Khái niệm ôn tập - Sinh viên đại học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Từ những quan điểm trên, thống nhất khái niệm SV là những công dân có độ tuổi từ 18-25 đang họctập ở bậc đại học, cao đẳng. SV có những đặc điểm cơ bản sau. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu

Thông tin:
66 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Khái niệm ôn tập - Sinh viên đại học | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Từ những quan điểm trên, thống nhất khái niệm SV là những công dân có độ tuổi từ 18-25 đang họctập ở bậc đại học, cao đẳng. SV có những đặc điểm cơ bản sau. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

31 16 lượt tải Tải xuống
KHÁI NIỆM SINH VIÊN ĐẠI HỌC:
Từ những quan điểm trên, thống nhất khái niệm SV là những công dân có độ tuổi từ 18-25 đang học
tập ở bậc đại học, cao đẳng. SV có những đặc điểm cơ bản sau:
Những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc trung học hoặc trung cấp chuyên nghiệp, xuất
thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn tại
các trường đại học, cao đẳng;
Là lớp người năng động, nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu cái mới;
bộ phận trí tuệ ưu trong các thế hệ thanh niên, nơi kết tinh nhiều tài năng sáng
tạo, nguồn lao động học vấn cao, chuyên sâu đại bộ phận sinh viên sẽ trở thành
người trí thức của đất nước;
Do đặc điểm lứa tuổi, SV là lớp người đang hình thành và khẳng định nhân cách, còn thiếu
kinh nghiệm sống, có xu hướng chungtính tích cực chính trị - hội, tính tự lập, độc lập
nhu cầu tự khẳng định phát triển khá cao;
Đối với xã hội, SV là một nhóm xã hội được quan tâm. So với thanh niên đang đi làm (có thu
nhập) thì SV một nhóm hội trong phạm vi nhất định được hội hoặc gia đình bảo trợ
trong quá trình học tập.
THỜI KÌ CHUYỂN TIẾP CỦA SV
Giới hạn tuổi thanh niên
- Trong suốt quá trình phát triển của cá nhân, giai đoạn tuổi thanh niên và các giai đoạn sau này
rất khó phân định rạch ròi, cả về tuổi đời, về thể chất, hoàn cảnh xã hội và về phát triển tâm lí.
- Về tuổi đời và thể chất, tuổi thanh niên thường được xác định từ 15 đến 25 tuổi, với đặc trưng
là sự trưởng thành và hoàn thiện cơ thể cả về giải phẫu và sinh lí, sau khi kết thúc giai đoạn dậy
thì. Trong đó chia làm hai thời kì:
- Thời kì từ 15-18 tuổi, được gọi là tuổi đầu thanh niên (thanh niên mới lớn)
- Thời kì từ 18 đến 25 tuổi, được gọi là thanh niên trưởng thành.
- Hoàn cảnh hội của tuổi thanh niên thường khó xác định phụ thuộc vào môi trường văn
hoá, xã hội và vào hoạt động chủ đạo của đa số thanh niên trong cùng độ tuổi.
- Ở các nước phát triển hầu hết thành viên trong cộng đồng được dành khoảng 20 - 22 năm đầu
đời cho việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia thực thụ vào guồng máy sản xuất của
hội. Do vậy, trong khoảng từ 16 - 22 tuổi, hầu hết vẫn còn là học sinh, sinh viên với hoạt
động chính là học tập.
- Ở các nước đang phát triển và một số cộng đồng, sau khi hết Tiểu học và THCS, xuất hiện sự
phân luồng: một số không học tiếp tham gia ngay vào hoạt động sản xuất, tạo của cải cho
bản thân hội; một số khác tiếp tục theo học THPT cao hơn. Sự phân hoá, phân luồng
hoạt động chủ đạo đã tạo ra các vị thế xã hội khác nhau, dẫn đến sự khác biệt đáng kể về tâm
giữa các thanh niên cùng tuổi đời.
- nước ta, thể khái quát lứa tuổi từ 16 đến 25 thành 3 nhóm: thanh niên học sinh THPT,
thanh niên sinh viênnhóm thanh niên lao động. Sự phát triển tâm lí của ba nhóm thanh niên
nhiều điểm tương đồng nhưng cũng nhiều điểm khác biệt, do vị thế hội hoạt động
chủ đạo của các thành viên trong mỗi nhóm.
Sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của tuổi thanh niên
Một trong những yếu tố hội đặc trưng, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển tâm tuổi
thanh niên là của họ so với các lứa tuổi trước đó.sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội
a.Sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của thanh niên trong gia đình
Sự thay đổi vai trò vị thế hội của thanh niên diễn ra trước hết trong quan hệ gia đình.
Trước tuổi thanh niên, hầu hết các hoạt động của trẻ em đều được điều khiển, quản kiểm
soát của người lớn. Khi các em gặp sự cố trong quan hệ, thường sự can thiệp trực tiếp của
người lớn họ sẽ quyết định các hành vi của trẻ. Sang tuổi thanh niên, vấn đề đã thay đổi.
Thanh niên được (và phải) tự quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống của mình, ngay cả các vấn đề
hệ trọng như chuyện học hành, yêu đương, chọn học nghề, việc làm v.v. Sự can thiệp của
người lớn không còn ý nghĩa quyết định như các giai đoạn trước. Nếu đã nghỉ học thì phải
làm một nghề nào đó để kiếm tiền. Ngoài ra, họ phải chăm sóc, tham gia kèm cặp các em nhỏ
học bài, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa....ở những gia đình neo đơn hoặc khó khăn, các em phải đảm
nhận trách nhiệm như là một trụ cột.
b. Sự chuyển đổi vai trò và vị thế của thanh niên trong các quan hệ xã hội
Tuổi thanh niên được đánh dấu bởi sự xuất hiện nhiều vai trò mới - vai trò của một công dân, điều
trước đó chưa có ở thiếu niên: ra nhập Đoàn thanh niên; được cấp chứng minh thư nhân dân; được hưởng
quyền lợi trách nhiệm dân sự; quyền bàu cử ứng cử; quyền kết hôn. Một bộ phận thanh niên sau
khi học xong THCS, THPT hoặc các trường nghề đã tham gia thực sự vào guồng máy lao động sản xuất
của xã hội, tự lập về kinh tế. Những khía cạnh kinh tế - xã hội nêu trên đã giúp thanh niên xác lập được
địa vị xã hội mới- địa vị của người trưởng thành.
- Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ trong thanh niên vẫn phụ thuộc vào người lớn. Về vật chất, tài chính
nhiều em vẫn phụ thuộc vào cha mẹ. Nhiều em vẫn còn đang đi học tại trường THPT hoặc các trường
nghề. Trong quan hệ với người lớn, một mặt các em luôn được nhắc nhở là người lớn, phải chứng tỏ các
phẩm chất tâm - sinh lí và nhân cách của người lớn; mặt khác, các em vẫn bị đối xử như trẻ em. Nhữn g
khía cạnh hội trên đã tạo ra thanh niên mới lớn một hoàn cảnh hội tính không xác định
không ổn định. Sự khác nhau và phức tạp về vị thế xã hội nêu trên của thanh niên được phản ánh vào đời
sống tâm lí của họ và tạo ra sự khác biệt về tâm lí giữa các nhóm thanh niên
Những đặc tính tâmhội của sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng đến những đặc
tính đó
Sự phát triển thể chất của thanh niên
Lứa tuổi thanh niên là thờihoàn thiện sự phát triển thể chất của con người cả về phương diện
cấu tạo và chức năng. Đây thời kì thể lực sung mãn nhất trong cả đời người, “tuổi mười bảy
bẻ gãy sừng ”. So với tuổi thiếu niên, sự gia tăng về chiều cao cân nặng của thanh niên
đều chậm lại. Các em gái thường trưởng thành đầy đủ vào khoảng 17 - 18 tuổi, các em trai
thường trưởng thành chậm hơn (vào khoảng 18 - 20 tuổi). Từ 18 đến 25 tuổi, sức khoẻ của
nhân đạt tới mức cao nhất, các phản xạ nhanh nhạy nhất, ít bị bệnh tật nhất trong cả đời người.
Những năm giữa cuối thanh niên (20 - 25 tuổi) thời điểm tốt nhất về sức khoẻ sinh
tâm lí cho việc sinh con. Vì vậy, nếu các điều kiện xã hội thuận lợi thì đây là thời điểm tối ưu để
thanh niên nam nữ kết hôn và sinh con.
Nói tóm lại thanh niên là mùa xuân của cuộc đời.
Sự phát triển của hoạt động nhận thức
Hoạt động nhận thức trong học tập của sinh viên diễn ra cường độ cao. Các quá trình nhận
thức như: tri giác, trí nhớ, duy, tưởng tượng … đều được huy động tối đa để đáp ứng yêu cầu
học tập theo phương thức tự nghiên cứu.
Đối tượng học của sinh viên không phải chỉ là những tri thức khoa học hấp dẫn mà còn bao gồm
rất nhiều tri thức khoa học vừa khó, vừa khô khan, nhưng sinh viên đều phải tập trung lĩnh hội
và tham gia vào bài giảng nên tri giác có chủ định, chú ý có chủ định được huy động là chủ yếu.
Hầu hết các tri thức khoa học ở đại học đều đòi hỏi phải ghi nhớ ý nghĩa, thế sinh viên phải
biết tổ chức ghi nhớ để có trí nhớ dài hạn.
Sinh viên những phẩm chất duy tốt như: óc phân tích, tổng hợp, khả năng phê phán, tính
độc lập, khả năng khái quát vấn đề; đồng thời có sự sáng tạo trong vận dụng tri thức sao cho phù
hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Khả năng tưởng tượng của sinh viên được phát triển mức độ cao; sinh viên khả năng xây
dựng những hình ảnh mới, độc đáo mà học sinh phổ thông chưa được, nhờ đó họ thể lĩnh
hội tốt các tri thức có tính chất trừu tượng ở đại học
Sự phát triển về tình cảm
Sinh viên đã trưởng thành về tâm, sinh lý nên đời sống tình cảm rất phong phú, sâu sắcbền
vững. Tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển đến mức
độ tích cực nhất
Tình cảm trí tuệ của sinh viên biểu hiện rõ qua thái độ tích cực đối với việc chiếm lĩnh tri thức
khoa học. Nhiều sinh viên chủ động tìm tòi, khám phá các phương pháp học tập phù hợp với
điều kiện và yêu cầu môn học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học tập.
Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển có chiều sâu.
Sinh viên có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở những gì mà họ yêu thích.
Tình bạn của sinh viên phát triển mạnh chiều sâu. Tình bạn góp phần làm cho nhân cách
của sinh viên phát triển mạnh. Tình yêu nam nữ của sinh viên cũng rất phát triển. Tình yêu sinh
viên thường là những mối tình đẹp, nhưng vẫn còn tồn tại một số lệch lạc trong quan hệ tình bạn
khác giới và tình yêu.
Trí tuệ cảm xúc của sinh viên đã phát triển. Sinh viên những kinh nghiệm nhất định về các
lĩnh vực tình cảm; khả năng kiềm chế bản thân trước những ham muốn tiêu cực, biết phân
tích và đánh giá các hiện tượng trong đời sống xã hội và của bản thân.
Sự phát triển đời sống nh cảm của thanh niên đã đạt tới mức tởng thànhổn định. Trong các
nh vực tình cảm: đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, tình bạn, tình yêu của lứa tuổi này đã có sự gắn kết hài
hoà gia nhận thức- xúc cảm - hành động ý chí và đã thực sự trở thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy
thanh niên hành động. Nói cách khác, tình cảm thanh niên phát triển và đã thc sự trở thành các
phẩm cht, các thuộc tính tâm ổn định và bền vững trong cấu trúc nhân cách tuổi thanh niên
A. Tình bạn tuổi thanh niên
Tình bạn đã được nâng lên mức đồng chí (cùng chí hướng). Khác với tuổi thiếu niên chủ yếu là
đồng tính cách, sở thích, thói quen …
Tuổi thiếu niên diễn ra quá trình tìm kiếm tình bạn căng thẳng. Tuổi thanh niên cũng vậy, hơn
nữa còn đi vào chiều sâu hơn. Tiêu chí kết bạn là sự tâm tình, thân mật, tình cảm ấm áp và cùng
chí hướng phân đấu giá trị nào đó. Do tự ý thức phát triển mạnh, thanh niên nhu cầu tìm
kiếm “cái tôi” khác, ở bên ngoài tôi. Nhu cầu này lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời cá nhân
và là sở để tuổi thanh niên thường “dốc bầu tâm sự”’ với bạn, được chia sẻ những rung cảm
của mình.
Tính chất mức độ tâm tình của tuổi thanh niên sự khác nhau về giới. Nhìn chung, nhu cầu
tình bạn tn mật ở nữ thanh niên xuất hiện sớm hơn so với nam giới. Quan niệm về tình bạn của
thanh niên cũng có phần khác biệt về mặt cá nhân. Một số cho rằng đã là bạn thân thì chỉ có một
vài người, số khác quan niệm, có thể có nhiều bạn thân.
Một trong những điểm nổi bật trong tình bạn tuổi thanh niên tính cảm xúc cao. Trong đa số
trường hợp, tình bạn khác giới tuổi thanh niên nhiều điểm của tình yêu nam - nữ: cũng say
mê, nồng nàn, sự trung thành, hy sinh, hạnh phúc, thẹn thùng, ghen tuông đau khổ phải chia
ly v.v. Trên thực tế, nhiều trường hợp từ tình bạn khác giới chuyển sang tình yêu đi đến
hôn nhân.
Tình bạn của thanh niên rất bền vững. Những quan hệ bạn trong thời thanh niên thường
được lưu giữ trong suốt cả đời người.
B. Tình yêu tuổi thanh niên.
Một trong những đặc trưng điển hình nhất của tuổi thanh niên tình yêu. Tình yêu tuyệt tác
chỉ có ở con người và lần đầu tiên xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên theo đúng nghĩa của nó .
Thực ra, ở cuối tuổi thiếu niên, các em trai và gái đã xuất hiện những rung động đầu đời đối với
bạn khác giới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những cảm xúc có phần mơ hồ và không ổn định. ở tuổi
thanh niên, tình yêu nam nữ sự hoà hợp giữa sự say mê, cuồng nhiệt đằm thắm của tình
yêu với tình dục với trách nhiệm hội. Tình yêu của thanh niên nhất thanh niên trưởng
thành, đã mang tính hiện thực, ổn định sâu sắc. Đa số hướng tới hôn nhân. Về phương diện
cá nhân, nếu trong giai đoạn này tình yêu không được thoả mãn hoặc bị vấp váp, thất bại, thì sẽ
gặp nhiều khó khăn trong tiến trình tìm kiếm bạn đời ở các giai đoạn sau.
Có thể nhận biết tình yêu nam nữ qua một số dấu hiệu: Quan tâm chăm sóc đặc biệt người mình
yêu, mong muốn được giúp đỡ người mình yêu; rất cần đến người mình yêu; có khát vọng mãnh
liệt được ở bên cạnh người yêu và được người yêu chăm sóc, chiều chuộng; tin tưởng vào người
yêu: trao đổi, tâm sự với nhau; khoan dung, độ lượng với người yêu, ngay cả với sai lầm
khuyết điểm của người yêu.
Tình yêu của thanh niên có thể được thúc đẩy bởi nhiều định hướng giá trị khác nhau. Có thể kể
ra một số định hướng chính.
1). Yêu vì vẻ đẹp. Những thanh niên yêu vì vẻ đẹp thường bị hấp dẫn, cuốn hút bởi thể chất, bởi
cái đẹp cơ thể. Họ yêu vẻ đẹp của cơ thể. Tình yêu vẻ đẹp rất mãnh liệt nhưng chóng tàn.
2) Tình yêu - bạn bè. Đây tình yêu được nảy sinh từ tình bạn hay như tình bạn. Đó sự
đồng điệu, đồng cảm giữa hai tâm hồn. Tình yêu này khi đã được nảy sinh thì ngày càng sâu sắc
hơn. Trong trường hợp tình yêu phai nhạt, sẽ nhạt từ từ và có thể chuyển sang tình bạn
3) Tình yêu vị tha, là tình yêu dâng hiến, trinh trắng không đòi hỏi. Đây tình yêu nhuốm
màu lãng mạn, tiểu thuyết và lí tưởng hoá
4) Tình yêu - trò chơi. Tình yêu được coi như là trò chơi, giải trí, thú tiêu khiển trong cuộc sống. Những
thanh niên yêu nhau với cách là trò chơi thường xu hướng thô tục hoá, đơn giản hoá tình yêu. Họ
thường bất cẩn và thiếu trách nhiệm, thiếu nghiêm túc với tình yêu, thậm chí cả danh dự
5) Tình yêu thực dụng. Những người có tình yêu thực dụng coi tình yêu, thậm chí hôn nhân như
một loại hàng hoá, đổi chác. Họ dùng lí trí để phân tích thiệt hơn trong tình yêu và rất quan tâm
tới địa vị, xuất thân, hoàn cảnh, học vấn của người định yêu. Nếu tìm được đối tác phù hợp, họ
sẽ tiếp cận và tình yêu sẽ nảy nở. Tình yêu thực dụng như con dao hai lưỡi, rất dễ làm vỡ mộng
tổn thương những người trong cuộc. Các kiểu định hướng giá trị yêu bản nêu trên thể
thay đổi theo lứa tuổi. Chẳng hạn, thanh niên mới lớn thiên về tình yêu vẻ đẹp vị tha, còn
thanh niên trưởng thành chấp nhận tình yêu mang tính thực tế hơn. Cũng cần lưu ý, ngoài các
định hướng chính nêu trên, trong thực tiễn còn có các loại pha trộn giữa chúng.
