lOMoARcPSD| 60857655
MỤC LỤC
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC THÁI .................................................................. 3
2. VĂN HÓA MƯU SINH CỦA DÂN TỘC THÁI ............................................................ 5
2.1. Nông nghiệp ............................................................................................................................... 5
2.2. Th công ...................................................................................................................................... 6
2.3. Săn bắn, hi lưm ................................................................................................................... 7
2.4. Trao đi, mua bn .................................................................................................................... 8
3. VĂN HÓA VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC THÁI ................................................................ 9
3.1. Nhà ở ............................................................................................................................................. 9
3.2. Công trình kiến trúc ............................................................................................................. 11
3.3. Trang phục ................................................................................................................................ 12
3.3.1. Qu trình tạo ra trang phục ...................................................................... 12
3.3.2. Trang phục ................................................................................................. 14
3.3.2.1. Ca nữ giới.............................................................................................. 14
3.3.2.2. Ca nam giới ........................................................................................... 18
3.3.2.3. Ca thầy cúng ......................................................................................... 19
3.4. Ẩm thực ...................................................................................................................................... 20
3.5. Phương tiện vận chuyển...................................................................................................22
3.6. Nhạc cụ....................................................................................................................................22
4. VĂN HÓA PHI VÂT T Ể CỦA DÂN TỘC
THÁI..................................................25
4.1. Ngôn ngữ và chữ
viết.........................................................................................................25 4.1.1. Ngôn
ngữ...................................................................................................25
4.1.2. Chữ
viết..............................................................................................
........25
4.2. Tôn gio và tín
ngưng.....................................................................................................25 4.2.1. Tôn
gio.....................................................................................................25
4.2.2. Tín
ngưng.......................................................................................
.........26
lOMoARcPSD| 60857655
4.3. L
hô........................................................................................................................................
28
4.3.1. L hội Hoa Ban ca người Thi ở Mường
Lò.........................................28
4.3.2. L hội Kin Pang Then ca người Thi
Trắng.........................................29
4.3.3. L hội Ch Chiêng ca người Thi ở Mai
Châu.....................................29
4.3.4. L cầu mưa ca người Thi Trắng ở Mộc Châu, Sơn
La......................30
4.3.5. L cầu mưa ca người Thi Đen ở Sơn
La.............................................31
4.3.6. Tết Xíp
Xí...................................................................................................33
4.4. Văn nghệ dân
gian..............................................................................................................33 4.4.1.
Văn học dân
gian......................................................................................33
4.4.2. Văn nghệ dân gian
...................................................................................34
4.5. Tri thức dân
gian.........................................................................................36
4.5.1. Cch tính lch............................................................................................36
4.5.1. Cch làm ruộng nước...............................................................................37
5. VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA DÂN TỘC THÁI................................................................39
5.1. Cơ cấu t chức làng
bản...................................................................................................39
5.2. Quan hệ gia đình, dòng họ và hôn
nhân...................................................................43
5.2.1. Tiểu gia đình phụ hệ……………………………………………………44
5.5.2. Đại gia đình phụ hệ…………………………………………………….45
6. PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA DÂN TỘC THÁI..................................................45
6.1. Hôn
nhân................................................................................................................................45
lOMoARcPSD| 60857655
6.2. Tang
ma...................................................................................................................................48
6.3. Luật
tục.........................................................................................................5
0
7. NHỮNG XU THẾ BIẾN ĐỔI VỀ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI...........56
7.1. Sự biến đi về văn hóa mưu sinh ca đồng bào dân tộc Thi
..............................................................................................................................................................56
7.2. Sự biến đi về trang phục ca đồng bào dân tộc
Thi........................................58
7.3. Sự biến đi về kiến trúc nhà ở ca đồng bào dân tộc
Thi...............................58
7.4. Sự biến đi về ẩm thực ca đồng bào dân tộc
Thi..............................................59
7.5. Sự biến đi về ngôn ngữ ca đng bào dân tộc
Thi...........................................59 7.6. Sự biến đi về l hội ca đồng bào
dân tộc Thi...................................................60
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC THÁI:
1.1. Dân số và đa bàn cư trú
Theo tổng điều tra dân số năm 2019, người Thái ở Việt Nam có
1.820.950 người, là dân số đứng thứ 3 ở Việt Nam.
lOMoARcPSD| 60857655
Cứ trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La, Nghệ An, Thanh Hóa, Điện
Biên, Lai Châu, Yên Bái,….
1.2. Lch sử hình thành :
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history (Thái Lan:
Lịch sử Tóm lược)", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc,
cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày,
Nùng. Dưới sức ép của người Hán người Việt phía đông bắc,
người Thái dần di về phía nam tây nam. Người Thái di đến
Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Trung tâm của
họ khi đóĐiện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi
ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện
một số vùng ở đông bắc Ấn Đ cũng như nam Vân Nam.
Nhìn chung người Thái Việt Nam có chung nguồn gốc với người Thái
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), 2 nhóm người Thái di cứ vào Việt
Nam, qua những con đường khác nhau.
- Người Thái Trắng ( Bạch Y Man), xuất hiện lần đầu tiên trong lịchsử từ
thời Đường. Nguồn gốc lịch sử của người Thái Trắng được minh chứng
thêm qua truyền thuyết thư tịch cổ của người Thái, sưu tầm được
của cộng đồng Thái ở Tây Bắc nước ta. Truyền thuyết kể rằng, quê hương
xa xưa của họ miền chín con sông đó là: Nậm Tao ( sông Hồng),
Nậm Ta ( sông Đà), Nậm Ma ( sông Mã), Nậm Công ( Kông), Nậm
U, Nậm Nua, Nậm Na và 2 con sông nữa bên Trung Quốc chưa xác định
được. Sông Nậm Nua chảy qua Điện Biên, đổ vào Nậm UThượng Lào.
Nhưng đến đầu thiên niên kỉ II sau công nguyên, người Thái Trắng mới
chiếm được ưu thế đọc hữu ngạn sông Hồng tỉnh Lai Châu. Họ đến
vùng này trước người Thái Đen. Người Thái Trắng sau phát triển thế lực
lOMoARcPSD| 60857655
sang Quỳnh Nhai( Sơn La), Mường Tè( Lai Châu) và một bộ phận di
chuyển xuống Đà Bắc (Hòa Bình) và Thanh Hóa.
- Người Thái Đen: Họ cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, dãy Hoàng Liên Sơn,
các huyện Điện Biên, tuần giáo tỉnh Lai Châu, miền tây Thanh Hóa
Nghệ Tĩnh. Họ điến Việt Nam vào khoảng thế kỉ thứ XI và XII, bộ phận
Tày từ Mường Thanh qua Lào Thanh Hóa tới Nghệ Tĩnh cách đây 200-
300 năm. Bộ phận Tày Mường ban đầu là cư dân xã Chiềng Pấc di vào
Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh từ thời Lê Thái Tổ.
2. VĂN HÓA MƯU SINH CỦA DÂN TỘC THÁI:
2.1. Nông nghiệp
Khi đến Việt Nam người Thái đã biết làm ruộng nước (người Thái gọi
ruộng nước na). Nước yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc trồng
lúa, cần quanh vụ và khi có nước mới bắt đầu cày cấy được. Đồng bào đã
phải bỏ nhiều công sức để hoàn thiện hệ thống thủy nông thích hợp với
việc trồng lúa ở những thung lũng chạy dọc theo các con suối và khai phá
thêm ruộng đồng.
Qua nhiều thế hngười Thái đã nhiều kinh nghiệm trong việc đào
mương, đắp phai, bắc ống dẫn nước về ruộng, trong việc làm cọn nước
đưa nước suối lên cao hàng chục mét, rồi dẫn nước theo mương, máng vào
ruộng.
Khâu trồng lúa được nhấn mạnh để phân biệt giữa ruộng ao, hồ. Tục
ngữ Thái nói: “Làm ao để thả cá làm ruộng để trồng lúa” * Nương:
Người Thái biết dùng cày sức kéo vào việc canh tác. Tuy nhiên cách
đây nửa thế kỉ đâu đó người ta vẫn nói đến lối canh tác “hỏa canh thủy
nậu”. Đồng bào đốt rơm, rạ, cỏđồng ruộng rồi tháo nước vào, cho trâu
quần sục bùn, rồi cấya. Việc dùng phân bón từ phân chuồng, phân bắc,
phân xanh cho đến phân hóa học một biến đổi lớn trong sinh hoạt sản
xuất của đồng bào sau ngày giải phóng.
lOMoARcPSD| 60857655
Trước đây lúa chỉ cấy một vụ, vụ thu, ít nơi hai vụ. Hiện nay, tình
hình hai vụ lại phổ biến. Những giống mới được đem trồng cho năng
suất cao. 2 giống lúa chính nếp tẻ. Điểm khác nhau : nếp ăn không
nóng cổ, đồ từ sáng sớm đến chiều vẫn mềm, dẻo, chất lượng hơn lúa tẻ.
Người Thái c dân tộc khác ở Tây Bắc trước đây, cấy nhiều lúa nếp
nên chủ yếu ăn đ nếp.
Trong trồng trọt đồng bào làm nương, trồng các cây lương thực, hoa màu
như: Lúa nương, ngô, khoai sắn, ...thường sử dụng công cụ là gậy chọc lỗ
hay cuốc và gieo trồng 2,3 năm thì phải bỏ hóa. Và một số cây trồng khác
như: bông, chàm, các loại đậu đỗ, bầu bí, rau xanh thường dùng cày, bón
phân cho cây trồng nên thường thâm canh sản xuất lâu dài. Người Thái
thường trồng một số cây ăn quả như xoài, nhót, chuối, đu đủ. Những cây
này thường được trồng lẻ tẻ ở cạnh nhà, trên nương. Sản phẩm của những
cây ăn quả chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình. Chăn nuôi : Đồng bào
chú ý chăn nuôi lợn gia cầm để dùng vào dịp tế lễ, cúng bái hay khi
nhà có khách và để nộp quan, nộp chúa. Mỡ lợn được dự trữ quanh năm.
Phương thức chăn nuôi của hầu hết các gia đình thường thể hiện tính chất
nửa chăm sóc, nửa thả rông. Giống gia súc tương đối tốt: trâu Mường
Thanh (Điện Biên) to, khỏe, nhiều thịt; ngựa tuy nhỏ nhưng thồ được
nặng, sức bền, ít m yếu, giỏi leo núi cao, đường gập ghềnh. Bởi vậy, trâu,
bò, ngựa nhất trâu của người Thái đã bước đầu trở thành hàng hóa.Họ
còn nuôi tằm lấy tơ dệt lụa hoặc làm chỉ thêu.
2.2. Th công:
Người Thái hai nghề thủ công nổi tiếng là nghề dệt nghề đan lát mây
tre. thể nói phụ nữ Thái vị thợ dệt chăm chỉ, lành nghề, sản xuất
không những đủ chăn, màn, quần áo cho gia đình mà còn đem trao đổi…
Nghề đan lát là công việc của đàn ông.
