lOMoARcPSD| 60857655
1
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ê-ĐÊ
THUYẾT TRÌNH
I. Khái quát chung
- Dân tộc Ê- Đê ( tên gọi khác : Rađê, Đê, Kpa, A Dham, Krung, Ktul,
Dlie Ruê, Blô, Epan, Mdhur,… )
- Dân số ~ 490.000 người
- Địa bàn sinh sống: miền trung cao nguyên của Việt Nam quê
hương bản địa lâu đời của người Ê Đê. Trong đó:
Đăk Lăk Phú Yên
Đăk Nông
Khánh Hòa
Gia Lai
- Lịch sử hình thành và phát triển: Người Ê Đê dân đã mặt
lâu đời miền Trung Tây nguyên. Du vết về nguồn gốc hải đảo của
dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến
trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê
vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu
hệ ở nước ta.
Êê nguồn gốc sâu xa tvùng biển, do đó, đã lên cao
nguyên hàng ngàn năm, nhưng trong sâu thẳm văn hóa của
người Ê-đê, bến nước con thuyền vẫn hình ảnh quen
thuộc của họ. Nhà của họ hình con thuyền, cửa chính mở
phía trái nhà, cửa sổ mở ra phía hông. Trong nhà trần gỗ,
hình vòm giống hệt mui thuyền.
Đng bào Ê Đê vẫn thường coi mình Anak Ê đê (người Ê
đê). Về tên gọi này nhiều ý kiến khác nhau, người cho
rằng tên người Ê Đê là tên gọi một loại tre, những người sống
trong rừng tre này tự gọi mình là Ê Đê; ý kiến khác cho
rằng Ê Đê được gọi theo tên một vị thần tối cao trong tín
ngưỡng người Ê Đê là – điê gọi trệt Ê Đê; cũng có ý kiến
cho rằng tên gọi này có nghĩa là “người mới đến” từ hang đất
Adrênh.
Tcuối thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ XV, di dân lên vùng cao
Tây Nguyên
1889, thực dân Pháp chiếm đóng y Nguyên, thiết lập bộ máy
cai trị, nắm quyền điều hành tại địa phương, lập đồn điền, quy
định thu thuế, thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc
lOMoARcPSD| 60857655
2
“Đất Thượng của người Thượng”
Trước năm 1975, người Ê Đê được gọi người Raday -
Đặc trưng môi trường sống:
Sinh sống trong i trường cao nguyên, lấy buôn làng làm
đơn vị tổ chức xã hội cơ bản.
Buôn phân bố rải rác khắp miền cao nguyên đất đỏ, nhất
vùng trung tâm và các trục giao thông.
Trong buôn, bến nước nơi sinh hoạt công cộng hàng ngày
quan trọng nhất, ng nơi để ng đầu xuân khi công việc
bắt đầu được tiến hành nên rất chú ý giữ gìn
II. Văn hóa mưu sinh
1. Nông nghiệp * Hình thức
canh tác nương rẫy
- Trong nông nghiệp truyền thống, nương rẫy (hay còn gọi hma)
chiếm vị trí lớn trong cuộc sống của cư dân Ê Đê, những thửa ruộng nước
chỉ chiếm một tỉ lkhá nhỏ, nằm vài nơi ven các sông hồ. Canh tác nương
rẫy hình thức chủ yếu vị trí quan trọng nhất trong việc cung cấp lương
thực và thực phẩm cho đồng bào dân tộc Ê Đê bởi đất đai địa hình nơi
đây phù hợp với việc trồng nương làm rẫy.
- Người Ê Đê chọn những khu vực đất bằng phẳng, gần nguồn nước
để làm rẫy. phía Tây, rẫy được làm trên những cánh rừng xavan gọi
hma h’drah, còn ở trung tâm, rẫy được làm trên các đồi tranh. Bởi ở những
rừng xavan hay đồi tranh, trên mặt đất để lại nhiều phân giun, chứng tỏ
rằng nơi đây độ ẩm cao đất đai màu mỡ, nhiều dinh dưỡng, nơi
thích hợp để canh tác nương rẫy.
- Việc chọn đất thích hợp để làm nương cũng ng việc cùng
quan trọng, là trách nhiệm của những người làm chủ gia đình. Từ tháng 1
đến tháng 4 khoảng thời gian thích hợp đchuẩn bị đất làm rẫy trên
những khu rừng xavan. Công việc đầu tiên của người Ê Đê sau khi chọn
đất chính phát rẫy. Họ sẽ chặt hết cỏ cây hoang trong khu vực làm rẫy,
đến khoảng tháng 4, khi Tây Nguyên bước vào cuối mùa khô, thời tiết
nắng nóng, họ sđốt những cây cối đã phát hoang, dọn cuốc rẫy. Còn
trên những đồi tranh, vào các tháng 8 9, đồng bào nơi đây sẽ cuốc ải,
gọi là yan coh hlang để đến tháng 3 năm sau sẽ dọn, xới, nhặt rễ cỏ rồi san
bằng để kịp trồng tỉa o tháng 5 tháng 6 năm sau, khi mùa mưa nơi đây
bắt đầu.
- Cách sử dụng đất đai của người Ê Đê cũng giống như nhiều dân tộc
khác Tây Nguyên, đó chế độ luân khoảnh xen canh. Theo đó, bên
cạnh nương rẫy đang sử dụng, người ta còn có những nương rẫy khác bỏ
lOMoARcPSD| 60857655
3
hóa. Theo đồng bào, trừ những nương rẫy bằng phẳng được họ sử dụng
nhiều theo các chu kì từ 5-10 năm, từ 10-15 năm hoặc cao hơn là từ 1520
năm 20-25 năm thì họ còn những nương dc chỉ dùng 1-3 năm rồi bỏ
hóa. Sản xuất theo chế độ luân khoảnh nhiều ưu điểm như giúp rừng
được tái sinh nhanh chóng, giữ và tái tạo được độ màu mỡ của đất đai. Tuy
nhiều ưu điểm nhưng vẫn một lối quảng canh, chưa đi vào thâm
canh tăng năng suất vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên.
- Việc sử dụng rẫy liên tục nhiều năm thường dẫn đến hiện tượng đất
bị bạc màu. Nhưng rẫy người Ê-Đê thường rẫy cuốc. Nghĩa trong
quá trình cuốc ải, cỏ sẽ bị lật xuống dưới và rễ sẽ lật lên trên và được nhặt
đi, số ít cỏ còn sót lại sẽ thối rữa trong những ngày mưa liên tục sau đó.
Đối với những đám rẫy được sử dụng nhiều năm liền, đất đai trở nên kém
màu mỡ, nhưng nhu cầu canh tác của người Ê-Đê vẫn tiếp tục, vì vậy họ
cần bón phân hóa học. Đó là khuynh hướng ngày càng phát triển đi đôi với
sự giảm dần số lượng rẫy luân khoảnh và yêu cầu định canh, thâm canh.
* Hình thức canh tác ruộng nước
- Cùng với việc canh tác trên rẫy, từ lâu nông nghiệp ruộng nước đã
xuất hiện vùng hồ Lăk, ven các sông Knô Ana, nhóm Bih làm ruộng
trên các bãi bằng ven sông vào mùa mưa khi nước dâng lên.
- Mùa cấy bắt đầu ttháng 4, tháng 5, tháng 9 và thu hoạch vào tháng
11 và tháng 12. Người Ê Đê sử dụng phương pháp canh tác đơn giản nhất
trong lịch sử nông nghiệp ruộng nước đó dùng trâu quần trước đây
hay gọi “thủy nậu”, lợi dụng sức trâu để làm đất. Một đàn trâu gồm nhiều
con, có một đến hai con đi đầu theo sự điều khiển của người chủ. Khia
xuống, đất được thấm mềm, đàn trâu sẽ đến quần làm cho cỏ dập nát
vùi xuống sâu, mặt ruộng được chang bằng khi bùn nhuyễn ra. - Việc đắp
bờ giữ nước việc làm cỏ được người Ê Đê ít chú trọng, chưa trở thành
một khâu quan trọng trong quá trình canh tác.
- Lúa ruộng của người Ê Đê cũng nhiều giống như dài ngày, ngắn
ngày, lúa tẻ, nếp khác nhau. Khi gặt thì phơi lúa ngay trên gốc rạ, sau đó
đống lại trên bờ, rồi vò dần lấy thóc đem về.
* Rừng của người Ê Đê
- Rừng của người Ê Đê cũng được họ quan tâm bảo vệ. Khi khai
phá những khu rừng để làm rẫy, họ đặc biệt chú trọng, tránh làm cho tất c
rừng trở thành đồi trọc hủy diệt giun đất. Thông thường bên cạnh
những đám rẫy đang canh tác, đồng bào nơi đây vẫn để lại những vạt đất
nhiều cây cối họ cho rằng đó hình thức chống i mòn đất quan trọng,
đồng thời cũng là nơi khai thác lâm sản dùng trong sinh hoạt đời sống.
- Luật tục của người ê đê cấm chặt những cây loại to, nếu vi phạm sẽ
bị trừng phạt nghiêm khắc. Rừng đầu nguồn càng được đồng bào chú ý giữ
gìn.
lOMoARcPSD| 60857655
4
2. Thủ công
- Hoạt động của các nghề thủ công tuy chưa tách khỏi kinh tế nông
nghiệp nhưng đã làm ra nhiều sản phẩm cần thiết đối với đời sống của đồng
bào Ê Đê. Xưa kia do giao thông chưa phát triển dẫn đến sự trao đổi hàng
hóa bị nhiều hạn chế nên công cụ sản xuất và đồ dùng gia đình phần lớn là
do người dân tự làm lấy. Nghề rèn thể làm ra những lưỡi rìu, chà cạc,
các loại lưỡi cuốc, i lao dùng để săn bắt. Người ta còn làm đồ trang sức
bằng đồng, làm đồ gia dụng bằng tre, dệt chiếu, dệt vải nhuộm,… một
vài nơi có nghề làm nồi đất để nấu cơm và làm âu đựng thức ăn.
- Nhưng ngày nay, một vài nghề thủ công đang mai một dần ngốm,
dệt nhưng vẫn còn một số nghề khác như rèn, đan lát, làm đồ gỗ vẫn tồn
tại và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân địa phương
3. Chăn nuôi
- Chăn nuôi trong gia đình của người Ê Đê được chú ý và phát triển.
Họ nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, trâu, và số ít gia đình còn nuôi voi.
Hầu hết các gia đình người Ê Đê đều có đàn gia cầm nhiều con.
- Trâu, bò được người dân nơi đây đặc biệt nuôi nhiều bởi trâu, bò
đặc trưng của sự giàu vật định giá trong mua bán chiêng, cồng,
ché, nồi đồng, cho nên xưa kia có những gia đình lớn nuôi hàng trăm con.
Voi cũng một đặc trưng quan trọng của sự giàu có. Người voi được
coi “số” làm ăn. Voi dùng đlưu thông làm sức kéo, đồng thời
cũng là vật định giá trong mua bán, trao đổi những tài sản lớn.
- Việc chăn nuôi gia c, gia cầm để thực phẩm dùng trong ma
chay, cưới xin và cúng bái. Theo quan niệm truyền thống của người Ê Đê,
hiến sinh nhiều súc vật trong c nghi lvinh dự trọng đại, mục tiêu
người ta cần đạt tới để khẳng định vị thế trong xã hội của mình
4. Săn bắt, hái lượm
- Do điều kiện tự nhiên thuận lợi nên cách đây không lâu, hái lượm
săn bắt còn chiếm vị trí khá quan trọng trong đời sống kinh tế của người Ê
Đê. - Đồng bào lấy tre, gỗ làm nhà, làm dụng cụ gia đình, lấy rau rừng, mật
ong, hoa quả đlàm thực phẩm. Săn bắn chim thú cũng đem lại một số
lượng thịt đáng kể. Ở những nơi điều kiện tốt, đồng bào thịt chim thú ăn
gần như là quanh năm. Ngoài săn bắn chim thú trên rừng trên núi, đánh bắt
cũng đem lại nguồn lợi không nhỏ những vùng gần ao hồ sông suối.
Nhiều gia đình không chỉ có cá tươi ăn quanh năm mà xưa kia, nhờ một
mùa khô kéo dài từ 4 đến 5 tháng mà họ còn sấy khô để đổi lấy muối, vải,
lụa và nhiều vật phẩm khác.
- Săn bắt và đánh cá là công việc cần dùng sức và là những hoạt động
được ưa thích, biểu hiện tài năng ca nam giới. Chính vì vậy, những người
giàu kinh nghiệm về mặt này luôn có niềm vinh dự trong các làng
lOMoARcPSD| 60857655
5
5. Trao đổi, mua bán
- Khi giao thông chưa phát triển, những hoạt động buôn bán trao đổi
của đồng bào người Ê Đê vô cùng đơn giản và còn nhiều hạn chế. Chủ yếu
họ tlàm ra dùng. Một số người thể trao đổi muối, thịt, đồ sấy
khô, vải lụa để lấy những thứ cần thiết trong đời sống. Họ dùng trâu, bò,
voi để đổi lấy chiêng, cồng, nồi đồng,…
- Sau này khi đời sống hội phát triển hơn, họ mở ra các nghề rèn
làm lưỡi rùi, những công cụ lao động và làm đồ trang sức, đồ gia dụng để
bán, trao đổi cho nhau.
III. Văn hóa vật thể
1. Nhà ở và các công trình kiến trúc
- Nhà dài là ngôi nhà lớn của một đại gia đình nét đặc trưng của chế
độ mẫu hệ của người Ê Đê. nơi chung khi của cả một dòng họ
thường xuyên được nối dài thêm mỗi khi một thành viên nữ trong gia
đình xây dựng gia thất nên huyền thoại rằng nhà dài như tiếng chiêng
ngân
Cấu tạo khái quát nhà dài của người Ê Đê:
+ Nhà làm bằng tre, nứa và g
+ Mặt sàn và vách tường bao quanh nhà làm bằng thân cây bương hay
thân tre già đập dập, mái lợp cỏ tranh
+ Thường được lợp bằng cỏ tranh
Nhằm thích ứng với môi trường thiên nhiên tránh thiên tai t
dữ bảo vệ sự sống của các thành viên trong gia đình + Để lên xuống được
ngôi nhà, chúng ta sẽ phải bước qua chiếc cầu thang chính mà người đồng
bào ở đây gọi là chiếc cầu thang cái
+ Làm từ một cây gỗ to, chắc không bị mối mọt và được gọt đẻo rất công
phu tỉ mĩ
+ Bậc cầu thang luôn luôn là bậc lẻ theo quan niệm của đồng bào số lẻ
sinh, nghĩa lẻ là phải sinh cho ra chẵn số chẵn là đủ, đồng nghĩa
với số chết
+ Bên trên nữa chúng ta bắt gặp hình ảnh đôi bầu sữa mẹ, đây là hình ảnh
khắc hoạ nét nhất chết độ mẫu hệ, người Ê Đê coi trọng việc nuôi dưỡng
con cái, họ tôn trọng nguồn sữa nuôi dạy nên những người con trưởng
thành. Bên trên nữa hình ảnh vầng trăng khuyết, đây cũng hình ảnh
biểu trưng cho sự chung thuỷ và uy tín của người phụ nữ trong gia đình
+ Đầu cầu thang luôn được vuốt cong như hình mũi thuyền độc mộc đang
lướt song người đồng bào luôn tưởng nhớ về các tổ tiên của họ, nhng
lOMoARcPSD| 60857655
6
người đã đi khai phá vùng đất mới. Về phần nội thất: chia làm 2 phần
chính
+ Phần Gak Ok: được xem như phòng khách khu vực dùng cho mọi
sinh hoạt chung của gia đình dòng họ nhội họp, cúng điếu, đánh cồng
chiêng. 3 cặp cột chính dùng sắp xếp vị trí của các vật dụng như: Cột
chiêng, cột trống tương đương với vị trí ghế dài (Kpan), trống i. Cột
khách, cột chủ tương đương với v trí của bếp khách.
Toàn bộ các cột, kèo được đẽo gọt, trang trí bằng hình ảnh các con vật như
voi, ba ba, đà, … tương tự cầu thang, các vật trang trí này luôn được đẽo
bằng tay theo các thức truyền thống.
+ Phần Adú: Là chỗ sinh hoạt (ngủ) của vợ chồng chủ nhà cùng các thành
viên trong gia đình. Không gian và nội thất trong gia đình cũng được phân
chia theo hướng Đông và Tây
+ Phía đông: chỗ ngủ được ngăn đơn giản bằng những thành tre làm
nhiều ngăn. Ngăn đầu tiên của vợ chồng chủ nhà, tiếp theo ngăn người
con gái chưa lấy chồng, sau đó các ngăn của vchồng con gái đã lấy
chồng và cuối cùng là ngăn dành cho khách.