Có sự khác nhau rõ nét về kì vọng trong tình yêu của thanh niên nam và nữ. Thanh niên nam có
xu hướng tách tình yêu ra khỏi tình dục, còn nữ giới lại mong gắn kết hai lĩnh vực đó với nhau.
Trong quan hệ yêu đương, khi nữ giới tìm kiếm quan hệ tình cảm thì một số nam giới chủ động
tìm kiếm quan hệ tình dục. Sự khác biệt này đôi khi làm cho nữ giới lâm vào tình cảnh khó
khăn, dằn vặt: nếu đồng ý thì sợ người yêu sẽ được thoả mãn bỏ rơi mình, còn nếu không
đồng ý thì sợ người ta sẽ nói “anh rất kính trọng em” và rồi cũng chia tay.
Nhìn chung, tình yêu lứa tuổi thanh niên về bản tình cảm lành mạnh. vậy, người
trưởng thành hội không nên can thiệp thô bạo vào thế giới tình cảm của họ, càng không
được chế diễu, quở trách, cấm đoán thanh niên khi họ xuất hiện tình yêu, nên trao đổi,
tham vấntrợ giúp họ khi gặp khó khăn, đặc biệt đối với thanh niên mới lớn. Mặt khác, cũng
cần khắc phục, hạn chế các hiện tượng thiếu lành mạnh của một số thanh niên trong quan hệ
nam - nữ, nhất là trong điều kiện phương tiện thông tin phát triển nhanh và xu hướng thực dụng
ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Sự phát triển tự ý thức
* Các mặt biểu hiện của tự ý thức:
Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ dáng vẻ bề ngoài, vị trí, các mối quan hệ xã hội đến
phẩm chất và năng lực cá nhân.
Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá (hài lòng hoặc không hài lòng, tự cao hoặc tự ti …)
Xác định mục đích phấn đấu, tự điều khiển và điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác.
Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân.
* Đặc điểm tự ý thức của sinh viên:
Do sự trưởng thành về lứa tuổi, do sự thay đổi vị thế hội, sinh viên khả năng đánh giá
khách quan về bản thân; có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động tâm lý như nhận thức, thái độ
hành vi để thích ứng được với các hoạt động học tập, rèn luyện, hoạt động tập thể trường
đại học.
Sinh viên tự thu thập và xử lý các thông tin về bản thân để tự điều chỉnh mình. Sinh viên tự nhìn
nhận lại bản thân, so sánh với những nhận xét của chính mình về bản thân, từ đó nảy sinh nhu
cầu tự hoàn thiện.
Sự phát triển tự ý thức của sinh viên biểu hiện của sphát triển nhân cách người lao động
trong tương lai. Sự đánh giá khách quan về bản thân giúp sinh viên nhận thức những điểm
mạnh, điểm yếu của mình để xác định mức độ đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.
1) Hình ảnh về thân thể
Ngay từ giai đoạn tuổi dậy thì, thanh niên đã rất quan tâm đến các vấn đề liên quan tới thân thể của
nh. Thái độ này vẫn được duy trì trong suốt thời kì thanh niên. Câu hỏi thường trực đối với nhiều
thanh niên là hình ảnh thân thể củanh thế nào trong mắt nời kc, nht là trong mắt bạn. Nhiều
thanh niên (cả nam và nữ) thường xun đứng trước gương để ngắm nhìn kiểm tra thcủa
nh; lo lắng về tầm vóc nhỏ bé hoc béo phệ, mụn trứng cá, nốt rui trên mặt v.v. Không ít thanh
niên y dựng và thực hin rất nghiêm kế hoạch rèn luyện tn thể các hành vi ứng xử, không
phải chyếu để tăng cường sức khoẻ mà đtạo ra hình ảnh hấp dn, uy tín và sự mến phục của bạn
. Những thanh niên chậm lớn hoặc quá béo, chậm xuất hin các dấu hiệu giới tính phụ thường cảm
thấy băn khn, khổ m, mặc cảm tự ti trước bạn. Thường các tri nghiệm này được dấun,
nhưng cũng nhiều trưng hợp được bộ lộ qua các phản ứng tiêu cực về ăn uống (nbiếng ăn
hoặc ăn uống vô độ), về hành vi ứng xử (làm dáng quá mức) v.v. Nói chung, hình ảnh về thân thể là
một thành tố quan trọng trong ý thức của tuổi thanh niên và đây cnh là một trong những đc trưng
m lí điển hình của lứa tuổi này.
2) Khả năng tự đánh giá bản thân
Cũng như thiếu niên, thanh niên khao khát muốn biết họ người như thế nào, năng lực gì.
vậy tự đánh giá mộtt tâm điển hình của lứa tuổi này.Tự đánh giá của thanh niên
các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tự đánh giá của thanh niên chủ kiến ràng đã sự đối chiếu với các chuẩn
chung của xã hội. Điều này khác với các lứa tuổi trước, ở đó đánh giá về bản thân thường lặp lại
ý kiến đánh giá của người lớn. Thanh niên, khi đánh giá bản thân thường chủ yếu dựa vào nhận
thức của mình. Tuy nhiên, do khả năng nhận thức về bản thân chưa thực sự khái quát và sâu sắc,
nên nhiều thanh niên chưa đánh giá đúng, khách quan bản thân mình
Thứ hai: Sự phản tỉnh về các phẩm chất tâm lí của mình là một trong những đặc trưng điển hình
của tuổi thanh niên.
Phản tỉnh sự quay vào bên trong bản thân của ý thức, làm cho các phẩm chất tâm của
nhân được phản ánh rõ nét hơn. Sự phản tỉnh của tuổi thanh niên, giúp họ không chỉ ý thức được
hơn “cái tôi” của bản thân,còn ý thức hơn địa vị hội của mình trong gia đình, nhà
trường và xã hội. Những vấn đề như tôi là ai? Tôi là người như thế nào? Tôi có những năng lực
vượt trội nào? Lí tưởng của tôi là gì? Ai là bạn, ai là thù của tôi? Tôi muốn trở thành người như
thế nào? Tôi phải làm gì để cho bản thân tôi cũng như cho mọi người xung quanh được tốt hơn?
v.v những vấn đề trăn trở trong suốt thời thanh niên, nhất giai đoạn đầu thanh xuân.
Chúng trở thành nhu cầu là một yếu tố quan trọng của sự tự xác định về mặt đạo đức - xã hội
của thanh niên, quy định các hành vi tu dưỡng của họ. Nhu cầu tự phân tích bản thân, đặt ra
những yêu cầu cao đối với bản thân, là tiền đề của tự giáo dục có mục đích của thanh niên và
dấu hiệu để xác định sự phát triển về mặt nhân cách của lứa tuổi này. Về phương diện thực tiễn,
biểu hiện dễ nhận thấy sự phản tỉnh của thanh niên đa số có sổ tu dưỡng, nhậtdưới nhiều
hình thức; thông qua sự quan tâm đến các hành động tự tu dưỡng, xây dựng và “ướm thử” theo
các mẫu người lí tưởng mà thanh niên ngưỡng mộ trong văn học, nghệ thuật, thể thao v.v.
Chiều sâu cường độ của sự phản tỉnh phụ thuộc vào đặc điểm tâm nhân (xu hướng nhân cách:
hướng nội hay hướng ngoại; khả năng nhận thức, trình độ học vấn v.v) và phụ thuộc vào các nhân tố xã
hội của cá nhân đó (điều kiện giáo dục gia đình, nhà trường, môi trường xã hội v.v).
Thứ ba: chiều sâu khái quát Tự đánh giá của thanh niên hơn nhiều so với tuổi thiếu niên.
Thanh niên không chỉ ý thức và đánh giá về “cái tôi” hiện thực (tôi là ai?), mà còn đánh giá “cái
tôi” tưởng (tôi muốn trở thành người như thế nào?), “cái tôi” năng động (tôi scố gắng để
thành người như thế nào?). Mặt khác, thanh niên không còn đánh giá từng đặc điểm thể chất hay
phẩm chất tâm lí riêng của mình như tuổi thiếu niên mà đã đánh giá khái quát về thể chất, tâm lí
và nhân cách của mình dựa trên cơ sở phân tích và khái quát hóa các đặc trưng riêng.
Điều cần lưu ý, dù tự đánh giá của thanh niên đã có tính độc lập, có chiều sâu và mang tính khái
quát, nhưng do ít dựa vào ý kiến của người khác, nên không phải bao giờ cũng phù hợp với cái
thực có của mình. Nhiều thanh niên đánh giá quá cao bản thân mình, dẫn đến tự cao, coi thường
người khác hoặc đánh giá quá thấp, coi mình bất tài, dụng. Nhìn chung, yếu tố “lí tưởng
hoá” vẫn phổ biến trong tự ý thức và tự đánh giá của thanh niên.
Thứ tư: sự tự đánh giá của thanh niên được thực hiện theo hai cách.
Cách thứ nhất: so sánh mức độ vọng, mong muốn của mình với kết quả đạt được. Đa số
thanh niên đánh giá cao năng lực và các phẩm chất tâm lí - xã hội của mình. Để khẳng định khả
năng của mình, thanh niên làm những công việc khó khăn, mạo hiểm (thậm chísẵn sàng cao
qúa sức hoặc nguy hại đến bản thân). Nhiều thanh niên không thích, coi thường những công việc
bình thường hàng ngày. Coi đó là những việc làm không tương xứng với họ. Kết quả là một mặt,
thanh niên thường những hành động quả cảm, phi thường các lứa tuổi khác không có.
Mặt khác Cũng do đặc điểm y, thanh niên thể xuất hiện các hành động nguy hại .
người trưởng thành không chấp nhận, cho “điên rồ” như càn quấy, ngang tàng, các trò chơi
mạo hiểm, phạm luật v.v. Những thanh niênhành vi này thường bị quy kết về đạo đức. Thực
ra không hoàn toàn như vậy, phần lớn trong số họ chỉ muốn thử thách, kiểm tra sức mạnh và các
phẩm chất tâm của mình. vậy hội không nên cấm đoán họ, cần tạo điều kiện định
hướng họ vào các trò chơi, các hành động phù hợp với hội với tâm thanh niên. Sự
vọng về bản thân và tính sẵn sàng cao để khẳng định mình là đặc điểm tâm lí quý báu của thanh
niên. Là cơ sở của tính tích cực hoạt động của tuổi thanh niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không
phải bao giờ cũng sự phù hợp giữa vọng về bản thân tính sẵn sàng của thanh niên với
kết quả hành động. Trong nhiều trường hợp, do khả năng kinh nghiệm còn hạn chế nên
thanh niên thể thất bại (theo vọng của họ của hội). Từ đó thường xuất hiện sự tiêu
cực khi đánh giá về bản thân. Trong trường hợp như vậy, người trưởng thành cần giúp đỡ, động
viên các bạn trẻ, giúp họ lượng giá đúng khả năng của mình biết cách khắc phục những trở
ngại để thực hiện mục tiêu của mình.
Cách thứ hai để so sánh, đối chiếu vớithanh niên tự đánh giá các phẩm chất tâm lí của mình là
ý kiến đánh giá của người xung quanh về bản thân. Thanh niên rất nhạy cảm với các ý kiến của
người khác đánh giá về mình thường coi đó các tiêu chuẩn để đánh giá đánh giá lại.
Trong quá trình tiếp nhận sđánh giá ngoài, các ý kiến của người lớn rất được thanh niên coi
trọng. Trong trường hợp sự mâu thuẫn giữa ý kiến của bạn ngang hàng với của người lớn
(đặc biệt đối với các chuẩn đạo đức), thanh niên thường theo ý kiến của người lớn. vậy, khi
đánh giá của người lớn không đúng hoặc không thống nhất (giữa lời nói việc làm) sẽ tạo ra
tổn thất lớn về niềm tin trong thanh niên.
nh tự trọng của thanh niên
Một trong những đặc trưng nổi bật của tuổi thanh nn so với các lứa tuổi khác là sự phát triển đến
mức độ cao, ổn định của tính tự trng.
nh tự trọng là sự tin tưởng,n trọng và chấp nhận chính bn thân, nhân cách của mình, trên cơ s
tự đánh giá đúng đn, khái quát về bản thân. Tính tự trng là thái độ tích cực, lạc quan của cá nhân,
thhiện sự đánh giá khách quan, nghiêm túc, yêu cầu cao đối với bản thân mình. Người cónh tự
trng thường không chấp nhận sự đánh g không đúng về mình; không chấp nhận sự xúc phạm đến
c giá trị sống hạ thấp nhân cách củanh. Mức độ tự trọng ở thanh niên ph rất rộng, từ
mức thấp nht là cá nhân hầu như kng có sự tôn trọng bản thân (thiếu tự trọng), đến tự trọng cao.
Tự trng cao là sự đánh giá đúng mc về bản tn, biết bảo vệ danh dự của nh mt cách phù hợp
trong các hoàn cảnh cụ thể. Tự trọng thấp là sự coi thường, thiếu tinởng vào bản thân, tự hạ thấp
nh, chấp nhận hoặc không coi trọng các đánh giá không đúng hoặc xúc phm đến giá trị nn cách
của mình. Thiếu tự trọng thể hiện thái độ tiêu cực của cá nhân đối với bản thân. Nó là một yếu tố dẫn
đến sự thiếu tôn trọng của người khác đối với mình. Những thanh niên có tính tự trọng thấp thường
gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và cản trở sự phát trin nhân cách của mình.
Cần phân biệt tính tự trọng với tính tự kiêu, thái độ nhút nhát hay sự thiếu phê phán đối với bản
thân của thanh niên. Nhiều người trong số họ đánh giá không đúng bản thân mình (quá cao
hoặc quá thấp). Từ đó có thái độ không đúng đối với bản thân với người khác. Sự tin tưởng
bản thân một cách quá mức và thiếu căn cứ thường gây khó chịu, xung đột và thất vọng từ phía
người lớn. Cách tốt nhất để giúp những thanh niên này không phải phê phán họ cần tổ
chức cho họ hoạt động giao tiếp, để thông qua đó họ các trải nghiệm thực tế. Bằng con
đường tự trải nghiệm họ sẽ có thái độ đúng về bản thân mình.
Lí tưởng sống và tính tích cực xã hội của thanh niên
Sự hình thành lí tưởng sống và kế hoạch đường đời của thanh niên
* Lí tưởng sống của thanh niên. Theo đúng nghĩa của nó, lí tưởng sống được hình thành và phát
triển mạnh ở tuổi thanh niên. Trước đó, trong thời kì tuổi thiếu niên, nhiều em cũng đã có thể
hiện khá rõ lí tưởng sống của mình. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, chúng thường chỉ là biểu
tượng về các cá nhân cụ thể ảnh hưởng lớn đến các em và được các em ngưỡng mộ: thầy, cô
giáo; ca sỹ, vận động viên thể thao, nhà văn, nhà khoa học v.v. Sang tuổi thanh niên, “hình mẫu
người lí tưởng” không còn gắn liền với các cá nhân cụ thể mà có tính khái quát cao về các phẩm
chất tâm lí, nhân cách điển hình của nhiều nhân trong các lĩnh vực hoạt động, nghề nghiệp,
được thanh niên quý trọng và ngưỡng mộ, noi theo.v. v.
Một điểm đặc trưng trong tưởng của thanh niên .tưởng nghề tưởng đạo đức cao cả
tưởng này được thể hiện qua mục đích sống, qua sự say với việc học tập, nghiên cứu
lao động nghề nghiệp; qua nguyện vọng được tham gia các hoạt động mang lại giá trị xã hội lớn
lao, được cống hiến sức trẻ của mình, ngay cả trong trường hợp nguy hiểm đến tính mạng của
bản thân. Nhiều thanh niên luôn ngưỡng mộ và cố gắng theo các thần tượng của mình trong các
tiểu thuyết cũng như trong cuộc sống.
Có sự khác nhau khá rõ về giới giữatưởng của nam nữ thanh niên. Đối với nữ thanh niên,
ởng sống về nghề nghiệp, về đạo đức hội thường mang tính nữ không bộc lộ
mạnh như nam.
Điều cần lưu ý trong thanh niên, đặc biệt thanh niên mới lớn, vẫn còn một bộ phận thanh
niên bị lệch lạc về tưởng sống. Những thanh niên này thường tôn thờ một số tính cách riêng
biệt của các nhân cách xấu như ngang tàng, càn quấy v.v và coi đó biểu hiện của thanh niên
anh hùng, hảo hán v.v
Việc giáo dục tưởng của thanh niên, đặc biệt các thanh niên mới lớn cần đặc biệt lưu ý tới
nhận thức và trình độ phát triển tâm lí của các em.