Nghề dệt: đây tộc người không theo nếp sống nằm chiếu nằm giường
mà quanh năm trải đệm đắp chăn. Xưa kia, người Thái quan niệm “chỉ có
lOMoARcPSD| 60857655
giấc ngủ ngàn thu mới đặt mình lên manh chiếu” nên với đồng bào nằm
chiếu kiêng kị. Chăm và giàu thì phải những đệm chăn xếp thành
từng tầng đầu gian ngủ như câu tục ngữ: Đống đệm cao bằng vách,
đống chăn cao sát sàn quá giang” (cong xứa piêng pha, cong pha piêng
thản). Ngược lại, lười nhác nghèo nàn tchỉ đồ ngủ vừa đủ cho
những người trong gia đình dùng đấy là mức tối thiểu. Đệm Thái bền,
ấm và đẹp, dệt bằng bông gạo nên xốp, thoáng và êm ái nằm không bị đau
lưng. Đệm Thái thể dùng được haimùa. “Đệm bông gạo” (xứa nun
ngịu) được xếp vào loại I nhờ độ mềm, nhẹ đặc biệt ấm. “Đệm bông
cỏ gianh” (xứa nun ca) xếp vào loại II “Đệm bông lau” (xứa nun lau)
thuộc loại III vì cứng kém, nặng, độ ẩm kém.Đệm chỉ phơi, đập cho sạch
bụi, trên mặt trải lớp vải lót màu trắng hoặc những vải kẻ sọc đẹp mắt để
thể thay thế thường xuyên. Lác đác những bản người Thái gốm,
nơi làm vạc, làm nồi với bàn xoay thô sơ, năng suất thấp. một số ít
người biết làm nghề bạc nghề rèn.
Gốm Mường Chanh: Trong ngày vào đốt phải thực hiện một số
kiêng cữ. Phụ nữ, nhất phụ nữ đang thời kỳ kinh nguyệt hoặc thai
hay góa chồng không được đến gần gốm. Để báo hiệu, người ta cắm “ta
leo” đan bằng nan tre có gài lá xanh ở cạnh cửa lò. Khi đốt lò, nếu chẳng
may để lửa tắt, người ta phải khấn ông bà, cha mẹ đã khuất về phù hộ, đ
trì cho lần đốt sau được may mắn hơn phải chờ đến hôm khác mới
đốt tiếp. Họ tin rằng có làm như vậy mi việc mới suôn sẻ.
2.3. Săn bắn, hi lưm:
Hái lượm:
Rừng bao quanh có khnăng cung cấp cho họ những thứ chay thân cây
chất bột. Từng mùa rừng cung cấp các loại rau, quả, nấm, mộc nhĩ…
những thứ đó thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn chính của đồng bào
người Thái. vậy hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống
kinh tế của cư dân này.
lOMoARcPSD| 60857655
Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát
những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc những
lâm thổ sản quý.
Đánh cá:
cấu bữa ăn của các gia đình Thái cơm-cá. Bởi vậy, cùng với hái
lượm, việc đánh sông suối cũng được các dân Thái tchức thường
xuyên. “Pây kin ca, kin lẩu” tức đi ăn cá, về uống rượu” câu
nói cửa miệng của đồng bào Thái. Ngoài việc nuôi ruộng tài tình
phổ biến, hàng năm có thể cung cấp cho gia đình hàng tạ để làm mắm,
sấy khô… Các con sông suối chảy qua bản cũng nguồn cung cấp
thường niên cho đồng bào, họ đánh bắt bằng chài, lưới, cần câu hoặc một
số còn thả bả độc để đánh cá. Có 2 hình thức đánh cá: cá nhân và tập thể.
Mùa nước suối trong người ta mở hội đánh cá “phá pa văng hảm”.
Săn bắn:
Khái niệm săn bắn bao gồm cả việc bắt các loài muông thú diệt các
loài thú nhỏ, to trong tự nhiên.
Trong rừng các loài chim, thú đối tượng săn bắn, tuy nhiên hoạt động
săn đã bị hạ thấp xuống vị trí rất phụ so với hái lượm và đánh cá do tính
chất thất thường của săn. Người Thái chỉ săn bắn lúc nhàn rỗi với mục
đích bảo vệ mùa màng. Có nhiều hình thức săn bắn như: săn rình của
nhân( đi thăm rừng(pai dam pá)), săn đuổi của tập thể( săn húa hay hỏm)),
đánh bẫy… công cđsử dụng như là súng kíp, súng hỏa mai, tên tẩm
thuốc độc.
2.4. Trao đi, mua bn:
Trong một hội hầu nkhông chợ búa, việc trao đổi hàng hóa thường
hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là dưới hình thức hàng
đổi hàng với những dân khác tộc rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng
một số chuyến hàng ngược sông Đà tmiền xuôi lên, hoặc những
thương Lào mang hàng từ Lào, Myanmar đem các nhu yếu phẩm đến bán
lOMoARcPSD| 60857655
mua những đặc sản của địa phương. một vài nơi dọc biên giới chợ
họp theo định kì.
3. VĂN HÓA VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC THÁI:
3.1. Nhà ở:
Người Thái ở nhà sàn, dưới nhà sàn có nhiều cột để đỡ sàn nhà cho chắc,
còn trên sàn nhà thì lại ít cột. Nhà sàn được làm bằng gỗ tốt, bền lâu. Thiết
kế nhà ở của người Thái có cột chính - sau hẹ hay sau cốc. Chiếc cột này
mang ý nghĩa tượng trưng cho uy quyền của ngôi nhà nhìn từ góc độ tôn
giáo. Trên cột này, đồng bào thường treo “tạy ho” - túi tượng trưng cho
linh hồn của mỗi người trong gia đình. Trong “tạy ho của nam giới
thường hạt thóc giống mảnh chài, còn trong “tạy ho” của phụ nữ
cũng hạt thóc giống có thêm hạt bông giống. Chỗ ngủ của chủ nhà
bên cạnh sau hẹ, bên cạnh bàn thờ gia đình để khẳng định tính phụ
quyền. Nhà sàn Thái đen
nhà sàn nên nhà người Thái 3 mặt bằng chồng lên nhau như nhà sàn
Tày, Nùng, hay Mường… trên mặt bằng sinh hoạt của nhà người Thái các
gian đều có tên gọi riêng:
Phần nhà có các gian chính gọi là hỏng tô, gian chái gọi là hỏng tụp, chái
phụ gọi là hỏng tịp.
Nhà còn được chia theo chiều dọc, đường ranh giới qua bếp khách. Từ bếp
này trở về phía sau là hỏng non, về phía trước là mang tẩu.
Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn người Thái Đen ở huyện Mường La – Sơn
La
Nhà làm theo kiểu phăng đin thứ kháng, mái hình mai rùa lập bằng cỏ
tranh, hai chỏm đầu đốc khau cút, xung quanh nhà che vách nứa.
hai cửa chính ở hai đầu hồi, mặt trước và sau nhà có nhiều cửa sổ. Có hai
thang ở hai đầu hồi. Qua thang chính lên gian quản, gian này để trống. Từ
gian này qua cửa chính vào gian hỏng quản. Phần sau của gian này có một
phòng nhỏ dành cho người rể, nếu chưa người rể thì để cho con
lOMoARcPSD| 60857655
trai, về phía trước là giường khách và có bàn ghế tiếp khách. Tiếp là gian
hỏng hóng phần sau của vchồng chủ nđây bàn thờ tổ tiên.
Gian này có bếp khách. Mặt trước về bên trái có cột xau hẹ. Trên cột này
người ta treo một gói hạt giống một mai rùa một dương vật đẽo bằng
gỗ. Đó là hết phần táng quản.
Tiếp gian hỏng ng là gian cang hướn. Phần sau dành cho con gái phía
trước để trống. Kề gian này về phía bên trái phần táng chan. Gian đầu
của táng chan hỏng lánh ngái, về phía sau dành cho vợ chồng con gái
phía trước là bếp. Gian kế là hỏng chan để lương thực, chai lọ… chủ yếu
nơi để phụ nữ trang điểm. Tiếp chan, phần dưới mái chan cuông
nơi dành cho công việc của nữ giới (khâu vá, thêu thùa, đan lát) ng
nơi để nước sinh hoạt. Phần lộ thiên chan no, để ngồi hóng mát
phơi phóng. Thang phụ đặt chan chủ yếu để cho nữ giới qua lại. Mặt
bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Đen ở huyện Con Cuông – Nghệ An Với nhà
sàn người Thái Đen Con Cuông tuy vẫn vi kèo hai cột nhưng 3
dạng khác nhau:
Dạng thứ nhất : hoàn toàn giống kiểu vì ca Thái ở Mộc Châu.
Dạng thứ hai : giống kiểu vì của người Mường.
Dạng thứ ba : hai cột, một quá giang, đầu quá giang cũng được gác
vào đầu cột nhưng không đòn tay cái. Kèo không đưa, chân kèo
được giáp vào đầu quá giang nhờ có con.
Nhà sàn Thái Trắng
Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Trắng ở huyện Mường Lay Lai Châu.
Nhà làm theo kiểu phăng đin thứ khng, mái lập tranh bốn góc mái
vuông, không có khau cút, xung quanh nhà che bằng vách nứa.
Mặt bằng sinh hoạt chia ra làm ba phần theo chiều dọc nhà
Thang chính đặt đầu hồi thuộc về hành lang phía sau. Qua thang lên
thẳng phòng tiếp khách. Liền với phòng khách về bên trái là nơi dành cho
con gái, cạnh đó có bàn ăn, tiếp là bếp. Cạnh bếp
lOMoARcPSD| 60857655
Hành lang giữa ,trước nơi dành cho vợ chồng chủ nhà bếp khách ,
tiếp sa quay sợi cửi khung.Hành lang phía trước , đầu hồi một
phòng nhỏ dành cho khách , tiếp một ô nhỏ trong đặt bàn thờ ttiên ,
tiếp là nơi dành cho vợ chồng chủ nhà , vchồng con chủ nhà và con gái
chủ nhà .
3.2. Công trình kiến trúc:
Cũng như nhà Tày, Nùng bên trong nhà người Thái hầu như không có đục
chạm sơn vẽ gì. Song, với nhà người Thái do cách sắp xếp đặt chăn gối
các tấm thổ cẩm nơi ngủ dọc theo vách hậu thể coi như một hình thức
trang trí đặc biệt không thấy các dân tộc khác. rằng, những thứ
này, có rất nhiều mô típ trang trí màu sắc rực rỡ, không chỉ trông đẹp mắt
mà còn làm cho nhà thêm sáng sủa và ấm cúng. Ngoài hình thức trang trí
này còn một hình thức trang trí rất độc đáo khác đó hình thức trang trí
cửa sổ và cửa ra vào. Còn trang trí bên ngoài nhà hàng lan can ở chan
hoặc chạy dọc trước nhà.Hàng lan can này có các hình thức trang trí khác
nhau:
-Phắt ban: các thanh tre thẳng đứng như song cửa sổ(răng bừa)
-Khuấy chiêng: các nan đan chéo nhau tạo thành các ô vuông hoặc hình
quả trám. Bên trong các ô vuông còn được gài các que ngắn làm thành các
“hoa thị”(theo tên gọi của người Việt)
-Khuấy ta leo: các nan đan thành các ô chữ nhật và cũng có gài các “hoa
thị”...
Một số hình thức trang tkhác là bộ “sừng đầu c” giống như hình thức
trang trí của nhà một số dân Môn-Kme. Bộ sừng này, người Thái
gọi chung “khau cút”. Khau cút cũng một sdạng khác nhau. Chúng
khác nhau không ở hình thức , mà còn phân biệt sự sang hèn của chủ nhà
trong xã hội Thái xưa.
lOMoARcPSD| 60857655
-Cút quai(sừng trâu) hay cút bẻ(sừng dê), dạng cút này thường của những
người nghèo, không địa vị trong hội.Đó chỉ hai thanh tre hay gỗ
bắt chéo nhau như hình dấu nhân.
-Cút chim hay cút nêm(hình tre) thường của những gia đình khá giả
đông con nhiều cháu.
-Cút pua(cút chùm) còn thêm một dạng nữa cút lãi bua (cút hình hoa
sen).Dạng cút này chỉ nhứng nhà quyền quy trong hội mới được
dùng. Để đề cao loại cút này người ta còn gọi là “cút vua ban”.