+ Phía tây bếp lửa sinh hoạt cho cả gia đình (nằm trước phòng chủ
nhà), bếp riêng của các cặp vợ chồng (đặt trước mỗi của phòng) và các vật
dụng sinh hoạt trong gia đình
2. Trang phục
Theo truyền thống thì trang phục của người Ê Đê rất sặc sỡ,đàn bà mặc áo
quấn váy, đàn ông đóng khổ mặc áo. Ðồng bào ưa dùng các đồ trang sức
bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục răng qui định mọi người đều
cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không răng
nữa.
Trang phục nam: có 2 loại cơ bản
+ Loại áo tay dài: khoét c chui đầu, thân dài trùm mông, xẻ tà. Ðây là loại
áo khá tiêu biểu của người đàn ông Ê Đê. Trên nền chàm của thân ống
tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo
được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Ðặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng
sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe khoắn. + Loại áo
dài (quá gối): khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo
ngắn trên,...
+ Khố nhiều loại được phân biệt sự ngắn dài trang trí hoa văn
như thế nào. Ðẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong
và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại
áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay.
Áo giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý dải hoa
văn "đại bàng dang cánh", dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng đính
hạt cườm.
lOMoARcPSD| 60857655
7
- Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
- Trong truyền thống, đàn ông Ê Đê thường dùng khố để che chắn nửa thân
dưới của mình. Tùy vào địa vị hội dịp lễ khố độ dài ngắn
khác nhau. Những người tầng lớp cao hơn thường mặc những khố
chiều dài hơn.
- Khố được mặc bằng cách quấn vòng quanh eo sau đó được luồn qua háng.
Một đầu khổ được giắt bên sường giúp cố định chiếc khố được chắc
chắn, phần còn lại được buông thả chính giữa phía trước. - Vào mùa
lạnh, đàn ông Ê Đê thường khoác tầm mềm Abăn dệt bng sợi bông,
nhuộm chàm, trang trí hoa văn.
Trang phục nữ đó là váy tấm, áo chui
- Bằng bàn tay khéo léo và sự tinh tế, tỉ mẩn của mình, người Ê Đê đã
dệt nên những bộ trang phục mang đậm màu sắc của dân tộc. Những đường
viền được kết hợp cùng với các dải hoa văn bằng những sợi chỉ đỏ, vàng
hoặc trắng.
- Phần tay áo được thiết kế phần ngắn tương đối hẹp, phần cổ
cao và rộng để thể dễ dàng chui mặc.
- Người phụ nữ Ê Đê mặc váy tấm, là các tấm vải choàng được quấn
quanh eo thành nhiều vòng và được c định lại với nhau bằng các sợi dây.
Tấm vải này hình chữ nhật chiều rộng khoảng 1,3m chiều dài khi thả
xuôi xuống là gần 1m. khi mặc, gấu của váy có thể dài chạm đến gót chân
của người ph nữ tạo nên sự kín đáo.
- Áo của phụ nữ Ê đê có tên gọi là Ao mniê. Chiếc áo này có thiết kế
khá đặc biệt, được xẻ ngang từ bờ vai trái sang vai phải được mặc
bằng cách chui. Khi mặc lên, áo ôm sát vào thân mình của các gái và
được buông xuôi dài tới phần thắt lưng. Hai vạt trước sau của áo
chiều dài bằng nhau. Chiếc áo này không thiết kế htà. Ngoài ra, tùy
vào nhu cầu từng mùa áo của người phụ nữ dân tộc Ê Đê dài tay
hoặc ngắn tay.
3. Ẩm thực
Ẩm thục Ê Đê shòa trộn tinh tế của thảo dược, gia vị thực phẩm tươi
sống với những phong cách nấu nướng đặc biệt. Mỗi món ăn hay toàn thể
bữa ăn đềusự phối trộn tinh tế giữa vị cay, chua và đắng. Ẩm thực Ê Đê
là một phần của văn hóa Tây Nguyên và trở thành một trong những yếu tố
thu hút khách du lịch. Sau đây là 4 món ăn vô cùng nổi tiếng của ẩm thực
Ê Đê Thứ nhất: Rượu cần
+ Văn hóa ẩm thực của người Ê Đê cùng phong phú đa dạng, trong
đó, rượu cần được xem một trong những thức uống đã tạo nên nét đặc
trưng riêng. Với đồng bào Ê Đê, rượu cần có vai trò quan trọng trong sinh
hoạt hàng ngày. Ở đâu có lễ hội, cưới hỏi, mừng thọ, tang ma, khách khứa,
bầu bạn… ở đó có rượu cần.
lOMoARcPSD| 60857655
8
+ Nguyên liệu chính để làm rượu cần thường cơm nguội đã phơi được
hai ngày nắng, sau đó trộn đều với men (do bà con tlàm). Để có loại men
đặc biệt này, người Ê Đê phải vào rừng tìm vỏ lá y ana h’jam mang
về phơi khô đlàm men theo công thức đặc biệt. Cơm sau khi được trộn
đều với men được cho vào ché rồi đổ nước vào ủ. Ở phía trên và dưới đáy
một lớp trấu tác dụng ngăn cho bã rượu không chạy vào trong cần khi
hút. Những ché rượu cần chất lượng khi người uống châm nhiều lần nước
vào mà vẫn giữ được vị ngon ngọt, thơm nồng. Dùng loại nước suối trong
vắt để châm rượu. ớc suối mát lạnh ngấm vào men tạo cho rượu cần một
mùi vị rất đặc biệt, vừa mát lạnh, lại vừa có vị ngọt, dịu nhưng cũng có vị
chát
Thứ hai: Lẩu lá rừng
- Đặc sản này ch dùng đđãi khách Tây Nguyên, dân tộc Ê Đê thường
tốn rất nhiều công sức để hái các loại lá nằm sâu trong rừng, muốn lẩu
ngon thì phải kiếm được nhiều loại lá. Đây cũng là món cứu đói cho đồng
bào n tộc lúc mất mùa đói kém, tất cả các loại được nấu với thịt heo
rừng, ớt, các loại gia vị khác tạo thành hương thơm quyến rũ. Khi thưởng
thức bạn sẽ cảm nhận được vị đắng, bùi, chát của từng loại rau, vị ngọt dai
thơm ngon của thịt heo rừng. Món ăn này ngày nay đã được biến tấu khác
đi để có mặt trong hầu hết các nhà hàng quán ăn tại Đắk Lắk, nhưng muốn
thưởng thức món lẩu lá ngon nhất, đúng hương vị nhấtn thưởng thức tại
nhà các gia đình dân tộc tại Đắk Lăk
Thứ ba: Măngớng xào lòng bò
+ Đây món ăn knổi tiếng của Ea Sol, huyện Ea Hleo, Đắk Lắk.
Người Ê Đê thường dùng măng nướng vào các bữa sáng và chiều. Món ăn
sự tổng hòa vị hơi đắng của lòng bò, vị ngọt của măng rừng không
thể thiếu vị cay của ớt- loại gia vị mặt trong c bữa ăn của người dân
tộc Ê Đê. Những bắp măng tre tươi được nướng trên lửa than hồng thơm
nức mũi, sau đó được rửa sạch thái nhỏ, rồi đem xào chung với phèo
non và phổi bò, lòng bò. Thêm gia vị, củ nén ớt để tăng thêm độ cay
nồng của món ăn. Vị ngọt của măng tre rừng vị bùi đắng của lòng
làm du khách khi thưởng thức món ăn này đều ngất ngây.
Thứ tư: Canh cà đắng nấu cá khô
- Đây một món ngon có nguồn gốc từ dân tộc Ê Đê, cây cà đắng là một
loại cây mọc dại lớn hơn pháo màu xanh trắng, cây nhiều gai nhọn,
cây này thường được hái trên rẫy. Họ thường sử dụng cà này để làm thực
phẩm hàng ngày, tạo thành các món ngon như đắng xào, đắng om
ếch, cà đắng kho, canh cà đắng. Để làm món canh cà đắng đặc biệt này, họ
sẽ sử dụng đầu trích phơi khô, sau đó đem giã nát, thêm vào hành và tỏi,
rồi đem nấu với nước sôi, tạo cho canh độ ngọt hương vị thơm ngon.
Sau cùng họ sẽ bỏ đắng vào rồi cho thêm rau, nước vo gạo tạo độ sệt
lOMoARcPSD| 60857655
9
cho món ăn. Người Ê Đê thường dùng món ăn này cùng với cơm, do
thói quen ăn bốc nên họ thường nấu món này hơi sền sệt để cùng ăn với
cơm, họ thường vắt thành từng nắm cùng với cà và ăn, vị đắng và cay làm
món ăn thêm ngon hơn, trái đắng cũng là một loại thuốc quý giúp tăng
sức đề kháng.
4. Phương tiện vận chuyển
- Đối với phụ nữ Êđê, từ xưa chiếc gùi vật dụng không thể thiếu
giúp họ vận chuyển nhiều loại nông sản, củi, cơm nước bằng cách đeo trên
lưng. Ngày nay, cuc sống hiện đại có sự hỗ trợ của nhiều loại phương tiện
khác nhau nhưng Đắk Lắk, nhiều phụ nữ Ê Đê vẫn ng gùi để vận
chuyển hàng a.
- So với gùi của các dân tộc Tây Nguyên, chiếc gùi ca người Ê Đê
đặc trưng bởi phần đế gùi cao hơn, làm bằng các loại gỗ nhẹ, bền. Phần đế
giúp chiếc gùi cứng cáp hơn, khi đặt trên mặt đất sẽ cân bằng, không bị đổ.
Gùi của người Ê Đê có nhiều kích cỡ, cao từ ngang vai đến dưới thắt lưng,
vừa vặn với lưng người đeo.Chiếc gùi sản phẩm của những đôi bàn tay
khéo léo cùng với óc thẩm mỹ tinh tế.
- Từ một vật dụng gắn bó mật thiết với đời sng và canh tác trong quá
khứ, đến nay chiếc gùi vẫn là một vật dụng quen thuộc với nhiều phụ nữ Ê
Đê. Ngày xưa, chiếc gùi trên lưng theo các mẹ, các chị lên nương rẫy, ra
bến nước. Ngày nay, chiếc gùi lại theo nhiều ph nữ Ê Đê xuống phố, trở
thành một phương tiện vận chuyển hàng hóa mang đậm nét đặc trưng dân
tộc và cũng là một hình ảnh đẹp về đặc trưng văn hóa.
IV. Văn hóa phi vật thể
1. Ngôn ngữ
- Tiếng nói của người Ê Đê thuộc hệ ngôn ngữ Lai-Polynesia (Ngữ
hệ Nam Đảo). Tiếng Ê Đê một ngôn ngữ quan hệ gần gũi với Tiếng
Gia rai, Chăm, Malaysia, Inđônêsia, Philipin. Tiếng Ê Đê ngày nay phát
triển một âm tiết đơn lập. Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Mon-
Khmer, Khmer,Lao, Viet, Phap. Hầu như nói viết đều sự khác biệt,
dụ khi nói chữ "Kngan" nghĩa "Tay" người Ê Đê chỉ phát âm "Ngan"
ở một số vùng. Đặc biệt vùng Buôn Đôn một số người Ê Đê nói tiếng Lào
.
- Mặc vậy trong lễ tôn giáo các ngày lễ hội họ vẫn sử dụng tiếng
và chữ viết Êđê Kpă (Êđê gốc). Cùng với sự phát triển vai trò to lớn của
đạo Tin lành Đêgar vốn ra đời từ phong trào Fulro "Klei mrâo mrang jăk
Đêgar", sự thống nhất càng thể hiện rõ: Tin lành Đêgar là niềm kiêu hãnh
văn hóa của người Ê Đê, người Ê Đê thường sử dng chữ ối ,ái dà, ồ lé, lớ
lOMoARcPSD| 60857655
10
2. n giáo, tín ngưỡng
- Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành đạo Thiên chúa. Một số ít theo
Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà
riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Những
người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào
ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng
các thần hộ thân cho mình.
3. Lễ hội
- Khi xuân vnhiều lễ hội của người Ê Đê được tổ chức tưng bừng.
Do bộ chữ viết riêng nên vốn văn hoá dân tộc vừa được tồn giữ qua
truyền miệng và qua chữ viết, hết sức phong phú. Đó là những ca dao, tục
ngữ, truyện cổ tích, đặc biệt là những sử thi nổi tiếng như Đăm San, Khan
Đăm Ktêh Mlan… người Ê Đê gọi là khan. Trong lễ hội của người Tây
Nguyên không thể thiếu tiếng cồng chiêng, tiếng trống to, trống nhỏ. Đinh
Năm loại nhạc cụ phổ biến của dân tộc. Cùng với đàn klongput, đàn
t’rưng, sáo… tạo nên sự phong phú, đa thanh đa sắc trong lễ hội, trong sinh
hoạt văn hoá cộng đồng.
Đàn đá nhạc cụ cổ nhất. Mấy thập kỷ qua ngành khảo cổ đã khai quật,
phục hiện được khá nhiều đàn đá Tây Nguyên. Ngày nay đàn đá được
hoà nhập cùng bộ nhạc gõ, tham gia vào những lễ hội lớn. Trong nhiều
Festival văn hoá được tổ chức y Nguyên, Huế hay trong chương trình
giới thiệu văn hoá Việt ở Nha Trang, đàn đá rất được du khách, đặc biệt là
những người nghiên cứu văn hoá một số nước chú ý. Càng đi sâu vào các
lễ hội của dân tộc càng thấy tính văn hoá lễ hội quyện vào trong cuộc
sống hàng ngày: Văn hoá cồng chiêng, văn hoá sử thi, văn hoá gia tộc, văn
hoá lễ hội, sinh hoạt cng đồng. Trong dịp tết cổ truyền Đinh Hợi vừa qua,
Bộ Văn hoá Thông tin đã chủ trương phục hồi 9 lễ hội tiêu biểu của một
số dân tộc. Bên cạnh lễ hội Khai Mạ Mường Bi của người Mường, lễ hội
Vào mùa của người Cao Lan, lễ hội Mừng Lúa mới của người Chu Ru, v.v.
là lễ hội Cúng Bến nước của dân tộc Ê Đê. Có thể nói nghi lễ và lễ hội ca
dân tộc Ê Đê là rào chắn tốt nhất để bảo vệ bản sắc văn hóa, gìn giữ phong
tục tập quán và nếp sống tốt đẹp của cộng đồng.
- Thực tế cho thấy, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, nghi lễ - lễ hội được
gìn giữ và thể hiện ở dạng nguyên sơ hơn ở vùng trung tâm thị trấn, thành
phó. những vùng thay đổi tập quán sản xuất, thay đổi địa điểm
trú, nên đã bỏ dần nếp sống cổ truyền. Qua nhiều năm khảo t, sưu tầm,
nghiên cứu văn hóa dân gian của các dân tộc bản địa Dak Lak, nhận thấy
rằng, ở dân tộc Ê Đê, nghi lễ - lễ hội chưa có ranh giới rõ ràng. Ở đây thực
chất có lễ không hội. Nếu các dân tộc thiểu số phía Bắc gọi là lễ hội,
người Việt gọi là hội, như hội Đền Hùng, hội Gióng, hi Lim... thì các dân
tộc bản tại Dak Lak gọi lễ hội lễ, như lễ đặt tên thổi tai, lễ cúng lúa, lễ
cúng bến nước, lễ mừng được mùa, lễ cúng voi ... Có nghĩa rằng tính chất
lOMoARcPSD| 60857655
11
lễ đây được coi trọng hơn hội. Do vậy lễ cúng dân gian của các dân tộc
bản địa Dak Lak là nghi lễ- lễ hội.
- Các nghi lễ - lễ hội dân gian đây thường được phân theo hai hệ
thống: lễ nông nghiệp và lễ vòng đời người. Lễ nông nghiệp thường được
tổ chức trước và trong mùa rẫy (mùa mưa). Các lễ vòng đời thường được
tổ chức sau mùa rẫy (vào mùa khô và dịp đầu xuân). Tùy theo từng lễ,
thể tổ chức theo từng gia đình riêng lẻ, rộng ra nữa là dòng họ, hoặc trong
buôn làng. Tất nhiên lễ nào cũng phải thể hiện đủ ba yếu tố: thời gian, địa
điểm, quy mô.