* Kế hoạch đường đời một khái niệm rộng, bao hàm từ sự xác định các giá trị đạo đức, mức
độ vọng vào tương lai, nghề nghiệp, phong cách sống v.v. tuổi thiếu niên kế hoạch đường
đời còn hồ chưa tách khỏi ước mơ. Thiếu niên chỉ đơn giản tưởng tượng mình trong các
vai trò hội khác nhau so sánh mức độ hấp dẫn của chúng, nhưng không quyết định dứt
khoát vai trò nào cho bản thân và cũng chưa có hành động tích cực để đạt đến vai trò đó. Sang
tuổi thanh niên thì tính tất yếu của sự lựa chọn vai trò trở lênràng. Từ nhiều khả năngtuổi
thiếu niên dần dần hình thành nên đường nét của một vài phương án hiện thực thể được
chấp nhận. Đến cuối tuổi thanh niên, một trong số vài phương án ban đầu sẽ trở thành lẽ sống,
định hướng hành động của họ.
Vấn đề quan trọng nhất sbận tâm nhất của thanh niên mới lớn trong việc xây dựng kế
hoạch đường đời vấn đề , . Xu hướng hứng thúnghề chọn nghề chọn trường học nghề
nghề đã xuất hiện từ tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, chỉ đến khi bước sang tuổi thanh niên thì xu
hướng nghề mới trở nên cấp thiết và mang tính hiện thực. Hầu hết thanh niên mới lớn đều phải
đối mặt với việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Việc lựa chọn nghề trường học nghề
luôn luôn mối quan tâm lớn nhất sự khó khăn của đa số học sinh THCS THPT. Về
chủ quan, sự hiểu biết về nghề thanh niên học sinh còn hạn chế. Nhiều thanh niên chưa thực sự
hiểu mạng lưới nghề hiện trong hội, chưa phân biệt sự khác nhau giữa nghề
trường đào tạo nghề, nên ít em hướng đến việc chọn nghề mà chủ yếu chọn trường để học. Việc
chọn nghề của số thanh niên này không phải vớicách là chọn một lĩnh vực việc làm ổn định
phù hợp với khả năng và điều kiện của mình, không phải là một nghề để mưu sinh,chủ yếu
chỉ mình trước bạn hoặc chủ yếu theo đuổi tính chất tưởngsự khẳng định chí hướng
hoá của mình. vậy, mặc các em ý thức được tầm quan trọng của việc chọn nghề nhưng
hành vi lựa chọn của các em vẫn Về khách quan, trong nền kinh tế hiện đại, mạng lướicảm tính.
nghề rất đa dạng, phong phú biến động, nên việc định hướng lựa chọn giá trị nghề của
thanh niên trở lên rất khó. Việc giáo dục nghề và hướng nghiệp cho học sinh luôn là việc làm rất
quan trọng của trường phổ thông và của toàn xã hội.
Tính tích cực xã hội
So với các lứa tuổi trước, tuổi thanh niên tính tích cực hội rất cao được thể hiện qua
nhiều khía cạnh sau:
- Nhu cầu tinh thần của thanh niên rất cao. Thanh niêntầng lớp rất nhạy cảm với các sự kiện
chính trị- hội, kinh tế v.v. của đất nước. Họ không chỉ quan tâm tới hoạt động chính của họ
(học tập hoặc lao động sản xuất) còn đến tình hình chính trị, kinh tế,quan tâm sâu sắc
hội, văn hóa trong nước và trên thế giới.
- Hứng thú nhận thứchứng thú tham gia các hoạt độnghội, văn hóa, nghệ thuật, thể thao
như đọc sách, xem phim, ca nhạc, các hoạt động thể thao, du lịch, các câu lạc bộ, các diễn đàn
tuổi trẻ về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt các vấn đề liên quan trực tiếp tới thanh
niên
- Một trong những biểu hiện rõ nhất của tính tích cực hôi của thanh niên là phạm vi mức
độ tham gia các hoạt động xã hội.
Phạm vi hoạt động hội của thanh niên rất rộng. rất bận học tập hoặc lao động sản xuất,
thanh niên vẫn say các hoạt động xã hội, từ các hoạt động mang ý nghĩa chính trị, liên quan
tới vận mệnh của xã hội, quốc gia đến các phong trào xã hội hàng ngày. Họ là lực lượng chủ yếu
và đi đầu trong các sự kiện trọng đại của đất nước, dân tộc.
Thanh niên tham gia các hoạt động chính trị hội với tinh thần lãng mạn nhiệt huyết của
tuổi trẻ, dám nghĩ, dám làm, muốn cống hiến sức lực của mình cho sự nghiệp lớn lao nào đó. Vì
vậy nhiều thanh niên đã làm được những việc phi thường. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức về
chính trị- xã hội của một số thanh niên chưa cao nên nhiều khi dẫn đến các hành động sai lầm
+ Sự phát triển định hướng giá trị của sinh viên
Vào học đại học nghĩasinh viên đã lựa chọn giá trịtrình độ học vấn cao, được lao động ở
trình độ cao, được đãi ngộ hơn các tầng lớp lao động khác trong hội. Tuy nhiên, do chọn
nghề ở những sinh viên khác nhau có sự khác nhau.
Do tác động của kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập, các giá trị truyền thống ít nhiều thay
đổi. Sinh viên hướng vào bản thân nhiều hơn, coi trọng cá nhân hơn, đồng thời cũng chấp nhận
thách thức của thực tế, sẵn sàng hợp tác những cũng chấp nhận cạnh tranh.
Sinh viênlớp người trẻ, có vốn kiến thức khoa học cơ bản và đang được trang bị những kiến
thức thuộc lĩnh vực chuyên môn nhất định. Sinh viên có khát vọng vươn lên nhưng cũng bộc lộ
tính bồng bột của tuổi trẻ nên việc thực hiện các dự định cho tương lai không phải lúc nào cũng
diễn ra thuận lợi.
Xu hướng và các kiểu nhân cách sinh viên
a. Xu hướng phát triển nhân cách sinh viên
Sinh viên là người đang học nghề nên xu hướng phát triển nhân cách của sinh viên là xu hướng
phát triển nhân cách nghề nghiệp. hình nhân cách mà sinh viên hướng tới nhân cách của
người lao động có trình độ cao trong lĩnh vực chuyên môn mà sinh viên đã chọn.
Sinh viên tiếp tục nhận thức rõ hơn, hiểu kỹ hơn về nghề nghiệp và các yêu cầu của nghề nghiệp
đã chọn, đồng thời dần dần hình thành tình cảm nghề nghiệp.
Xu hướng nghề nghiệp dần được ổn định và từng bước hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết
của nghề.
Tình cảm đạo đức, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng phát triển mạnh; tình cảm bạn bè, tình
yêu nam nữ phát triển và có tính chất bền vững.
Do nhận thức về nghề nghiệp đầy đủ hơn nên sinh viên đã đặt kỳ vọng về nghề nghiệp tương
lai. Sinh viên tự đối chiếu bản thân với yêu cầu của hội để hoàn thiện mình nhằm đáp ứng
các yêu cầu đó.
Sự phát triển nhân cách sinh viên diễn ra theo hướng tăng dần khả năng đáp ứng các yêu cầu về
phẩm chất và năng lực của nghề đã chọn từ năm đầu đến năm cuối.
b. Các kiểu nhân cách của sinh viên
Dựa vào thái độ của sinh viên đối với hoạt động học tập và các hoạt động chính trị xã hội, người
ta phân chia 6 kiểu nhân cách sinh viên như sau:
Kiểu 1: Là những sinh viên học tốt tất cả các môn cơ sở, cơ bản và chuyên ngành; xác định mục
đích học tập ràng; tích cực tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học; tích cực trong các hoạt
động chính trị hội. Đây những sinh viên toàn năng, thường được bầu vào các vị trí lãnh
đạo tập thể sinh viên.
Kiểu 2: những sinh viên học khá; học tốt một số môn, thường những môn chuyên ngành;
tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội; gắn bó với tập thể lớp bằng các hoạt động học
tập và rèn luyện nghề nghiệp.
Kiểu 3: Là những sinh viên đạt kết quả xuất sắc trong học tập; hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực;
say học tập nghiên cứu khoa học; thể một năng khiếu nào đó, nhưng không hứng
thú tham gia các hoạt động chính trị xã hội.
Kiểu 4: những sinh viên kết quả học tập trung bình, thể khá; không hẳn thiếu
chăm chỉ nhưng quan tâm dành nhiều thời gian cho các hoạt động
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP NHÓM
2.2.3.1. Định nghĩa và vai trò của phương pháp học nhóm
Học nhóm trong sinh viêncách thức học tập của nhóm ngườisự phối hợp thống
nhất, chặt chẽ với nhau để cùng nhận dạng, phân tích và luận giải các vấn đề học tập đặt ra, từ
đó lĩnh hội, củng cốmở rộng kiến thức đã được học và vận dụng chúng trong quá trình thi
- kiểm tra đạt kết quả cao.
Trong thời đại mới khi lượng tri thức ngày càng phát triển, m việc theo nhóm yêu cầu
quan trọng, cần thiết được đặt ra đối với tất cả mọi người. Với sinh viên, học tập theo nhóm
một trong các phương pháp học tập hiệu quả để qua đó rèn cho sinh viên khả năng hợp
tác, chia sẻ tình cảm, bồi dưỡng, phát triển tư duy, nâng cao trình độ tri thức.
Học nhóm phát huy khả năng duy, trí tuệ của từng nhân cả nhóm, giúp lĩnh
hội và giải quyết các vấn đề học tập một cách nhanh chónghiệu quả. Quá trình học nhóm
giúp sinh viên điều kiện nắm kiến thức chắc hơn, lâu hơn đây hội học hỏi các
phương pháp, kinh nghiệm học tập, phương pháp ghi nhớ kiến thức, phương pháp trả lời, làm
bài thi của các thành viên khác trong nhóm, từ đó nâng cao chất lượng học tập thi – kiểm
tra của mình.
Các nhà nghiên cứu đã tuyên bố rằng, “cho dù nội dung môn học như thế nào thì sinh
viên làm việc theo từng nhóm nhỏ cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn những gì được
dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác" - theo Barbara Gross Davis, Tools for
Teaching.
* Ưu điểm của phương pháp học tập nhóm:
- Góp phần xây dựng tinh thần đồng độcác mối quan hệ tương hỗ, đồng thời thúc
đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo nên sự gắn kết trong một “cộng đồng” bởi trong khi
làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh từ đó yêu cầu giải quyết và để giải quyết cần sự
cố gắng của mỗi cá nhân cùng với trí tuệ của cả tập thể.
- Tăng khả năng hòa nhập, thêm tinh thần học hỏi biết lắng nghe người khác
thông qua phần trình bày của bản thân và sự phản hồi của mọi người xung quanh.
- Tập hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân, mỗi người bổ sung một ý, từ
đó sản phẩm của học tập sẽ giàu tính sáng tạo và mang tính tập thể.
- Rèn luyện khả năng thuyết trình trước tập thể, kỹ năng giao tiếptính tự giác của
mỗi cá nhân, khả năng làm cho người khác hiểu điều mình hiểu đây điểm yếu của đa số
sinh viên hiện nay.
Những kỹ năng được rèn luyện trong khi m việc nhóm rất quan trọng cho môi
trường làm việc mới sau này, đây sẽ là tiền đề để ta biết cách làm việc trong một môi trường
tập thể.
* Những điểm bất lợi nếu tổ chức học tập nhóm không hiệu quả:
Học tập theo nhóm thể gây ồn trong lớp khó kiểm soát,vậy giáo viên cần chú ý
giáo dục và rèn luyện kỷ năng hoạt động hợp tác trong nhóm cho sinh viên.
- Nhiều sinh viên không thích học theo nhóm, muốn chứng tỏ khả năng của mình
với giáo viên hơn là với bạn.
- Trong nhóm thể 1 số sinh viên tích cực, một số khác lại vào các bạn trong
nhóm.
-Việc phân nhóm khó khăn mất nhiều thời gian khó có thể đánh giá trên kết quả thảo
luận của nhóm. Vì vậy giảng viên cần kết hợp đánh giá của thầy với đánh giá của trò.
2.2.3.2. Quy tắc trong học tập theo nhóm
Trong môi trường học tập bậc Đại học với nhiều nguồn thông tin và các yêu cầu hoàn
thành nhiệm vụ học tập trong những điều kiện nhất định, làm việc nhóm cách thực hiện
công việc học tập hiệu quả. Học tập theo nhóm là sự gắn kết các cá nhân cùng làm việc, cùng
học và đạt được mục tiêu học tập. HỌc tập theo nhóm dựa trên 10 quy tắc cơ bản sau:
- Định hình một mục tiêu chung, rõ ràng
Một nhóm học tập không mục tiêu giống như con thuyền không bến đỗ. rất
nhiều đại dương bên ngoài kia khiến cho mọi người trôi nổi khắp nơi và không biết đi đâu về
đâu – những cuộc họp không bao giờ kết thúc, những buổi thảo luận chẳng bao giờ được thỏa
mãn; những quyết định nửa vời. Điều mà mỗi nhóm cần là một mục tiêu rõ ràng để thực hiện
những nhiệm vụ học tập được giao. Mục tiêu chính là động cơ thúc đẩy, mục tiêu đòi hỏi hành
động sự quả quyết. Nhưng mục tiêu muốn khả thi phải đảm bảo ngắn gọn sắc sảo.
Mục tiêu định hướng hành động và cụ thể. Nếu nhóm không thểthấy” thì họ chẳng thể nào
thực thi các mục tiêu đó. không mục tiêu thì sẽ không sự phân công nhiệm vụ
kiểm tra tiến độ thực hiện công việc.
- Phân công trách nhiệm cụ thể cho các thành viên
Sinh viên những thành viên của nhóm, họ cũng giống như người chơi trong một đội. Điều
đó có nghĩa là họ có trách nhiệm thực hiện công việc của mình và đưa nhóm đạt được kết quả
như là phần thắng ghi nhận công sức của từng thành viên và cả nhóm. Sau khi có mục tiêu cụ
thể cho từng hoạt động nhóm cần phải thực hiện cần xác định ràng kỹ năng trách
nhiệm của từng thành viên trong nhóm. Bảng phân công nhiệm vụ cho thấy con đường đi mà
họ cần trải qua cũng như đo lường được kết quả thực hiện. Mặt khác sđảm bảo tiến độ
thực hiện công việc không gây ra sự chồng chéo hay bất đồng trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Nhóm là gắn kết nhưng trong sự gắn kết để thực hiện mục tiêu thì mỗi cá nhân cần
thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình để tạo ra một nhóm có tính chỉnh thể cao và đạt
được sự vượt trội trong hoạt động. Để phân công trách nhiệm hiệu quả cả nhóm cần nhìn vào
điểm mạnh yếu và yêu cầu về nội dung công việc mà quá trình học tập mang đến. Kích thích
khả năng đảm nhận nhiệm vụ theo hướng xung phong, sau đó lần lượt xác định khối lượng
công việc phù hợp với cácnhân. Các thành viên cần tuân thủ thực hiện trách nhiệm để
đảm bảo thể chế, sự nhất trí và kiểm soát mâu thuẫn của nhóm.
- Kiểm soát tốt các vấn đề bất đồng trên cơ sở cộng tác để thay đổi và phát triển
Sự trái ngược về quan điểm nền móng cho sự sáng tạo, tuy nhiên nếu không kiểm
soát tốt sẽ dẫn đến những xung đột phi chức năng cản trở thực hiện mục tiêu trong học tập
nhóm của sinh viên. Để hạn chế những xung đột không đáng có, gây mất thời gian làm việc,
sinh viên trong nhóm nên xác lập những nguyên tắc nhất định trong quá trình làm việc nhóm.
Cùng thực hiện sự tôn trọng đối với các nhân khác khi chúng ta tuân thủ quy định của
nhóm và tiến hành các hoạt động theo kế hoạch đã được phân công.
- Luôn kích thích các ý tưởng sáng tạo và khả năng dẫn dắt
Mọi người luôn có ý tưởng hay, đôi là ý tưởng sáng tạo và khác thường trong làm việc.
Thông thường để hạn chế việc mất thời gian và sao lãng mục tiêu thì các ý tưởng sáng tạo của
nhóm đến từ các thành viên hay bị gạt đi hoặc xem nhưmột sự không cần thiết. Tuy nhiên
nếu kiểm soát tốttôn trọng những ý kiến đó trên cơ sở khi có ý tưởng mới hãy chú ý lắng
nghe. Nếu ai đó nói những điều thú vị, hãy theo đuổi ý tưởng đó bằng những câu hỏi
thăm dò. Tìm ra điều đã dẫn dắt đến những lời nhận xét, bình luận thú vị. Nên tránh phê
pháp những ý tưởng khi chúng chỉ vừa được hình thành. Hãy tập trung vào cải tiến hay sử
dụng những ý tưởng đó. Bởi trong học tập rất cần sự sáng tạo biết trân trọng sự sáng tạo
chính là các bạn cũng đang dẫn mình hòa nhập để sáng tạo.