Từ sau 1954 người Thái không còn giữ quy định như vừa nói trên nữa, ai
thích kiểu cút nào làm kiểu t ấy. Ngoài những kiểu cút có từ xưa, nay
người ta đã tạo ra nhiều kiểu cút khác, trong đó cả cút hình máy bay
phản lực.
3.3. Trang phục:
3.3.1.Quá trình tạo ra trang phục:
Người Thái là dân tộc có truyền thống trồng bông, chăn tằm, dệt vải, thêu
thổ cẩm. Ngoài làm ruộng nước thì nhà nào cũng nương trồng bông
(trồng loại bông cỏ), trồng cây chàm. Người Thái thường trồng bông vào
tháng hai, ba là lúc khí hậu ẩm, mát thu hoạch vào tháng năm khi khí
hậu khô, nóng thuận lợi cho bông nở.
Bông hái vđược phơi nắng phơi sương. Cứ sau một lần phơi sương
thì phải phơi nắng cho tới khi bông nở hết, trắng, xốp sau đó thì bông được
cất trữ nơi khô ráo khi cần thì đưa ra sử dụng.
Các công đoạn tạo ra sản phẩm như: chọn, nhặt, cán, bật, quấn bông, xe
sợi, dệt,..
Trước khi cán bông, người ta lựa riêng từng loại với chất lượng khác nhau,
loại tốt nhất là bông trắng, xốp. Ph nữ Thái dùng cái cán bông ( iu phải )
để tách hạt ra khỏi bông, hạt được cất trữ làm giống cho vụ trồng sau.
Sau khi cán, bông phải được bật cho tơi xốp gọi tháp phải. Cần bật bông
rất đơn giản gồm cái cần làm bằng tre và dây cung. Khi bật, người ta rải
lOMoARcPSD| 60857655
bông ra một cái lóng, dùng cần bật cho y bắn vào bông. Tuy nhiên, có
một vài nơi đã cải tiến làm máy đạp chân, vừa cán bông vừa bật bông,
tăng năng suất nhiều hơn so với kiểu cán và bật cổ truyền. Người Thái có
quan niệm bật bông vào ban đêm thì bông mới “chín”. Bông bật xong
được cuốn thành lọn bông nhỏ như kén tằm để tiện cho việc việc xe sợi.
Tiếp đến là khâu xe bông thành sợi, dụng cụ để xe sợi chiếc xe quay sợi
( nay pán chải ), khi làm thì tay phải quay guồng, tay trái bông thành
sợi, sao cho sợi vừa đều, săn và không bị đứt. Người Thái dùng khung dệt
(ký phải) kiểu chân đạp go, tay lao thoi sợi. Khi dệt, người phnữ Thái
ngồi vào phía sau khung cửi, các tay chân phối hợp nhịp nhàng. Cứ mỗi
lần lao thoi ngang qua lớp sợi dọc thì một lần kép “ phưn” dập sợi về phía
mình. Tiếp đó lại dừng chân điều khiển đưa các go phụ lên xuống theo
chiều ngược lại lao thoi về vị trí cũ. Đó khung dệt vải bình thường
theo lối đan sợi lóng một, vài dệt ra loại vải trơn, không hoa văn.
Nếu muốn dệt vải thổ cẩm, hay vải có hoa văn các loại thì khung dệt phải
có thêm các go phụ để cải hoa, vải dệt ra khổ rộng trên dưới 40cm.
Cùng với dệt vải, người Thái còn trồng chàm, chế biến các màu để nhuộm
vải thành các màu: chàm, đỏ, vàng, tím,... Màu tràm màu nền của y phục
Thái, các màu khác để trang trí, dệt thêu thành hoa văn trên mặt vải.
Để tạo nên bộ y phục Thái, không chỉ công sức trồng bông, dệt vải,
nhuộm màu, cắt may còn nghệ thuật trang trí bằng thêu, dệt. Người
Thái thường dệt hoa văn kẻ sọc,caro lên mặt vải bằng khung dệt mắc
thêm cái go phụ để phân màu của đường chỉ. Còn với những hoạ tiết hoa
văn phức tạp hơn như trên khăn piêu, trên váy, áo… thì họ phải thêu tay
hay bằng kỹ thuật ghép màu. lẽ nghệ thuật của người Thái thhiện ni
bật nhất trên khăn piêu, mặt phà (chăn) hoa văn gấu váy của người Thái
vùng Thanh - Nghệ,...
Để bộ trang phục, người Thái còn giỏi nghề kim hoàn tạo ra các đồ
trang sức đeo trên người như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm, cúc bạc,..
lOMoARcPSD| 60857655
Tuy nghiên, số lượng người làm nghề này không nhiều, thường một vùng
chỉ có một vài người thành thạo nghề này, do vậy ngoài việc tự tạo ra thì
người Thái còn trao đổi với các dân tc láng giềng khác.
3.3.2.Trang phục:
3.3.2.1. Ca nữ giới:
Các bộ phận của nữ phục Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái
và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu), nón (cúp), xà
cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích,..
Áo ngắn của người Thái có nhiều loại, trong đó xửa cỏm (áo ngắn bó sát
người hàng cúc bướm), loại áo sửa cỏm được may vừa khít thân, rất
ngắn, gấu áo vừa chấm cạp váy. Xửa cỏm loại áo mặc phổ biến của
người Thái, thể may bằng những loại vải với màu sắc khác nhau như
màu chàm, màu sáng (xanh da trời, trắng). Ngày thường đi làm ruộng, làm
nương thì họ mặc xửa cỏm màu chàm còn khi đi chơi, hội hè thì mặc xửa
cỏm mầu, đính hàng khuy bạc hình bướm, nhện hay hoa ngực áo.
Theo quan niệm của người Thái, hai hàng cúc bạc trên hai vạt áo xửa cỏm
là tượng trưng cho sự kết hợp “nam” với “nữ”, “đực” với “cái” tạo nên s
trường tồn của giống nòi. Hàng cúc bên trái (bên nam) được gọi “to po”
(con đực), hàng cúc bên phải (bên nữ) được gọi là “to me” ( con cái).
Xửa cỏm là áo mặc phổ biến nhiều nhóm người Thái, tuy nhiên giữa các
nhóm địa phương cũng có chút khác biệt.Áo xửa cỏm của Thái Đen may
cổ tròn ôm gọn lấy vòng cổ tròn ôm gọn lấy vòng cổ, còn của người Thái
Trắng thì cổ xuôi xuống hai vạt, giống như cổ áo nh của phụ nữ Kinh.
Người Thái Phù Yên(Nghĩa Lộ) thì hàng cúc bạc được thay bằng xương,
hình cầu, áo Thái ở Mai Châu thì không xẻ ngực mà may kiểu chui đầu.
Lúc đi tắm , đi ngủ, phụ nữ Thái mặc áo ngắn chui đầu, gọi “xửa xổm
lôm”- áo che ngực.Loại này may cắt đơn giản: miếng vải hình chữ thập
gập đôi lại khoét một lỗ tròn làm cổ ở giữa mép vải gấp.Hai bên sườn để
hở, không khâu, khi mặc, chui đầu qua lỗ cổ áo.
lOMoARcPSD| 60857655
Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luồng.Xửa chái,
may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng,
gấu áo phủ qua đầu gối, giống với áo dài 5 thân của người Kinh.Theo tục
lệ, phụ nữ chồng mới được mặc xửa chái vào dịp cưới xin, hội hè của
bên nhà chồng, còn khi về nbố mẹ đthì không được mặc loại áo
này.Đàn ông Thái cũng mặc loại áo này và rất có thể đây là loại áo người
Thái Đen tiếp thu từ người Kinh.
cả người Thái Đen và người Thái Trắng đều mặc loại áo dài xửa
luồng(áo lớn).Đó là loại áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, tay
hay không tay. Ở người Thái Đen, loại áo này may bằng vải chàm,
ghép màu đỏ, xanh, trắng cổ, ngực gấu áo.Phụ nữ Thái Đen từ khi
còn trẻ đã may loại áo này,một dành cho bản thân khi về già một để
biếu mẹ chồng khi mới về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luồng lộn trái
vào ngày thường, chỉ khi chết mới mặc mặt phải.Cô dâu cả lúc túc trực
bên quan tài mẹ chồng cũng phải mặc áo xửa luồng, khi ra tới mộ, cởi áo
treo lên cột nhà mồ.Chỉ như vậy, theo quan niệm dân gian, tổ tiên mới đón
nhận linh hồn người quá cố.
Áo xửa luồng Thái Trắng may bằng lụa, áo hẹp ngang, chiết eo,mặc
thường xuyên hơn, chỉ không chỉ mang tính phong tục.Ngày nay, người ta
cải tiến loại áo này của người Thái Trắng thành y phục sân khấu của phụ
nữ Thái
Váy(xỉn) cùng với xửa cỏm tạo nên dáng nét chính của bộ nữ phục
Thái.Phụ nữ Thái mặc áo hai lớp:Váy trắng lót bên trong váy chàm mặc
ngoài . Váy của người Thái thuộc loại váy ống ( đã khâu thành hình ống)
, khác với váy xếp nếp của người Mông, Dao hay váy mảnh.Khi mặc váy
cuốn chặt lấy thắt lưng, đoạn thừa gấp nếp ra phía trước như thói quen của
phụ nữ từ Mộc Châu ngược lên phía Bắc, còn thói quen xếp phần thừa của
váy sang bên lườn là của phụ nữ Thái sinh sống ở phía nam.Thường khi
nhà hay với các cụ già thì ưa mặc váy vén cho gọn.Ngày nay, các cô gái
lOMoARcPSD| 60857655
trẻ thích mặc váy cao, để lnửa bắp chân. Mỗi địa phương những khác
biệt về sắc thái trang trí trên váy. Vùng từ Yên Châu trở ngược phía Bắc ,
váy để trơn không trang trí hoa văn.Còn vùng Yên Châu,Mộc Châu thì ưa
dùng loại váy kẻ sọc thân váy, gọi là xỉn ta mí.Đặc biệt phụ nữ vùng Tây
Thanh-Nghệ thì dùng váy kiểu Lào,trang trí hoa văn sặc sỡ gấu váy,
hình kỉ hà, mặt trời,...
Do mặc váy, phụ nThái thể hiện nét tinh tế trong cách ngồi, đi lại.Khi
ngồi trên sàn, chị em thường duỗi hai chân ra phía trước hay ngồi xếp
nghiêng hai chân lên nhau và đệm váy vào giữa.Khi ngồi ghế, chị em
thường ý tứ ghép hai chân sát vào nhau.Bước đi hai chân thường khép sát
nhau, khác với bước đi của phụ nữ có thói quen mặc quần.
Thắt lưng(xài ẻo) bằng vải tơ tằm , hay sợi bông màu xanh hay tím sẫm,
giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng.Người từ trên 40 tuổi thường ưa
thắt lưng màu tím, còn các gái trẻ thì chọn thắt lưng xanh.Ở người Thái,
nhất là phụ nữ Thái Trắng còn có tấm vải choàng ra ngoài thắt lưng, ghép
bằng nhiều miếng vải sặc sỡ khác nhau.Đây phần phụ của nữ phục ,hoàn
toàn mang tính chất trang trí, thể nguồn cội xa xưa là các tấm vải
choàng, nguyên mẫu của các tấm vải choàng ca phnữ nhiều
dân tộc sinh sống ở Tây Nguyên.
Nói về bộ nữ phục Thái không thể không nhắc tới khăn piêu.Piêu dùng ở
khắp mọi nơi, mọi lúc, là khăn nhưng lại thay cho cả nón, là vật người
phụ nữ Thái dày công thêu thùa, trau chuốt.
