tụng được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính.
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tố tụng có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cụ thể như sau:
+ Giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
có thể khôi phục lại quyền và lợi ích của mình khi quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng là trái pháp luật.
+ Giúp cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng phát hiện và khắc phục kịp thời
những quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật, đảm bảo cho hoạt động tố
tụng được khách quan, đúng pháp luật.
+ Giúp nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền
tố tụng, tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho hoạt động tố tụng.
14/Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới
18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (Điều 331)
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ
thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện của bị cáo. Kháng cáo của người bào
chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18
tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất được thực hiện thông qua các nội dung sau:
+ Người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có
quyền tự mình kháng cáo hoặc ủy quyền cho người khác kháng cáo.
+ Người kháng cáo phải nộp đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.