- Lãnh đạo vững mạnh
Tốc độ của người lãnh đạo là tốc độ của cả nhóm. Một người trưởng nhóm làm việc có
hiệu quả người thể làm tấm gương gương mẫu cho cả nhóm. Một trưởng nhóm giỏi
người thể đặt tầm quan trọng của mục tiêu nhóm trên mục tiêu nhân thể đưa ra
định hướng, đảm bảo các thành viên trong nhóm giữ vững sự tập trung vào việc đạt được mục
tiêu đó.
Người lãnh đạo tham gia vào việc lãnh đạo trong các cuộc họp, phân công nhiệm vụ,
ghi nhận những quyết định cam kết, đánh giá tiến độ, đảm bảo trách nhiệm của các thành
viên trong nhóm và đưa ra định hướng cho toàn nhóm.
Ra quyết định chính là xác định xem phải xửmột tình huống thậm chí một vấn đề như thế
nào. Thách thức chính là kết quả của quyết định.
- Tự kiểm tra và liên tục cải tiến các quy trình, hoạt động thực tiễn và sự tương tác của
các thành viên trong nhóm
Kiểm tra là một trong những mắt xích quan trọng để đảm bảo tiến độ thực hiện nhiệm
vụ của nhóm. Cả nhóm cần thảo luận công khai về những chỉ tiêu trong nhóm những vấn
đề gây cản trở tốc độ phát triển hoặc thảo luận về tác động đến những nỗ lực, khả năng
chiến lược của nhóm.
- Giao tiếp hiệu quả
Các thành viên trong nhóm nên giao tiếp thoải mái với nhau một cách trực tiếp
hướng tới mục tiêu đạt được thành công cho dự án. Việc giao tiếp giữa các thành viên với
nhau và với trưởng nhóm nên là một quá trình hai chiều. Điều này sẽ giúp họ hiểu nhau hơn
đồng thời giải quyết những vấn đề nảy sinh một cách nhanh chóng nhất. Giao tiếp cởi mở,
trung thực và tôn trọng. Các thành viên tự do bày tỏ suy nghĩ,
ý kiến và các giải pháp tiềm năng để giải quyết vấn đề. Mọi người cảm thấy được lắng nghe
thấu hiểu. Các thành viên nên hỏi các câu hỏi để làm ý kiến chứ không nên tìmch
phản bác đồng nghiệp của họ
- Tôn trọng
Để hợp tác hiệu quả, các thành viên trong nhóm cần hiểu tôn trọng những thành
viên khác. Tôn trọng năng lực, quan điểm hành động của nhau để giảm thiểu xung đột,
đảm bảo hoạt động suông sẻ và nâng cao năng suất.
- Đề cao vai trò cá nhân
Các thành viên trong nhóm được xem những nhân đặc biệt với những kinh
nghiệm, quan điểm, kiến thức ý kiến đóng góp không thể thay thế. Mục đích thành lập
nhóm chính là để tận dụng lợi thế của sự khác biệt đó.
- Gắn kết
Gắn kết nhóm trở thành một đơn vị thống nhất, nhóm cần làm việc dựa trên nền tảng chung.
Cả tổ chức cần có những sáng kiến và tổ chức các buổi đóng góp xây dựng ý kiến, và các buổi
họp, buổi giao lưu hằng tháng để tăng cường kết nối trong nhóm.
Tại sao các công ty thường làm việc nhóm khi tiếp cận các dự án, phát triển sản phẩm
mục tiêu? Trên thực tế, trong nhóm càng đưa ra những quan điểm khác biệt, khả năng
thành công của các dự án càng cao hơn
2.2.3.3. Kỹ năng bổ trợ trong học tập theo nhóm
Để thực hiện được mục tiêu gắn kết các thành viên làm việc trong môi trường
nhóm, các bạn sinh viên cần chú ý rèn luyện một số kỹ năng sau để hiệu quả trong làm
nhóm.
1, Lắng nghe: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất. Các thành viên trong
nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của nhau. Kỹ năng này phản ánh sự tôn trọng ý kiến giữa các
thành viên trong nhóm. Lắng nghe đòi hỏi mức độ tư duy cao hơn nghe. Lắng nghe là một kỹ
năng người nghe tiếp nhận thông tin từ người nói, phân tích, duy theo hướng tích cực
và phản hồi bằng thái độ tôn trọng những ý kiến của người nói dù đóý kiến hoàn toàn trái
ngược với quan điểm của bản thân.
2, Chất vấn: Qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi, chúng ta có thể nhận biết được mức
độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề cho các thành viên khác của họ. Chất
vấn là kỹ năng thể hiện tư duy phản biện tích cực. Thực tế đây là một kỹ năng khó mà chúng
ta cũng đang cần phải rèn luyện. Chất vấn bằng những câu hỏi thông minh dựa trên những
lẽ tán đồng hay phản biện chặt chẽ đòi hỏi mức độ duy cao tinh thần xây dựng ý kiến
hết mình cho nhóm. Lời lẽ chất vấn cần mềm mỏng, lịch sự.
Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hiểu rằng: “Trong tranh luận,
người có ý kiến phản biện với ý kiến của mình họ đang không đồng quan điểm với ý kiến
mà mình vừa nêu chứ không phải họ chê bai con người của mình”. Trong tranh luận, nếu tự ái
nghĩa là mình đã đánh mất đi sự sáng suốt của bản thân.
3, Thuyết phục: Khi nêu ý kiến đóng góp cho nhóm cần kèm theo lý lẽ thuyết phục để
nhận được sự đồng tình của nhiều thành viên trong nhóm.
4, Tôn trọng: Phải ý thức tôn trọng ý kiến của người khác thể hiện qua việc động
viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực.
5, Trợ giúp: Có người sẽ mạnh lĩnh vực này, nhưng người khác lại mạnh lĩnh vực khác.
nhiều khi, vấn đề nhóm đang phải giải quyết cần nhiều kiến thức nhiều lĩnh vực,
mức độ và đòi hỏi các kỹ năng khác nhau. Do vậu, cần có ý thức sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ cho
những người khác trong nhóm.
6, Chia sẻ: Các bạn sinh viên hãy hiểu rằng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giúp việc
học tập nhanh đạt kết quả. Có nhiều người thiếu kỹ năng này, họ sợ học chia sẻ nhóm sẽ làm
cho người khác hơn mình trong kết quả điểm. Điều này sai lầm lớn, cái bạn sẽ được là
long tin và bạn sẽ nhận được nhiều thông tin bổ ích cho việc học từ niềm tin này.
2.2.3.4. Phương pháp thiết lập và tổ chức học nhóm
Ngày nay việc tổ chức nhóm chính con đường để hoàn tất công việc nhanh nhất.
Trong học tập nhằm để giúp sinh viên thể hiện được khả năng tương tác và thích ứng với môi
trường học tập thì việc kết hợp học tập với các bạn là một trong những phương pháp học hiệu
quả. Tầm quan trọng của phương pháp học nhóm cũng đã được đề cập cụ thể ở nội dung trên.
Bản thân sinh viên khi tham gia vào môi trường học tập tại trường đại học cũng nhận thức
được vai trò của học nhóm tới kết quả của của mình. Tuy nhiên để thực hiện phương pháp học
tập này hiệu quả cần phải thực hiện quy trình tập trung thành thục các kỹ năng trong
làm việc nhóm.
a) Thiết lập nhóm
Xác định số lượng thành viên của mỗi nhóm trong khoảng 5 đến 8m thành viên, với s
lượng này nhóm sẽ hoạt động đạt hiệu quả hơn. Việc xác định số lượng thành viên nhóm
thể do giáo viên hoặc giáo viên giao cho sinh viên tự tiến thực hiện.
Nhóm hình thành trên sự cộng tác kết hợp của các sinh viên cùng chí hướng thực
hiện một vấn đề nào đó cùng với nhau; tuy nhiên để dễ dàng cho việc hoạt động trao đổi,
tốt nhất là nên thành lập nhóm từ những thành viên có cùng điều kiện về hoạt động (thời gian,
vị trí, công việc)
Các thành viên được kết nạp vào nhóm không có bất đầu riêng tư từ trước, nếu có hãy
giải quyết bất đồng hoặc tham gia vào một nhóm khác nếu có thể.
Sau khi tập hợp đủ số thành viên, nhóm tiến hành bầu nhóm trưởng. Bầu nhóm trưởng
trên cơ sở tự thỏa thuận với nhau. Tiêu chí để bầu nhóm trưởng là:
- Nhóm trưởng người khả năng giao tiếp, kết nối tạo được mối quan hệ thân
thiện với các thành viên trong nhóm.
- Có khả năng đánh giá, tổng hợp một vấn đề.
- Có khả năng nhân sự: phân chia nhiệm vụ, giao nhiệm vụ cho các thành viên, đánh
giá vấn đề…, ngoài khả năng chuyên môn, khả năng này cũng rất quan trọng, đảm bảo
công việc được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
- Thống nhất mục tiêu chiến lược cho nhóm
- Chủ trì các cuộc họp
- Đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc, nhiệm vụ đã đề ra
- Kiểm tra, phân tích, khắc phục sai sót
- Là đại diện chính thức của nhóm
Phân nhiệm vụ thực hiện cho từng thành viên
b) Giai đoạn tiến hành thực hiện hoạt động nhóm
Nhóm hoạt động chủ yếu bằng hình thức họp nhóm. Thời gian và địa điểm do nhóm tự
thống nhất quyết định. Thường thời gian họp nhóm tiến hành trong khoảng 45-75 phút,
sau thời gian này mức độ tập trung không được cao. Các buổi họp nhóm càng diễn ra thường
xuyên càng tốt.
* Thực hiện xây dựng phân công nhiệm vụ trên sở mục tiêu kế hoạch chung
của nhóm của nhóm.
- Sau khi xây dựng mục tiêu tổng quát xong, chia các mục tiêu đó thành nhiều dự án
ngắn hạn.
- Xây dựng các dự án cụ thể dựa trên các dự án ngắn hạn đó.
- Xây dựng các chỉ tiêu cụ thể cần thực hiện
- Xây dựng các qui tắc, qui định riêng cho nhóm, thực hiện trong nhóm và mọi thành
viên trong nhóm phải thực hiện nghiêm túc các qui định đó.
* Tiến hành họp nhóm
- Mở đầu:
+ Các thành viên ổn định vị trí của mình, tắt chuông điện thoại hoặc các thiết bị khác
để không ảnh hưởng đến quá trình làm việc của nhóm.
+ Nhóm trưởng hoặc một thành viên nào đó trong nhóm nêu ra các vấn đề cần được
giải quyết trong buổi họp. Sau đó các thành viên thống nhất thứ tự giải quyết các vấn đề.
- Tiến hành giải quyết vấn đề
+ Cách thức làm việc theo nhóm và tính cách kín đáo, bảo thủ, áp đặt không thể sống
chung với nhau. Mọi người đều khả năng đưa ra nhiều ý tưởng khác nhau, khi ý tưởng
được trình bày các thành viên nên chú ý lắng nghe trọn vẹn ý tưởng, không nên phản ứng, cắt
ngang ý tưởng của thành viên khác.
+ Nhóm cùng thống nhất ý tưởng đưa ra phương án hành động. Nếu nhiều ý
tưởng phương án khả năng thực hiện như nhau, nhóm tiến hành lấy ý kiến bằng hình
thức biểu quyết để thống nhất ý tưởng và phương án hành động.
+ Các vấn đề, các công việc đòi hỏi nhiều sự sáng tạo duy ưu tiên giải quyết
trước
+ Trên cơ sở kết quả làm việc của các thành viên, căn cứ vào thời gian hoạt động của
nhóm tiến hành thống nhất và đưa ra sản phẩm làm việc.
c) Báo cáo sản phẩm và rút kinh nghiệm hoạt động của nhóm
Kết quả làm việc nhóm sản phẩm khẳng định hiệu quả làm việc của tất cả thành
viên. mang đến niềm tự hào kích thích sự cố gắng của các thành viên các nhiệm vụ
tiếp theo. Chính vì thế việc báo cáo sản phẩm nhóm cho giảng viên và cả lớp là một nhiệm vụ
rất quan trọng. Khi làm việc nhóm tất cả các thành viên đều phải am hiểu về các vấn đề trong
nhiệm vụ cần thực hiện. Nếu không yêu cầu từ phía giảng viên, nhóm thể chọn 1 bạn
sinh viên tố chất về giọng nói, diễn đạt để thực hiện báo cáo nhằm đưa đến kết quả tốt
nhất. Tuy nhiên nếu giảng viên yêu cầu bất kỳ thành viên nào thì cả nhóm cũng đã tinh
thần chuẩn bị trước để diễn đạt kết quả làm việc của mình. Lưu ý cố gắng trình bày cô đọng,
súc tích và đầy đủ kết quả làm việc của nhóm theo yêu cầu của giảng viên.
Nhóm trưởng tập hợp bảng chấm công về kết quả làm việc của các thành viên trong
nhóm. Thống nhất nội bộ việc ghi nhận đóng góp của các thành viên. Rút kinh nghiệm những
điều chưa thực hiện được. Sau đó báo cáo trước giảng viên.
KỸ NĂNG SINH VIÊN ĐẠI HỌC
3.1.1. Một số khái niệm cơ bản
3.1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Theo từ điển Giáo dục học, kỹ năng là: “Khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động
phù hợp với những mục tiêu điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho đó hành
động cụ thể hay hành động trí tuệ”.Trên bình diện của Tâm học, hai quan điểm khác
nhau về kỹ năng:
Thứ nhất, xem kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động, coi kỹ năng như một
phương tiện thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người
đã nắm vững, không cần quan tâm đến kết quả: “Kỹ nănglà cách thức cơ bản để chủ thể thực
hiện hành động, thể hiện bởi tập hợp những kiến thức đã thu lượm được, những thói quen
kinh nghiệm”.
Thứ hai, xem kỹ năng là biểu hiện của năng lực con người, coi kỹ năng là năng lực thực
hiện một công việc kết quả với chất lượng cần thiết, trong một khoảng thời gian cụ thể:
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn, Trần Quốc Thành, Trần Thị Quốc Minh cho
rằng: Kỹ năngmột mặt của năng lực con người thực hiện một công việc có kết quả ”.
Trên cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiếu khái niệm kỹ năng như sau:“Kỹ năng
là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức,
những kinh nghiệm đã để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng
không chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật của hành động, còn biểu hiện năng lực của con
người”.
Kỹ năng là giai đoạn trung gian giữa việc nắm vững cách thức mới thực hiện hành động,
dựa trên cơ sở của tri thức và sự vận dụng đúng những tri thức tương xứng trong quá trình hoàn
thành các bài tập, nhưng chưa đạt tới mức độ kỹ xảo.
3.1.1.2. Khái niệm kỹ năng mềm
a. Khái niệm
Bên cạnh thuật ngữ “kỹ năng sống” được phổ biến một cách rộng rãi trong lĩnh vực
giáo dục và xã hội thì thuật ngữ “kỹ năng mềm” (Soft Skills) cũng là một trong những vấn đề
được quan tâm - nhất là các đối tượng đang chuẩn bị cho quá trình lập thân - lập nghiệp. Ngày
nay, trình độ học vấn và bằng cấp chưa đủ để quyết định trong việc tuyển dụng lao động của
nhiều doanh nghiệp người sử dụng lao động. Họ còn căn cứ vào yếu tố nhân như sự
nhạy bén khi xử lý công việc và giao tiếp của mỗi người lao động, các yếu tố này được người
ta gọi là “kỹ năng mềm”.
khá nhiều quan niệm khác nhau hay định nghĩa khác nhau về kỹ năng mềm tuỳ
theo lĩnh vực nghề nghiệp, góc nhìn chuyên môn, ngữ cảnh phát biểu và thậm chí là việc đặt
thuật ngữ này bên cạnh những thuật ngữ nào.Hiểu một cách đơn giản kỹ năng mềm là những
kỹ năng con người tích luỹ được để làm cho mình dễ dàng
được chấp nhận, làm việc thuận lợi
và đạt
được hiệu quả.
Theo tác giả D.M. Kaplan thì kỹ năng mềm là những kỹ năngcon người được
ngoài yếu tố chuyên môn và sự chun nghiệp xét trên lĩnh vực công việc. Đó còn được xem là
biểu hiện của trí tuệ cảm xúc của con người, thể hin khả năng tinh thần của cá nhân. Nói cách
khác, kỹ năng mềm thể hiện sự tồn tại vận dụng một ch hiệu quả nhng đặc điểm của
nhân như: thân thiện, vị tha, biết chấp nhận người khác...
Một vài tác giả khác như E.A. Leutenberg, J.J. Liptak lại cho rằng kỹ năng mềm
những kỹ năng không liên quan trực tiếp đến kiến thức chuyên môn của nghề nghiệp đang
sở hữu mà nó thể hiện cái riêng về mặt cá tính của cá nhân trong công việc và trong mối quan
hệ với người khác.