Vốn chỉ một mảnh vải chàm đen, dài khoàng 180cm, rộng 32cm, nhưng
vải làm piêu nên nên người ta nhấn thêm vài lần nước măng chua, nước
vỏ y ban, để mặt vải láng cứng , ánh sắc chàm đen. Hai đầu piêu riềm
vải ngũ sắc, các góc tết bằng sừng(cút piêu) thành tai(hu piêu) Piêu tết ba
sừng là piêu thường dùng , piêu tết năm hay tết bảy sừng piêu sang dùng
làm quà biếu , đội lúc bản mường hội hè, cưới xin. Hai phần vải đầu
lOMoARcPSD| 60857655
khăn gương mặt của piêu(nạ piêu), nên các gái bỏ công sức thêu
thùa, trang trí.
Các mẫu hoa văn thêu trên mặt piêu không nhiều, thường hình sao 8
cánh biến thể, đường viền song song , răng cưa, hình xoáy ốc , c câu,
hình tam giác ghép nối thành mảng , thành băng, hình hoa, lá, hình con
vật đã cách điệu...Cái đáng ngạc nhiên từ mẫu hoa văn có phần nghèo
nàn đó , từng địa phương, mỗi con người , lại được kết hợp biến
hóa khôn lường , biến cái hữu hạn thành cái hạn của hình hài, khiến
từng cái khăn piêu hình như có khuôn mặt, cá tính riêng.
Piêu không chỉ đơn thuần vật trang trí còn biểu tượng tham gia
vào đời sống nghi thức, lễ tục.Trai, gái sau khi đính ước thường trao tặng
nhau piêu làm vật tin, khi dâu về nhà chồng phải dùng piêu làm quà
biếu .Trong nghi lễ cúng tổ tiên, vật dâng cũng không thể thiếu tấm khăn
piêu...
Cùng với khăn piêu, các loại trâm cài tóc, phụ nThái rất chăm chút nuôi
dưỡng mái tóc các kiểu chải tóc.Các em gái gái từ 8-10 tuổi đã học
mẹ để tóc dài, thường ngày gội đầu bằng nước gạo nếp để chua, nước quả
mẹ đun sôi, làm cho tóc vừa sạch, mượt, óng. Hàng ngày phụ nữ chỗ
chải tóc riêng phía sau nhà.Tóc chải bị rụng được nhặt trữ lại trong chiếc
sọt nhỏ treo sát vách , đtới khi gái đi lấy chồng, người mẹ chọn những
sợi tóc dài, đẹp, bện thành độn tóc cho cô dâu mới.
Trước khi lấy chồng người ta chải tóc ngược ra phía sau rồi cuộn thành
búi sau gáy.Cô gái đi lấy chồng phải trải qua nghi thức Tằng cẩu.Bà
mối đeo vòng,khuyên tai và chải tóc cho cô dâu rồi cuốn thành búi tròn ở
chính giữa đỉnh đầu.Trên búi tóc cài những trâm bạc, vừa giữ cho búi tóc
trắng, vừa để trang trí cho đẹp.Từ đó trở đi, người đàn bà chồng luôn
phải cẩu tóc và đó là dấu hiệu phụ nữ có chồng.Ở người Thái Đen, đàn bà
góa bụa, tuy vẫn cẩu tóc, nhưng búi hơi lệch về một phía, vừa nhìn thể
nhận biết ngay.
lOMoARcPSD| 60857655
Đồ trang sức của ph nữ Thái còn các loại vòng, theo quan niệm
dân gian “không có lỗ tai thì không phải người Thái”, vòng cổ bằng đồng
hay bằng bạc, vòng tay(mask khen), dây xa tích cài thắt lưng đeo
thêm vài chiếc chìa khóa, hộp đựng vôi ăn trầu.Khi đi chợ hay đi thăm
hỏi, hội hè, phụ nữ Thái thường đeo túi thổ cẩm, vừa túi đựng những đồ
cần thiết, vừa là vật trang trí, làm đẹp, làm duyên của phụ nữ Thái.
Trong các nhóm địa phương của dân tộc Thái, phụ nữ người Thái Mường
Lay không đội piêu mà lại dùng nón.Đó là loại nón đan bằng tre, lợp lá
nét tương tự như nón của người Kinh xưa.Nón không chỉ để đội
mưa,che nắng mà còn là vật bất ly thân của phụ nữ, chứa đựng nhiều sắc
thái tình cảm và văn hóa dân tộc.
3.3.2.2. Ca nam giới:
So với nữ phục thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái
dân tộc người và cùng biến đổi nhanh hơn.Trang phục nam giới gồm:áo,
quần, thắt lưng và các loại khăn.
Áo nam giới hai loại, áo cánh ngắn ,tay dài hoặc ngắn áo dài.Áo
ngắn may bằng vải chàm,kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn.Khuy
áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải, hai túi phía vạt trước, khi
túi con ở phía trước ngực trái.Áo ngắn loại này hầu như không trang
trí hoa văn,mà chỉ vào dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái
mặc tấm áo cánh ngắn mới,lấp đôi quả chì đầu đường xẻ hai bên
hông áo.Mak may quấn bằng chỉ màu xanh,đỏ,vàng xen kẽ nhau Vào
những dịp cưới xin,hội hè,nam giới còn mặc thêm chiếc áo dài,gọi “xửa
vạt lắm” (áo vạt ngắn) may bằng vải chàm,kiểu áo năm thân,có thên trong
trắng cài cúc phía ngực trái,cổ đứng tròn,vạt dài tới quá gối.Khi mặc loại
áo này bao giờ cũng mặc kép,áo xẻ ngực màu trắng phía trong,áo dài chàm
bên ngoài,để l cổ áo trắng bên trong,tỏ vẻ sang trọng kiểu cách.
Nam giới Thái mặc quần.Loại quần ngắn(quần đùi) mặc lót trong hay mặc
trong nhà lúc đi ngủ.Xưa kia nam giới mặc quần dài màu chàm,dùng dây
lOMoARcPSD| 60857655
lưng thắt cạp quần cho chắc,hai ông quần trang trí hoa văn.Nay phổ
biến mặc quần dài buộc dải rút.Loại quần chắp ống,may kiểu chân què của
người Kinh cũng được người Thái mặc.
Đàn ông Thái dùng hai loại thắt lưng vải da trâu.Thắt lưng vải dùng
với loại quần không buộc dải rút,còn loại thắt lưng tự tạo bằng da trâu thì
xưa chỉ phìa tạo,gia đình giàu mới sử dụng.Kỹ thuật chế tạo khá
công phu: luộc da trâu nhiều giờ,phơi krồi dùng chày giã cho mềm.Cắt
da theo kích thước thích hợp,dùng chỉ sợi bông khâu mép viền xung
quanh,dùng dùi lỗ làm khóa dây lưng.
Nam giới Thái dùng 2 loại khăn:khăn pàu dài và khăn trọc ngắn hơn.Loại
khăn pàu dùng quấn lên đầu thay nón mũ khi đi xa hay dịp lễ tết,còn khăn
trọc dùng trong lúc lao động trên nương,dưới ruộng.Loại khăn thứ nhất
dùng quấn quanh đầu thành nhiều lớp.giống như khăn xếp của người
Kinh,còn loại sau thì quấn hình chữ “^” quanh đầu,vừa nhanh vừa tiện lợi.
Tuy ít,nhưng cũng có nam giới Thái bịt răng vàng,thường nhà giàu.Còn
tục xăm mình thì khá phổ biến,vừa để cho đẹp vừa mang ý nghĩa phong
tục,là dấu hiệu trưởng thành của nam giới thiếu nó thì hbị cộng đồng
khinh rẻ,là biểu tượng trở về với t tiên, mới được tổ tiên thu
nhận.Khi đến tuổi trưởng thành,nam giới xăm hình chạc cây lên cánh tay
trái đkhi chết,lên Mường trời nộp cho Then đoạn cây đó,nếu không phải
lấy cơ thể mình thay làm cột nhà trên Mường trời.
3.3.2.3. Ca thầy cúng:
Trong các bản mường Thái có một số người hành nghề cúng, bói và cúng
giải các loại “phi”(ma) làm hại cho con người. Đó là các thày Mo, bà
Một, các ông bà Then…
Thày mo hành lễ trong các dịp cúng Xên Mường, Xên Bản, mặc áo thụng
rộng, may kiểu chui đầu, màu vải đỏ, gấu áo phủ quá gối, có ghép những
mảnh vải hình tam giác, gần giống với áo xửa luổng của người Thái Đen,
lOMoARcPSD| 60857655
đâug đội mũ làm bằng vải khít có tua rủ xuống vai, có khi trên mũ có dán
thêm hình các con vật như bò, rắn, rết, sâu… Các cụ già kể lại rằng, xưa
các thủ lĩnh Thái đi chinh chiến cũng thường mặc loại áo thụng này.
Trong các nghi lễ cúng ma nhà Phi hươn, thày mo mặc áo dài màu đen
xửa vạt lẳn, quấn khăn dài thành nhiều lớp trên đầu. Các bà Một khi cúng
mặc áo dài xửa chải thắt lưng màu trắng có trang trí hình các con vật, đầu
đội khăn hình chóp, hai dải khăn để xõa phía sau lưng.
3.4. Ẩm thực:
Thức ăn chính của đồng bào là cơm nếp, nay là cơm tẻ. Ngoài cơm là rau
và cá.
Đồng bào thích ăn cá, thịt trâu ếch nhái. Nhiều côn trùng cũng được
ưa thích như ong non, trứng kiến, khi sinh đẻ phụ nữ được chăm sóc chu
đáo, thường được bồi dưỡng bằng các loại thịt đặc biệt thịt gà. Đồng
bào ít ăn thức ăn luộc, thức ăn thường hay xào với mỡ hoặc rang muối.