- Nghi lễ - lễ hội dân gian đây không mang tính tôn giáo mang
tính tâm linh đa thần. Hình thức ca lễ thường gắn với việc cúng thần và lễ
vật hiến thần. Lễ vật hiến thần nhỏ nhất con gà, chén rượu, cao hơn
hiến heo, bò, trâu cùng hàng chục chén rượu. Lễ nhỏ thường được tổ chức
trong một ngày, lễ lớn từ ba đến bảy ngày. Tùy theo từng loại lễ thu hút
cả dòng họ, cả buôn, hoặc nhiều buôn tham gia. Lễ đây, bên cạnh ý nghĩa
nhân văn của cộng đồng thường gây tốn kém, lãng phí tiền của thời gian
của mọi người (nhất là lễ bỏ mả của người Ê đê).
Còn một số lễ gắn với việc tín dị đoan, như lễ cúng chữa bệnh cho người
ốm, lễ cúng đuổi tà ma cho gia đình có người chết dữ, lễ cúng yàng để xử
phạt người nghi ma lai... Những lễ này thường dùng vật hiến sinh, như heo,
trâu, bò vừa tốn kém, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe, tiền của của mọi thành
viên trong cộng đồng. Một số lễ có tính tích cực, như lễ cúng sức khỏe, l
cúng bến nước, lễ trưởng thành...
- Một số lễ thường gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng tính chất
hội như lễ cưới, lễ cúng sức khỏe, lễ cúng bến nước, lễ ăn trâu - mừng được
mùa, lcúng nhà mới... xét cho cùng, hội chỉ phục vụ cho lễ. Điển hình
như: lễ bỏ mả của người Ê Đê, trong những ngày gia chủ tiến hành lễ bỏ
mả, thì con trong dòng họ, trong buôn bỏ việc lên rừng, lên rẫy
nhà dự lễ, mọi người vừa góp tiền của để giúp gia chủ, vừa tham gia giết
trâu bò, nấu nướng, khiêng rượu, tạc tượng, dựng nêu, bày lcúng; vừa
tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, như đánh chiêng, thổi Rlet,
Mbuôt, hát dân ca, kể sử thi, múa chim công, múa giã gạo... với mục đích
làm cho lễ trở thành ngày hội của cộng đồng.
- Trước đây người Ê Đê, chủ yếu canh tác bằng lúa, rẫy truyền thống
như bắp, đậu, khoai lang, mỳ...thì nay hầu hết các huyện Krông Buk,
Krông Năng, Thành phố Buôn Ma Thuột... đã chuyển sang trồng phê,
hồ tiêu, bông vải, điều, cao su, mía... làm nhà theo kiểu người Kinh
nên không còn các nghi lễ lễ hội cúng lúa mới, cúng kho lúa, cúng bến
nước, cúng sức khỏe, lễ ăn trâu mừng được mùa như trước đây. Một số già
làng Dak Lak đã nói rằng: “Gần hai mươi năm nay không được nghe một
tiếng chiêng lễ hội nào, nhớ lắm, buồn lắm nhưng đành chịu thôi”.
lOMoARcPSD| 60857655
12
Tuy vậy, hiện nay ta vẫn gặp một số lễ cúng nhỏ ở các buôn làng. Đó là, lễ
đặt tên cho trẻ sơ sinh, lễ hỏi, lễ kết nghĩa anh em, lễ cúng sức khe... được
tổ chức gọn nhẹ trong từng gia đình Nhìn chung các lễ trên đều do từng gia
đình tự đứng ra tổ chức nên quy mô nhỏ, hẹp mang nặng tính chất của
lễ nghi. Thậm chí một số lễ bị bquên từ lâu như lễ ăn trâu cúng bến
nước của đồng bào xã Krông Na (Buôn Đôn)...
Trong thời gian gần đây, nhờ sự tác động của Nhà nước (hỗ trợ về kinh phí)
nên đồng bào đã cố gắng phục chế lại. già làng Buôn Đôn, sau khi
tham gia tổ chức lễ ăn trâu cúng bến nước đã tâm sự : “Nhờ Đảng, chính
quyền ở địa phương đã tạo điều kiện cho buôn làng chúng tôi tổ chức lại lễ
hội ăn trâu- cúng bến nước, để mọi người trong buôn có dịp sinh hoạt văn
hóa, ôn lại truyền thống lễ hội của cộng đồng, nếu không chỉ vài năm nữa
thôi, người già đi về với ttiên ông bà thì cháu con sẽ quên hết”. Điều
đó chứng tnghi llễ hội của người Ê Đê đang đứng trước những thử
thách nghiệt ngã và có nguy cơ mất hẳn. 4. Trò chơi dân gian
Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Tchơi đi cà
kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Ðê ở nhiều nơi.
Tbịt mắt dê, ném lao (ném xa ném trúng mục tiêu cũng được nhiều
trẻ em ê Ðê ưa thích.
5. Nghệ thuật dân gian
- Nghệ thuật tạo hình
Trong đời sống của người dân Ê Đê, nghệ thuật tạo hình được chú trọng
ở một số lĩnh vực văn hóa vật chất: hoa văn trên nền vải, khắc gỗ, hoa văn
trên đồ nan,… Những hoa văn trên nền vải có nhiều típ liên quan đến
động vật và thực vật. Đó là ruột trúc, chim dang cánh bọ cạp ấp con, trứng
thằn lằn,…Bên cạnh những hoa văn đó những hoa văn phản ánh sinh
hoạt kinh tế: hoa ngô, hột dưa, con chỉ, cần uống rượu,…Và cũng những
hoa văn liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng như dây treo chiêng, cột nhà mồ,
mặt trăng. Phần lớn hoa văn trên nền vải những đường hình học. Màu
trang trí của hoa văn nổi bật nhất là màu đỏ, thứ đến là màu trắng đục, nâu
tươi, vàng óng, vàng úa, xanh lá cây, xanh nước biển, xanh rêu cau.
- Nghệ thuật khắc
Những hình trang trí khắc trên gỗ, ở nhà dài, trên một số công cụ, nhất là
khu nghĩa địa mang những nét đặc thù rệt. típ quen thuộc của ngh
thuật khắc gỗ tron nhà dài là đôi bầu sữa, vành trăng non, con rùa, nồi
bung, ngà voi, con kỳ đá. Đôi bầu sữa một số hình khác thường khắc nổi
còn vành trăng non thường khắc chìm. nghĩa địa, những hình khắc gỗ
chủ yếu trang trí trên hai đầu nóc nhà mồ trên thân các cây cột với
những tượng gỗ: chim diều hâu, trái bầu, tượng người đội nón, voi, khỉ, cối
giã gạo. Trên thân cột còn hình bắp chuối, những cái kning hình thuyền.
Đối với ngôi mộ không có nhà mồ thì trên đỉnh cây cột ở giữa mộ đực gắn
mô hình một nóc nhà trên thuyền gọi là nhà cơm (sang êsci ). Những hình
lOMoARcPSD| 60857655
13
khắc gỗ nói trên được trang trí khá công phu và sinh động. Các đường nét
tuy còn thô sơ nhưng ổn định, mô tả hiện thực một cách tự nhiên để lại cho
người xem những ấn tượng sâu sắc.
- Dân ca, dân nhạc và dân vũ
Người Ê Đê một kho tàng dân ca, dân nhạc dân phong phú về
thể loại lẫn chủ đề. Mỗi loại hình, ngoài tính chất đặc thù của nhạc điệu,
nội dung, còn chịu sự chi phối bởi môi trường diễn xướng có quan h
mật thiết với lễ nghi, phong tục tập quán, sinh hoạt văn a cộng đồng, với
môi trường thiên nhiên, hội với các loại hình văn hóa, nghệ thuật
khác. Trong suốt vòng đời, âm nhạc, lời ca luôn theo người Ê Đê từ thuở
mới lọt lòng mẹ đến khi về với ông bà tổ tiên.
Theo các già làng người Ê Đê thì cuộc sống sinh hoạt ca đồng bào không
thể thiếu tiếng hát. Tiếng hát được cất lên những c vui vẻ để truyền đạt
tình ý, vốn sống, chia sẻ trải nghiệm trong lao động sản xuất. Đôi khi tiếng
hát là lời thỉnh đạt ý nguyện đến các thần linh núi rừng, sông nước, hay tỏ
bày tình yêu lứa đôi. Chính vì thế, tiếng hát được chia thành nhiều loại:
H’ ri hậy dùng phổ biến nhiều dạng sinh hoạt, đặc biệt hội làng
buôn, mang tính diễn cảm;
H’ ri ting - rang mang tính trữ tình, được sử dụng trong khung cảnh nhẹ
nhàng giữa hai người;
H’ ri cô-ning là loại hát đối đáp ứng khẩu theo những giai điệu nhất định.
- Nhạc cụ dân gian Ê Đê
Phần lớn nhạc cụ đều cấu trúc đơn giản, chủ yếu được chế tạo bằng
những vật liệu sẵn trong thiên nhiên, dưới hai dạng chính; Bằng đồng
và tre nứa.
+ Nhạc cụ bằng đồng phổ biến được mọi người yêu thích hơn cồng
chiêng. Cồng chiêng, theo quan niệm của người Ê Đê là một nhạc cụ được
thiêng hoá, thể giúp con người thông tin trực tiếp với thần linh. Bởi
thế, chúng thường được sử dụng trong những dịp lễ lớn. Bộ chiêng Ê đê
phổ biến có 10 chiếc, bao gồm dàn Knah có 6 cái không mún, mỗi cái đều
tên riêng chức năng khác nhau trong dàn nhạc. Tên gọi đó theo thứ
tự từ lớn đến nh là: Knah, Lhinang (còn gọi ana lhiang); Mdu khơk (còn
gọi knah khơk); Hluê khơk (còn gọi là mong); hluê lhiang; Hluê khơk
điêt (còn gọi K'khiêt) và cuối cùng Ching Char, đây chiêng lớn nhất,
không núm, chiêng này dùng để đánh đệm. Bộ chiêng Ê đê thường đi
kèm với một trống cái (Hgor). Trên mặt trống thường treo một chuỗi lục
lạc bằng đồng để tạo nên những âm thanh hoà cùng nhịp trống dàn
chiêng.
+ Sau dàn nhạc cồng chiêng nhạc cụ tre nứa, phổ biến nhất ống sáo
trúc, người Ê đê gọi là Đing
lOMoARcPSD| 60857655
14
=> Nhìn chung, nhạc cụ của người Ê Đê khá phong phú về chủng loại, nó
tạo nên âm nhạc nhiều bè.
V. CƠ CẤU XÃ HỘI
1. Cơ cấu tổ chức xã hội
Toàn bộ hội Ê Đê được phân thành những đơn vị sở gọi buôn
(tương ứng với làng”). Dưới buôn là các đơn vị nhỏ hơn alú (như
“xóm”) nó có thể trở thành buôn khi số dân phát triển và có mâu thuẫn với
làng gốc. Hợp thành buôn những gia đình, thường gia đình lớn mẫu
hệ, còn gia đình nhỏ đang trong thời phôi thai. Các thành viên trong buôn
đều là thân thuộc của nhau, cùng huyết thống hoặc do quan hệ hôn nhân.
Tính cố kết của các gia đình trong buôn chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất
vật chất. Mỗi buôn đều phạm vi đất riêng được xác định bởi những
đường ranh giới tự nhiên tính chất quy ước, mọi người đều biết
được thừa nhận. Cả buôn vẫn thể sử dụng phạm vi đất của buôn khác
nếu được các buôn sở đồng ý. Tuy đất đai thuộc quyền shữu chung của
buôn, nhưng việc sử dụng lại theo những tập tục nhất định. Các gia đình
không chỉ chiếm hữu những đất đai đang canh tác mà còn cả đất hữu canh.
Đồng bào thường giữ lại những cây khơ nia ngoài để bóng mát còn để
đánh dấu quyền chiếm hữu. Cách xác định phạm vi mới khai thác thì chỗ
bổ nhát cuc đầu tiên gọi chân rẫy còn chiều rộng thì tuỳ theo nhu cầu
cắm mốc. Người Ê Đê cấm người khác khai thác ngang qua đó nếu xâm
phạm sẽ bị phạt. ngoài đất trồng trọt thì những khu vực được quy định cho
cộng đồng, đất còn lại những tài nguyên trên đó của chung mỗi dân
làng đều quyền khai thác. Những tài nguyên trong rừng thuộc qyền
chiếm hữu của người phát hiện đầu tiên nhưng khi lấy thì những người khác
cũng phần. khi bắn được thú họ sẽ đem chia cho các gia đình ăn mừng
cái may đến.
Tinh thần cộng đồng thể hiện ở việc giúp đỡ nhau trong sản xuất và sinh
hoạt. Họ tồn tại hình thức gọi là “bring”, hình thức đổi công tự nguyện đối
với nhiều khâu canh tác của các gia đình trong một buôn. Giúp đỡ lẫn nhau
trong ma chay, cưới xin. Khi đám ma, mọi hoạt động sản xuất trong
buôn tạm ngừng, cả làng cùng nhau lo việc chôn cất. Người ta còn giúp
nhau trong việc mua chiêng, ché, voi và bảo vệ danh dự của nhau. Một gia
đình khách, các gia đình khác trong làng mang thức ăn đến cùng đãi
khách.
Xưa kia, khi đến Ê Đê ta có thể thấy sphân biệt nét của những nhà
giàu với c nhà khác trong làng. Nhà giàu nhà dài, sân hiên rộng, cầu thang
to được trang trí hình nổi, trong nhà nhiều đồ vật, trang sức, trâu bò,… Nhà
lOMoARcPSD| 60857655
15
giàu ( mdrong) có sự phân biệt thành: mdrong prong ( giàu lớn, thường là
người có quyền), mdrong ana ( giàu vì có nhiều con gái do chế độ hôn hôn
nhân trú phía nhà vợ đem lại), mdrong puk sang ( giàu biểu hiện
nhà cao cửa rộng). Người nghèo là bun rin, người quá nghèo là bun hin rin
táp. Ngoài sự giàu có, để có địa vị trong xã hội, còn phải tổ chức một số lễ
hiến sinh cúng cho bản thân mình để có dịp khoản đãi dân làng.
Tuy sự phân hoá giàu nghèo nhưng chưa đsức phá vỡ tính cộng
đồng công xã của buôn. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ
bến nước (Pô pin ea) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
Giúp việc về quân sự cho Pô pin ea có K’eng, về toà án có Pô phát kdi, về
cúng bái có Pô riu yang (người tế tự) và mjâo (thầy cúng ).
Ngoài ra người Ê Đê còn lăn “người chủ đất” của các dòng họ.
Phạm vi đất đai một Pô lăn quản lí có thể từ một đến vài buôn, có khi một
buôn lại nhiều lăn. lăn do đàn đảm nhiệm, người giữ vật
thiêng của cả dòng họ, được coi là thần ban cho.
2. Cơ cấu tổ chức dòng họ
- Người đàn gọi các con của chị em gái mình như gọi con của chính
mình anak (con); gọi các con ca con chị em mình kchô (cháu); nhưng
gọi con cái của chị, em gái chồng là amuôn (cháu ngoại). Còn Êgô gọi tất
cả chị em gái của mẹ mình ami (mẹ), gọi những người chồng của ch em
gái mẹ và bố đẻ ama (cha). khi người ta gọi anh em trai mẹ awa,
amiết người này gọi người ia amuôn, nhưng quan hệ cậu cháu lại
tương ứng với kmhà (bố vợ) và mtâo (con rể). Người đàn bà gọi bố chồng
là kmhà cũng thể gọi là awa, amiết. Có khi cháu gọi bà là amai (chị),
gọi cháu là adei mniê (em gái) hoặc ông và cháu rể gọi nhau là rak tô (anh
em đồng hao).
- Việc nối nòi của amuôn là do kế thừa tài sản chức vụ xã hội nếu
(tài sản được thừa kế theo dòng nữ) cũng thhiện mối quan hệ đăm
đei Ana go (cậu- chem gái). Tuy awa, amiết nhà vợ nhưng vẫn trách
nhiệm với chị em gái mình (ana go). Ana go quản lí tài sản nhưng khi mua
bán những đồ vật quý họ vẫn bàn bạc với đăm đei- anh em trai mình.
Chị em gái cũng có trách nhiệm giúp đỡ đăm đei về mọi mặt.
3. Cơ cấu tổ chức gia đình
Người Ê Đê là một trong số ít các dân tộc theo chế độ mẫu hệ. Theo
truyền thống từ xa a, người có quyền lực cao nhất trong gia đình người
Ê Đê là phụ nữ. Xã hội mẫu hệ của người Ê Đê là xã hội do người phụ nữ
làm chủ. Con cái sinh ra mang họ mẹ chứ không mang họ bố. Đàn ông
trú trong nhà vợ.