Tác giả Forland, Jeremy cho rằng kỹ năng mềm một thuật ngữ thiên về mặt hội
để chỉ những kỹ năng liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, khả năng hoà nhập
hội, thái độ hành vi ứng xử hiệu quả trong giao tiếp giữa người với người. Nói khác
| 1/66

Preview text:

KHÁI NIỆM SINH VIÊN ĐẠI HỌC:
Từ những quan điểm trên, thống nhất khái niệm SV là những công dân có độ tuổi từ 18-25 đang học
tập ở bậc đại học, cao đẳng. SV có những đặc điểm cơ bản sau:
Những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc trung học hoặc trung cấp chuyên nghiệp, xuất
thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn tại
các trường đại học, cao đẳng;
Là lớp người năng động, nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu cái mới;
Là bộ phận trí tuệ và ưu tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết tinh nhiều tài năng sáng
tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ phận sinh viên sẽ trở thành
người trí thức của đất nước;
Do đặc điểm lứa tuổi, SV là lớp người đang hình thành và khẳng định nhân cách, còn thiếu
kinh nghiệm sống, có xu hướng chung là tính tích cực chính trị - xã hội, tính tự lập, độc lập và
nhu cầu tự khẳng định phát triển khá cao;
Đối với xã hội, SV là một nhóm xã hội được quan tâm. So với thanh niên đang đi làm (có thu
nhập) thì SV là một nhóm xã hội trong phạm vi nhất định được xã hội hoặc gia đình bảo trợ trong quá trình học tập.
THỜI KÌ CHUYỂN TIẾP CỦA SV
Giới hạn tuổi thanh niên
- Trong suốt quá trình phát triển của cá nhân, giai đoạn tuổi thanh niên và các giai đoạn sau này
rất khó phân định rạch ròi, cả về tuổi đời, về thể chất, hoàn cảnh xã hội và về phát triển tâm lí.
- Về tuổi đời và thể chất, tuổi thanh niên thường được xác định từ 15 đến 25 tuổi, với đặc trưng
là sự trưởng thành và hoàn thiện cơ thể cả về giải phẫu và sinh lí, sau khi kết thúc giai đoạn dậy
thì. Trong đó chia làm hai thời kì:
- Thời kì từ 15-18 tuổi, được gọi là tuổi đầu thanh niên (thanh niên mới lớn)
- Thời kì từ 18 đến 25 tuổi, được gọi là thanh niên trưởng thành.
- Hoàn cảnh xã hội của tuổi thanh niên thường khó xác định và phụ thuộc vào môi trường văn
hoá, xã hội và vào hoạt động chủ đạo của đa số thanh niên trong cùng độ tuổi.
- Ở các nước phát triển hầu hết thành viên trong cộng đồng được dành khoảng 20 - 22 năm đầu
đời cho việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia thực thụ vào guồng máy sản xuất của
xã hội. Do vậy, trong khoảng từ 16 - 22 tuổi, hầu hết vẫn còn là học sinh, sinh viên với hoạt
động chính là học tập.
- Ở các nước đang phát triển và một số cộng đồng, sau khi hết Tiểu học và THCS, xuất hiện sự
phân luồng: một số không học tiếp mà tham gia ngay vào hoạt động sản xuất, tạo của cải cho
bản thân và xã hội; một số khác tiếp tục theo học THPT và cao hơn. Sự phân hoá, phân luồng
hoạt động chủ đạo đã tạo ra các vị thế xã hội khác nhau, dẫn đến sự khác biệt đáng kể về tâm lí
giữa các thanh niên cùng tuổi đời.
- Ở nước ta, có thể khái quát lứa tuổi từ 16 đến 25 thành 3 nhóm: thanh niên học sinh THPT,
thanh niên sinh viên và nhóm thanh niên lao động. Sự phát triển tâm lí của ba nhóm thanh niên
có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt, do vị thế xã hội và hoạt động
chủ đạo của các thành viên trong mỗi nhóm.
Sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của tuổi thanh niên
Một trong những yếu tố xã hội đặc trưng, có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển tâm lí tuổi
thanh niên là sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của họ so với các lứa tuổi trước đó.
a.Sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội của thanh niên trong gia đình
Sự thay đổi vai trò và vị thế xã hội của thanh niên diễn ra trước hết trong quan hệ gia đình.
Trước tuổi thanh niên, hầu hết các hoạt động của trẻ em đều được điều khiển, quản lí và kiểm
soát của người lớn. Khi các em gặp sự cố trong quan hệ, thường có sự can thiệp trực tiếp của
người lớn và họ sẽ quyết định các hành vi của trẻ. Sang tuổi thanh niên, vấn đề đã thay đổi.
Thanh niên được (và phải) tự quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống của mình, ngay cả các vấn đề
hệ trọng như chuyện học hành, yêu đương, chọn và học nghề, việc làm v.v. Sự can thiệp của
người lớn không còn có ý nghĩa quyết định như các giai đoạn trước. Nếu đã nghỉ học thì phải
làm một nghề nào đó để kiếm tiền. Ngoài ra, họ phải chăm sóc, tham gia kèm cặp các em nhỏ
học bài, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa....ở những gia đình neo đơn hoặc khó khăn, các em phải đảm
nhận trách nhiệm như là một trụ cột.
b. Sự chuyển đổi vai trò và vị thế của thanh niên trong các quan hệ xã hội
Tuổi thanh niên được đánh dấu bởi sự xuất hiện nhiều vai trò mới - vai trò của một công dân, điều mà
trước đó chưa có ở thiếu niên: ra nhập Đoàn thanh niên; được cấp chứng minh thư nhân dân; được hưởng
quyền lợi và trách nhiệm dân sự; quyền bàu cử và ứng cử; quyền kết hôn. Một bộ phận thanh niên sau
khi học xong THCS, THPT hoặc các trường nghề đã tham gia thực sự vào guồng máy lao động sản xuất
của xã hội, tự lập về kinh tế. Những khía cạnh kinh tế - xã hội nêu trên đã giúp thanh niên xác lập được
địa vị xã hội mới- địa vị của người trưởng thành.
- Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ trong thanh niên vẫn phụ thuộc vào người lớn. Về vật chất, tài chính
nhiều em vẫn phụ thuộc vào cha mẹ. Nhiều em vẫn còn đang đi học tại trường THPT hoặc các trường
nghề. Trong quan hệ với người lớn, một mặt các em luôn được nhắc nhở là người lớn, phải chứng tỏ các
phẩm chất tâm - sinh lí và nhân cách của người lớn; mặt khác, các em vẫn bị đối xử như trẻ em. Nhữn g
khía cạnh xã hội trên đã tạo ra ở thanh niên mới lớn một hoàn cảnh xã hội có tính không xác định và
không ổn định. Sự khác nhau và phức tạp về vị thế xã hội nêu trên của thanh niên được phản ánh vào đời
sống tâm lí của họ và tạo ra sự khác biệt về tâm lí giữa các nhóm thanh niên
Những đặc tính tâm lý xã hội của sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng đến những đặc tính đó
Sự phát triển thể chất của thanh niên
Lứa tuổi thanh niên là thời kì hoàn thiện sự phát triển thể chất của con người cả về phương diện
cấu tạo và chức năng. Đây là thời kì thể lực sung mãn nhất trong cả đời người, “tuổi mười bảy
bẻ gãy sừng bò ”. So với tuổi thiếu niên, sự gia tăng về chiều cao và cân nặng của thanh niên
đều chậm lại. Các em gái thường trưởng thành đầy đủ vào khoảng 17 - 18 tuổi, các em trai
thường trưởng thành chậm hơn (vào khoảng 18 - 20 tuổi). Từ 18 đến 25 tuổi, sức khoẻ của cá
nhân đạt tới mức cao nhất, các phản xạ nhanh nhạy nhất, ít bị bệnh tật nhất trong cả đời người.
Những năm giữa và cuối thanh niên (20 - 25 tuổi) là thời điểm tốt nhất về sức khoẻ sinh lí và
tâm lí cho việc sinh con. Vì vậy, nếu các điều kiện xã hội thuận lợi thì đây là thời điểm tối ưu để
thanh niên nam nữ kết hôn và sinh con.
Nói tóm lại thanh niên là mùa xuân của cuộc đời.
Sự phát triển của hoạt động nhận thức
Hoạt động nhận thức trong học tập của sinh viên diễn ra ở cường độ cao. Các quá trình nhận
thức như: tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng … đều được huy động tối đa để đáp ứng yêu cầu
học tập theo phương thức tự nghiên cứu.
Đối tượng học của sinh viên không phải chỉ là những tri thức khoa học hấp dẫn mà còn bao gồm
rất nhiều tri thức khoa học vừa khó, vừa khô khan, nhưng sinh viên đều phải tập trung lĩnh hội
và tham gia vào bài giảng nên tri giác có chủ định, chú ý có chủ định được huy động là chủ yếu.
Hầu hết các tri thức khoa học ở đại học đều đòi hỏi phải ghi nhớ ý nghĩa, vì thế sinh viên phải
biết tổ chức ghi nhớ để có trí nhớ dài hạn.
Sinh viên có những phẩm chất tư duy tốt như: óc phân tích, tổng hợp, khả năng phê phán, tính
độc lập, khả năng khái quát vấn đề; đồng thời có sự sáng tạo trong vận dụng tri thức sao cho phù
hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Khả năng tưởng tượng của sinh viên được phát triển ở mức độ cao; sinh viên có khả năng xây
dựng những hình ảnh mới, độc đáo mà học sinh phổ thông chưa có được, nhờ đó họ có thể lĩnh
hội tốt các tri thức có tính chất trừu tượng ở đại học
Sự phát triển về tình cảm
Sinh viên đã trưởng thành về tâm, sinh lý nên đời sống tình cảm rất phong phú, sâu sắc và bền
vững. Tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển đến mức độ tích cực nhất
Tình cảm trí tuệ của sinh viên biểu hiện rõ qua thái độ tích cực đối với việc chiếm lĩnh tri thức
khoa học. Nhiều sinh viên chủ động tìm tòi, khám phá các phương pháp học tập phù hợp với
điều kiện và yêu cầu môn học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học tập.
Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển có chiều sâu.
Sinh viên có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở những gì mà họ yêu thích.
Tình bạn của sinh viên phát triển mạnh và có chiều sâu. Tình bạn góp phần làm cho nhân cách
của sinh viên phát triển mạnh. Tình yêu nam nữ của sinh viên cũng rất phát triển. Tình yêu sinh
viên thường là những mối tình đẹp, nhưng vẫn còn tồn tại một số lệch lạc trong quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu.
Trí tuệ cảm xúc của sinh viên đã phát triển. Sinh viên có những kinh nghiệm nhất định về các
lĩnh vực tình cảm; có khả năng kiềm chế bản thân trước những ham muốn tiêu cực, biết phân
tích và đánh giá các hiện tượng trong đời sống xã hội và của bản thân.
Sự phát triển đời sống tình cảm của thanh niên đã đạt tới mức trưởng thành và ổn định. Trong các
lĩnh vực tình cảm: đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, tình bạn, tình yêu của lứa tuổi này đã có sự gắn kết hài
hoà giữa nhận thức- xúc cảm - hành động ý chí và đã thực sự trở thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy
thanh niên hành động. Nói cách khác, tình cảm ở thanh niên phát triển và đã thực sự trở thành các
phẩm chất, các thuộc tính tâm lí ổn định và bền vững trong cấu trúc nhân cách tuổi thanh niên
A. Tình bạn tuổi thanh niên
Tình bạn đã được nâng lên mức đồng chí (cùng chí hướng). Khác với tuổi thiếu niên chủ yếu là
đồng tính cách, sở thích, thói quen …
Tuổi thiếu niên diễn ra quá trình tìm kiếm tình bạn căng thẳng. Tuổi thanh niên cũng vậy, hơn
nữa còn đi vào chiều sâu hơn. Tiêu chí kết bạn là sự tâm tình, thân mật, tình cảm ấm áp và cùng
chí hướng phân đấu vì giá trị nào đó. Do tự ý thức phát triển mạnh, thanh niên có nhu cầu tìm
kiếm “cái tôi” khác, ở bên ngoài tôi. Nhu cầu này lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời cá nhân
và là sơ sở để tuổi thanh niên thường “dốc bầu tâm sự”’ với bạn, được chia sẻ những rung cảm của mình.
Tính chất và mức độ tâm tình của tuổi thanh niên có sự khác nhau về giới. Nhìn chung, nhu cầu
tình bạn thân mật ở nữ thanh niên xuất hiện sớm hơn so với nam giới. Quan niệm về tình bạn của
thanh niên cũng có phần khác biệt về mặt cá nhân. Một số cho rằng đã là bạn thân thì chỉ có một
vài người, số khác quan niệm, có thể có nhiều bạn thân.
Một trong những điểm nổi bật trong tình bạn tuổi thanh niên là tính cảm xúc cao. Trong đa số
trường hợp, tình bạn khác giới tuổi thanh niên có nhiều điểm của tình yêu nam - nữ: cũng say
mê, nồng nàn, sự trung thành, hy sinh, hạnh phúc, thẹn thùng, ghen tuông và đau khổ phải chia
ly v.v. Trên thực tế, có nhiều trường hợp từ tình bạn khác giới chuyển sang tình yêu và đi đến hôn nhân.
Tình bạn của thanh niên rất bền vững. Những quan hệ bạn bè trong thời kì thanh niên thường
được lưu giữ trong suốt cả đời người.
B. Tình yêu tuổi thanh niên.
Một trong những đặc trưng điển hình nhất của tuổi thanh niên là tình yêu. Tình yêu là tuyệt tác
chỉ có ở con người và lần đầu tiên xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên theo đúng nghĩa của nó .
Thực ra, ở cuối tuổi thiếu niên, các em trai và gái đã xuất hiện những rung động đầu đời đối với
bạn khác giới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những cảm xúc có phần mơ hồ và không ổn định. ở tuổi
thanh niên, tình yêu nam nữ là sự hoà hợp giữa sự say mê, cuồng nhiệt và đằm thắm của tình
yêu với tình dục và với trách nhiệm xã hội. Tình yêu của thanh niên nhất là thanh niên trưởng
thành, đã mang tính hiện thực, ổn định và sâu sắc. Đa số hướng tới hôn nhân. Về phương diện
cá nhân, nếu trong giai đoạn này tình yêu không được thoả mãn hoặc bị vấp váp, thất bại, thì sẽ
gặp nhiều khó khăn trong tiến trình tìm kiếm bạn đời ở các giai đoạn sau.
Có thể nhận biết tình yêu nam nữ qua một số dấu hiệu: Quan tâm chăm sóc đặc biệt người mình
yêu, mong muốn được giúp đỡ người mình yêu; rất cần đến người mình yêu; có khát vọng mãnh
liệt được ở bên cạnh người yêu và được người yêu chăm sóc, chiều chuộng; tin tưởng vào người
yêu: trao đổi, tâm sự với nhau; khoan dung, độ lượng với người yêu, ngay cả với sai lầm và
khuyết điểm của người yêu.
Tình yêu của thanh niên có thể được thúc đẩy bởi nhiều định hướng giá trị khác nhau. Có thể kể
ra một số định hướng chính.
1). Yêu vì vẻ đẹp. Những thanh niên yêu vì vẻ đẹp thường bị hấp dẫn, cuốn hút bởi thể chất, bởi
cái đẹp cơ thể. Họ yêu vẻ đẹp của cơ thể. Tình yêu vẻ đẹp rất mãnh liệt nhưng chóng tàn.
2) Tình yêu - bạn bè. Đây là tình yêu được nảy sinh từ tình bạn hay như tình bạn. Đó là sự
đồng điệu, đồng cảm giữa hai tâm hồn. Tình yêu này khi đã được nảy sinh thì ngày càng sâu sắc
hơn. Trong trường hợp tình yêu phai nhạt, sẽ nhạt từ từ và có thể chuyển sang tình bạn
3) Tình yêu vị tha, là tình yêu dâng hiến, trinh trắng và không đòi hỏi. Đây là tình yêu nhuốm
màu lãng mạn, tiểu thuyết và lí tưởng hoá
4) Tình yêu - trò chơi. Tình yêu được coi như là trò chơi, giải trí, thú tiêu khiển trong cuộc sống. Những
thanh niên yêu nhau với tư cách là trò chơi thường có xu hướng thô tục hoá, đơn giản hoá tình yêu. Họ
thường bất cẩn và thiếu trách nhiệm, thiếu nghiêm túc với tình yêu, thậm chí cả danh dự
5) Tình yêu thực dụng. Những người có tình yêu thực dụng coi tình yêu, thậm chí hôn nhân như
một loại hàng hoá, đổi chác. Họ dùng lí trí để phân tích thiệt hơn trong tình yêu và rất quan tâm
tới địa vị, xuất thân, hoàn cảnh, học vấn của người định yêu. Nếu tìm được đối tác phù hợp, họ
sẽ tiếp cận và tình yêu sẽ nảy nở. Tình yêu thực dụng như con dao hai lưỡi, rất dễ làm vỡ mộng
và tổn thương những người trong cuộc. Các kiểu định hướng giá trị yêu cơ bản nêu trên có thể
thay đổi theo lứa tuổi. Chẳng hạn, thanh niên mới lớn thiên về tình yêu vẻ đẹp và vị tha, còn
thanh niên trưởng thành chấp nhận tình yêu mang tính thực tế hơn. Cũng cần lưu ý, ngoài các
định hướng chính nêu trên, trong thực tiễn còn có các loại pha trộn giữa chúng.