Họ thích ăn chua, ăn sống hoặc ăn tái dưới nhiều loại gia vị chất cay
chát. Mắm món ăn nổi tiếng của người Thái, đặc biệt còn phải nói
đến món “nậm pịa” là nước sữa đắng ở ruột non trâu, bò, hươu nai. Nước
sữa đó hòa với tỏi, ớt, nước chua làm nước chấm. Tiếng dân tộc Thái gọi
nậm pịa tiếng việt gọi phèo trâu. Khi con trâu đã lột da xong mổ bụng
đồng thời người ta bắt phèo luôn, phèo được buộc túm chặt lại để khổi
phân già lẫn qua. Phèo trâu được thái thành miếng, cả nước lẫn cái được
cho vào xoong để nấu. Người ta lấy riềng, gừng, xả tỏi, ớt, mắc khén giã
nhỏ cho vào thêm một ít lá chanh thái nhỏ. Món này thực chấtmột loại
nước chấm các loại như gan,lá lách...Thịt luộc đem chấm nậm pịa ăn ngon
lạ thường.Trong tất cả các món ăn chế biến từ con vật bốn chân ăn cỏ nói
chung và con trâu nói riêng,đối với người miền núi không thể thiếu được
món nậm pịa.Ngày xưa mổ trâu bò có thể thiếu một thứ gì đó,nhưng nhất
thiết không thể thiếu nậm pịa.Chia cho mỗi nhà trong bản.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60857655 MỤC LỤC
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC THÁI .................................................................. 3
2. VĂN HÓA MƯU SINH CỦA DÂN TỘC THÁI ............................................................ 5
2.1. Nông nghiệp ............................................................................................................................... 5
2.2. Thủ công ...................................................................................................................................... 6
2.3. Săn bắn, hái lượm ................................................................................................................... 7
2.4. Trao đổi, mua bán .................................................................................................................... 8
3. VĂN HÓA VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC THÁI ................................................................ 9
3.1. Nhà ở ............................................................................................................................................. 9
3.2. Công trình kiến trúc ............................................................................................................. 11
3.3. Trang phục ................................................................................................................................ 12
3.3.1. Quá trình tạo ra trang phục ...................................................................... 12
3.3.2. Trang phục ................................................................................................. 14
3.3.2.1. Của nữ giới.............................................................................................. 14
3.3.2.2. Của nam giới ........................................................................................... 18
3.3.2.3. Của thầy cúng ......................................................................................... 19
3.4. Ẩm thực ...................................................................................................................................... 20
3.5. Phương tiện vận chuyển...................................................................................................22
3.6. Nhạc cụ....................................................................................................................................22
4. VĂN HÓA PHI VÂT TḤ
Ể CỦA DÂN TỘC
THÁI..................................................25
4.1. Ngôn ngữ và chữ
viết.........................................................................................................25 4.1.1. Ngôn
ngữ...................................................................................................25
4.1.2. Chữ
viết.............................................................................................. ........25
4.2. Tôn giáo và tín
ngưỡng.....................................................................................................25 4.2.1. Tôn
giáo.....................................................................................................25
4.2.2. Tín
ngưỡng....................................................................................... .........26 lOMoAR cPSD| 60857655 4.3. Lễ
hôị........................................................................................................................................ 28
4.3.1. Lễ hội Hoa Ban của người Thái ở Mường
Lò.........................................28
4.3.2. Lễ hội Kin Pang Then của người Thái
Trắng.........................................29
4.3.3. Lễ hội Chá Chiêng của người Thái ở Mai
Châu.....................................29
4.3.4. Lễ cầu mưa của người Thái Trắng ở Mộc Châu, Sơn
La......................30
4.3.5. Lễ cầu mưa của người Thái Đen ở Sơn
La.............................................31
4.3.6. Tết Xíp
Xí...................................................................................................33
4.4. Văn nghệ dân
gian..............................................................................................................33 4.4.1. Văn học dân
gian......................................................................................33

4.4.2. Văn nghệ dân gian
...................................................................................34
4.5. Tri thức dân
gian.........................................................................................36
4.5.1. Cách tính lịch............................................................................................36
4.5.1. Cách làm ruộng nước...............................................................................37
5. VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA DÂN TỘC THÁI................................................................39
5.1. Cơ cấu tổ chức làng
bản...................................................................................................39
5.2. Quan hệ gia đình, dòng họ và hôn
nhân...................................................................43
5.2.1. Tiểu gia đình phụ hệ……………………………………………………44
5.5.2. Đại gia đình phụ hệ…………………………………………………….45
6. PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA DÂN TỘC THÁI..................................................45 6.1. Hôn
nhân................................................................................................................................45 lOMoAR cPSD| 60857655 6.2. Tang
ma...................................................................................................................................48 6.3. Luật
tục.........................................................................................................5 0

7. NHỮNG XU THẾ BIẾN ĐỔI VỀ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI...........56
7.1. Sự biến đổi về văn hóa mưu sinh của đồng bào dân tộc Thái
..............................................................................................................................................................56
7.2. Sự biến đổi về trang phục của đồng bào dân tộc
Thái........................................58
7.3. Sự biến đổi về kiến trúc nhà ở của đồng bào dân tộc
Thái...............................58
7.4. Sự biến đổi về ẩm thực của đồng bào dân tộc
Thái..............................................59
7.5. Sự biến đổi về ngôn ngữ của đồng bào dân tộc
Thái...........................................59 7.6. Sự biến đổi về lễ hội của đồng bào
dân tộc Thái...................................................60

1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC THÁI:
1.1. Dân số và địa bàn cư trú
Theo tổng điều tra dân số năm 2019, người Thái ở Việt Nam có
1.820.950 người, là dân số đứng thứ 3 ở Việt Nam. lOMoAR cPSD| 60857655
Cứ trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La, Nghệ An, Thanh Hóa, Điện
Biên, Lai Châu, Yên Bái,….
1.2. Lịch sử hình thành :
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history (Thái Lan:
Lịch sử Tóm lược)", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có
cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày,
Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía đông và bắc,
người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến
Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Trung tâm của
họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi
ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và
một số vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam.
Nhìn chung người Thái ở Việt Nam có chung nguồn gốc với người Thái ở
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), có 2 nhóm người Thái và di cứ vào Việt
Nam, qua những con đường khác nhau.
- Người Thái Trắng ( Bạch Y Man), xuất hiện lần đầu tiên trong lịchsử từ
thời Đường. Nguồn gốc lịch sử của người Thái Trắng được minh chứng
rõ thêm qua truyền thuyết và thư tịch cổ của người Thái, sưu tầm được
của cộng đồng Thái ở Tây Bắc nước ta. Truyền thuyết kể rằng, quê hương
xa xưa của họ là miền có chín con sông đó là: Nậm Tao ( sông Hồng),
Nậm Ta ( sông Đà), Nậm Ma ( sông Mã), Nậm Công ( Mê Kông), Nậm
U, Nậm Nua, Nậm Na và 2 con sông nữa bên Trung Quốc chưa xác định
được. Sông Nậm Nua chảy qua Điện Biên, đổ vào Nậm U ở Thượng Lào.
Nhưng đến đầu thiên niên kỉ II sau công nguyên, người Thái Trắng mới
chiếm được ưu thế đọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu. Họ đến
vùng này trước người Thái Đen. Người Thái Trắng sau phát triển thế lực lOMoAR cPSD| 60857655
sang Quỳnh Nhai( Sơn La), Mường Tè( Lai Châu) và một bộ phận di
chuyển xuống Đà Bắc (Hòa Bình) và Thanh Hóa.
- Người Thái Đen: Họ cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, dãy Hoàng Liên Sơn,
các huyện Điện Biên, tuần giáo tỉnh Lai Châu, miền tây Thanh Hóa và
Nghệ Tĩnh. Họ điến Việt Nam vào khoảng thế kỉ thứ XI và XII, bộ phận
Tày từ Mường Thanh qua Lào và Thanh Hóa tới Nghệ Tĩnh cách đây 200-
300 năm. Bộ phận Tày Mường ban đầu là cư dân xã Chiềng Pấc di cư vào
Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh từ thời Lê Thái Tổ.
2. VĂN HÓA MƯU SINH CỦA DÂN TỘC THÁI:
2.1. Nông nghiệp
Khi đến Việt Nam người Thái đã biết làm ruộng nước (người Thái gọi
ruộng nước là na). Nước là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc trồng
lúa, cần quanh vụ và khi có nước mới bắt đầu cày cấy được. Đồng bào đã
phải bỏ nhiều công sức để hoàn thiện hệ thống thủy nông thích hợp với
việc trồng lúa ở những thung lũng chạy dọc theo các con suối và khai phá thêm ruộng đồng.
Qua nhiều thế hệ người Thái đã có nhiều kinh nghiệm trong việc đào
mương, đắp phai, bắc ống dẫn nước về ruộng, trong việc làm cọn nước
đưa nước suối lên cao hàng chục mét, rồi dẫn nước theo mương, máng vào ruộng.
Khâu trồng lúa được nhấn mạnh để phân biệt giữa ruộng và ao, hồ. Tục
ngữ Thái nói: “Làm ao để thả cá làm ruộng để trồng lúa” * Nương:
Người Thái biết dùng cày và sức kéo vào việc canh tác. Tuy nhiên cách
đây nửa thế kỉ đâu đó người ta vẫn nói đến lối canh tác “hỏa canh thủy
nậu”. Đồng bào đốt rơm, rạ, cỏ ở đồng ruộng rồi tháo nước vào, cho trâu
quần sục bùn, rồi cấy lúa. Việc dùng phân bón từ phân chuồng, phân bắc,
phân xanh cho đến phân hóa học là một biến đổi lớn trong sinh hoạt sản
xuất của đồng bào sau ngày giải phóng. lOMoAR cPSD| 60857655
Trước đây lúa chỉ cấy một vụ, là vụ hè thu, ít nơi hai vụ. Hiện nay, tình
hình hai vụ lại là phổ biến. Những giống mới được đem trồng cho năng
suất cao. Có 2 giống lúa chính là nếp và tẻ. Điểm khác nhau : nếp ăn không
nóng cổ, đồ từ sáng sớm đến chiều vẫn mềm, dẻo, chất lượng hơn lúa tẻ.
Người Thái và các dân tộc khác ở Tây Bắc trước đây, cấy nhiều lúa nếp
nên chủ yếu ăn đồ nếp.
Trong trồng trọt đồng bào làm nương, trồng các cây lương thực, hoa màu
như: Lúa nương, ngô, khoai sắn, ...thường sử dụng công cụ là gậy chọc lỗ
hay cuốc và gieo trồng 2,3 năm thì phải bỏ hóa. Và một số cây trồng khác
như: bông, chàm, các loại đậu đỗ, bầu bí, rau xanh thường dùng cày, bón
phân cho cây trồng nên thường thâm canh sản xuất lâu dài. Người Thái
thường trồng một số cây ăn quả như xoài, nhót, chuối, đu đủ. Những cây
này thường được trồng lẻ tẻ ở cạnh nhà, trên nương. Sản phẩm của những
cây ăn quả chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình. Chăn nuôi : Đồng bào
chú ý chăn nuôi lợn và gia cầm để dùng vào dịp tế lễ, cúng bái hay khi
nhà có khách và để nộp quan, nộp chúa. Mỡ lợn được dự trữ quanh năm.
Phương thức chăn nuôi của hầu hết các gia đình thường thể hiện tính chất
nửa chăm sóc, nửa thả rông. Giống gia súc tương đối tốt: trâu ở Mường
Thanh (Điện Biên) to, khỏe, có nhiều thịt; ngựa tuy nhỏ nhưng thồ được
nặng, sức bền, ít ốm yếu, giỏi leo núi cao, đường gập ghềnh. Bởi vậy, trâu,
bò, ngựa nhất là trâu của người Thái đã bước đầu trở thành hàng hóa.Họ
còn nuôi tằm lấy tơ dệt lụa hoặc làm chỉ thêu.
2.2. Thủ công:
Người Thái có hai nghề thủ công nổi tiếng là nghề dệt và nghề đan lát mây
tre. Có thể nói phụ nữ Thái là vị thợ dệt chăm chỉ, lành nghề, sản xuất
không những đủ chăn, màn, quần áo cho gia đình mà còn đem trao đổi…
Nghề đan lát là công việc của đàn ông.
Nghề dệt: đây là tộc người không theo nếp sống nằm chiếu nằm giường
mà quanh năm trải đệm đắp chăn. Xưa kia, người Thái quan niệm “chỉ có lOMoAR cPSD| 60857655
giấc ngủ ngàn thu mới đặt mình lên manh chiếu” nên với đồng bào nằm
chiếu là kiêng kị. Chăm và giàu thì phải có những đệm chăn xếp thành
từng tầng ở mé đầu gian ngủ như câu tục ngữ: “ Đống đệm cao bằng vách,
đống chăn cao sát sàn quá giang” (cong xứa piêng pha, cong pha piêng
thản). Ngược lại, lười nhác và nghèo nàn thì chỉ có đồ ngủ vừa đủ cho
những người trong gia đình dùng vì đấy là mức tối thiểu. Đệm Thái bền,
ấm và đẹp, dệt bằng bông gạo nên xốp, thoáng và êm ái nằm không bị đau
lưng. Đệm Thái có thể dùng được haimùa. “Đệm bông gạo” (xứa nun
ngịu) được xếp vào loại I nhờ có độ mềm, nhẹ và đặc biệt ấm. “Đệm bông
cỏ gianh” (xứa nun ca) xếp vào loại II và “Đệm bông lau” (xứa nun lau)
thuộc loại III vì cứng kém, nặng, độ ẩm kém.Đệm chỉ phơi, đập cho sạch
bụi, trên mặt trải lớp vải lót màu trắng hoặc những vải kẻ sọc đẹp mắt để
có thể thay thế thường xuyên. Lác đác có những bản người Thái có lò gốm,
nơi làm vạc, làm nồi với bàn xoay thô sơ, năng suất thấp. Có một số ít
người biết làm nghề bạc nghề rèn.