Hạt nhân của gia đình một người đàn cùng chồng con cái của
mình hay nhiều người có quan hchị em ruột hoặc chị em họ bậc hai. Sinh
lOMoARcPSD| 60857655
16
hoạt gia đình trên những nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công bằng
nhường nhịn nhau, do một người đàn bà gọi khoa sang điều khiển. Phụ
nữ chịu trách nhiệm trong quản gia đình, chăm sóc con cái, mồ mả tổ
tiên, của cải thừa kế cho con cái... Đàn ông chịu trách nhiệm trong việc
ngoại giao, giao lưu buôn bán với cộng đồng bên ngoài đồng thời các vấn
đề tôn giáo chính trị cũng trách nhiệm của người đàn ông. Cho nên
vai trò và địa vị của đàn ông Ê Đê bên ngoài xã hội là rất lớn.
Người phụ nlàm chủ trong hôn nhân. Họ thích ai, yêu ai thì sẽ báo cáo
với mẹ gia đình để cưới người họ yêu. Người được cưới ấy trú n
nhà vợ. Khi sinh con đẻ cái thì mang họ vợ. Chẳng may, vợ anh ta bị
mất thì người chồng chỉ thể lấy em của người quá cố ngược lại khi
người đàn ông chết cũng vậy, không thể lấy anh hoặc chị. Người Kinh gọi
là tục nối dây. Người Ê Đê gọi là tục chuê nuê. Nếu vợ chết mà bên nhà vợ
không có ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với ch em
gái mình. Họ còn có tục nối nòi khác là: cháu lấy mợ, ông lấy cháu, bà lấy
cháu nhưng cháu nội, không thể cháu ngoại. Bên cạnh đó hình thức
hôn nhân phổ biếncon trai cô lấy con gái cậu theo quan niệm người đàn
ông họ này có nghĩa vụ kết hôn với người đànhọ kia, trong khuôn khổ
Niê lớn phải nuôi Mlô, người của Mlô lớn phải nuôi Niê. Nếu đến thăm
một gia đình người Ê Đê, người thay mặt cho gia đình ra tiếp khách bao
giờ cũng là nam giới, thường là con trai hoặc người chồng của bà chủ nhà.
Nam giới Ê Đê người đại diện cho gia đình dòng hmẹ mình trong
đối ngoại và xử công việc khi việc xảy ra trong dòng họ mẹ mình như
ma chay, cưới hỏi…
VI. Phong tục, tập quán về hôn nhân gia đình
Về gia đình, những gia đình mẫu hệ với những căn nhà dài là tế bào của
xã hội Ê Đê. Nhưng những căn nhà dài hàng trăm mét được miêu tả trước
đây không còn nữa. Phổ biến những nhà dài ba, bốn chục mét, gồm
một hay vài bếp ăn trong nhiều trường hợp những gia đình nhỏ lẻ
mới phôi thai, cư trú bên cạnh nhau theo một trật tự nhất định. Xưa kia, bà
chủ người duy nhất vào được kho lấy thóc ra dùng, người đơm cơm canh
cho cách thành viên của gia đình trong các bữa ăn. Ngày nay, tuy có nhiều
bếp ăn riêng trong các căn nhà dài, bà chủ vẫn là người hướng dẫn các con
cháu làm ăn giúp đỡ lẫn nhau. Thừa kế tài dản theo dòng nữa. Con mang
họ mẹ và hôn nhân cứ trú bên nhà vợ. Nhưng trước đây, gia đình và tài sản
ít nhất được phân chia. Về sau, sự phân chia ngày càng nhiều người ta nói:
“Cái nồi không đủ chứa”.
Về quan hệ hôn nhân thì hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng
tương đối phổ biến mà người Ê Đê gọi nối nòi (chuê nuê). Tập quán pháp
lOMoARcPSD| 60857655
17
quy định: “Gẫy cái rui phải lấy thay thế, gẫy cái giát phải thay thế, người
chết (chồng hoặc vợ) phải nối”.
Khái quát về Lễ bỏ mả của người dân tộc Ê-đê:
Lễ bỏ mả của dân tộc Ê đê là một trong những nghi lễ lớn mang tính tang
lễ mà người sống tổ chức để vĩnh biệt người chết, “tiễn” người chết về nơi
vĩnh hằng (làng ma). Và đây cũng dịp sinh hoạt văn hóa cổ truyền với
nhiều hoạt động như: hiến tế bằng súc vật, lễ cúng chia của cải cho người
đã khuất, trình diễn âm nhạc, múa hát,…
Theo phong tục không thờ cúng tổ tiên, khi người chết từ một năm trở lên
sẽ được tiễn đi một chuyến vĩnh viễn về buôn của người chết để được phục
sinh, đầu thai một cuộc sống mới. Khi đó, ngôi mộ sẽ được xây cất
kỹ lưỡng, dựng lên một ngôi nhà đẹp để che mưa che nắng, quanh mồ được
trang trí bằng các tượng gỗ có hàng rào xung quanh. Điều đặc biệt, chỉ có
những người khi chết đều còn thân xác nguyên vẹn thì mới được làm lễ bỏ
mả.
Người Ê đê quan niệm rằng, vòng đời của mỗi con người luôn được luân
hồi. Quan niệm giữa sự sống i chết, quan niệm u mủ, cộng đồng
cũng bị ảnh hưởng đến. Do đó, họ đã quan niệm khi con người chết đi phải
qua lễ bỏ mả thì linh hồn của người chết mới về với thế giới tổ tiên và sau
khi linh hồn phải qua 7 lần chết nữa thì mới thể mang linh hồn tổ tiên
trở lại thế giới trên mặt đất đầu thai vào đứa trẻ. Chính vì thế, lễ bỏ mả đối
với người dân Ê đê dịp vui mừng để hồn người chết còn quẩn quanh
người sống sớm thể đầu thai lại thành người. Hồn người chết đầu thai
vào đứa trẻ sinh sẽ mang hồn tên của tổ tiên để đảm bảo sự trường
tồn của cộng đồng huyết tc.
Xét về thời gian bỏ mả thì không quy định, điều đó chỉ tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế của thân nhân người chết, nghĩa là lúc nào có đ trâu bò, rượu
thịt. Và đối tượng làm chủ xướng của lễ bỏ mả có thể là một gia đình, một
dòng họ hay có khi là cả buôn.
Nghi thức của lễ bỏ mả: Để tiến hành lễ bỏ mả thì người chủ xướng phải
đủ lễ phẩm. Đối với nhà giàu, dòng họ lớn thì họ sẽ giết nhiều trâu bò,
buộc nhiều chén rượu. Đối với nhà nghèo thì họ cũng phải có đủ rượu thịt
để cung cấp ăn uống phân chia cho người đến dự lễ. Nghi thức chính
của lễ bmả sẽ được tiến hành một khoảng đất rộng của nghĩa địa. Và
đực sẽ được xẻ thịt ngay tại đó, rượu cần được buộc thành hàng, bàn
cúng được dựng bằng tre, nứa, trên đó bày đồ cúng cho linh hồn người chết.
lOMoARcPSD| 60857655
18
Đồ cúng cần chuẩn bị là gm:
Một chén cơm trắng
Một chén thịt sống thái nhỏ có trộn tiết của con vật vừa bị giết cùng
với một mẫu đuôi (con vật có thể là trâu hoặc bò,…)
Một chiếc xương đầu và bầu rượu được hút ra từ ché rượu,…
Sau khi chuẩn bđủ các lễ vật, già làng phải làm lễ cúng gà, khấn nhà
Rông và mả để tiến hành dựng mả mới. Họ strồng cây chuối đầu
cuối mộ rồi thả gà nhỏ vào rừng để tượng trưng cho linh hồn người chết tự
do bay đi. Sau khi mọi thứ xong xuôi thì lễ hội bắt đầu. Cả buôn làng tới
làm giúp, ăn uống, vui chơi như là làm việc nhà mình. Sau khi dựng xong
nhà mả thì cả nhà họ hàng sẽ đến đó cúng. Sau khi nghi thức cúng tế
vừa xong, thì cũng lúc hàng chục đống lửa sẽ được đốt lên bập bùng dưới
ánh trăng mát dịu tiếng cồng chiêng rộn nổi lên. Đến ngày hôm sau,
mọi người tập họp tại nhà Rông rồi mới ra nhà mả. Tiến hành làm lễ cúng
chính vĩnh biệt hồn người chết. Cuối cùng, những người góa sẽ được ra
sông tắm rửa rồi cùng dân làng nhảy múa. Lúc đó, họ được xem là đã giải
phóng, không còn phải ràng buộc gì với người đã chết nữa.
Lễ bỏ mả là một lễ hội gắn với việc tang lễ nhưng lại rất vui vẻ, hào sảng
như một ngày hội. Bởi sau lễ này, linh hồn người chết sẽ siêu thoát
chuyển sang kiếp khác. Họ quan niệm, nếu nghi lễ bỏ mả càng sớm thì linh
hồn người chết càng sớm được nhập hồi sinh quy về dương thế, sống
với đồng tộc. Do đó đây được xem một nét văn hóa rất đẹp của người
dân tộc Ê đê và đang ngày càng được chú ý giữ gìn và bảo vệ.
VII.Những biến đổi về văn hóa truyền thống
hiện nay
1. Biến đổi về văn hóa vật chất
-Hiện nay, với sự thay đổi trong đời sống văn hóa cũng như những điều
kiện giao u, tiếp xúc với bên ngoài cộng đồng buôn, đã tạo nên sự chuyển
biến trong đời sống văn hóa của người Êđê M’dhur ngôi nhà, trang phục,
ẩm thực của h cũng dần thay đổi theo năm tháng.
-- Nhà dài truyền thống
+ Nhà dài hiện nay khác xa so với nhà truyền thống. Nhà dài Ê Đê nói riêng
nhà sàn Tây Nguyên nói chung một lớp văn hóa trong một giai đoạn
lịch scủa một cộng đồng sống trong rừng Tây Nguyên, cái ăn, cái đều
lấy từ rừng mà ra.
lOMoARcPSD| 60857655
19
+ Nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX, Tây Nguyên có phong trào tách
hộ, giải thể những ngôi nhà dài, các gia đình chuyển từ nhà dài ra những
ngôi nhà nhỏ hơn, độ dài chỉ từ 15-20m để thuận tiện làm kinh tế.
+ Cầu thang
+ Sàn hiên
+ Bếp lửa
+ Gian khách
+ Ghế Kpan
+ Xuất hiện kiểu nhà xây như người Kinh
. Cầu thang bản hầu như không còn, thay vào đó những bậc thang lên
xuống bằng bê tông.
. Sàn hiên cũng ít hiện diện chỉ phần sàn nhỏ trước cửa vào nhà. .
Bếp lửa cũng hầu như không có ở giữa gian khách nữa mà ngày nay, đa số
họ xây thêm gian bếp phía sau hiên nhà vẫn sinh hoạt ăn uống trên
nhà dài.
. Gian khách vẫn giữ nguyên vai trò của trong việc tiếp khách, nơi tổ
chức các nghi lễ ca gia đình tuy nhiên đều ít nhiều có sự thay đổi.
. Chiếc ghế “Kpan” hầu như vắng bóng, các vật dụng thể hiện văn hóa tộc
người như chiêng, ché, nhạc cụ bằng tre nứa cũng dần mất đi mà thay vào
đó sự xuất hiện của tủ, bàn ghế, tivi, đầu kéo, tủ lạnh… của thời hiện đại.
. Mức độ giàu có của gia chủ không còn được đo bằng những chiếc chiêng
ché mà được thể hiện một phần ở các trang bị hiện đại.
. Bên cạnh các ngôi nhà sàn, các buôn làng Ê Đê hiện nay cũng xuất hiện
các kiểu nhà xây như người Kinh, hoặc các mẫu nhà sàn có xu hướng cầu
kỳ, chạm trổ với các trang bị vật dụng hiện đại mang i hướng của ngôi
nhà gỗ biệt thự hơn đối với những gia đình giàu có.
=> Vì thế, sau quá trình chuyển giao ấy, nhiều ngôi nhà xây đã xuất hiện,
đồng thời số lượng nhà dài giảm đi đáng kể.. Diện tích rừng ngày càng thu
hẹp, rất ít các sản phẩm như ghế dài, đòn giông trong nhà được chặt từ
những cây gỗ to đẹp trong rừng như ngày xưa
-- Trang phục truyền thống
Chủ yếu chỉ còn ở người cao tuổi trong buôn. Thanh niên không mặc áo
quần truyền thống, hưa chuộng quần jean, áo thun theo phong cách người
Việt, bị “Việt hóa” họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong các buổi lễ
hội
--Ẩm thực
Ngày nay các bài thuốc hái tcây, rừng ít ngƣời sử dụng, người ta đi
khám bệnh xin thuốc, mua thuốc tại các trạm xá bệnh viện.
Người ta ăn chín uống sôi, hợp vệ sinh, thức ăn mua từ chợ phong phú
hơn, nhiều người nhu cầu ăn ngon, uống nhiều thức uống ngon bổ, sử
dụng nguồn nước sạch, …
lOMoARcPSD| 60857655
20
--Trong đời sng vật chất
Người Ê Đê ngày càng mong muốn tiếp cận, thu hẹp khoảng cách với người
Kinh cận cư. Tâm này thể hiện rất lớp trẻ, bởi họ những người
được tiếp xúc nhiều với những yếu t văn hóa mới.
2. Biến đổi trong quan hệ hôn nhân, gia đình, dòng họ và
buôn làng
- Trong quan hệ hôn nhân
+ Hôn nhân lưỡng hợp theo truyền thống của người Ê Đê được thay thế
bằng hôn nhân đa hợp. Tuy nhiên quan hệ hôn nhân và huyết thống theo
dòng họ vẫn chưa được phá vỡ .
+ Tục nối dòng ko còn quá khắt khe, chế độ mẫu hệ còn được bảo lưu. Tuy
nhiên những nghi lễ cho đám cưới lại theo chuẩn thức của người miền xuôi.
- Trong gia đình và dòng họ
+ sự biến đổi vcấu trúc, đặc trưng, v trí ,vai trò của các thành viên do
chịu tác động mạnh mẽ của quá trình định canh định cư và sự phân dã nhà
dài.
+ Người chồng không còn được hiểu như là người nuôi mà có quyền được
quyết định trong gia đình.
+ Người phụ nữ trong gia đình nhỏ nào cũng được nhiều hội quyền
quyết định hơn với gia đình cũng như xã hội.
- Trong quan hệ buôn làng
Mặc sự tham gia toàn diện của hệ thống chính trị vào từng buôn
làng nhưng
+ Vai trò của các khoa buôn, già làng, người xử luật tục vẫn còn hiệu lực +
Vai trò luật tục vẫn còn lớn , đặc biệt là ở các buôn làng xa xôi.
3. Biến đổi về văn hóa tinh thần
Bên cạnh những biến đổi các thành tố văn hóa vật chất thì văn hóa tinh
thần cũng nhiều sự biến đổi đáng kể, phải kể đến như: không gian sinh
hoạt văn hóa truyền thống, nghi lễ, tôn giáo tín ngưỡng...
- Không gian sinh hoạt văn hóa
+ Hình ảnh của những buổi sinh hoạt sau lễ cúng của một gia đình quây
quần trong gian khách cùng uống rượu cần, ngồi trên ghế kpan đánh chiêng
xuất hiện với tần số thấp. Thay vào đó, mọi người cùng uống rượu, bia, mở
nhạc hoặc hát karaoke…
+ Những buổi tối quây quần bên bếp lửa nghe người lớn tuổi trong nhà hát
sử thi, kể chuyện… không còn nữa đã làm cho văn hóa dân gian và không
gian văn hóa cồng chiêng của người Ê Đê bị mai một dần.
- Nghi lễ , tôn giáo tín ngưỡng
+ Những nghi lễ , phong tục ca người Ê Đê thay đổi theo xu hướng hiện
đại, các lễ thức ít dần do ko còn “sức ép” của thần linh

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60857655 1
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ê-ĐÊ THUYẾT TRÌNH I. Khái quát chung
- Dân tộc Ê- Đê ( tên gọi khác : Rađê, Đê, Kpa, A Dham, Krung, Ktul,
Dlie Ruê, Blô, Epan, Mdhur,… )
- Dân số ~ 490.000 người
- Địa bàn sinh sống: miền trung cao nguyên của Việt Nam là quê
hương bản địa lâu đời của người Ê Đê. Trong đó: • Đăk Lăk  Phú Yên • Đăk Nông • Khánh Hòa • Gia Lai
- Lịch sử hình thành và phát triển: Người Ê Đê là cư dân đã có mặt
lâu đời ở miền Trung Tây nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của
dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến
trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê
vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.