Có sự khác nhau rõ nét về kì vọng trong tình yêu của thanh niên nam và nữ. Thanh niên nam có
xu hướng tách tình yêu ra khỏi tình dục, còn nữ giới lại mong gắn kết hai lĩnh vực đó với nhau.
Trong quan hệ yêu đương, khi nữ giới tìm kiếm quan hệ tình cảm thì một số nam giới chủ động
tìm kiếm quan hệ tình dục. Sự khác biệt này đôi khi làm cho nữ giới lâm vào tình cảnh khó
khăn, dằn vặt: nếu đồng ý thì sợ người yêu sẽ được thoả mãn và bỏ rơi mình, còn nếu không
đồng ý thì sợ người ta sẽ nói “anh rất kính trọng em” và rồi cũng chia tay.
Nhìn chung, tình yêu ở lứa tuổi thanh niên về cơ bản là tình cảm lành mạnh. Vì vậy, người
trưởng thành và xã hội không nên can thiệp thô bạo vào thế giới tình cảm của họ, càng không
được chế diễu, quở trách, cấm đoán thanh niên khi ở họ xuất hiện tình yêu, mà nên trao đổi,
tham vấn và trợ giúp họ khi gặp khó khăn, đặc biệt đối với thanh niên mới lớn. Mặt khác, cũng
cần khắc phục, hạn chế các hiện tượng thiếu lành mạnh của một số thanh niên trong quan hệ
nam - nữ, nhất là trong điều kiện phương tiện thông tin phát triển nhanh và xu hướng thực dụng
ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Sự phát triển tự ý thức
* Các mặt biểu hiện của tự ý thức:
Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ dáng vẻ bề ngoài, vị trí, các mối quan hệ xã hội đến
phẩm chất và năng lực cá nhân.
Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá (hài lòng hoặc không hài lòng, tự cao hoặc tự ti …)
Xác định mục đích phấn đấu, tự điều khiển và điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác.
Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân.
* Đặc điểm tự ý thức của sinh viên:
Do sự trưởng thành về lứa tuổi, do sự thay đổi vị thế xã hội, sinh viên có khả năng đánh giá
khách quan về bản thân; có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động tâm lý như nhận thức, thái độ
và hành vi để thích ứng được với các hoạt động học tập, rèn luyện, hoạt động tập thể ở trường đại học.
Sinh viên tự thu thập và xử lý các thông tin về bản thân để tự điều chỉnh mình. Sinh viên tự nhìn
nhận lại bản thân, so sánh với những nhận xét của chính mình về bản thân, từ đó nảy sinh nhu cầu tự hoàn thiện.
Sự phát triển tự ý thức của sinh viên là biểu hiện của sự phát triển nhân cách người lao động
trong tương lai. Sự đánh giá khách quan về bản thân giúp sinh viên nhận thức rõ những điểm
mạnh, điểm yếu của mình để xác định mức độ đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.
1) Hình ảnh về thân thể
Ngay từ giai đoạn tuổi dậy thì, thanh niên đã rất quan tâm đến các vấn đề liên quan tới thân thể của
mình. Thái độ này vẫn được duy trì trong suốt thời kì thanh niên. Câu hỏi thường trực đối với nhiều
thanh niên là hình ảnh thân thể của mình thế nào trong mắt người khác, nhất là trong mắt bạn. Nhiều
thanh niên (cả nam và nữ) thường xuyên đứng trước gương để ngắm nhìn và kiểm tra cơ thể của
mình; lo lắng về tầm vóc nhỏ bé hoặc béo phệ, mụn trứng cá, nốt ruồi trên mặt v.v. Không ít thanh
niên xây dựng và thực hiện rất nghiêm kế hoạch rèn luyện thân thể và các hành vi ứng xử, không
phải chủ yếu để tăng cường sức khoẻ mà để tạo ra hình ảnh hấp dẫn, uy tín và sự mến phục của bạn
bè. Những thanh niên chậm lớn hoặc quá béo, chậm xuất hiện các dấu hiệu giới tính phụ thường cảm
thấy băn khoăn, khổ tâm, mặc cảm tự ti trước bạn bè. Thường các trải nghiệm này được dấu kín,
nhưng cũng có nhiều trường hợp được bộ lộ qua các phản ứng tiêu cực về ăn uống (như biếng ăn
hoặc ăn uống vô độ), về hành vi ứng xử (làm dáng quá mức) v.v. Nói chung, hình ảnh về thân thể là
một thành tố quan trọng trong ý thức của tuổi thanh niên và đây chính là một trong những đặc trưng
tâm lí điển hình của lứa tuổi này.
2) Khả năng tự đánh giá bản thân
Cũng như thiếu niên, thanh niên khao khát muốn biết họ là người như thế nào, có năng lực gì.
Vì vậy tự đánh giá là một nét tâm lí điển hình của lứa tuổi này.Tự đánh giá của thanh niên có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Tự đánh giá của thanh niên có chủ kiến rõ ràng và đã có sự đối chiếu với các chuẩn
chung của xã hội. Điều này khác với các lứa tuổi trước, ở đó đánh giá về bản thân thường lặp lại
ý kiến đánh giá của người lớn. Thanh niên, khi đánh giá bản thân thường chủ yếu dựa vào nhận
thức của mình. Tuy nhiên, do khả năng nhận thức về bản thân chưa thực sự khái quát và sâu sắc,
nên nhiều thanh niên chưa đánh giá đúng, khách quan bản thân mình
Thứ hai: Sự phản tỉnh về các phẩm chất tâm lí của mình là một trong những đặc trưng điển hình của tuổi thanh niên.
Phản tỉnh là sự quay vào bên trong bản thân của ý thức, làm cho các phẩm chất tâm lí của cá
nhân được phản ánh rõ nét hơn. Sự phản tỉnh của tuổi thanh niên, giúp họ không chỉ ý thức được
rõ hơn “cái tôi” của bản thân, mà còn ý thức rõ hơn địa vị xã hội của mình trong gia đình, nhà
trường và xã hội. Những vấn đề như tôi là ai? Tôi là người như thế nào? Tôi có những năng lực
vượt trội nào? Lí tưởng của tôi là gì? Ai là bạn, ai là thù của tôi? Tôi muốn trở thành người như
thế nào? Tôi phải làm gì để cho bản thân tôi cũng như cho mọi người xung quanh được tốt hơn?
v.v là những vấn đề trăn trở trong suốt thời kì thanh niên, nhất là giai đoạn đầu thanh xuân.
Chúng trở thành nhu cầu là một yếu tố quan trọng của sự tự xác định về mặt đạo đức - xã hội
của thanh niên, quy định các hành vi tu dưỡng của họ. Nhu cầu tự phân tích bản thân, đặt ra
những yêu cầu cao đối với bản thân, là tiền đề của tự giáo dục có mục đích của thanh niên và là
dấu hiệu để xác định sự phát triển về mặt nhân cách của lứa tuổi này. Về phương diện thực tiễn,
biểu hiện dễ nhận thấy sự phản tỉnh của thanh niên là đa số có sổ tu dưỡng, nhật kí dưới nhiều
hình thức; thông qua sự quan tâm đến các hành động tự tu dưỡng, xây dựng và “ướm thử” theo
các mẫu người lí tưởng mà thanh niên ngưỡng mộ trong văn học, nghệ thuật, thể thao v.v.
Chiều sâu và cường độ của sự phản tỉnh phụ thuộc vào đặc điểm tâm lí cá nhân (xu hướng nhân cách:
hướng nội hay hướng ngoại; khả năng nhận thức, trình độ học vấn v.v) và phụ thuộc vào các nhân tố xã
hội của cá nhân đó (điều kiện giáo dục gia đình, nhà trường, môi trường xã hội v.v).
Thứ ba: Tự đánh giá của thanh niên có chiều sâu khái
quát hơn nhiều so với tuổi thiếu niên.
Thanh niên không chỉ ý thức và đánh giá về “cái tôi” hiện thực (tôi là ai?), mà còn đánh giá “cái
tôi” lí tưởng (tôi muốn trở thành người như thế nào?), “cái tôi” năng động (tôi sẽ cố gắng để
thành người như thế nào?). Mặt khác, thanh niên không còn đánh giá từng đặc điểm thể chất hay
phẩm chất tâm lí riêng của mình như tuổi thiếu niên mà đã đánh giá khái quát về thể chất, tâm lí
và nhân cách của mình dựa trên cơ sở phân tích và khái quát hóa các đặc trưng riêng.
Điều cần lưu ý, dù tự đánh giá của thanh niên đã có tính độc lập, có chiều sâu và mang tính khái
quát, nhưng do ít dựa vào ý kiến của người khác, nên không phải bao giờ cũng phù hợp với cái
thực có của mình. Nhiều thanh niên đánh giá quá cao bản thân mình, dẫn đến tự cao, coi thường
người khác hoặc đánh giá quá thấp, coi mình là bất tài, vô dụng. Nhìn chung, yếu tố “lí tưởng
hoá” vẫn phổ biến trong tự ý thức và tự đánh giá của thanh niên.
Thứ tư: sự tự đánh giá của thanh niên được thực hiện theo hai cách.
Cách thứ nhất: so sánh mức độ kì vọng, mong muốn của mình với kết quả đạt được. Đa số
thanh niên đánh giá cao năng lực và các phẩm chất tâm lí - xã hội của mình. Để khẳng định khả
năng của mình, thanh niên sẵn sàng cao làm
những công việc khó khăn, mạo hiểm (thậm chí
qúa sức hoặc nguy hại đến bản thân). Nhiều thanh niên không thích, coi thường những công việc
bình thường hàng ngày. Coi đó là những việc làm không tương xứng với họ. Kết quả là một mặt,
thanh niên thường có những hành động quả cảm, phi thường mà các lứa tuổi khác không có. Mặt khác . Cũng
do đặc điểm này, ở thanh niên có thể xuất hiện các hành động nguy hại mà
người trưởng thành không chấp nhận, cho là “điên rồ” như càn quấy, ngang tàng, các trò chơi
mạo hiểm, phạm luật v.v. Những thanh niên có hành vi này thường bị quy kết về đạo đức. Thực
ra không hoàn toàn như vậy, phần lớn trong số họ chỉ muốn thử thách, kiểm tra sức mạnh và các
phẩm chất tâm lí của mình. Vì vậy xã hội không nên cấm đoán họ, cần tạo điều kiện và định
hướng họ vào các trò chơi, các hành động phù hợp với xã hội và với tâm lí thanh niên. Sự kì
vọng về bản thân và tính sẵn sàng cao để khẳng định mình là đặc điểm tâm lí quý báu của thanh
niên. Là cơ sở của tính tích cực hoạt động của tuổi thanh niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không
phải bao giờ cũng có sự phù hợp giữa kì vọng về bản thân và tính sẵn sàng của thanh niên với
kết quả hành động. Trong nhiều trường hợp, do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên
thanh niên có thể thất bại (theo kì vọng của họ và của xã hội). Từ đó thường xuất hiện sự tiêu
cực khi đánh giá về bản thân. Trong trường hợp như vậy, người trưởng thành cần giúp đỡ, động
viên các bạn trẻ, giúp họ lượng giá đúng khả năng của mình và biết cách khắc phục những trở
ngại để thực hiện mục tiêu của mình.
Cách thứ hai để thanh niên tự đánh giá các phẩm chất tâm lí của mình là so sánh, đối chiếu với
ý kiến đánh giá của người xung quanh về bản thân. Thanh niên rất nhạy cảm với các ý kiến của
người khác đánh giá về mình và thường coi đó là các tiêu chuẩn để đánh giá và đánh giá lại.
Trong quá trình tiếp nhận sự đánh giá ngoài, các ý kiến của người lớn rất được thanh niên coi
trọng. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý kiến của bạn ngang hàng với của người lớn
(đặc biệt đối với các chuẩn đạo đức), thanh niên thường theo ý kiến của người lớn. Vì vậy, khi
đánh giá của người lớn không đúng hoặc không thống nhất (giữa lời nói và việc làm) sẽ tạo ra
tổn thất lớn về niềm tin trong thanh niên.
Tính tự trọng của thanh niên
Một trong những đặc trưng nổi bật của tuổi thanh niên so với các lứa tuổi khác là sự phát triển đến
mức độ cao, ổn định của tính tự trọng.
Tính tự trọng là sự tin tưởng, tôn trọng và chấp nhận chính bản thân, nhân cách của mình, trên cơ sở
tự đánh giá đúng đắn, khái quát về bản thân. Tính tự trọng là thái độ tích cực, lạc quan của cá nhân,
thể hiện sự đánh giá khách quan, nghiêm túc, yêu cầu cao đối với bản thân mình. Người có tính tự
trọng thường không chấp nhận sự đánh giá không đúng về mình; không chấp nhận sự xúc phạm đến
các giá trị sống và hạ thấp nhân cách của mình. Mức độ tự trọng ở thanh niên có phổ rất rộng, từ
mức thấp nhất là cá nhân hầu như không có sự tôn trọng bản thân (thiếu tự trọng), đến tự trọng cao.
Tự trọng cao là sự đánh giá đúng mức về bản thân, biết bảo vệ danh dự của mình một cách phù hợp
trong các hoàn cảnh cụ thể. Tự trọng thấp là sự coi thường, thiếu tin tưởng vào bản thân, tự hạ thấp
mình, chấp nhận hoặc không coi trọng các đánh giá không đúng hoặc xúc phạm đến giá trị nhân cách
của mình. Thiếu tự trọng thể hiện thái độ tiêu cực của cá nhân đối với bản thân. Nó là một yếu tố dẫn
đến sự thiếu tôn trọng của người khác đối với mình. Những thanh niên có tính tự trọng thấp thường
gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và cản trở sự phát triển nhân cách của mình.
Cần phân biệt tính tự trọng với tính tự kiêu, thái độ nhút nhát hay sự thiếu phê phán đối với bản
thân của thanh niên. Nhiều người trong số họ đánh giá không đúng bản thân mình (quá cao
hoặc quá thấp). Từ đó có thái độ không đúng đối với bản thân và với người khác. Sự tin tưởng
bản thân một cách quá mức và thiếu căn cứ thường gây khó chịu, xung đột và thất vọng từ phía
người lớn. Cách tốt nhất để giúp những thanh niên này không phải là phê phán họ mà cần tổ
chức cho họ hoạt động và giao tiếp, để thông qua đó họ có các trải nghiệm thực tế. Bằng con
đường tự trải nghiệm họ sẽ có thái độ đúng về bản thân mình.
Lí tưởng sống và tính tích cực xã hội của thanh niên
Sự hình thành lí tưởng sống và kế hoạch đường đời của thanh niên
* Lí tưởng sống của thanh niên. Theo đúng nghĩa của nó, lí tưởng sống được hình thành và phát
triển mạnh ở tuổi thanh niên. Trước đó, trong thời kì tuổi thiếu niên, nhiều em cũng đã có và thể
hiện khá rõ lí tưởng sống của mình. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, chúng thường chỉ là biểu
tượng về các cá nhân cụ thể có ảnh hưởng lớn đến các em và được các em ngưỡng mộ: thầy, cô
giáo; ca sỹ, vận động viên thể thao, nhà văn, nhà khoa học v.v. Sang tuổi thanh niên, “hình mẫu
người lí tưởng” không còn gắn liền với các cá nhân cụ thể mà có tính khái quát cao về các phẩm
chất tâm lí, nhân cách điển hình của nhiều cá nhân trong các lĩnh vực hoạt động, nghề nghiệp,
được thanh niên quý trọng và ngưỡng mộ, noi theo.v. v.
Một điểm đặc trưng trong lí tưởng của thanh niên là lí tưởng nghề lí tưởng đạo đức cao cả.
Lí tưởng này được thể hiện qua mục đích sống, qua sự say mê với việc học tập, nghiên cứu và
lao động nghề nghiệp; qua nguyện vọng được tham gia các hoạt động mang lại giá trị xã hội lớn
lao, được cống hiến sức trẻ của mình, ngay cả trong trường hợp nguy hiểm đến tính mạng của
bản thân. Nhiều thanh niên luôn ngưỡng mộ và cố gắng theo các thần tượng của mình trong các
tiểu thuyết cũng như trong cuộc sống.
Có sự khác nhau khá rõ về giới giữa lí tưởng của nam và nữ thanh niên. Đối với nữ thanh niên,
lí tưởng sống về nghề nghiệp, về đạo đức xã hội thường mang tính nữ và không bộc lộ rõ và mạnh như nam.
Điều cần lưu ý là trong thanh niên, đặc biệt là thanh niên mới lớn, vẫn còn một bộ phận thanh
niên bị lệch lạc về lí tưởng sống. Những thanh niên này thường tôn thờ một số tính cách riêng
biệt của các nhân cách xấu như ngang tàng, càn quấy v.v và coi đó là biểu hiện của thanh niên anh hùng, hảo hán v.v
Việc giáo dục lí tưởng của thanh niên, đặc biệt là các thanh niên mới lớn cần đặc biệt lưu ý tới
nhận thức và trình độ phát triển tâm lí của các em.