Gốm Mường Chanh: Trong ngày vào lò và đốt lò phải thực hiện một số
kiêng cữ. Phụ nữ, nhất là phụ nữ đang thời kỳ kinh nguyệt hoặc có thai
hay góa chồng không được đến gần lò gốm. Để báo hiệu, người ta cắm “ta
leo” đan bằng nan tre có gài lá xanh ở cạnh cửa lò. Khi đốt lò, nếu chẳng
may để lửa tắt, người ta phải khấn ông bà, cha mẹ đã khuất về phù hộ, độ
trì cho lần đốt lò sau được may mắn hơn và phải chờ đến hôm khác mới
đốt tiếp. Họ tin rằng có làm như vậy mọi việc mới suôn sẻ.
2.3. Săn bắn, hái lượm: Hái lượm:
Rừng bao quanh có khả năng cung cấp cho họ những thứ củ hay thân cây
có chất bột. Từng mùa rừng cung cấp các loại rau, quả, nấm, mộc nhĩ…
những thứ đó thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn chính của đồng bào
người Thái. Vì vậy hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống
kinh tế của cư dân này. lOMoAR cPSD| 60857655
Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát
những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những lâm thổ sản quý. Đánh cá:
Cơ cấu bữa ăn của các gia đình Thái là cơm-cá. Bởi vậy, cùng với hái
lượm, việc đánh cá ở sông suối cũng được các cư dân Thái tổ chức thường
xuyên. “Pây kin ca, má kin lẩu” tức là “ đi ăn cá, về uống rượu” là câu
nói cửa miệng của đồng bào Thái. Ngoài việc nuôi cá ruộng tài tình và
phổ biến, hàng năm có thể cung cấp cho gia đình hàng tạ cá để làm mắm,
sấy khô… Các con sông suối chảy qua bản cũng là nguồn cung cấp cá
thường niên cho đồng bào, họ đánh bắt bằng chài, lưới, cần câu hoặc một
số còn thả bả độc để đánh cá. Có 2 hình thức đánh cá: cá nhân và tập thể.
Mùa nước suối trong người ta mở hội đánh cá “phá pa văng hảm”. Săn bắn:
Khái niệm săn bắn bao gồm cả việc bắt các loài muông thú và diệt các
loài thú nhỏ, to trong tự nhiên.
Trong rừng các loài chim, thú là đối tượng săn bắn, tuy nhiên hoạt động
săn đã bị hạ thấp xuống vị trí rất phụ so với hái lượm và đánh cá do tính
chất thất thường của săn. Người Thái chỉ săn bắn lúc nhàn rỗi và với mục
đích bảo vệ mùa màng. Có nhiều hình thức săn bắn như: săn rình của cá
nhân( đi thăm rừng(pai dam pá)), săn đuổi của tập thể( săn húa hay hỏm)),
đánh bẫy… công cụ để sử dụng như là súng kíp, súng hỏa mai, tên tẩm thuốc độc.
2.4. Trao đổi, mua bán:
Trong một xã hội hầu như không có chợ búa, việc trao đổi hàng hóa thường
hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là dưới hình thức hàng
đổi hàng với những cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng
có một số chuyến hàng ngược sông Đà từ miền xuôi lên, hoặc những
thương Lào mang hàng từ Lào, Myanmar đem các nhu yếu phẩm đến bán lOMoAR cPSD| 60857655
và mua những đặc sản của địa phương. Ở một vài nơi dọc biên giới có chợ họp theo định kì.
3. VĂN HÓA VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC THÁI: 3.1. Nhà ở:
Người Thái ở nhà sàn, dưới nhà sàn có nhiều cột để đỡ sàn nhà cho chắc,
còn trên sàn nhà thì lại ít cột. Nhà sàn được làm bằng gỗ tốt, bền lâu. Thiết
kế nhà ở của người Thái có cột chính - sau hẹ hay sau cốc. Chiếc cột này
mang ý nghĩa tượng trưng cho uy quyền của ngôi nhà nhìn từ góc độ tôn
giáo. Trên cột này, đồng bào thường treo “tạy ho” - túi tượng trưng cho
linh hồn của mỗi người trong gia đình. Trong “tạy ho” của nam giới
thường có hạt thóc giống và mảnh chài, còn trong “tạy ho” của phụ nữ
cũng có hạt thóc giống và có thêm hạt bông giống. Chỗ ngủ của chủ nhà
là bên cạnh sau hẹ, bên cạnh bàn thờ gia đình để khẳng định tính phụ
quyền. Nhà sàn Thái đen
Là nhà sàn nên nhà người Thái có 3 mặt bằng chồng lên nhau như nhà sàn
Tày, Nùng, hay Mường… trên mặt bằng sinh hoạt của nhà người Thái các
gian đều có tên gọi riêng:
Phần nhà có các gian chính gọi là hỏng tô, gian chái gọi là hỏng tụp, chái phụ gọi là hỏng tịp.
Nhà còn được chia theo chiều dọc, đường ranh giới qua bếp khách. Từ bếp
này trở về phía sau là hỏng non, về phía trước là mang tẩu.
Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn người Thái Đen ở huyện Mường La – Sơn La
Nhà làm theo kiểu phăng đin – thứ kháng, mái hình mai rùa lập bằng cỏ
tranh, hai chỏm đầu đốc có khau cút, xung quanh nhà che vách nứa. Có
hai cửa chính ở hai đầu hồi, mặt trước và sau nhà có nhiều cửa sổ. Có hai
thang ở hai đầu hồi. Qua thang chính lên gian quản, gian này để trống. Từ
gian này qua cửa chính vào gian hỏng quản. Phần sau của gian này có một
phòng nhỏ dành cho người ở rể, nếu chưa có người ở rể thì để cho con lOMoAR cPSD| 60857655
trai, về phía trước là giường khách và có bàn ghế tiếp khách. Tiếp là gian
hỏng hóng phần sau là của vợ chồng chủ nhà ở đây có bàn thờ tổ tiên.
Gian này có bếp khách. Mặt trước về bên trái có cột xau hẹ. Trên cột này
người ta treo một gói hạt giống một mai rùa và một dương vật đẽo bằng
gỗ. Đó là hết phần táng quản.
Tiếp gian hỏng hóng là gian cang hướn. Phần sau dành cho con gái phía
trước để trống. Kề gian này về phía bên trái là phần táng chan. Gian đầu
của táng chan là hỏng lánh ngái, về phía sau dành cho vợ chồng con gái
phía trước là bếp. Gian kế là hỏng chan để lương thực, chai lọ… chủ yếu
là nơi để phụ nữ trang điểm. Tiếp là chan, phần dưới mái là chan cuông
nơi dành cho công việc của nữ giới (khâu vá, thêu thùa, đan lát) và cũng
là nơi để nước sinh hoạt. Phần lộ thiên là chan no, để ngồi hóng mát và
phơi phóng. Thang phụ đặt ở chan chủ yếu để cho nữ giới qua lại. Mặt
bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Đen ở huyện Con Cuông – Nghệ An Với nhà
sàn người Thái Đen ở Con Cuông tuy vẫn là vi kèo hai cột nhưng có 3 dạng khác nhau:
Dạng thứ nhất : hoàn toàn giống kiểu vì của Thái ở Mộc Châu.
Dạng thứ hai : giống kiểu vì của người Mường.
Dạng thứ ba : có hai cột, một quá giang, đầu quá giang cũng được gác
vào đầu cột nhưng không có đòn tay cái. Kèo không có đưa, chân kèo
được giáp vào đầu quá giang nhờ có con.
Nhà sàn Thái Trắng
Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Trắng ở huyện Mường Lay – Lai Châu.
Nhà làm theo kiểu phăng đin – thứ kháng, mái lập tranh bốn góc mái
vuông, không có khau cút, xung quanh nhà che bằng vách nứa.
Mặt bằng sinh hoạt chia ra làm ba phần theo chiều dọc nhà
Thang chính đặt ở đầu hồi thuộc về hành lang phía sau. Qua thang lên
thẳng phòng tiếp khách. Liền với phòng khách về bên trái là nơi dành cho
con gái, cạnh đó có bàn ăn, tiếp là bếp. Cạnh bếp lOMoAR cPSD| 60857655
Hành lang ở giữa ,trước nơi dành cho vợ chồng chủ nhà có bếp khách ,
tiếp là sa quay sợi và cửi khung.Hành lang phía trước , đầu hồi có một
phòng nhỏ dành cho khách , tiếp là một ô nhỏ trong đặt bàn thờ tổ tiên ,
tiếp là nơi dành cho vợ chồng chủ nhà , vợ chồng con chủ nhà và con gái chủ nhà .
3.2. Công trình kiến trúc:
Cũng như nhà Tày, Nùng bên trong nhà người Thái hầu như không có đục
chạm sơn vẽ gì. Song, với nhà người Thái do cách sắp xếp đặt chăn gối và
các tấm thổ cẩm ở nơi ngủ dọc theo vách hậu có thể coi như một hình thức
trang trí đặc biệt mà không thấy ở các dân tộc khác. Vì rằng, những thứ
này, có rất nhiều mô típ trang trí màu sắc rực rỡ, không chỉ trông đẹp mắt
mà còn làm cho nhà thêm sáng sủa và ấm cúng. Ngoài hình thức trang trí
này còn một hình thức trang trí rất độc đáo khác đó là hình thức trang trí
ở cửa sổ và cửa ra vào. Còn trang trí bên ngoài nhà có hàng lan can ở chan
hoặc chạy dọc trước nhà.Hàng lan can này có các hình thức trang trí khác nhau:
-Phắt ban: các thanh tre thẳng đứng như song cửa sổ(răng bừa)
-Khuấy chiêng: các nan đan chéo nhau tạo thành các ô vuông hoặc hình
quả trám. Bên trong các ô vuông còn được gài các que ngắn làm thành các
“hoa thị”(theo tên gọi của người Việt)
-Khuấy ta leo: các nan đan thành các ô chữ nhật và cũng có gài các “hoa thị”...
Một số hình thức trang trí khác là bộ “sừng ở đầu ốc” giống như hình thức
trang trí của nhà một số cư dân Môn-Khơ me. Bộ sừng này, người Thái
gọi chung là “khau cút”. Khau cút cũng có một số dạng khác nhau. Chúng
khác nhau không ở hình thức , mà còn phân biệt sự sang hèn của chủ nhà trong xã hội Thái xưa. lOMoAR cPSD| 60857655
-Cút quai(sừng trâu) hay cút bẻ(sừng dê), dạng cút này thường của những
người nghèo, không có địa vị trong xã hội.Đó chỉ là hai thanh tre hay gỗ
bắt chéo nhau như hình dấu nhân.
-Cút chim hay cút nêm(hình lá tre) thường của những gia đình khá giả đông con nhiều cháu.
-Cút pua(cút chùm) còn thêm một dạng nữa là cút lãi bua (cút hình hoa
sen).Dạng cút này chỉ nhứng nhà quyền quy trong xã hội cũ mới được
dùng. Để đề cao loại cút này người ta còn gọi là “cút vua ban”.