• Ê-đê có nguồn gốc sâu xa từ vùng biển, do đó, dù đã lên cao
nguyên hàng ngàn năm, nhưng trong sâu thẳm văn hóa của
người Ê-đê, bến nước và con thuyền vẫn là hình ảnh quen
thuộc của họ. Nhà của họ là hình con thuyền, cửa chính mở
phía trái nhà, cửa sổ mở ra phía hông. Trong nhà có trần gỗ,
hình vòm giống hệt mui thuyền.
• Đồng bào Ê Đê vẫn thường coi mình là Anak Ê đê (người Ê
đê). Về tên gọi này có nhiều ý kiến khác nhau, có người cho
rằng tên người Ê Đê là tên gọi một loại tre, những người sống
trong rừng tre này tự gọi mình là Ê Đê; có ý kiến khác cho
rằng Ê Đê được gọi theo tên một vị thần tối cao trong tín
ngưỡng người Ê Đê là – điê và gọi trệt là Ê Đê; cũng có ý kiến
cho rằng tên gọi này có nghĩa là “người mới đến” từ hang đất Adrênh.
• Từ cuối thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ XV, di dân lên vùng cao Tây Nguyên
• 1889, thực dân Pháp chiếm đóng Tây Nguyên, thiết lập bộ máy
cai trị, nắm quyền điều hành tại địa phương, lập đồn điền, quy
định thu thuế, thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc lOMoAR cPSD| 60857655 2
“Đất Thượng của người Thượng”
• Trước năm 1975, người Ê Đê được gọi là người Raday -
Đặc trưng môi trường sống:
• Sinh sống trong môi trường cao nguyên, lấy buôn làng làm
đơn vị tổ chức xã hội cơ bản.
• Buôn phân bố rải rác khắp miền cao nguyên đất đỏ, nhất là ở
vùng trung tâm và các trục giao thông.
• Trong buôn, có bến nước là nơi sinh hoạt công cộng hàng ngày
quan trọng nhất, cũng là nơi để cúng đầu xuân khi công việc
bắt đầu được tiến hành nên rất chú ý giữ gìn II. Văn hóa mưu sinh
1. Nông nghiệp
* Hình thức
canh tác nương rẫy -
Trong nông nghiệp truyền thống, nương rẫy (hay còn gọi là hma)
chiếm vị trí lớn trong cuộc sống của cư dân Ê Đê, những thửa ruộng nước
chỉ chiếm một tỉ lệ khá nhỏ, nằm ở vài nơi ven các sông hồ. Canh tác nương
rẫy là hình thức chủ yếu có vị trí quan trọng nhất trong việc cung cấp lương
thực và thực phẩm cho đồng bào dân tộc Ê Đê bởi đất đai và địa hình nơi
đây phù hợp với việc trồng nương làm rẫy. -
Người Ê Đê chọn những khu vực đất bằng phẳng, gần nguồn nước
để làm rẫy. Ở phía Tây, rẫy được làm trên những cánh rừng xavan gọi là
hma h’drah, còn ở trung tâm, rẫy được làm trên các đồi tranh. Bởi ở những
rừng xavan hay đồi tranh, trên mặt đất để lại nhiều phân giun, chứng tỏ
rằng nơi đây có độ ẩm cao và đất đai màu mỡ, nhiều dinh dưỡng, là nơi
thích hợp để canh tác nương rẫy. -
Việc chọn đất thích hợp để làm nương cũng là công việc vô cùng
quan trọng, là trách nhiệm của những người làm chủ gia đình. Từ tháng 1
đến tháng 4 là khoảng thời gian thích hợp để chuẩn bị đất làm rẫy trên
những khu rừng xavan. Công việc đầu tiên của người Ê Đê sau khi chọn
đất chính là phát rẫy. Họ sẽ chặt hết cỏ cây hoang trong khu vực làm rẫy,
và đến khoảng tháng 4, khi Tây Nguyên bước vào cuối mùa khô, thời tiết
nắng nóng, họ sẽ đốt những cây cối đã phát hoang, dọn và cuốc rẫy. Còn
trên những đồi tranh, vào các tháng 8 và 9, đồng bào nơi đây sẽ cuốc ải,
gọi là yan coh hlang để đến tháng 3 năm sau sẽ dọn, xới, nhặt rễ cỏ rồi san
bằng để kịp trồng tỉa vào tháng 5 tháng 6 năm sau, khi mùa mưa nơi đây bắt đầu. -
Cách sử dụng đất đai của người Ê Đê cũng giống như nhiều dân tộc
khác ở Tây Nguyên, đó là chế độ luân khoảnh và xen canh. Theo đó, bên
cạnh nương rẫy đang sử dụng, người ta còn có những nương rẫy khác bỏ lOMoAR cPSD| 60857655 3
hóa. Theo đồng bào, trừ những nương rẫy bằng phẳng được họ sử dụng
nhiều theo các chu kì từ 5-10 năm, từ 10-15 năm hoặc cao hơn là từ 1520
năm và 20-25 năm thì họ còn những nương dốc chỉ dùng 1-3 năm rồi bỏ
hóa. Sản xuất theo chế độ luân khoảnh có nhiều ưu điểm như giúp rừng
được tái sinh nhanh chóng, giữ và tái tạo được độ màu mỡ của đất đai. Tuy
có nhiều ưu điểm nhưng nó vẫn là một lối quảng canh, chưa đi vào thâm
canh tăng năng suất và vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên. -
Việc sử dụng rẫy liên tục nhiều năm thường dẫn đến hiện tượng đất
bị bạc màu. Nhưng rẫy ở người Ê-Đê thường là rẫy cuốc. Nghĩa là trong
quá trình cuốc ải, cỏ sẽ bị lật xuống dưới và rễ sẽ lật lên trên và được nhặt
đi, số ít cỏ còn sót lại sẽ thối rữa trong những ngày mưa liên tục sau đó.
Đối với những đám rẫy được sử dụng nhiều năm liền, đất đai trở nên kém
màu mỡ, nhưng nhu cầu canh tác của người Ê-Đê vẫn là tiếp tục, vì vậy họ
cần bón phân hóa học. Đó là khuynh hướng ngày càng phát triển đi đôi với
sự giảm dần số lượng rẫy luân khoảnh và yêu cầu định canh, thâm canh.
* Hình thức canh tác ruộng nước -
Cùng với việc canh tác trên rẫy, từ lâu nông nghiệp ruộng nước đã
xuất hiện ở vùng hồ Lăk, ven các sông Knô và Ana, nhóm Bih làm ruộng
trên các bãi bằng ven sông vào mùa mưa khi nước dâng lên. -
Mùa cấy bắt đầu từ tháng 4, tháng 5, tháng 9 và thu hoạch vào tháng
11 và tháng 12. Người Ê Đê sử dụng phương pháp canh tác đơn giản nhất
trong lịch sử nông nghiệp ruộng nước đó là dùng trâu quần mà trước đây
hay gọi là “thủy nậu”, lợi dụng sức trâu để làm đất. Một đàn trâu gồm nhiều
con, có một đến hai con đi đầu theo sự điều khiển của người chủ. Khi mưa
xuống, đất được thấm mềm, đàn trâu sẽ đến quần làm cho cỏ dập nát và
vùi xuống sâu, mặt ruộng được chang bằng khi bùn nhuyễn ra. - Việc đắp
bờ giữ nước và việc làm cỏ được người Ê Đê ít chú trọng, chưa trở thành
một khâu quan trọng trong quá trình canh tác. -
Lúa ruộng của người Ê Đê cũng có nhiều giống như dài ngày, ngắn
ngày, lúa tẻ, nếp khác nhau. Khi gặt thì phơi lúa ngay trên gốc rạ, sau đó
đống lại trên bờ, rồi vò dần lấy thóc đem về.
* Rừng của người Ê Đê -
Rừng của người Ê Đê cũng được họ quan tâm và bảo vệ. Khi khai
phá những khu rừng để làm rẫy, họ đặc biệt chú trọng, tránh làm cho tất cả
rừng trở thành đồi trọc và hủy diệt giun đất. Thông thường ở bên cạnh
những đám rẫy đang canh tác, đồng bào nơi đây vẫn để lại những vạt đất
nhiều cây cối mà họ cho rằng đó là hình thức chống xói mòn đất quan trọng,
đồng thời cũng là nơi khai thác lâm sản dùng trong sinh hoạt đời sống. -
Luật tục của người ê đê cấm chặt những cây loại to, nếu vi phạm sẽ
bị trừng phạt nghiêm khắc. Rừng đầu nguồn càng được đồng bào chú ý giữ gìn. lOMoAR cPSD| 60857655 4 2. Thủ công -
Hoạt động của các nghề thủ công tuy chưa tách khỏi kinh tế nông
nghiệp nhưng đã làm ra nhiều sản phẩm cần thiết đối với đời sống của đồng
bào Ê Đê. Xưa kia do giao thông chưa phát triển dẫn đến sự trao đổi hàng
hóa bị nhiều hạn chế nên công cụ sản xuất và đồ dùng gia đình phần lớn là
do người dân tự làm lấy. Nghề rèn có thể làm ra những lưỡi rìu, chà cạc,
các loại lưỡi cuốc, mũi lao dùng để săn bắt. Người ta còn làm đồ trang sức
bằng đồng, làm đồ gia dụng bằng tre, dệt chiếu, dệt vải và nhuộm,… một
vài nơi có nghề làm nồi đất để nấu cơm và làm âu đựng thức ăn. -
Nhưng ngày nay, một vài nghề thủ công đang mai một dần như gốm,
dệt nhưng vẫn còn một số nghề khác như rèn, đan lát, làm đồ gỗ vẫn tồn
tại và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân ở địa phương 3. Chăn nuôi -
Chăn nuôi trong gia đình của người Ê Đê được chú ý và phát triển.
Họ nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, trâu, bò và số ít gia đình còn nuôi voi.
Hầu hết các gia đình người Ê Đê đều có đàn gia cầm nhiều con. -
Trâu, bò được người dân nơi đây đặc biệt nuôi nhiều bởi trâu, bò là
đặc trưng của sự giàu có và là vật định giá trong mua bán chiêng, cồng,
ché, nồi đồng, cho nên xưa kia có những gia đình lớn nuôi hàng trăm con.
Voi cũng là một đặc trưng quan trọng của sự giàu có. Người có voi được
coi là có “số” làm ăn. Voi dùng để lưu thông và làm sức kéo, đồng thời
cũng là vật định giá trong mua bán, trao đổi những tài sản lớn. -
Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm là để có thực phẩm dùng trong ma
chay, cưới xin và cúng bái. Theo quan niệm truyền thống của người Ê Đê,
hiến sinh nhiều súc vật trong các nghi lễ là vinh dự trọng đại, là mục tiêu
người ta cần đạt tới để khẳng định vị thế trong xã hội của mình
4. Săn bắt, hái lượm -
Do điều kiện tự nhiên thuận lợi nên cách đây không lâu, hái lượm và
săn bắt còn chiếm vị trí khá quan trọng trong đời sống kinh tế của người Ê
Đê. - Đồng bào lấy tre, gỗ làm nhà, làm dụng cụ gia đình, lấy rau rừng, mật
ong, hoa quả để làm thực phẩm. Săn bắn chim thú cũng đem lại một số
lượng thịt đáng kể. Ở những nơi điều kiện tốt, đồng bào có thịt chim thú ăn
gần như là quanh năm. Ngoài săn bắn chim thú trên rừng trên núi, đánh bắt
cá cũng đem lại nguồn lợi không nhỏ ở những vùng gần ao hồ sông suối.
Nhiều gia đình không chỉ có cá tươi ăn quanh năm mà xưa kia, nhờ có một
mùa khô kéo dài từ 4 đến 5 tháng mà họ còn sấy khô để đổi lấy muối, vải,
lụa và nhiều vật phẩm khác. -
Săn bắt và đánh cá là công việc cần dùng sức và là những hoạt động
được ưa thích, biểu hiện tài năng của nam giới. Chính vì vậy, những người
giàu kinh nghiệm về mặt này luôn có niềm vinh dự trong các làng lOMoAR cPSD| 60857655 5
5. Trao đổi, mua bán -
Khi giao thông chưa phát triển, những hoạt động buôn bán trao đổi
của đồng bào người Ê Đê vô cùng đơn giản và còn nhiều hạn chế. Chủ yếu
là họ tự làm ra và dùng. Một số người có thể trao đổi muối, thịt, đồ sấy
khô, vải lụa để lấy những thứ cần thiết trong đời sống. Họ dùng trâu, bò,
voi để đổi lấy chiêng, cồng, nồi đồng,… -
Sau này khi đời sống xã hội phát triển hơn, họ mở ra các nghề rèn
làm lưỡi rùi, những công cụ lao động và làm đồ trang sức, đồ gia dụng để bán, trao đổi cho nhau. III. Văn hóa vật thể
1. Nhà ở và các công trình kiến trúc
- Nhà dài là ngôi nhà lớn của một đại gia đình và là nét đặc trưng của chế
độ mẫu hệ của người Ê Đê. Là nơi ở chung có khi là của cả một dòng họ
và thường xuyên được nối dài thêm mỗi khi một thành viên nữ trong gia
đình xây dựng gia thất nên có huyền thoại rằng nhà dài như tiếng chiêng ngân
⚫ Cấu tạo khái quát nhà dài của người Ê Đê:
+ Nhà làm bằng tre, nứa và gỗ
+ Mặt sàn và vách tường bao quanh nhà làm bằng thân cây bương hay
thân tre già đập dập, mái lợp cỏ tranh
+ Thường được lợp bằng cỏ tranh
 Nhằm thích ứng với môi trường thiên nhiên tránh thiên tai thú
dữ bảo vệ sự sống của các thành viên trong gia đình + Để lên xuống được
ngôi nhà, chúng ta sẽ phải bước qua chiếc cầu thang chính mà người đồng
bào ở đây gọi là chiếc cầu thang cái
+ Làm từ một cây gỗ to, chắc không bị mối mọt và được gọt đẻo rất công phu tỉ mĩ
+ Bậc cầu thang luôn luôn là bậc lẻ vì theo quan niệm của đồng bào số lẻ
là sinh, có nghĩa lẻ là phải sinh cho ra chẵn mà số chẵn là đủ, đồng nghĩa với số chết
+ Bên trên nữa chúng ta bắt gặp hình ảnh đôi bầu sữa mẹ, đây là hình ảnh
khắc hoạ rõ nét nhất chết độ mẫu hệ, người Ê Đê coi trọng việc nuôi dưỡng
con cái, họ tôn trọng nguồn sữa nuôi dạy nên những người con trưởng
thành. Bên trên nữa là hình ảnh vầng trăng khuyết, đây cũng là hình ảnh
biểu trưng cho sự chung thuỷ và uy tín của người phụ nữ trong gia đình
+ Đầu cầu thang luôn được vuốt cong như hình mũi thuyền độc mộc đang
lướt song vì người đồng bào luôn tưởng nhớ về các tổ tiên của họ, những lOMoAR cPSD| 60857655 6
người đã đi khai phá vùng đất mới. ⚫ Về phần nội thất: chia làm 2 phần chính
+ Phần Gak Ok: được xem như phòng khách và là khu vực dùng cho mọi
sinh hoạt chung của gia đình và dòng họ như hội họp, cúng điếu, đánh cồng
chiêng. Có 3 cặp cột chính dùng sắp xếp vị trí của các vật dụng như: Cột
chiêng, cột trống tương đương với vị trí ghế dài (Kpan), trống cái. Cột
khách, cột chủ tương đương với vị trí của bếp khách.
Toàn bộ các cột, kèo được đẽo gọt, trang trí bằng hình ảnh các con vật như
voi, ba ba, kì đà, … tương tự cầu thang, các vật trang trí này luôn được đẽo
bằng tay theo các thức truyền thống.
+ Phần Adú: Là chỗ sinh hoạt (ngủ) của vợ chồng chủ nhà cùng các thành
viên trong gia đình. Không gian và nội thất trong gia đình cũng được phân
chia theo hướng Đông và Tây
+ Phía đông: là chỗ ngủ được ngăn đơn giản bằng những thành tre làm
nhiều ngăn. Ngăn đầu tiên là của vợ chồng chủ nhà, tiếp theo là ngăn người
con gái chưa lấy chồng, sau đó là các ngăn của vợ chồng con gái đã lấy
chồng và cuối cùng là ngăn dành cho khách.