* Kế hoạch đường đời là một khái niệm rộng, bao hàm từ sự xác định các giá trị đạo đức, mức
độ kì vọng vào tương lai, nghề nghiệp, phong cách sống v.v. ở tuổi thiếu niên kế hoạch đường
đời còn mơ hồ và chưa tách khỏi ước mơ. Thiếu niên chỉ đơn giản tưởng tượng mình trong các
vai trò xã hội khác nhau và so sánh mức độ hấp dẫn của chúng, nhưng không quyết định dứt
khoát vai trò nào cho bản thân và cũng chưa có hành động tích cực để đạt đến vai trò đó. Sang
tuổi thanh niên thì tính tất yếu của sự lựa chọn vai trò trở lên rõ ràng. Từ nhiều khả năng ở tuổi
thiếu niên dần dần hình thành nên đường nét của một vài phương án hiện thực và có thể được
chấp nhận. Đến cuối tuổi thanh niên, một trong số vài phương án ban đầu sẽ trở thành lẽ sống,
định hướng hành động của họ.
Vấn đề quan trọng nhất và là sự bận tâm nhất của thanh niên mới lớn trong việc xây dựng kế
hoạch đường đời là vấn đề nghề và chọn nghề, chọn trường học nghề. Xu hướng và hứng thú
nghề đã xuất hiện từ tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, chỉ đến khi bước sang tuổi thanh niên thì xu
hướng nghề mới trở nên cấp thiết và mang tính hiện thực. Hầu hết thanh niên mới lớn đều phải
đối mặt với việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai. Việc lựa chọn nghề và trường học nghề
luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất và là sự khó khăn của đa số học sinh THCS và THPT. Về
chủ quan, sự hiểu biết về nghề thanh niên học sinh còn hạn chế. Nhiều thanh niên chưa thực sự
hiểu rõ mạng lưới nghề hiện có trong xã hội, chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa nghề và
trường đào tạo nghề, nên ít em hướng đến việc chọn nghề mà chủ yếu chọn trường để học. Việc
chọn nghề của số thanh niên này không phải với tư cách là chọn một lĩnh vực việc làm ổn định
phù hợp với khả năng và điều kiện của mình, không phải là một nghề để mưu sinh, mà chủ yếu
chỉ là sự khẳng định mình
trước bạn hoặc chủ yếu là theo đuổi chí hướng
tính chất lí tưởng
hoá của mình. Vì vậy, mặc dù các em ý thức được tầm quan trọng của việc chọn nghề nhưng
hành vi lựa chọn của các em vẫn cảm tính Về khách quan, trong nền kinh .
tế hiện đại, mạng lưới
nghề rất đa dạng, phong phú và biến động, nên việc định hướng và lựa chọn giá trị nghề của
thanh niên trở lên rất khó. Việc giáo dục nghề và hướng nghiệp cho học sinh luôn là việc làm rất
quan trọng của trường phổ thông và của toàn xã hội.
Tính tích cực xã hội
So với các lứa tuổi trước, tuổi thanh niên có tính tích cực xã hội rất cao và được thể hiện qua nhiều khía cạnh sau:
- Nhu cầu tinh thần của thanh niên rất cao. Thanh niên là tầng lớp rất nhạy cảm với các sự kiện
chính trị- xã hội, kinh tế v.v. của đất nước. Họ không chỉ quan tâm tới hoạt động chính của họ
(học tập hoặc lao động sản xuất) mà còn quan tâm sâu sắc đến tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa trong nước và trên thế giới.
- Hứng thú nhận thức và hứng thú tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa, nghệ thuật, thể thao
như đọc sách, xem phim, ca nhạc, các hoạt động thể thao, du lịch, các câu lạc bộ, các diễn đàn
tuổi trẻ về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là các vấn đề liên quan trực tiếp tới thanh niên
- Một trong những biểu hiện rõ nhất của tính tích cực xã hôi của thanh niên là phạm vi và mức
độ tham gia các hoạt động xã hội.
Phạm vi hoạt động xã hội của thanh niên rất rộng. Dù rất bận học tập hoặc lao động sản xuất,
thanh niên vẫn say mê các hoạt động xã hội, từ các hoạt động mang ý nghĩa chính trị, liên quan
tới vận mệnh của xã hội, quốc gia đến các phong trào xã hội hàng ngày. Họ là lực lượng chủ yếu
và đi đầu trong các sự kiện trọng đại của đất nước, dân tộc.
Thanh niên tham gia các hoạt động chính trị xã hội với tinh thần lãng mạn và nhiệt huyết của
tuổi trẻ, dám nghĩ, dám làm, muốn cống hiến sức lực của mình cho sự nghiệp lớn lao nào đó. Vì
vậy nhiều thanh niên đã làm được những việc phi thường. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức về
chính trị- xã hội của một số thanh niên chưa cao nên nhiều khi dẫn đến các hành động sai lầm
+ Sự phát triển định hướng giá trị của sinh viên
Vào học đại học nghĩa là sinh viên đã lựa chọn giá trị là trình độ học vấn cao, được lao động ở
trình độ cao, được đãi ngộ hơn các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Tuy nhiên, lý do chọn
nghề ở những sinh viên khác nhau có sự khác nhau.
Do tác động của kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập, các giá trị truyền thống ít nhiều thay
đổi. Sinh viên hướng vào bản thân nhiều hơn, coi trọng cá nhân hơn, đồng thời cũng chấp nhận
thách thức của thực tế, sẵn sàng hợp tác những cũng chấp nhận cạnh tranh.
Sinh viên là lớp người trẻ, có vốn kiến thức khoa học cơ bản và đang được trang bị những kiến
thức thuộc lĩnh vực chuyên môn nhất định. Sinh viên có khát vọng vươn lên nhưng cũng bộc lộ
tính bồng bột của tuổi trẻ nên việc thực hiện các dự định cho tương lai không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi.
Xu hướng và các kiểu nhân cách sinh viên
a. Xu hướng phát triển nhân cách sinh viên
Sinh viên là người đang học nghề nên xu hướng phát triển nhân cách của sinh viên là xu hướng
phát triển nhân cách nghề nghiệp. Mô hình nhân cách mà sinh viên hướng tới là nhân cách của
người lao động có trình độ cao trong lĩnh vực chuyên môn mà sinh viên đã chọn.
Sinh viên tiếp tục nhận thức rõ hơn, hiểu kỹ hơn về nghề nghiệp và các yêu cầu của nghề nghiệp
đã chọn, đồng thời dần dần hình thành tình cảm nghề nghiệp.
Xu hướng nghề nghiệp dần được ổn định và từng bước hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết của nghề.
Tình cảm đạo đức, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng phát triển mạnh; tình cảm bạn bè, tình
yêu nam nữ phát triển và có tính chất bền vững.
Do nhận thức về nghề nghiệp đầy đủ hơn nên sinh viên đã đặt kỳ vọng về nghề nghiệp tương
lai. Sinh viên tự đối chiếu bản thân với yêu cầu của xã hội để hoàn thiện mình nhằm đáp ứng các yêu cầu đó.
Sự phát triển nhân cách sinh viên diễn ra theo hướng tăng dần khả năng đáp ứng các yêu cầu về
phẩm chất và năng lực của nghề đã chọn từ năm đầu đến năm cuối.
b. Các kiểu nhân cách của sinh viên
Dựa vào thái độ của sinh viên đối với hoạt động học tập và các hoạt động chính trị xã hội, người
ta phân chia 6 kiểu nhân cách sinh viên như sau:
Kiểu 1: Là những sinh viên học tốt tất cả các môn cơ sở, cơ bản và chuyên ngành; xác định mục
đích học tập rõ ràng; tích cực tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học; tích cực trong các hoạt
động chính trị xã hội. Đây là những sinh viên toàn năng, thường được bầu vào các vị trí lãnh đạo tập thể sinh viên.
Kiểu 2: Là những sinh viên học khá; học tốt một số môn, thường là những môn chuyên ngành;
tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội; gắn bó với tập thể lớp bằng các hoạt động học
tập và rèn luyện nghề nghiệp.
Kiểu 3: Là những sinh viên đạt kết quả xuất sắc trong học tập; hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực;
say mê học tập và nghiên cứu khoa học; có thể có một năng khiếu nào đó, nhưng không hứng
thú tham gia các hoạt động chính trị xã hội.
Kiểu 4: Là những sinh viên có kết quả học tập trung bình, có thể là khá; không hẳn là thiếu
chăm chỉ nhưng vì quan tâm và dành nhiều thời gian cho các hoạt động
PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP NHÓM
2.2.3.1. Định nghĩa và vai trò của phương pháp học nhóm
Học nhóm trong sinh viên là cách thức học tập của nhóm người có sự phối hợp thống
nhất, chặt chẽ với nhau để cùng nhận dạng, phân tích và luận giải các vấn đề học tập đặt ra, từ
đó lĩnh hội, củng cố và mở rộng kiến thức đã được học và vận dụng chúng trong quá trình thi
- kiểm tra đạt kết quả cao.
Trong thời đại mới khi lượng tri thức ngày càng phát triển, làm việc theo nhóm là yêu cầu
quan trọng, cần thiết được đặt ra đối với tất cả mọi người. Với sinh viên, học tập theo nhóm
là một trong các phương pháp học tập hiệu quả để qua đó rèn cho sinh viên khả năng hợp
tác, chia sẻ tình cảm, bồi dưỡng, phát triển tư duy, nâng cao trình độ tri thức.
Học nhóm phát huy khả năng tư duy, trí tuệ của từng cá nhân và cả nhóm, giúp lĩnh
hội và giải quyết các vấn đề học tập một cách nhanh chóng và hiệu quả. Quá trình học nhóm
giúp sinh viên có điều kiện nắm kiến thức chắc hơn, lâu hơn và đây là cơ hội học hỏi các
phương pháp, kinh nghiệm học tập, phương pháp ghi nhớ kiến thức, phương pháp trả lời, làm
bài thi của các thành viên khác trong nhóm, từ đó nâng cao chất lượng học tập và thi – kiểm tra của mình.
Các nhà nghiên cứu đã tuyên bố rằng, “cho dù nội dung môn học như thế nào thì sinh
viên làm việc theo từng nhóm nhỏ cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn những gì được
dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác" - theo Barbara Gross Davis, Tools for Teaching.
* Ưu điểm của phương pháp học tập nhóm:
- Góp phần xây dựng tinh thần đồng độ và các mối quan hệ tương hỗ, đồng thời thúc
đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo nên sự gắn kết trong một “cộng đồng” bởi trong khi
làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh từ đó yêu cầu giải quyết và để giải quyết cần sự
cố gắng của mỗi cá nhân cùng với trí tuệ của cả tập thể.
- Tăng khả năng hòa nhập, có thêm tinh thần học hỏi và biết lắng nghe người khác
thông qua phần trình bày của bản thân và sự phản hồi của mọi người xung quanh.
- Tập hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân, mỗi người bổ sung một ý, từ
đó sản phẩm của học tập sẽ giàu tính sáng tạo và mang tính tập thể.
- Rèn luyện khả năng thuyết trình trước tập thể, kỹ năng giao tiếp và tính tự giác của
mỗi cá nhân, khả năng làm cho người khác hiểu điều mình hiểu – đây là điểm yếu của đa số sinh viên hiện nay.
Những kỹ năng được rèn luyện trong khi làm việc nhóm là rất quan trọng cho môi
trường làm việc mới sau này, đây sẽ là tiền đề để ta biết cách làm việc trong một môi trường tập thể.
* Những điểm bất lợi nếu tổ chức học tập nhóm không hiệu quả:
Học tập theo nhóm có thể gây ồn trong lớp khó kiểm soát, vì vậy giáo viên cần chú ý
giáo dục và rèn luyện kỷ năng hoạt động hợp tác trong nhóm cho sinh viên.
- Nhiều sinh viên không thích học theo nhóm, vì muốn chứng tỏ khả năng của mình
với giáo viên hơn là với bạn.
- Trong nhóm có thể có 1 số sinh viên tích cực, một số khác ỷ lại vào các bạn trong nhóm.
-Việc phân nhóm khó khăn mất nhiều thời gian khó có thể đánh giá trên kết quả thảo
luận của nhóm. Vì vậy giảng viên cần kết hợp đánh giá của thầy với đánh giá của trò.
2.2.3.2. Quy tắc trong học tập theo nhóm
Trong môi trường học tập bậc Đại học với nhiều nguồn thông tin và các yêu cầu hoàn
thành nhiệm vụ học tập trong những điều kiện nhất định, làm việc nhóm là cách thực hiện
công việc học tập hiệu quả. Học tập theo nhóm là sự gắn kết các cá nhân cùng làm việc, cùng
học và đạt được mục tiêu học tập. HỌc tập theo nhóm dựa trên 10 quy tắc cơ bản sau: -
Định hình một mục tiêu chung, rõ ràng
Một nhóm học tập không có mục tiêu giống như con thuyền không có bến đỗ. Có rất
nhiều đại dương bên ngoài kia khiến cho mọi người trôi nổi khắp nơi và không biết đi đâu về
đâu – những cuộc họp không bao giờ kết thúc, những buổi thảo luận chẳng bao giờ được thỏa
mãn; những quyết định nửa vời. Điều mà mỗi nhóm cần là một mục tiêu rõ ràng để thực hiện
những nhiệm vụ học tập được giao. Mục tiêu chính là động cơ thúc đẩy, mục tiêu đòi hỏi hành
động và sự quả quyết. Nhưng mục tiêu muốn khả thi phải đảm bảo nó ngắn gọn và sắc sảo.
Mục tiêu định hướng hành động và cụ thể. Nếu nhóm không thể “ thấy” thì họ chẳng thể nào
thực thi các mục tiêu đó. Và không có mục tiêu thì sẽ không có sự phân công nhiệm vụ và
kiểm tra tiến độ thực hiện công việc. -
Phân công trách nhiệm cụ thể cho các thành viên
Sinh viên là những thành viên của nhóm, họ cũng giống như người chơi trong một đội. Điều
đó có nghĩa là họ có trách nhiệm thực hiện công việc của mình và đưa nhóm đạt được kết quả
như là phần thắng ghi nhận công sức của từng thành viên và cả nhóm. Sau khi có mục tiêu cụ
thể cho từng hoạt động mà nhóm cần phải thực hiện cần xác định rõ ràng kỹ năng và trách
nhiệm của từng thành viên trong nhóm. Bảng phân công nhiệm vụ cho thấy con đường đi mà
họ cần trải qua cũng như đo lường được kết quả thực hiện. Mặt khác nó sẽ đảm bảo tiến độ
thực hiện công việc và không gây ra sự chồng chéo hay bất đồng trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Nhóm là gắn kết nhưng trong sự gắn kết để thực hiện mục tiêu thì mỗi cá nhân cần
thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình để tạo ra một nhóm có tính chỉnh thể cao và đạt
được sự vượt trội trong hoạt động. Để phân công trách nhiệm hiệu quả cả nhóm cần nhìn vào
điểm mạnh yếu và yêu cầu về nội dung công việc mà quá trình học tập mang đến. Kích thích
khả năng đảm nhận nhiệm vụ theo hướng xung phong, sau đó lần lượt xác định khối lượng
công việc phù hợp với các cá nhân. Các thành viên cần tuân thủ và thực hiện trách nhiệm để
đảm bảo thể chế, sự nhất trí và kiểm soát mâu thuẫn của nhóm. -
Kiểm soát tốt các vấn đề bất đồng trên cơ sở cộng tác để thay đổi và phát triển
Sự trái ngược về quan điểm là nền móng cho sự sáng tạo, tuy nhiên nếu không kiểm
soát tốt sẽ dẫn đến những xung đột phi chức năng cản trở thực hiện mục tiêu trong học tập
nhóm của sinh viên. Để hạn chế những xung đột không đáng có, gây mất thời gian làm việc,
sinh viên trong nhóm nên xác lập những nguyên tắc nhất định trong quá trình làm việc nhóm.
Cùng thực hiện sự tôn trọng đối với các cá nhân khác khi chúng ta tuân thủ quy định của
nhóm và tiến hành các hoạt động theo kế hoạch đã được phân công. -
Luôn kích thích các ý tưởng sáng tạo và khả năng dẫn dắt
Mọi người luôn có ý tưởng hay, đôi là ý tưởng sáng tạo và khác thường trong làm việc.
Thông thường để hạn chế việc mất thời gian và sao lãng mục tiêu thì các ý tưởng sáng tạo của
nhóm đến từ các thành viên hay bị gạt đi hoặc xem như là một sự không cần thiết. Tuy nhiên
nếu kiểm soát tốt và tôn trọng những ý kiến đó trên cơ sở khi có ý tưởng mới hãy chú ý lắng
nghe. Nếu có ai đó nói những điều gì thú vị, hãy theo đuổi ý tưởng đó bằng những câu hỏi
thăm dò. Tìm ra điều gì đã dẫn dắt đến những lời nhận xét, bình luận thú vị. Nên tránh phê
pháp những ý tưởng khi chúng chỉ vừa được hình thành. Hãy tập trung vào cải tiến hay sử
dụng những ý tưởng đó. Bởi trong học tập rất cần sự sáng tạo và biết trân trọng sự sáng tạo
chính là các bạn cũng đang dẫn mình hòa nhập để sáng tạo. -
Lãnh đạo vững mạnh
Tốc độ của người lãnh đạo là tốc độ của cả nhóm. Một người trưởng nhóm làm việc có
hiệu quả là người có thể làm tấm gương gương mẫu cho cả nhóm. Một trưởng nhóm giỏi là
người có thể đặt tầm quan trọng của mục tiêu nhóm trên mục tiêu cá nhân và có thể đưa ra
định hướng, đảm bảo các thành viên trong nhóm giữ vững sự tập trung vào việc đạt được mục tiêu đó.