Từ sau 1954 người Thái không còn giữ quy định như vừa nói trên nữa, ai
thích kiểu cút nào làm kiểu cút ấy. Ngoài những kiểu cút có từ xưa, nay
người ta đã tạo ra nhiều kiểu cút khác, trong đó có cả cút hình máy bay phản lực.
3.3. Trang phục:
3.3.1.Quá trình tạo ra trang phục:
Người Thái là dân tộc có truyền thống trồng bông, chăn tằm, dệt vải, thêu
thổ cẩm. Ngoài làm ruộng nước thì nhà nào cũng có nương trồng bông
(trồng loại bông cỏ), trồng cây chàm. Người Thái thường trồng bông vào
tháng hai, ba là lúc khí hậu ẩm, mát và thu hoạch vào tháng năm khi khí
hậu khô, nóng thuận lợi cho bông nở.
Bông hái về được phơi nắng và phơi sương. Cứ sau một lần phơi sương
thì phải phơi nắng cho tới khi bông nở hết, trắng, xốp sau đó thì bông được
cất trữ nơi khô ráo khi cần thì đưa ra sử dụng.
Các công đoạn tạo ra sản phẩm như: chọn, nhặt, cán, bật, quấn bông, xe sợi, dệt,..
Trước khi cán bông, người ta lựa riêng từng loại với chất lượng khác nhau,
loại tốt nhất là bông trắng, xốp. Phụ nữ Thái dùng cái cán bông ( iu phải )
để tách hạt ra khỏi bông, hạt được cất trữ làm giống cho vụ trồng sau.
Sau khi cán, bông phải được bật cho tơi xốp gọi là tháp phải. Cần bật bông
rất đơn giản gồm cái cần làm bằng tre và dây cung. Khi bật, người ta rải lOMoAR cPSD| 60857655
bông ra một cái lóng, dùng cần bật cho dây bắn vào bông. Tuy nhiên, có
một vài nơi đã cải tiến làm máy đạp chân, vừa cán bông vừa bật bông,
tăng năng suất nhiều hơn so với kiểu cán và bật cổ truyền. Người Thái có
quan niệm bật bông vào ban đêm thì bông mới “chín”. Bông bật xong
được cuốn thành lọn bông nhỏ như kén tằm để tiện cho việc việc xe sợi.
Tiếp đến là khâu xe bông thành sợi, dụng cụ để xe sợi là chiếc xe quay sợi
( nay pán chải ), khi làm thì tay phải quay guồng, tay trái vê bông thành
sợi, sao cho sợi vừa đều, săn và không bị đứt. Người Thái dùng khung dệt
(ký phải) kiểu chân đạp go, tay lao thoi sợi. Khi dệt, người phụ nữ Thái
ngồi vào phía sau khung cửi, các tay chân phối hợp nhịp nhàng. Cứ mỗi
lần lao thoi ngang qua lớp sợi dọc thì một lần kép “ phưn” dập sợi về phía
mình. Tiếp đó lại dừng chân điều khiển đưa các go phụ lên xuống theo
chiều ngược lại và lao thoi về vị trí cũ. Đó là khung dệt vải bình thường
theo lối đan sợi lóng một, vài dệt ra là loại vải trơn, không có hoa văn.
Nếu muốn dệt vải thổ cẩm, hay vải có hoa văn các loại thì khung dệt phải
có thêm các go phụ để cải hoa, vải dệt ra khổ rộng trên dưới 40cm.
Cùng với dệt vải, người Thái còn trồng chàm, chế biến các màu để nhuộm
vải thành các màu: chàm, đỏ, vàng, tím,... Màu tràm là màu nền của y phục
Thái, các màu khác để trang trí, dệt thêu thành hoa văn trên mặt vải.
Để tạo nên bộ y phục Thái, không chỉ có công sức trồng bông, dệt vải,
nhuộm màu, cắt may mà còn nghệ thuật trang trí bằng thêu, dệt. Người
Thái thường dệt hoa văn kẻ sọc,caro lên mặt vải bằng khung dệt có mắc
thêm cái go phụ để phân màu của đường chỉ. Còn với những hoạ tiết hoa
văn phức tạp hơn như trên khăn piêu, trên váy, áo… thì họ phải thêu tay
hay bằng kỹ thuật ghép màu. Có lẽ nghệ thuật của người Thái thể hiện nổi
bật nhất trên khăn piêu, mặt phà (chăn) và hoa văn gấu váy của người Thái vùng Thanh - Nghệ,...
Để có bộ trang phục, người Thái còn giỏi nghề kim hoàn tạo ra các đồ
trang sức đeo trên người như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm, cúc bạc,.. lOMoAR cPSD| 60857655
Tuy nghiên, số lượng người làm nghề này không nhiều, thường một vùng
chỉ có một vài người thành thạo nghề này, do vậy ngoài việc tự tạo ra thì
người Thái còn trao đổi với các dân tộc láng giềng khác. 3.3.2.Trang phục:
3.3.2.1. Của nữ giới:
Các bộ phận của nữ phục Thái gồm: áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái
và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu), nón (cúp), xà
cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích,..
Áo ngắn của người Thái có nhiều loại, trong đó xửa cỏm (áo ngắn bó sát
người có hàng cúc bướm), loại áo sửa cỏm được may vừa khít thân, rất
ngắn, gấu áo vừa chấm cạp váy. Xửa cỏm là loại áo mặc phổ biến của
người Thái, có thể may bằng những loại vải với màu sắc khác nhau như
màu chàm, màu sáng (xanh da trời, trắng). Ngày thường đi làm ruộng, làm
nương thì họ mặc xửa cỏm màu chàm còn khi đi chơi, hội hè thì mặc xửa
cỏm mầu, có đính hàng khuy bạc hình bướm, nhện hay hoa ở ngực áo.
Theo quan niệm của người Thái, hai hàng cúc bạc trên hai vạt áo xửa cỏm
là tượng trưng cho sự kết hợp “nam” với “nữ”, “đực” với “cái” tạo nên sự
trường tồn của giống nòi. Hàng cúc bên trái (bên nam) được gọi là “to po”
(con đực), hàng cúc bên phải (bên nữ) được gọi là “to me” ( con cái).
Xửa cỏm là áo mặc phổ biến ở nhiều nhóm người Thái, tuy nhiên giữa các
nhóm địa phương cũng có chút khác biệt.Áo xửa cỏm của Thái Đen may
cổ tròn ôm gọn lấy vòng cổ tròn ôm gọn lấy vòng cổ, còn của người Thái
Trắng thì cổ xuôi xuống hai vạt, giống như cổ áo cánh của phụ nữ Kinh.
Người Thái Phù Yên(Nghĩa Lộ) thì hàng cúc bạc được thay bằng xương,
hình cầu, áo Thái ở Mai Châu thì không xẻ ngực mà may kiểu chui đầu.
Lúc đi tắm , đi ngủ, phụ nữ Thái mặc áo ngắn chui đầu, gọi là “xửa xổm
lôm”- áo che ngực.Loại này may cắt đơn giản: miếng vải hình chữ thập
gập đôi lại khoét một lỗ tròn làm cổ ở giữa mép vải gấp.Hai bên sườn để
hở, không khâu, khi mặc, chui đầu qua lỗ cổ áo. lOMoAR cPSD| 60857655
Phụ nữ Thái còn mặc hai loại áo dài là xửa chái và xửa luồng.Xửa chái,
may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5 thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng,
gấu áo phủ qua đầu gối, giống với áo dài 5 thân của người Kinh.Theo tục
lệ, phụ nữ có chồng mới được mặc xửa chái vào dịp cưới xin, hội hè của
bên nhà chồng, còn khi về nhà bố mẹ đẻ thì không được mặc loại áo
này.Đàn ông Thái cũng mặc loại áo này và rất có thể đây là loại áo người
Thái Đen tiếp thu từ người Kinh.
Ở cả người Thái Đen và người Thái Trắng đều mặc loại áo dài xửa
luồng(áo lớn).Đó là loại áo khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay
hay không có tay. Ở người Thái Đen, loại áo này may bằng vải chàm, có
ghép màu đỏ, xanh, trắng ở cổ, ngực và gấu áo.Phụ nữ Thái Đen từ khi
còn trẻ đã may loại áo này,một dành cho bản thân khi về già và một để
biếu mẹ chồng khi mới về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luồng lộn trái
vào ngày thường, chỉ khi chết mới mặc mặt phải.Cô dâu cả lúc túc trực
bên quan tài mẹ chồng cũng phải mặc áo xửa luồng, khi ra tới mộ, cởi áo
treo lên cột nhà mồ.Chỉ như vậy, theo quan niệm dân gian, tổ tiên mới đón
nhận linh hồn người quá cố.
Áo xửa luồng Thái Trắng may bằng lụa, áo hẹp ngang, có chiết eo,mặc
thường xuyên hơn, chỉ không chỉ mang tính phong tục.Ngày nay, người ta
cải tiến loại áo này của người Thái Trắng thành y phục sân khấu của phụ nữ Thái
Váy(xỉn) cùng với xửa cỏm tạo nên dáng nét chính của bộ nữ phục
Thái.Phụ nữ Thái mặc áo hai lớp:Váy trắng lót bên trong và váy chàm mặc
ngoài . Váy của người Thái thuộc loại váy ống ( đã khâu thành hình ống)
, khác với váy xếp nếp của người Mông, Dao hay váy mảnh.Khi mặc váy
cuốn chặt lấy thắt lưng, đoạn thừa gấp nếp ra phía trước như thói quen của
phụ nữ từ Mộc Châu ngược lên phía Bắc, còn thói quen xếp phần thừa của
váy sang bên lườn là của phụ nữ Thái sinh sống ở phía nam.Thường khi ở
nhà hay với các cụ già thì ưa mặc váy vén cho gọn.Ngày nay, các cô gái lOMoAR cPSD| 60857655
trẻ thích mặc váy cao, để lộ nửa bắp chân. Mỗi địa phương có những khác
biệt về sắc thái trang trí trên váy. Vùng từ Yên Châu trở ngược phía Bắc ,
váy để trơn không trang trí hoa văn.Còn vùng Yên Châu,Mộc Châu thì ưa
dùng loại váy kẻ sọc thân váy, gọi là xỉn ta mí.Đặc biệt phụ nữ vùng Tây
Thanh-Nghệ thì dùng váy kiểu Lào,trang trí hoa văn sặc sỡ ở gấu váy,
hình kỉ hà, mặt trời,...
Do mặc váy, phụ nữ Thái thể hiện nét tinh tế trong cách ngồi, đi lại.Khi
ngồi trên sàn, chị em thường duỗi hai chân ra phía trước hay ngồi xếp
nghiêng hai chân lên nhau và đệm váy vào giữa.Khi ngồi ghế, chị em
thường ý tứ ghép hai chân sát vào nhau.Bước đi hai chân thường khép sát
nhau, khác với bước đi của phụ nữ có thói quen mặc quần.
Thắt lưng(xài ẻo) bằng vải tơ tằm , hay sợi bông màu xanh hay tím sẫm,
giữ cho cạp váy quấn chặt lấy eo bụng.Người từ trên 40 tuổi thường ưa
thắt lưng màu tím, còn các cô gái trẻ thì chọn thắt lưng xanh.Ở người Thái,
nhất là phụ nữ Thái Trắng còn có tấm vải choàng ra ngoài thắt lưng, ghép
bằng nhiều miếng vải sặc sỡ khác nhau.Đây là phần phụ của nữ phục ,hoàn
toàn mang tính chất trang trí, có thể có nguồn cội xa xưa là các tấm vải
choàng, mà nguyên mẫu của nó là các tấm vải choàng của phụ nữ nhiều
dân tộc sinh sống ở Tây Nguyên.