+ Phía tây là bếp lửa sinh hoạt cho cả gia đình (nằm ở trước phòng chủ
nhà), bếp riêng của các cặp vợ chồng (đặt trước mỗi của phòng) và các vật
dụng sinh hoạt trong gia đình 2. Trang phục
Theo truyền thống thì trang phục của người Ê Đê rất sặc sỡ,đàn bà mặc áo
quấn váy, đàn ông đóng khổ mặc áo. Ðồng bào ưa dùng các đồ trang sức
bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều
cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.
⚫ Trang phục nam: có 2 loại cơ bản
+ Loại áo tay dài: khoét cổ chui đầu, thân dài trùm mông, xẻ tà. Ðây là loại
áo khá tiêu biểu của người đàn ông Ê Đê. Trên nền chàm của thân và ống
tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo
được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Ðặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng
sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe khoắn. + Loại áo
dài (quá gối): khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo ngắn trên,...
+ Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn
như thế nào. Ðẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong
và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại
áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay.
Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa
văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. lOMoAR cPSD| 60857655 7
- Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
- Trong truyền thống, đàn ông Ê Đê thường dùng khố để che chắn nửa thân
dưới của mình. Tùy vào địa vị xã hội và dịp lễ mà khố có độ dài ngắn
khác nhau. Những người ở tầng lớp cao hơn thường mặc những khố có chiều dài hơn.
- Khố được mặc bằng cách quấn vòng quanh eo sau đó được luồn qua háng.
Một đầu khổ được giắt ở bên sường giúp cố định chiếc khố được chắc
chắn, phần còn lại được buông thả ở chính giữa phía trước. - Vào mùa
lạnh, đàn ông Ê Đê thường khoác tầm mềm Abăn dệt bằng sợi bông,
nhuộm chàm, trang trí hoa văn.
⚫ Trang phục nữ đó là váy tấm, áo chui -
Bằng bàn tay khéo léo và sự tinh tế, tỉ mẩn của mình, người Ê Đê đã
dệt nên những bộ trang phục mang đậm màu sắc của dân tộc. Những đường
viền được kết hợp cùng với các dải hoa văn bằng những sợi chỉ đỏ, vàng hoặc trắng. -
Phần tay áo được thiết kế có phần ngắn và tương đối hẹp, phần cổ
cao và rộng để có thể dễ dàng chui mặc. -
Người phụ nữ Ê Đê mặc váy tấm, là các tấm vải choàng được quấn
quanh eo thành nhiều vòng và được cố định lại với nhau bằng các sợi dây.
Tấm vải này hình chữ nhật chiều rộng khoảng 1,3m và chiều dài khi thả
xuôi xuống là gần 1m. khi mặc, gấu của váy có thể dài chạm đến gót chân
của người phụ nữ tạo nên sự kín đáo. -
Áo của phụ nữ Ê đê có tên gọi là Ao mniê. Chiếc áo này có thiết kế
khá đặc biệt, nó được xẻ ngang từ bờ vai trái sang vai phải và được mặc
bằng cách chui. Khi mặc lên, áo ôm sát vào thân mình của các cô gái và
được buông xuôi dài tới phần thắt lưng. Hai vạt trước và sau của áo có
chiều dài bằng nhau. Chiếc áo này không có thiết kế hở tà. Ngoài ra, tùy
vào nhu cầu và từng mùa mà áo của người phụ nữ dân tộc Ê Đê dài tay hoặc ngắn tay. 3. Ẩm thực
Ẩm thục Ê Đê là sự hòa trộn tinh tế của thảo dược, gia vị và thực phẩm tươi
sống với những phong cách nấu nướng đặc biệt. Mỗi món ăn hay toàn thể
bữa ăn đều có sự phối trộn tinh tế giữa vị cay, chua và đắng. Ẩm thực Ê Đê
là một phần của văn hóa Tây Nguyên và trở thành một trong những yếu tố
thu hút khách du lịch. Sau đây là 4 món ăn vô cùng nổi tiếng của ẩm thực
Ê Đê ⚫ Thứ nhất: Rượu cần
+ Văn hóa ẩm thực của người Ê Đê vô cùng phong phú và đa dạng, trong
đó, rượu cần được xem là một trong những thức uống đã tạo nên nét đặc
trưng riêng. Với đồng bào Ê Đê, rượu cần có vai trò quan trọng trong sinh
hoạt hàng ngày. Ở đâu có lễ hội, cưới hỏi, mừng thọ, tang ma, khách khứa,
bầu bạn… ở đó có rượu cần. lOMoAR cPSD| 60857655 8
+ Nguyên liệu chính để làm rượu cần thường là cơm nguội đã phơi được
hai ngày nắng, sau đó trộn đều với men (do bà con tự làm). Để có loại men
đặc biệt này, người Ê Đê phải vào rừng tìm vỏ và lá cây ana h’jam mang
về phơi khô để làm men theo công thức đặc biệt. Cơm sau khi được trộn
đều với men được cho vào ché rồi đổ nước vào ủ. Ở phía trên và dưới đáy
là một lớp trấu có tác dụng ngăn cho bã rượu không chạy vào trong cần khi
hút. Những ché rượu cần chất lượng là khi người uống châm nhiều lần nước
vào mà vẫn giữ được vị ngon ngọt, thơm nồng. Dùng loại nước suối trong
vắt để châm rượu. Nước suối mát lạnh ngấm vào men tạo cho rượu cần một
mùi vị rất đặc biệt, vừa mát lạnh, lại vừa có vị ngọt, dịu nhưng cũng có vị chát
⚫ Thứ hai: Lẩu lá rừng
- Đặc sản này chỉ dùng để đãi khách ở Tây Nguyên, dân tộc Ê Đê thường
tốn rất nhiều công sức để hái các loại lá nằm sâu trong rừng, muốn lẩu lá
ngon thì phải kiếm được nhiều loại lá. Đây cũng là món cứu đói cho đồng
bào dân tộc lúc mất mùa đói kém, tất cả các loại lá được nấu với thịt heo
rừng, ớt, các loại gia vị khác tạo thành hương thơm quyến rũ. Khi thưởng
thức bạn sẽ cảm nhận được vị đắng, bùi, chát của từng loại rau, vị ngọt dai
thơm ngon của thịt heo rừng. Món ăn này ngày nay đã được biến tấu khác
đi để có mặt trong hầu hết các nhà hàng quán ăn tại Đắk Lắk, nhưng muốn
thưởng thức món lẩu lá ngon nhất, đúng hương vị nhất nên thưởng thức tại
nhà các gia đình dân tộc tại Đắk Lăk
⚫ Thứ ba: Măng nướng xào lòng bò
+ Đây là món ăn khá nổi tiếng của xã Ea Sol, huyện Ea Hleo, Đắk Lắk.
Người Ê Đê thường dùng măng nướng vào các bữa sáng và chiều. Món ăn
là sự tổng hòa vị hơi đắng của lòng bò, vị ngọt của măng rừng và không
thể thiếu vị cay của ớt- loại gia vị có mặt trong các bữa ăn của người dân
tộc Ê Đê. Những bắp măng tre tươi được nướng trên lửa than hồng thơm
nức mũi, sau đó được rửa sạch và thái nhỏ, rồi đem xào chung với phèo
non và phổi bò, lòng bò. Thêm gia vị, củ nén và ớt để tăng thêm độ cay
nồng của món ăn. Vị ngọt của măng tre rừng và vị bùi đắng của lòng bò
làm du khách khi thưởng thức món ăn này đều ngất ngây.
⚫ Thứ tư: Canh cà đắng nấu cá khô
- Đây là một món ngon có nguồn gốc từ dân tộc Ê Đê, cây cà đắng là một
loại cây mọc dại lớn hơn cà pháo có màu xanh trắng, cây có nhiều gai nhọn,
cây này thường được hái trên rẫy. Họ thường sử dụng cà này để làm thực
phẩm hàng ngày, tạo thành các món ngon như cà đắng xào, cà đắng om
ếch, cà đắng kho, canh cà đắng. Để làm món canh cà đắng đặc biệt này, họ
sẽ sử dụng đầu cá trích phơi khô, sau đó đem giã nát, thêm vào hành và tỏi,
rồi đem nấu với nước sôi, tạo cho canh độ ngọt và hương vị thơm ngon.
Sau cùng họ sẽ bỏ cà đắng vào rồi cho thêm rau, nước vo gạo tạo độ sệt lOMoAR cPSD| 60857655 9
cho món ăn. Người Ê Đê thường dùng món ăn này cùng với cơm, do có
thói quen ăn bốc nên họ thường nấu món này hơi sền sệt để cùng ăn với
cơm, họ thường vắt thành từng nắm cùng với cà và ăn, vị đắng và cay làm
món ăn thêm ngon hơn, trái cà đắng cũng là một loại thuốc quý giúp tăng sức đề kháng.
4. Phương tiện vận chuyển -
Đối với phụ nữ Êđê, từ xưa chiếc gùi là vật dụng không thể thiếu
giúp họ vận chuyển nhiều loại nông sản, củi, cơm nước bằng cách đeo trên
lưng. Ngày nay, cuộc sống hiện đại có sự hỗ trợ của nhiều loại phương tiện
khác nhau nhưng ở Đắk Lắk, nhiều phụ nữ Ê Đê vẫn dùng gùi để vận chuyển hàng hóa. -
So với gùi của các dân tộc Tây Nguyên, chiếc gùi của người Ê Đê
đặc trưng bởi phần đế gùi cao hơn, làm bằng các loại gỗ nhẹ, bền. Phần đế
giúp chiếc gùi cứng cáp hơn, khi đặt trên mặt đất sẽ cân bằng, không bị đổ.
Gùi của người Ê Đê có nhiều kích cỡ, cao từ ngang vai đến dưới thắt lưng,
vừa vặn với lưng người đeo.Chiếc gùi là sản phẩm của những đôi bàn tay
khéo léo cùng với óc thẩm mỹ tinh tế. -
Từ một vật dụng gắn bó mật thiết với đời sống và canh tác trong quá
khứ, đến nay chiếc gùi vẫn là một vật dụng quen thuộc với nhiều phụ nữ Ê
Đê. Ngày xưa, chiếc gùi trên lưng theo các mẹ, các chị lên nương rẫy, ra
bến nước. Ngày nay, chiếc gùi lại theo nhiều phụ nữ Ê Đê xuống phố, trở
thành một phương tiện vận chuyển hàng hóa mang đậm nét đặc trưng dân
tộc và cũng là một hình ảnh đẹp về đặc trưng văn hóa.
IV. Văn hóa phi vật thể 1. Ngôn ngữ -
Tiếng nói của người Ê Đê thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia (Ngữ
hệ Nam Đảo). Tiếng Ê Đê là một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng
Gia rai, Chăm, Malaysia, Inđônêsia, Philipin. Tiếng Ê Đê ngày nay phát
triển một âm tiết đơn lập. Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Mon-
Khmer, Khmer,Lao, Viet, Phap. Hầu như nói và viết đều có sự khác biệt,
ví dụ khi nói chữ "Kngan" nghĩa là "Tay" người Ê Đê chỉ phát âm là "Ngan"
ở một số vùng. Đặc biệt vùng Buôn Đôn một số người Ê Đê nói tiếng Lào . -
Mặc dù vậy trong lễ tôn giáo và các ngày lễ hội họ vẫn sử dụng tiếng
và chữ viết Êđê Kpă (Êđê gốc). Cùng với sự phát triển và vai trò to lớn của
đạo Tin lành Đêgar vốn ra đời từ phong trào Fulro "Klei mrâo mrang jăk
Đêgar", sự thống nhất càng thể hiện rõ: Tin lành Đêgar là niềm kiêu hãnh
văn hóa của người Ê Đê, người Ê Đê thường sử dụng chữ ối ,ái dà, ồ lé, lớ lOMoAR cPSD| 60857655 10
2. Tôn giáo, tín ngưỡng
- Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành và đạo Thiên chúa. Một số ít theo
Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà
riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Những
người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào
ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng
các thần hộ thân cho mình. 3. Lễ hội -
Khi xuân về nhiều lễ hội của người Ê Đê được tổ chức tưng bừng.
Do có bộ chữ viết riêng nên vốn văn hoá dân tộc vừa được tồn giữ qua
truyền miệng và qua chữ viết, hết sức phong phú. Đó là những ca dao, tục
ngữ, truyện cổ tích, đặc biệt là những sử thi nổi tiếng như Đăm San, Khan
Đăm Ktêh Mlan… mà người Ê Đê gọi là khan. Trong lễ hội của người Tây
Nguyên không thể thiếu tiếng cồng chiêng, tiếng trống to, trống nhỏ. Đinh
Năm là loại nhạc cụ phổ biến của dân tộc. Cùng với đàn klongput, đàn
t’rưng, sáo… tạo nên sự phong phú, đa thanh đa sắc trong lễ hội, trong sinh
hoạt văn hoá cộng đồng.
Đàn đá là nhạc cụ cổ nhất. Mấy thập kỷ qua ngành khảo cổ đã khai quật,
phục hiện được khá nhiều đàn đá ở Tây Nguyên. Ngày nay đàn đá được
hoà nhập cùng bộ nhạc gõ, tham gia vào những lễ hội lớn. Trong nhiều
Festival văn hoá được tổ chức ở Tây Nguyên, ở Huế hay trong chương trình
giới thiệu văn hoá Việt ở Nha Trang, đàn đá rất được du khách, đặc biệt là
những người nghiên cứu văn hoá ở một số nước chú ý. Càng đi sâu vào các
lễ hội của dân tộc càng thấy rõ tính văn hoá lễ hội quyện vào trong cuộc
sống hàng ngày: Văn hoá cồng chiêng, văn hoá sử thi, văn hoá gia tộc, văn
hoá lễ hội, sinh hoạt cộng đồng. Trong dịp tết cổ truyền Đinh Hợi vừa qua,
Bộ Văn hoá Thông tin đã có chủ trương phục hồi 9 lễ hội tiêu biểu của một
số dân tộc. Bên cạnh lễ hội Khai Mạ Mường Bi của người Mường, lễ hội
Vào mùa của người Cao Lan, lễ hội Mừng Lúa mới của người Chu Ru, v.v.
là lễ hội Cúng Bến nước của dân tộc Ê Đê. Có thể nói nghi lễ và lễ hội của
dân tộc Ê Đê là rào chắn tốt nhất để bảo vệ bản sắc văn hóa, gìn giữ phong
tục tập quán và nếp sống tốt đẹp của cộng đồng. -
Thực tế cho thấy, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, nghi lễ - lễ hội được
gìn giữ và thể hiện ở dạng nguyên sơ hơn ở vùng trung tâm thị trấn, thành
phó. Có những vùng vì thay đổi tập quán sản xuất, thay đổi địa điểm cư
trú, nên đã bỏ dần nếp sống cổ truyền. Qua nhiều năm khảo sát, sưu tầm,
nghiên cứu văn hóa dân gian của các dân tộc bản địa Dak Lak, nhận thấy
rằng, ở dân tộc Ê Đê, nghi lễ - lễ hội chưa có ranh giới rõ ràng. Ở đây thực
chất có lễ mà không có hội. Nếu các dân tộc thiểu số phía Bắc gọi là lễ hội,
người Việt gọi là hội, như hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Lim... thì các dân
tộc bản tại Dak Lak gọi lễ hội là lễ, như lễ đặt tên thổi tai, lễ cúng lúa, lễ
cúng bến nước, lễ mừng được mùa, lễ cúng voi ... Có nghĩa rằng tính chất lOMoAR cPSD| 60857655 11
lễ ở đây được coi trọng hơn hội. Do vậy lễ cúng dân gian của các dân tộc
bản địa Dak Lak là nghi lễ- lễ hội. -
Các nghi lễ - lễ hội dân gian ở đây thường được phân theo hai hệ
thống: lễ nông nghiệp và lễ vòng đời người. Lễ nông nghiệp thường được
tổ chức trước và trong mùa rẫy (mùa mưa). Các lễ vòng đời thường được
tổ chức sau mùa rẫy (vào mùa khô và dịp đầu xuân). Tùy theo từng lễ, có
thể tổ chức theo từng gia đình riêng lẻ, rộng ra nữa là dòng họ, hoặc trong
buôn làng. Tất nhiên lễ nào cũng phải thể hiện đủ ba yếu tố: thời gian, địa điểm, quy mô. -
Nghi lễ - lễ hội dân gian ở đây không mang tính tôn giáo mà mang
tính tâm linh đa thần. Hình thức của lễ thường gắn với việc cúng thần và lễ
vật hiến thần. Lễ vật hiến thần nhỏ nhất là con gà, chén rượu, cao hơn là
hiến heo, bò, trâu cùng hàng chục chén rượu. Lễ nhỏ thường được tổ chức
trong một ngày, lễ lớn từ ba đến bảy ngày. Tùy theo từng loại lễ mà thu hút
cả dòng họ, cả buôn, hoặc nhiều buôn tham gia. Lễ ở đây, bên cạnh ý nghĩa
nhân văn của cộng đồng thường gây tốn kém, lãng phí tiền của và thời gian
của mọi người (nhất là lễ bỏ mả của người Ê đê).