Người lãnh đạo tham gia vào việc lãnh đạo trong các cuộc họp, phân công nhiệm vụ,
ghi nhận những quyết định và cam kết, đánh giá tiến độ, đảm bảo trách nhiệm của các thành
viên trong nhóm và đưa ra định hướng cho toàn nhóm.
Ra quyết định chính là xác định xem phải xử lý một tình huống thậm chí một vấn đề như thế
nào. Thách thức chính là kết quả của quyết định. -
Tự kiểm tra và liên tục cải tiến các quy trình, hoạt động thực tiễn và sự tương tác của
các thành viên trong nhóm
Kiểm tra là một trong những mắt xích quan trọng để đảm bảo tiến độ thực hiện nhiệm
vụ của nhóm. Cả nhóm cần thảo luận công khai về những chỉ tiêu trong nhóm và những vấn
đề gây cản trở tốc độ phát triển hoặc thảo luận về tác động đến những nỗ lực, khả năng và chiến lược của nhóm. -
Giao tiếp hiệu quả
Các thành viên trong nhóm nên giao tiếp thoải mái với nhau một cách trực tiếp và
hướng tới mục tiêu đạt được thành công cho dự án. Việc giao tiếp giữa các thành viên với
nhau và với trưởng nhóm nên là một quá trình hai chiều. Điều này sẽ giúp họ hiểu nhau hơn
đồng thời giải quyết những vấn đề nảy sinh một cách nhanh chóng nhất. Giao tiếp cởi mở,
trung thực và tôn trọng. Các thành viên tự do bày tỏ suy nghĩ,
ý kiến và các giải pháp tiềm năng để giải quyết vấn đề. Mọi người cảm thấy được lắng nghe
và thấu hiểu. Các thành viên nên hỏi các câu hỏi để làm rõ ý kiến chứ không nên tìm cách
phản bác đồng nghiệp của họ - Tôn trọng
Để hợp tác hiệu quả, các thành viên trong nhóm cần hiểu và tôn trọng những thành
viên khác. Tôn trọng năng lực, quan điểm và hành động của nhau để giảm thiểu xung đột,
đảm bảo hoạt động suông sẻ và nâng cao năng suất. -
Đề cao vai trò cá nhân
Các thành viên trong nhóm được xem là những cá nhân đặc biệt với những kinh
nghiệm, quan điểm, kiến thức và ý kiến đóng góp không thể thay thế. Mục đích thành lập
nhóm chính là để tận dụng lợi thế của sự khác biệt đó. - Gắn kết
Gắn kết nhóm trở thành một đơn vị thống nhất, nhóm cần làm việc dựa trên nền tảng chung.
Cả tổ chức cần có những sáng kiến và tổ chức các buổi đóng góp xây dựng ý kiến, và các buổi
họp, buổi giao lưu hằng tháng để tăng cường kết nối trong nhóm.
Tại sao các công ty thường làm việc nhóm khi tiếp cận các dự án, phát triển sản phẩm
và mục tiêu? Trên thực tế, trong nhóm càng đưa ra những quan điểm khác biệt, khả năng
thành công của các dự án càng cao hơn
2.2.3.3. Kỹ năng bổ trợ trong học tập theo nhóm
Để thực hiện được mục tiêu gắn kết các thành viên và làm việc trong môi trường
nhóm, các bạn sinh viên cần chú ý rèn luyện một số kỹ năng sau để có hiệu quả trong làm nhóm.
1, Lắng nghe: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất. Các thành viên trong
nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của nhau. Kỹ năng này phản ánh sự tôn trọng ý kiến giữa các
thành viên trong nhóm. Lắng nghe đòi hỏi mức độ tư duy cao hơn nghe. Lắng nghe là một kỹ
năng mà người nghe tiếp nhận thông tin từ người nói, phân tích, tư duy theo hướng tích cực
và phản hồi bằng thái độ tôn trọng những ý kiến của người nói dù đó là ý kiến hoàn toàn trái
ngược với quan điểm của bản thân.
2, Chất vấn: Qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi, chúng ta có thể nhận biết được mức
độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề cho các thành viên khác của họ. Chất
vấn là kỹ năng thể hiện tư duy phản biện tích cực. Thực tế đây là một kỹ năng khó mà chúng
ta cũng đang cần phải rèn luyện. Chất vấn bằng những câu hỏi thông minh dựa trên những lý
lẽ tán đồng hay phản biện chặt chẽ đòi hỏi mức độ tư duy cao và tinh thần xây dựng ý kiến
hết mình cho nhóm. Lời lẽ chất vấn cần mềm mỏng, lịch sự.
Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hiểu rằng: “Trong tranh luận,
người có ý kiến phản biện với ý kiến của mình là họ đang không đồng quan điểm với ý kiến
mà mình vừa nêu chứ không phải họ chê bai con người của mình”. Trong tranh luận, nếu tự ái
nghĩa là mình đã đánh mất đi sự sáng suốt của bản thân.
3, Thuyết phục: Khi nêu ý kiến đóng góp cho nhóm cần kèm theo lý lẽ thuyết phục để
nhận được sự đồng tình của nhiều thành viên trong nhóm.
4, Tôn trọng: Phải có ý thức tôn trọng ý kiến của người khác thể hiện qua việc động
viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực.
5, Trợ giúp: Có người sẽ mạnh lĩnh vực này, nhưng người khác lại mạnh lĩnh vực khác.
Và nhiều khi, vấn đề mà nhóm đang phải giải quyết cần nhiều kiến thức ở nhiều lĩnh vực,
mức độ và đòi hỏi các kỹ năng khác nhau. Do vậu, cần có ý thức sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ cho
những người khác trong nhóm.
6, Chia sẻ: Các bạn sinh viên hãy hiểu rằng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giúp việc
học tập nhanh đạt kết quả. Có nhiều người thiếu kỹ năng này, họ sợ học chia sẻ nhóm sẽ làm
cho người khác hơn mình trong kết quả điểm. Điều này là sai lầm lớn, vì cái bạn sẽ được là
long tin và bạn sẽ nhận được nhiều thông tin bổ ích cho việc học từ niềm tin này.
2.2.3.4. Phương pháp thiết lập và tổ chức học nhóm
Ngày nay việc tổ chức nhóm chính là con đường để hoàn tất công việc nhanh nhất.
Trong học tập nhằm để giúp sinh viên thể hiện được khả năng tương tác và thích ứng với môi
trường học tập thì việc kết hợp học tập với các bạn là một trong những phương pháp học hiệu
quả. Tầm quan trọng của phương pháp học nhóm cũng đã được đề cập cụ thể ở nội dung trên.
Bản thân sinh viên khi tham gia vào môi trường học tập tại trường đại học cũng nhận thức
được vai trò của học nhóm tới kết quả của của mình. Tuy nhiên để thực hiện phương pháp học
tập này hiệu quả cần phải thực hiện có quy trình và tập trung thành thục các kỹ năng trong làm việc nhóm. a) Thiết lập nhóm
Xác định số lượng thành viên của mỗi nhóm trong khoảng 5 đến 8m thành viên, với số
lượng này nhóm sẽ hoạt động đạt hiệu quả hơn. Việc xác định số lượng thành viên nhóm có
thể do giáo viên hoặc giáo viên giao cho sinh viên tự tiến thực hiện.
Nhóm hình thành trên sự cộng tác kết hợp của các sinh viên cùng có chí hướng thực
hiện một vấn đề nào đó cùng với nhau; tuy nhiên để dễ dàng cho việc hoạt động và trao đổi,
tốt nhất là nên thành lập nhóm từ những thành viên có cùng điều kiện về hoạt động (thời gian, vị trí, công việc)
Các thành viên được kết nạp vào nhóm không có bất đầu riêng tư từ trước, nếu có hãy
giải quyết bất đồng hoặc tham gia vào một nhóm khác nếu có thể.
Sau khi tập hợp đủ số thành viên, nhóm tiến hành bầu nhóm trưởng. Bầu nhóm trưởng
trên cơ sở tự thỏa thuận với nhau. Tiêu chí để bầu nhóm trưởng là:
- Nhóm trưởng là người có khả năng giao tiếp, kết nối và tạo được mối quan hệ thân
thiện với các thành viên trong nhóm.
- Có khả năng đánh giá, tổng hợp một vấn đề.
- Có khả năng nhân sự: phân chia nhiệm vụ, giao nhiệm vụ cho các thành viên, đánh
giá vấn đề…, ngoài khả năng chuyên môn, khả năng này cũng rất quan trọng, nó đảm bảo
công việc được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
- Thống nhất mục tiêu chiến lược cho nhóm - Chủ trì các cuộc họp
- Đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc, nhiệm vụ đã đề ra
- Kiểm tra, phân tích, khắc phục sai sót
- Là đại diện chính thức của nhóm
Phân nhiệm vụ thực hiện cho từng thành viên
b) Giai đoạn tiến hành thực hiện hoạt động nhóm
Nhóm hoạt động chủ yếu bằng hình thức họp nhóm. Thời gian và địa điểm do nhóm tự
thống nhất và quyết định. Thường thời gian họp nhóm tiến hành trong khoảng 45-75 phút, vì
sau thời gian này mức độ tập trung không được cao. Các buổi họp nhóm càng diễn ra thường xuyên càng tốt.
* Thực hiện xây dựng phân công nhiệm vụ trên cơ sở mục tiêu và kế hoạch chung
của nhóm của nhóm.
- Sau khi xây dựng mục tiêu tổng quát xong, chia các mục tiêu đó thành nhiều dự án ngắn hạn.
- Xây dựng các dự án cụ thể dựa trên các dự án ngắn hạn đó.
- Xây dựng các chỉ tiêu cụ thể cần thực hiện
- Xây dựng các qui tắc, qui định riêng cho nhóm, thực hiện trong nhóm và mọi thành
viên trong nhóm phải thực hiện nghiêm túc các qui định đó.
* Tiến hành họp nhóm - Mở đầu:
+ Các thành viên ổn định vị trí của mình, tắt chuông điện thoại hoặc các thiết bị khác
để không ảnh hưởng đến quá trình làm việc của nhóm.
+ Nhóm trưởng hoặc một thành viên nào đó trong nhóm nêu ra các vấn đề cần được
giải quyết trong buổi họp. Sau đó các thành viên thống nhất thứ tự giải quyết các vấn đề.
- Tiến hành giải quyết vấn đề
+ Cách thức làm việc theo nhóm và tính cách kín đáo, bảo thủ, áp đặt không thể sống
chung với nhau. Mọi người đều có khả năng đưa ra nhiều ý tưởng khác nhau, khi ý tưởng
được trình bày các thành viên nên chú ý lắng nghe trọn vẹn ý tưởng, không nên phản ứng, cắt
ngang ý tưởng của thành viên khác.
+ Nhóm cùng thống nhất ý tưởng và đưa ra phương án hành động. Nếu có nhiều ý
tưởng và phương án có khả năng thực hiện như nhau, nhóm tiến hành lấy ý kiến bằng hình
thức biểu quyết để thống nhất ý tưởng và phương án hành động.
+ Các vấn đề, các công việc đòi hỏi nhiều sự sáng tạo và tư duy ưu tiên giải quyết trước
+ Trên cơ sở kết quả làm việc của các thành viên, căn cứ vào thời gian hoạt động của
nhóm tiến hành thống nhất và đưa ra sản phẩm làm việc.
c) Báo cáo sản phẩm và rút kinh nghiệm hoạt động của nhóm
Kết quả làm việc nhóm là sản phẩm khẳng định hiệu quả làm việc của tất cả thành
viên. Nó mang đến niềm tự hào và kích thích sự cố gắng của các thành viên ở các nhiệm vụ
tiếp theo. Chính vì thế việc báo cáo sản phẩm nhóm cho giảng viên và cả lớp là một nhiệm vụ
rất quan trọng. Khi làm việc nhóm tất cả các thành viên đều phải am hiểu về các vấn đề trong
nhiệm vụ cần thực hiện. Nếu không có yêu cầu từ phía giảng viên, nhóm có thể chọn 1 bạn
sinh viên có tố chất về giọng nói, diễn đạt để thực hiện báo cáo nhằm đưa đến kết quả tốt
nhất. Tuy nhiên nếu giảng viên yêu cầu bất kỳ thành viên nào thì cả nhóm cũng đã có tinh
thần chuẩn bị trước để diễn đạt kết quả làm việc của mình. Lưu ý cố gắng trình bày cô đọng,
súc tích và đầy đủ kết quả làm việc của nhóm theo yêu cầu của giảng viên.
Nhóm trưởng tập hợp bảng chấm công về kết quả làm việc của các thành viên trong
nhóm. Thống nhất nội bộ việc ghi nhận đóng góp của các thành viên. Rút kinh nghiệm những
điều chưa thực hiện được. Sau đó báo cáo trước giảng viên.
KỸ NĂNG SINH VIÊN ĐẠI HỌC
3.1.1. Một số khái niệm cơ bản
3.1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Theo từ điển Giáo dục học, kỹ năng là: “Khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động
phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là hành
động cụ thể hay hành động trí tuệ”.Trên bình diện của Tâm lý học, có hai quan điểm khác nhau về kỹ năng:
Thứ nhất, xem kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động, coi kỹ năng như một
phương tiện thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người
đã nắm vững, không cần quan tâm đến kết quả: “Kỹ nănglà cách thức cơ bản để chủ thể thực
hiện hành động, thể hiện bởi tập hợp những kiến thức đã thu lượm được, những thói quen và kinh nghiệm”.
Thứ hai, xem kỹ năng là biểu hiện của năng lực con người, coi kỹ năng là năng lực thực
hiện một công việc kết quả với chất lượng cần thiết, trong một khoảng thời gian cụ thể:
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn, Trần Quốc Thành, Trần Thị Quốc Minh cho
rằng: Kỹ năngmột mặt của năng lực con người thực hiện một công việc có kết quả”.
Trên cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiếu khái niệm kỹ năng như sau:“Kỹ năng
là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức,
những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng
không chỉ đơn thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của con người”.
Kỹ năng là giai đoạn trung gian giữa việc nắm vững cách thức mới thực hiện hành động,
dựa trên cơ sở của tri thức và sự vận dụng đúng những tri thức tương xứng trong quá trình hoàn
thành các bài tập, nhưng chưa đạt tới mức độ kỹ xảo.
3.1.1.2. Khái niệm kỹ năng mềm a. Khái niệm
Bên cạnh thuật ngữ “kỹ năng sống” được phổ biến một cách rộng rãi trong lĩnh vực
giáo dục và xã hội thì thuật ngữ “kỹ năng mềm” (Soft Skills) cũng là một trong những vấn đề
được quan tâm - nhất là các đối tượng đang chuẩn bị cho quá trình lập thân - lập nghiệp. Ngày
nay, trình độ học vấn và bằng cấp chưa đủ để quyết định trong việc tuyển dụng lao động của
nhiều doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Họ còn căn cứ vào yếu tố cá nhân như sự
nhạy bén khi xử lý công việc và giao tiếp của mỗi người lao động, các yếu tố này được người
ta gọi là “kỹ năng mềm”.
Có khá nhiều quan niệm khác nhau hay định nghĩa khác nhau về kỹ năng mềm tuỳ
theo lĩnh vực nghề nghiệp, góc nhìn chuyên môn, ngữ cảnh phát biểu và thậm chí là việc đặt
thuật ngữ này bên cạnh những thuật ngữ nào.Hiểu một cách đơn giản kỹ năng mềm là những
kỹ năng con người tích luỹ được để làm cho mình dễ dàng được chấp nhận, làm việc thuận lợi
và đạt được hiệu quả.
Theo tác giả D.M. Kaplan thì kỹ năng mềm là những kỹ năng mà con người có được
ngoài yếu tố chuyên môn và sự chuyên nghiệp xét trên lĩnh vực công việc. Đó còn được xem là
biểu hiện của trí tuệ cảm xúc của con người, thể hiện khả năng tinh thần của cá nhân. Nói cách
khác, kỹ năng mềm thể hiện sự tồn tại và vận dụng một cách hiệu quả những đặc điểm của cá
nhân như: thân thiện, vị tha, biết chấp nhận người khác...
Một vài tác giả khác như E.A. Leutenberg, J.J. Liptak lại cho rằng kỹ năng mềm là
những kỹ năng không liên quan trực tiếp đến kiến thức chuyên môn của nghề nghiệp đang
sở hữu mà nó thể hiện cái riêng về mặt cá tính của cá nhân trong công việc và trong mối quan hệ với người khác.
Tác giả Forland, Jeremy cho rằng kỹ năng mềm là một thuật ngữ thiên về mặt xã hội
để chỉ những kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, khả năng hoà nhập
xã hội, thái độ và hành vi ứng xử hiệu quả trong giao tiếp giữa người với người. Nói khác