Nói về bộ nữ phục Thái không thể không nhắc tới khăn piêu.Piêu dùng ở
khắp mọi nơi, mọi lúc, là khăn nhưng lại thay cho cả nón, là vật mà người
phụ nữ Thái dày công thêu thùa, trau chuốt.
Vốn chỉ là một mảnh vải chàm đen, dài khoàng 180cm, rộng 32cm, nhưng
là vải làm piêu nên nên người ta nhấn thêm vài lần nước măng chua, nước
vỏ cây ban, để mặt vải láng cứng , ánh sắc chàm đen. Hai đầu piêu riềm
vải ngũ sắc, các góc tết bằng sừng(cút piêu) thành tai(hu piêu) Piêu tết ba
sừng là piêu thường dùng , piêu tết năm hay tết bảy sừng là piêu sang dùng
làm quà biếu , đội lúc bản mường có hội hè, cưới xin. Hai phần vải đầu lOMoAR cPSD| 60857655
khăn là gương mặt của piêu(nạ piêu), nên các cô gái bỏ công sức thêu thùa, trang trí.
Các mẫu hoa văn thêu trên mặt piêu không nhiều, thường là hình sao 8
cánh biến thể, đường viền song song , răng cưa, hình xoáy ốc , móc câu,
hình tam giác ghép nối thành mảng , thành băng, hình hoa, lá, hình con
vật đã cách điệu...Cái đáng ngạc nhiên là từ mẫu hoa văn có phần nghèo
nàn đó , ở từng địa phương, ở mỗi con người , lại được kết hợp và biến
hóa khôn lường , biến cái hữu hạn thành cái vô hạn của hình hài, khiến
từng cái khăn piêu hình như có khuôn mặt, cá tính riêng.
Piêu không chỉ đơn thuần là vật trang trí mà còn là biểu tượng tham gia
vào đời sống nghi thức, lễ tục.Trai, gái sau khi đính ước thường trao tặng
nhau piêu làm vật tin, khi cô dâu về nhà chồng phải dùng piêu làm quà
biếu .Trong nghi lễ cúng tổ tiên, vật dâng cũng không thể thiếu tấm khăn piêu...
Cùng với khăn piêu, các loại trâm cài tóc, phụ nữ Thái rất chăm chút nuôi
dưỡng mái tóc và các kiểu chải tóc.Các em gái gái từ 8-10 tuổi đã học
mẹ để tóc dài, thường ngày gội đầu bằng nước gạo nếp để chua, nước quả
mẹ đun sôi, làm cho tóc vừa sạch, mượt, óng. Hàng ngày phụ nữ có chỗ
chải tóc riêng ở phía sau nhà.Tóc chải bị rụng được nhặt trữ lại trong chiếc
sọt nhỏ treo sát vách , để tới khi cô gái đi lấy chồng, người mẹ chọn những
sợi tóc dài, đẹp, bện thành độn tóc cho cô dâu mới.
Trước khi lấy chồng người ta chải tóc ngược ra phía sau rồi cuộn thành
búi ở sau gáy.Cô gái đi lấy chồng phải trải qua nghi thức Tằng cẩu.Bà
mối đeo vòng,khuyên tai và chải tóc cho cô dâu rồi cuốn thành búi tròn ở
chính giữa đỉnh đầu.Trên búi tóc cài những trâm bạc, vừa giữ cho búi tóc
trắng, vừa để trang trí cho đẹp.Từ đó trở đi, người đàn bà có chồng luôn
phải cẩu tóc và đó là dấu hiệu phụ nữ có chồng.Ở người Thái Đen, đàn bà
góa bụa, tuy vẫn cẩu tóc, nhưng búi hơi lệch về một phía, vừa nhìn có thể nhận biết ngay. lOMoAR cPSD| 60857655
Đồ trang sức của phụ nữ Thái còn có các loại vòng, mà theo quan niệm
dân gian “không có lỗ tai thì không phải người Thái”, vòng cổ bằng đồng
hay bằng bạc, vòng tay(mask khen), dây xa tích cài ở thắt lưng có đeo
thêm vài chiếc chìa khóa, hộp đựng vôi ăn trầu.Khi đi chợ hay đi thăm
hỏi, hội hè, phụ nữ Thái thường đeo túi thổ cẩm, vừa là túi đựng những đồ
cần thiết, vừa là vật trang trí, làm đẹp, làm duyên của phụ nữ Thái.
Trong các nhóm địa phương của dân tộc Thái, phụ nữ người Thái Mường
Lay không đội piêu mà lại dùng nón.Đó là loại nón đan bằng tre, lợp lá có
nét gì tương tự như nón của người Kinh xưa.Nón không chỉ để đội
mưa,che nắng mà còn là vật bất ly thân của phụ nữ, chứa đựng nhiều sắc
thái tình cảm và văn hóa dân tộc.
3.3.2.2. Của nam giới:
So với nữ phục thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái
dân tộc người và cùng biến đổi nhanh hơn.Trang phục nam giới gồm:áo,
quần, thắt lưng và các loại khăn.
Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn ,tay dài hoặc ngắn và áo dài.Áo
ngắn may bằng vải chàm,kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn.Khuy
áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải, có hai túi phía vạt trước, có khi
có túi con ở phía trước ngực trái.Áo ngắn loại này hầu như không có trang
trí hoa văn,mà chỉ vào dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái
mặc tấm áo cánh ngắn mới,lấp ló đôi quả chì ở đầu đường xẻ tà hai bên
hông áo.Mak may quấn bằng chỉ màu xanh,đỏ,vàng xen kẽ nhau Vào
những dịp cưới xin,hội hè,nam giới còn mặc thêm chiếc áo dài,gọi là “xửa
vạt lắm” (áo vạt ngắn) may bằng vải chàm,kiểu áo năm thân,có thên trong
trắng cài cúc phía ngực trái,cổ đứng tròn,vạt dài tới quá gối.Khi mặc loại
áo này bao giờ cũng mặc kép,áo xẻ ngực màu trắng phía trong,áo dài chàm
bên ngoài,để lộ cổ áo trắng bên trong,tỏ vẻ sang trọng kiểu cách.
Nam giới Thái mặc quần.Loại quần ngắn(quần đùi) mặc lót trong hay mặc
trong nhà lúc đi ngủ.Xưa kia nam giới mặc quần dài màu chàm,dùng dây lOMoAR cPSD| 60857655
lưng thắt cạp quần cho chắc,hai ông quần có trang trí hoa văn.Nay phổ
biến mặc quần dài buộc dải rút.Loại quần chắp ống,may kiểu chân què của
người Kinh cũng được người Thái mặc.
Đàn ông Thái dùng hai loại thắt lưng vải và da trâu.Thắt lưng vải dùng
với loại quần không buộc dải rút,còn loại thắt lưng tự tạo bằng da trâu thì
xưa chỉ có phìa tạo,gia đình giàu có mới sử dụng.Kỹ thuật chế tạo khá
công phu: luộc da trâu nhiều giờ,phơi khô rồi dùng chày giã cho mềm.Cắt
da theo kích thước thích hợp,dùng chỉ sợi bông khâu mép viền xung
quanh,dùng dùi lỗ làm khóa dây lưng.
Nam giới Thái dùng 2 loại khăn:khăn pàu dài và khăn trọc ngắn hơn.Loại
khăn pàu dùng quấn lên đầu thay nón mũ khi đi xa hay dịp lễ tết,còn khăn
trọc dùng trong lúc lao động trên nương,dưới ruộng.Loại khăn thứ nhất
dùng quấn quanh đầu thành nhiều lớp.giống như khăn xếp của người
Kinh,còn loại sau thì quấn hình chữ “^” quanh đầu,vừa nhanh vừa tiện lợi.
Tuy ít,nhưng cũng có nam giới Thái bịt răng vàng,thường là nhà giàu.Còn
tục xăm mình thì khá phổ biến,vừa để cho đẹp vừa mang ý nghĩa phong
tục,là dấu hiệu trưởng thành của nam giới mà thiếu nó thì họ bị cộng đồng
khinh rẻ,là biểu tượng trở về với tổ tiên,có nó mới được tổ tiên thu
nhận.Khi đến tuổi trưởng thành,nam giới xăm hình chạc cây lên cánh tay
trái để khi chết,lên Mường trời nộp cho Then đoạn cây đó,nếu không phải
lấy cơ thể mình thay làm cột nhà trên Mường trời.
3.3.2.3. Của thầy cúng:
Trong các bản mường Thái có một số người hành nghề cúng, bói và cúng
giải các loại “phi”(ma) làm hại cho con người. Đó là các thày Mo, bà Một, các ông bà Then…
Thày mo hành lễ trong các dịp cúng Xên Mường, Xên Bản, mặc áo thụng
rộng, may kiểu chui đầu, màu vải đỏ, gấu áo phủ quá gối, có ghép những
mảnh vải hình tam giác, gần giống với áo xửa luổng của người Thái Đen, lOMoAR cPSD| 60857655
đâug đội mũ làm bằng vải khít có tua rủ xuống vai, có khi trên mũ có dán
thêm hình các con vật như bò, rắn, rết, sâu… Các cụ già kể lại rằng, xưa
các thủ lĩnh Thái đi chinh chiến cũng thường mặc loại áo thụng này.
Trong các nghi lễ cúng ma nhà Phi hươn, thày mo mặc áo dài màu đen
xửa vạt lẳn, quấn khăn dài thành nhiều lớp trên đầu. Các bà Một khi cúng
mặc áo dài xửa chải thắt lưng màu trắng có trang trí hình các con vật, đầu
đội khăn hình chóp, hai dải khăn để xõa phía sau lưng.
3.4. Ẩm thực:
Thức ăn chính của đồng bào là cơm nếp, nay là cơm tẻ. Ngoài cơm là rau và cá.
Đồng bào thích ăn cá, thịt trâu và ếch nhái. Nhiều côn trùng cũng được
ưa thích như ong non, trứng kiến, khi sinh đẻ phụ nữ được chăm sóc chu
đáo, thường được bồi dưỡng bằng các loại thịt đặc biệt là thịt gà. Đồng
bào ít ăn thức ăn luộc, thức ăn thường hay xào với mỡ hoặc rang muối.
Họ thích ăn chua, ăn sống hoặc ăn tái dưới nhiều loại gia vị có chất cay
chát. Mắm cá là món ăn nổi tiếng của người Thái, đặc biệt còn phải nói
đến món “nậm pịa” là nước sữa đắng ở ruột non trâu, bò, hươu nai. Nước
sữa đó hòa với tỏi, ớt, nước chua làm nước chấm. Tiếng dân tộc Thái gọi
là nậm pịa tiếng việt gọi là phèo trâu. Khi con trâu đã lột da xong mổ bụng
đồng thời người ta bắt phèo luôn, phèo được buộc túm chặt lại để khổi
phân già lẫn qua. Phèo trâu được thái thành miếng, cả nước lẫn cái được
cho vào xoong để nấu. Người ta lấy riềng, gừng, xả tỏi, ớt, mắc khén giã
nhỏ cho vào thêm một ít lá chanh thái nhỏ. Món này thực chất là một loại
nước chấm các loại như gan,lá lách...Thịt luộc đem chấm nậm pịa ăn ngon
lạ thường.Trong tất cả các món ăn chế biến từ con vật bốn chân ăn cỏ nói
chung và con trâu nói riêng,đối với người miền núi không thể thiếu được
món nậm pịa.Ngày xưa mổ trâu bò có thể thiếu một thứ gì đó,nhưng nhất
thiết không thể thiếu nậm pịa.Chia cho mỗi nhà trong bản.