Còn một số lễ gắn với việc mê tín dị đoan, như lễ cúng chữa bệnh cho người
ốm, lễ cúng đuổi tà ma cho gia đình có người chết dữ, lễ cúng yàng để xử
phạt người nghi ma lai... Những lễ này thường dùng vật hiến sinh, như heo,
trâu, bò vừa tốn kém, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe, tiền của của mọi thành
viên trong cộng đồng. Một số lễ có tính tích cực, như lễ cúng sức khỏe, lễ
cúng bến nước, lễ trưởng thành... -
Một số lễ thường gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng có tính chất
hội như lễ cưới, lễ cúng sức khỏe, lễ cúng bến nước, lễ ăn trâu - mừng được
mùa, lễ cúng nhà mới... xét cho cùng, hội chỉ phục vụ cho lễ. Điển hình
như: lễ bỏ mả của người Ê Đê, trong những ngày gia chủ tiến hành lễ bỏ
mả, thì bà con trong dòng họ, trong buôn bỏ việc lên rừng, lên rẫy mà ở
nhà dự lễ, mọi người vừa góp tiền của để giúp gia chủ, vừa tham gia giết
trâu bò, nấu nướng, khiêng rượu, tạc tượng, dựng nêu, bày lễ cúng; vừa
tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, như đánh chiêng, thổi Rlet,
Mbuôt, hát dân ca, kể sử thi, múa chim công, múa giã gạo... với mục đích
làm cho lễ trở thành ngày hội của cộng đồng. -
Trước đây người Ê Đê, chủ yếu canh tác bằng lúa, rẫy truyền thống
như bắp, đậu, khoai lang, mỳ...thì nay ở hầu hết các huyện Krông Buk,
Krông Năng, Thành phố Buôn Ma Thuột... đã chuyển sang trồng cà phê,
hồ tiêu, bông vải, điều, cao su, mía... và làm nhà ở theo kiểu người Kinh
nên không còn các nghi lễ lễ hội cúng lúa mới, cúng kho lúa, cúng bến
nước, cúng sức khỏe, lễ ăn trâu mừng được mùa như trước đây. Một số già
làng ở Dak Lak đã nói rằng: “Gần hai mươi năm nay không được nghe một
tiếng chiêng lễ hội nào, nhớ lắm, buồn lắm nhưng đành chịu thôi”. lOMoAR cPSD| 60857655 12
Tuy vậy, hiện nay ta vẫn gặp một số lễ cúng nhỏ ở các buôn làng. Đó là, lễ
đặt tên cho trẻ sơ sinh, lễ hỏi, lễ kết nghĩa anh em, lễ cúng sức khỏe... được
tổ chức gọn nhẹ trong từng gia đình Nhìn chung các lễ trên đều do từng gia
đình tự đứng ra tổ chức nên quy mô nhỏ, hẹp và mang nặng tính chất của
lễ nghi. Thậm chí có một số lễ bị bỏ quên từ lâu như lễ ăn trâu cúng bến
nước của đồng bào xã Krông Na (Buôn Đôn)...
Trong thời gian gần đây, nhờ sự tác động của Nhà nước (hỗ trợ về kinh phí)
nên đồng bào đã cố gắng phục chế lại. Có già làng ở Buôn Đôn, sau khi
tham gia tổ chức lễ ăn trâu cúng bến nước đã tâm sự : “Nhờ Đảng, chính
quyền ở địa phương đã tạo điều kiện cho buôn làng chúng tôi tổ chức lại lễ
hội ăn trâu- cúng bến nước, để mọi người trong buôn có dịp sinh hoạt văn
hóa, ôn lại truyền thống lễ hội của cộng đồng, nếu không chỉ vài năm nữa
thôi, người già đi về với tổ tiên ông bà thì cháu con nó sẽ quên hết”. Điều
đó chứng tỏ nghi lễ và lễ hội của người Ê Đê đang đứng trước những thử
thách nghiệt ngã và có nguy cơ mất hẳn. 4. Trò chơi dân gian
Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà
kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Ðê ở nhiều nơi.
Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em ê Ðê ưa thích.
5. Nghệ thuật dân gian - Nghệ thuật tạo hình
Trong đời sống của người dân Ê Đê, nghệ thuật tạo hình được chú trọng
ở một số lĩnh vực văn hóa vật chất: hoa văn trên nền vải, khắc gỗ, hoa văn
trên đồ nan,… Những hoa văn trên nền vải có nhiều mô típ liên quan đến
động vật và thực vật. Đó là ruột trúc, chim dang cánh bọ cạp ấp con, trứng
thằn lằn,…Bên cạnh những hoa văn đó là những hoa văn phản ánh sinh
hoạt kinh tế: hoa ngô, hột dưa, con chỉ, cần uống rượu,…Và cũng có những
hoa văn liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng như dây treo chiêng, cột nhà mồ,
mặt trăng. Phần lớn hoa văn trên nền vải là những đường hình học. Màu
trang trí của hoa văn nổi bật nhất là màu đỏ, thứ đến là màu trắng đục, nâu
tươi, vàng óng, vàng úa, xanh lá cây, xanh nước biển, xanh rêu cau. - Nghệ thuật khắc
Những hình trang trí khắc trên gỗ, ở nhà dài, trên một số công cụ, nhất là
ở khu nghĩa địa mang những nét đặc thù rõ rệt. Mô típ quen thuộc của nghệ
thuật khắc gỗ tron nhà dài là đôi bầu vú sữa, vành trăng non, con rùa, nồi
bung, ngà voi, con kỳ đá. Đôi bầu sữa và một số hình khác thường khắc nổi
còn vành trăng non thường khắc chìm. Ở nghĩa địa, những hình khắc gỗ
chủ yếu là trang trí trên hai đầu nóc nhà mồ và trên thân các cây cột với
những tượng gỗ: chim diều hâu, trái bầu, tượng người đội nón, voi, khỉ, cối
giã gạo. Trên thân cột còn có hình bắp chuối, những cái kning hình thuyền.
Đối với ngôi mộ không có nhà mồ thì trên đỉnh cây cột ở giữa mộ đực gắn
mô hình một nóc nhà trên thuyền gọi là nhà cơm (sang êsci ). Những hình lOMoAR cPSD| 60857655 13
khắc gỗ nói trên được trang trí khá công phu và sinh động. Các đường nét
tuy còn thô sơ nhưng ổn định, mô tả hiện thực một cách tự nhiên để lại cho
người xem những ấn tượng sâu sắc.
- Dân ca, dân nhạc và dân vũ
Người Ê Đê có một kho tàng dân ca, dân nhạc và dân vũ phong phú về
thể loại lẫn chủ đề. Mỗi loại hình, ngoài tính chất đặc thù của nhạc điệu,
nội dung, còn chịu sự chi phối bởi môi trường diễn xướng Nó có quan hệ
mật thiết với lễ nghi, phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa cộng đồng, với
môi trường thiên nhiên, xã hội và với các loại hình văn hóa, nghệ thuật
khác. Trong suốt vòng đời, âm nhạc, lời ca luôn theo người Ê Đê từ thuở
mới lọt lòng mẹ đến khi về với ông bà tổ tiên.
Theo các già làng người Ê Đê thì cuộc sống sinh hoạt của đồng bào không
thể thiếu tiếng hát. Tiếng hát được cất lên những lúc vui vẻ để truyền đạt
tình ý, vốn sống, chia sẻ trải nghiệm trong lao động sản xuất. Đôi khi tiếng
hát là lời thỉnh đạt ý nguyện đến các thần linh núi rừng, sông nước, hay tỏ
bày tình yêu lứa đôi. Chính vì thế, tiếng hát được chia thành nhiều loại:
H’ ri hậy dùng phổ biến ở nhiều dạng sinh hoạt, đặc biệt là ở hội làng
buôn, mang tính diễn cảm;
H’ ri ting - rang mang tính trữ tình, được sử dụng trong khung cảnh nhẹ nhàng giữa hai người;
H’ ri cô-ning là loại hát đối đáp ứng khẩu theo những giai điệu nhất định.
- Nhạc cụ dân gian Ê Đê
Phần lớn nhạc cụ đều có cấu trúc đơn giản, chủ yếu được chế tạo bằng
những vật liệu có sẵn trong thiên nhiên, dưới hai dạng chính; Bằng đồng và tre nứa.
+ Nhạc cụ bằng đồng phổ biến được mọi người yêu thích hơn là cồng
chiêng. Cồng chiêng, theo quan niệm của người Ê Đê là một nhạc cụ được
thiêng hoá, nó có thể giúp con người thông tin trực tiếp với thần linh. Bởi
thế, chúng thường được sử dụng trong những dịp lễ lớn. Bộ chiêng Ê đê
phổ biến có 10 chiếc, bao gồm dàn Knah có 6 cái không mún, mỗi cái đều
có tên riêng và chức năng khác nhau trong dàn nhạc. Tên gọi đó theo thứ
tự từ lớn đến nhỏ là: Knah, Lhinang (còn gọi là ana lhiang); Mdu khơk (còn
gọi là knah khơk); Hluê khơk (còn gọi là mong); hluê lhiang; Hluê khơk
điêt (còn gọi là K'khiêt) và cuối cùng là Ching Char, đây là chiêng lớn nhất,
không có núm, chiêng này dùng để đánh đệm. Bộ chiêng Ê đê thường đi
kèm với một trống cái (Hgor). Trên mặt trống thường treo một chuỗi lục
lạc bằng đồng để tạo nên những âm thanh hoà cùng nhịp trống và dàn chiêng.
+ Sau dàn nhạc cồng chiêng là nhạc cụ tre nứa, phổ biến nhất là ống sáo
trúc, người Ê đê gọi là Đing lOMoAR cPSD| 60857655 14
=> Nhìn chung, nhạc cụ của người Ê Đê khá phong phú về chủng loại, nó
tạo nên âm nhạc nhiều bè. V. CƠ CẤU XÃ HỘI
1. Cơ cấu tổ chức xã hội
Toàn bộ xã hội Ê Đê được phân thành những đơn vị cơ sở gọi là buôn
(tương ứng với “ làng”). Dưới buôn là các đơn vị nhỏ hơn là alú (như
“xóm”) nó có thể trở thành buôn khi số dân phát triển và có mâu thuẫn với
làng gốc. Hợp thành buôn là những gia đình, thường là gia đình lớn mẫu
hệ, còn gia đình nhỏ đang trong thời kì phôi thai. Các thành viên trong buôn
đều là thân thuộc của nhau, cùng huyết thống hoặc do quan hệ hôn nhân.
Tính cố kết của các gia đình trong buôn chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất
vật chất. Mỗi buôn đều có phạm vi đất riêng được xác định bởi những
đường ranh giới tự nhiên có tính chất quy ước, mọi người đều biết rõ và
được thừa nhận. Cả buôn vẫn có thể sử dụng phạm vi đất của buôn khác
nếu được các buôn sở đồng ý. Tuy đất đai thuộc quyền sở hữu chung của
buôn, nhưng việc sử dụng lại theo những tập tục nhất định. Các gia đình
không chỉ chiếm hữu những đất đai đang canh tác mà còn cả đất hữu canh.
Đồng bào thường giữ lại những cây khơ nia ngoài để có bóng mát còn để
đánh dấu quyền chiếm hữu. Cách xác định phạm vi mới khai thác thì chỗ
bổ nhát cuốc đầu tiên gọi là chân rẫy còn chiều rộng thì tuỳ theo nhu cầu
cắm mốc. Người Ê Đê cấm người khác khai thác ngang qua đó nếu xâm
phạm sẽ bị phạt. ngoài đất trồng trọt thì những khu vực được quy định cho
cộng đồng, đất còn lại và những tài nguyên trên đó là của chung mỗi dân
làng đều có quyền khai thác. Những tài nguyên trong rừng thuộc qyền
chiếm hữu của người phát hiện đầu tiên nhưng khi lấy thì những người khác
cũng có phần. khi bắn được thú họ sẽ đem chia cho các gia đình ăn mừng cái may đến.
Tinh thần cộng đồng thể hiện ở việc giúp đỡ nhau trong sản xuất và sinh
hoạt. Họ tồn tại hình thức gọi là “bring”, hình thức đổi công tự nguyện đối
với nhiều khâu canh tác của các gia đình trong một buôn. Giúp đỡ lẫn nhau
trong ma chay, cưới xin. Khi có đám ma, mọi hoạt động sản xuất trong
buôn tạm ngừng, cả làng cùng nhau lo việc chôn cất. Người ta còn giúp
nhau trong việc mua chiêng, ché, voi và bảo vệ danh dự của nhau. Một gia
đình có khách, các gia đình khác trong làng mang thức ăn đến cùng đãi khách.
Xưa kia, khi đến Ê Đê ta có thể thấy sự phân biệt rõ nét của những nhà
giàu với các nhà khác trong làng. Nhà giàu nhà dài, sân hiên rộng, cầu thang
to được trang trí hình nổi, trong nhà nhiều đồ vật, trang sức, trâu bò,… Nhà lOMoAR cPSD| 60857655 15
giàu ( mdrong) có sự phân biệt thành: mdrong prong ( giàu lớn, thường là
người có quyền), mdrong ana ( giàu vì có nhiều con gái do chế độ hôn hôn
nhân cư trú phía nhà vợ đem lại), mdrong puk sang ( giàu có biểu hiện ở
nhà cao cửa rộng). Người nghèo là bun rin, người quá nghèo là bun hin rin
táp. Ngoài sự giàu có, để có địa vị trong xã hội, còn phải tổ chức một số lễ
hiến sinh cúng cho bản thân mình để có dịp khoản đãi dân làng.
Tuy có sự phân hoá giàu nghèo nhưng chưa đủ sức phá vỡ tính cộng
đồng công xã của buôn. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ
bến nước (Pô pin ea) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
Giúp việc về quân sự cho Pô pin ea có K’eng, về toà án có Pô phát kdi, về
cúng bái có Pô riu yang (người tế tự) và mjâo (thầy cúng ).
Ngoài ra người Ê Đê còn có Pô lăn “người chủ đất” của các dòng họ.
Phạm vi đất đai một Pô lăn quản lí có thể từ một đến vài buôn, có khi một
buôn lại có nhiều Pô lăn. Pô lăn do đàn bà đảm nhiệm, là người giữ vật
thiêng của cả dòng họ, được coi là thần ban cho.
2. Cơ cấu tổ chức dòng họ -
Người đàn bà gọi các con của chị em gái mình như gọi con của chính
mình là anak (con); gọi các con của con chị em mình là kchô (cháu); nhưng
gọi con cái của chị, em gái chồng là amuôn (cháu ngoại). Còn Êgô gọi tất
cả chị em gái của mẹ mình là ami (mẹ), gọi những người chồng của chị em
gái mẹ và bố đẻ là ama (cha). Có khi người ta gọi anh em trai mẹ là awa,
amiết và người này gọi người ia là amuôn, nhưng quan hệ cậu cháu lại
tương ứng với kmhà (bố vợ) và mtâo (con rể). Người đàn bà gọi bố chồng
là kmhà cũng có thể gọi là awa, amiết. Có khi cháu gọi bà là amai (chị), bà
gọi cháu là adei mniê (em gái) hoặc ông và cháu rể gọi nhau là rak tô (anh em đồng hao). -
Việc nối nòi của amuôn là do kế thừa tài sản và chức vụ xã hội nếu
có (tài sản được thừa kế theo dòng nữ) cũng là thể hiện mối quan hệ đăm
đei – Ana go (cậu- chị em gái). Tuy awa, amiết ở nhà vợ nhưng vẫn có trách
nhiệm với chị em gái mình (ana go). Ana go quản lí tài sản nhưng khi mua
bán những đồ vật quý họ vẫn bàn bạc với đăm đei- anh em trai mình.
Chị em gái cũng có trách nhiệm giúp đỡ đăm đei về mọi mặt.
3. Cơ cấu tổ chức gia đình
Người Ê Đê là một trong số ít các dân tộc theo chế độ mẫu hệ. Theo
truyền thống từ xa xưa, người có quyền lực cao nhất trong gia đình người
Ê Đê là phụ nữ. Xã hội mẫu hệ của người Ê Đê là xã hội do người phụ nữ
làm chủ. Con cái sinh ra mang họ mẹ chứ không mang họ bố. Đàn ông cư trú trong nhà vợ.
Hạt nhân của gia đình là một người đàn bà cùng chồng và con cái của
mình hay nhiều người có quan hệ chị em ruột hoặc chị em họ bậc hai. Sinh lOMoAR cPSD| 60857655 16
hoạt gia đình trên những nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công bằng và
nhường nhịn nhau, do một người đàn bà gọi là khoa sang điều khiển. Phụ
nữ chịu trách nhiệm trong quản lý gia đình, chăm sóc con cái, mồ mả tổ
tiên, của cải thừa kế cho con cái... Đàn ông chịu trách nhiệm trong việc
ngoại giao, giao lưu buôn bán với cộng đồng bên ngoài đồng thời các vấn
đề tôn giáo và chính trị cũng là trách nhiệm của người đàn ông. Cho nên
vai trò và địa vị của đàn ông Ê Đê bên ngoài xã hội là rất lớn.
Người phụ nữ làm chủ trong hôn nhân. Họ thích ai, yêu ai thì sẽ báo cáo
với mẹ và gia đình để cưới người họ yêu. Người được cưới ấy cư trú bên
nhà vợ. Khi sinh con đẻ cái thì mang họ vợ. Chẳng may, cô vợ anh ta bị
mất thì người chồng chỉ có thể lấy em của người quá cố và ngược lại khi
người đàn ông chết cũng vậy, không thể lấy anh hoặc chị. Người Kinh gọi
là tục nối dây. Người Ê Đê gọi là tục chuê nuê. Nếu vợ chết mà bên nhà vợ
không có ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em
gái mình. Họ còn có tục nối nòi khác là: cháu lấy mợ, ông lấy cháu, bà lấy
cháu nhưng là cháu nội, không thể là cháu ngoại. Bên cạnh đó hình thức
hôn nhân phổ biến là con trai cô lấy con gái cậu theo quan niệm người đàn
ông họ này có nghĩa vụ kết hôn với người đàn bà họ kia, trong khuôn khổ
Niê lớn phải nuôi Mlô, người của Mlô lớn phải nuôi Niê. Nếu đến thăm
một gia đình người Ê Đê, người thay mặt cho gia đình ra tiếp khách bao
giờ cũng là nam giới, thường là con trai hoặc người chồng của bà chủ nhà.
Nam giới Ê Đê là người đại diện cho gia đình và dòng họ mẹ mình trong
đối ngoại và xử lý công việc khi có việc xảy ra trong dòng họ mẹ mình như ma chay, cưới hỏi…
VI. Phong tục, tập quán về hôn nhân gia đình
Về gia đình, những gia đình mẫu hệ với những căn nhà dài là tế bào của
xã hội Ê Đê. Nhưng những căn nhà dài hàng trăm mét được miêu tả trước
đây không còn nữa. Phổ biến là những nhà dài ba, bốn chục mét, gồm có
một hay vài bếp ăn mà trong nhiều trường hợp là những gia đình nhỏ lẻ
mới phôi thai, cư trú bên cạnh nhau theo một trật tự nhất định. Xưa kia, bà
chủ là người duy nhất vào được kho lấy thóc ra dùng, người đơm cơm canh
cho cách thành viên của gia đình trong các bữa ăn. Ngày nay, tuy có nhiều
bếp ăn riêng trong các căn nhà dài, bà chủ vẫn là người hướng dẫn các con
cháu làm ăn và giúp đỡ lẫn nhau. Thừa kế tài dản theo dòng nữa. Con mang
họ mẹ và hôn nhân cứ trú bên nhà vợ. Nhưng trước đây, gia đình và tài sản
ít nhất được phân chia. Về sau, sự phân chia ngày càng nhiều người ta nói:
“Cái nồi không đủ chứa”.
Về quan hệ hôn nhân thì hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng
tương đối phổ biến mà người Ê Đê gọi là nối nòi (chuê nuê). Tập quán pháp lOMoAR cPSD| 60857655 17
quy định: “Gẫy cái rui phải lấy thay thế, gẫy cái giát phải thay thế, người
chết (chồng hoặc vợ) phải nối”.
Khái quát về Lễ bỏ mả của người dân tộc Ê-đê:
Lễ bỏ mả của dân tộc Ê đê là một trong những nghi lễ lớn mang tính tang
lễ mà người sống tổ chức để vĩnh biệt người chết, “tiễn” người chết về nơi
vĩnh hằng (làng ma). Và đây cũng là dịp sinh hoạt văn hóa cổ truyền với
nhiều hoạt động như: hiến tế bằng súc vật, lễ cúng và chia của cải cho người
đã khuất, trình diễn âm nhạc, múa hát,…
Theo phong tục không thờ cúng tổ tiên, khi người chết từ một năm trở lên
sẽ được tiễn đi một chuyến vĩnh viễn về buôn của người chết để được phục
sinh, đầu thai và có một cuộc sống mới. Khi đó, ngôi mộ sẽ được xây cất
kỹ lưỡng, dựng lên một ngôi nhà đẹp để che mưa che nắng, quanh mồ được
trang trí bằng các tượng gỗ có hàng rào xung quanh. Điều đặc biệt, chỉ có
những người khi chết đều còn thân xác nguyên vẹn thì mới được làm lễ bỏ mả.
Người Ê đê quan niệm rằng, vòng đời của mỗi con người luôn được luân
hồi. Quan niệm giữa sự sống và cái chết, quan niệm máu mủ, cộng đồng
cũng bị ảnh hưởng đến. Do đó, họ đã quan niệm khi con người chết đi phải
qua lễ bỏ mả thì linh hồn của người chết mới về với thế giới tổ tiên và sau
khi linh hồn phải qua 7 lần chết nữa thì mới có thể mang linh hồn tổ tiên
trở lại thế giới trên mặt đất đầu thai vào đứa trẻ. Chính vì thế, lễ bỏ mả đối
với người dân Ê đê là dịp vui mừng để hồn người chết còn quẩn quanh
người sống sớm có thể đầu thai lại thành người. Hồn người chết đầu thai
vào đứa trẻ sơ sinh sẽ mang hồn và tên của tổ tiên để đảm bảo sự trường
tồn của cộng đồng huyết tộc.
Xét về thời gian bỏ mả thì không quy định, điều đó chỉ tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế của thân nhân người chết, nghĩa là lúc nào có đủ trâu bò, rượu
thịt. Và đối tượng làm chủ xướng của lễ bỏ mả có thể là một gia đình, một
dòng họ hay có khi là cả buôn.
Nghi thức của lễ bỏ mả: Để tiến hành lễ bỏ mả thì người chủ xướng phải
có đủ lễ phẩm. Đối với nhà giàu, dòng họ lớn thì họ sẽ giết nhiều trâu bò,
buộc nhiều chén rượu. Đối với nhà nghèo thì họ cũng phải có đủ rượu thịt
để cung cấp ăn uống và phân chia cho người đến dự lễ. Nghi thức chính
của lễ bỏ mả sẽ được tiến hành ở một khoảng đất rộng của nghĩa địa. Và
bò đực sẽ được xẻ thịt ngay tại đó, rượu cần được buộc thành hàng, bàn
cúng được dựng bằng tre, nứa, trên đó bày đồ cúng cho linh hồn người chết. lOMoAR cPSD| 60857655 18
Đồ cúng cần chuẩn bị là gồm: • Một chén cơm trắng •
Một chén thịt sống thái nhỏ có trộn tiết của con vật vừa bị giết cùng
với một mẫu đuôi (con vật có thể là trâu hoặc bò,…) •
Một chiếc xương đầu và bầu rượu được hút ra từ ché rượu,…
Sau khi chuẩn bị đủ các lễ vật, già làng phải làm lễ cúng gà, khấn ở nhà
Rông và ở mả để tiến hành dựng mả mới. Họ sẽ trồng cây chuối đầu và
cuối mộ rồi thả gà nhỏ vào rừng để tượng trưng cho linh hồn người chết tự
do bay đi. Sau khi mọi thứ xong xuôi thì lễ hội bắt đầu. Cả buôn làng tới
làm giúp, ăn uống, vui chơi như là làm việc nhà mình. Sau khi dựng xong
nhà mả thì cả nhà và họ hàng sẽ đến đó cúng. Sau khi nghi thức cúng tế
vừa xong, thì cũng là lúc hàng chục đống lửa sẽ được đốt lên bập bùng dưới
ánh trăng mát dịu và tiếng cồng chiêng rộn rã nổi lên. Đến ngày hôm sau,
mọi người tập họp tại nhà Rông rồi mới ra nhà mả. Tiến hành làm lễ cúng
chính vĩnh biệt hồn người chết. Cuối cùng, những người góa sẽ được ra
sông tắm rửa rồi cùng dân làng nhảy múa. Lúc đó, họ được xem là đã giải
phóng, không còn phải ràng buộc gì với người đã chết nữa.
Lễ bỏ mả là một lễ hội gắn với việc tang lễ nhưng lại rất vui vẻ, hào sảng
như một ngày hội. Bởi vì sau lễ này, linh hồn người chết sẽ siêu thoát
chuyển sang kiếp khác. Họ quan niệm, nếu nghi lễ bỏ mả càng sớm thì linh
hồn người chết càng sớm được nhập hồi sinh mà quy về dương thế, sống
với đồng tộc. Do đó đây được xem là một nét văn hóa rất đẹp của người
dân tộc Ê đê và đang ngày càng được chú ý giữ gìn và bảo vệ.
VII.Những biến đổi về văn hóa truyền thống hiện nay
1. Biến đổi về văn hóa vật chất
-Hiện nay, với sự thay đổi trong đời sống văn hóa cũng như những điều
kiện giao lưu, tiếp xúc với bên ngoài cộng đồng buôn, đã tạo nên sự chuyển
biến trong đời sống văn hóa của người Êđê M’dhur và ngôi nhà, trang phục,
ẩm thực của họ cũng dần thay đổi theo năm tháng. -- Nhà dài truyền thống
+ Nhà dài hiện nay khác xa so với nhà truyền thống. Nhà dài Ê Đê nói riêng
và nhà sàn ở Tây Nguyên nói chung là một lớp văn hóa trong một giai đoạn
lịch sử của một cộng đồng sống trong rừng Tây Nguyên, cái ăn, cái ở đều lấy từ rừng mà ra. lOMoAR cPSD| 60857655 19
+ Nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX, Tây Nguyên có phong trào tách
hộ, giải thể những ngôi nhà dài, các gia đình chuyển từ nhà dài ra những
ngôi nhà nhỏ hơn, độ dài chỉ từ 15-20m để thuận tiện làm kinh tế. + Cầu thang + Sàn hiên + Bếp lửa + Gian khách + Ghế Kpan
+ Xuất hiện kiểu nhà xây như người Kinh
. Cầu thang bản hầu như không còn, thay vào đó là những bậc thang lên xuống bằng bê tông.
. Sàn hiên cũng ít hiện diện mà chỉ là phần sàn nhỏ trước cửa vào nhà. .
Bếp lửa cũng hầu như không có ở giữa gian khách nữa mà ngày nay, đa số
họ xây thêm gian bếp phía sau hiên nhà và vẫn sinh hoạt ăn uống ở trên nhà dài.
. Gian khách vẫn giữ nguyên vai trò của nó trong việc tiếp khách, nơi tổ
chức các nghi lễ của gia đình tuy nhiên đều ít nhiều có sự thay đổi.
. Chiếc ghế “Kpan” hầu như vắng bóng, các vật dụng thể hiện văn hóa tộc
người như chiêng, ché, nhạc cụ bằng tre nứa cũng dần mất đi mà thay vào
đó là sự xuất hiện của tủ, bàn ghế, tivi, đầu kéo, tủ lạnh… của thời hiện đại.
. Mức độ giàu có của gia chủ không còn được đo bằng những chiếc chiêng
ché mà được thể hiện một phần ở các trang bị hiện đại.
. Bên cạnh các ngôi nhà sàn, các buôn làng Ê Đê hiện nay cũng xuất hiện
các kiểu nhà xây như người Kinh, hoặc các mẫu nhà sàn có xu hướng cầu
kỳ, chạm trổ với các trang bị vật dụng hiện đại mang hơi hướng của ngôi
nhà gỗ biệt thự hơn đối với những gia đình giàu có.
=> Vì thế, sau quá trình chuyển giao ấy, nhiều ngôi nhà xây đã xuất hiện,
đồng thời số lượng nhà dài giảm đi đáng kể.. Diện tích rừng ngày càng thu
hẹp, rất ít các sản phẩm như ghế dài, đòn giông trong nhà được chặt từ
những cây gỗ to đẹp trong rừng như ngày xưa
-- Trang phục truyền thống
Chủ yếu chỉ còn ở người cao tuổi trong buôn. Thanh niên không mặc áo
quần truyền thống, họ ưa chuộng quần jean, áo thun theo phong cách người
Việt, bị “Việt hóa” họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong các buổi lễ hội --Ẩm thực
Ngày nay các bài thuốc hái từ cây, lá rừng ít ngƣời sử dụng, người ta đi
khám bệnh xin thuốc, mua thuốc tại các trạm xá bệnh viện.
Người ta ăn chín uống sôi, hợp vệ sinh, thức ăn mua từ chợ phong phú
hơn, nhiều người có nhu cầu ăn ngon, uống nhiều thức uống ngon bổ, sử
dụng nguồn nước sạch, … lOMoAR cPSD| 60857655 20
--Trong đời sống vật chất
Người Ê Đê ngày càng mong muốn tiếp cận, thu hẹp khoảng cách với người
Kinh cận cư. Tâm lý này thể hiện rất rõ ở lớp trẻ, bởi họ là những người
được tiếp xúc nhiều với những yếu tố văn hóa mới.
2. Biến đổi trong quan hệ hôn nhân, gia đình, dòng họ và buôn làng - Trong quan hệ hôn nhân
+ Hôn nhân lưỡng hợp theo truyền thống của người Ê Đê được thay thế
bằng hôn nhân đa hợp. Tuy nhiên quan hệ hôn nhân và huyết thống theo
dòng họ vẫn chưa được phá vỡ .
+ Tục nối dòng ko còn quá khắt khe, chế độ mẫu hệ còn được bảo lưu. Tuy
nhiên những nghi lễ cho đám cưới lại theo chuẩn thức của người miền xuôi.
- Trong gia đình và dòng họ
+ Có sự biến đổi về cấu trúc, đặc trưng, vị trí ,vai trò của các thành viên do
chịu tác động mạnh mẽ của quá trình định canh định cư và sự phân dã nhà dài.
+ Người chồng không còn được hiểu như là người nuôi mà có quyền được
quyết định trong gia đình.
+ Người phụ nữ trong gia đình nhỏ nào cũng có được nhiều cơ hội và quyền
quyết định hơn với gia đình cũng như xã hội. - Trong quan hệ buôn làng
Mặc dù có sự tham gia toàn diện của hệ thống chính trị vào từng buôn làng nhưng
+ Vai trò của các khoa buôn, già làng, người xử luật tục vẫn còn hiệu lực +
Vai trò luật tục vẫn còn lớn , đặc biệt là ở các buôn làng xa xôi.
3. Biến đổi về văn hóa tinh thần
Bên cạnh những biến đổi các thành tố văn hóa vật chất thì văn hóa tinh
thần cũng có nhiều sự biến đổi đáng kể, phải kể đến như: không gian sinh
hoạt văn hóa truyền thống, nghi lễ, tôn giáo tín ngưỡng...
- Không gian sinh hoạt văn hóa
+ Hình ảnh của những buổi sinh hoạt sau lễ cúng của một gia đình quây
quần trong gian khách cùng uống rượu cần, ngồi trên ghế kpan đánh chiêng
xuất hiện với tần số thấp. Thay vào đó, mọi người cùng uống rượu, bia, mở nhạc hoặc hát karaoke…
+ Những buổi tối quây quần bên bếp lửa nghe người lớn tuổi trong nhà hát
sử thi, kể chuyện… không còn nữa đã làm cho văn hóa dân gian và không
gian văn hóa cồng chiêng của người Ê Đê bị mai một dần.
- Nghi lễ , tôn giáo tín ngưỡng
+ Những nghi lễ , phong tục của người Ê Đê thay đổi theo xu hướng hiện
đại, các lễ thức ít dần do ko còn “sức ép” của thần linh