



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60857655 MỤC LỤC 1) KHÁI QUÁT CHUNG 1.1: Tộc Danh 01 1.2: Dân Số 01 1.3:Địa Bàn 01
1.4: Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển 02
1.5: Môi Trường Sinh Sống 03
2) VĂN HÓA MƯU SINH 2.1: Nông Nghiệp 04
2.1.1: Nghề trồng lúa nước 04 2.1.2: Nương rẫy 07 2.2: Chăn Nuôi 08
2.3: Nghề Thủ Công 09
2.4: Săn Bắn Hái Lượm 11
2.5: Trao Đổi Và Buôn Bán 13
3) VĂN HÓA VẬT THỂ
3.1: Nhà ở Và Kiến Trúc 14 3.2: Trang Phục 18
3.2.1: Trang phục phụ nữ Mường 19
3.2.2: Trang phục nam giới Mường 23
3.2.3: Trang phục thầy mo 23
3.2.4: Trang phụ nàng dâu trong tang ma 28
3.2.5: Trang phục của nam giới trong tang ma 39 3.3: Ẩm Thực 30
3.3.1: Món ăn phong vị Mường 30 3.3.2: Rượu cần 37
3.4: Phương Tiện Vận Chuyển 39
4) VĂN HÓA PHI VẬT THỂ 4.1: Ngôn Ngữ 41 lOMoAR cPSD| 60857655 4.1.1: Tiếng nói 41 4.1.2: Chữ viết 41 4.1.3: Tôn giáo 41 4.1.4: Tín ngưỡng 41 4.2: Lễ Hội 44 4.2.1: Hát sắc bùa 44 4.2.2: Pồn pôông 46 4.2.3: Đâm đuống 49
4.2.4: Tết của người Mường 52
4.3: Văn Học Dân Gian 58
4.4: Văn Nghệ Dân Gian 61 4.4.1: Sáo ôi 61 4.4.2: Cò ke 62 4.4.3: Cồng chiêng 63
5) VĂN HÓA TỔ CHỨC XÃ HỘI
5.1: Cơ Cấu Tổ Chức Làng, Bản Buôn 65
5.2: Cơ Cấu Tổ Chức Dòng Họ 68
5.3: Tổ Chức Gia Đình 69
6) PHONG TỤC TẬP QUÁN 6.1: Cưới Xin 70 6.2: Tang Ma 76
7) XU THẾ BIẾN ĐỔI
7.1: Văn Hóa Mưu Sinh 84
7.2: Văn Hóa Vật Thể 84 7.2.1: Ẩm Thực 84
7.2.2: Trang Phục Và Nghề Dệt Cổ Truyền 86
7.2.3: Nhà sàn người Mường 88
7.3: Văn Hóa Phi Vật Thể 89 7.3.1: Ngôn ngữ 89 lOMoAR cPSD| 60857655
7.3.2: Tín Ngưỡng tôn giáo 89
7.4: Văn Hóa Xã Hội 90
7.5: Phong Tục Tập Quán 91 7.6 : Kết 93 lOMoAR cPSD| 60857655 NGƯỜI MƯỜNG 1) KHÁI QUÁT CHUNG 1.1: Tộc Danh
Tên gọi các nhóm thuộc dân tộc Mường: Mol, Mual, Mọi, Mọi bi, Ạo tá
(Ạu tá). Người Mường tự gọi mình là Mol. Có người cho rằng mol có nghĩa là
người; còn từ Mường là để chỉ một dân tộc cụ thể có lẽ xuất hiện tương đối muộn.
Ạo tá (Ạu tá) có thể là tên liên quan đến một tầng lớp người chuyên giúp việc cho Lang Đạo.
Thuật ngữ Mường hiện nay có một số ý kiến khác nhau. Có người cho rằng,
thuật ngữ Mường vốn là ngôn ngữ Thái, để chỉ một đơn vị cư trú, một đơn vị xã
hội cổ truyền, một vùng đất. Thuật ngữ Mường gắn với tên dân tộc là để chỉ người
sinh sống ở đơn vị cư trú, ở đơn vị xã hội, ở vùng đất đó. Sau này, dần dần thuật
ngữ Mường mới gắn với một dân tộc cụ thể, trở thành tên gọi một dân tộc – dân tộc Mường. . 1.2: Dân Số
Năm 2019 , theo kết quả tổng điều tra dân số thì số người Mường là
1.434.628 người. Theo kết quả của cuộc Tổng điều tra Dân số và nhà ở được
công bố vào ngày 1/4/2019, người Mường có dân số là 1.452.095 người, chiếm
1,5093% dân số cả nước. 1.3: Địa Bàn
Dân tộc Mường cư trú chủ yếu ở tỉnh Hòa Bình và các tỉnh miền núi lân
cận: Phú Thọ, Sơn La, Thanh Hóa, Ninh Bình. Theo nhiều nhà nghiên cứu dân tộc
học, người Mường là một trong những cư dân bản địa ở Việt Nam. Vùng cư trú
ban đầu của người Mường được xác định từ lâu đời là Mường Bi, Mường Vang,
Mường Thàng, Mường Động. Các vùng này hiện nay được xác định là thuộc tỉnh
Hòa Bình, với cái tên mới gắn với tên các huyện là: huyện Tân Lạc (Mường Bi), lOMoAR cPSD| 60857655
huyện Lạc Sơn (Mường Vang), huyện Kỳ Sơn (Mường Thàng), huyện Kim Bôi
(Mường Động). Nhìn từ góc độ tiếng Mường thì có tác giả cho rằng không thể
giải thích được ý nghĩa của các thuật ngữ Bi, Vang, Thàng, Động, nhưng những
thuật ngữ này lại có thể giải thích được bằng ngôn ngữ dân tộc Thái. Theo tiếng
Thái, Mường là một vùng đất, còn các thuật ngữ Bi, có nghĩa là bậc anh chị, Vang
có nghĩa là vắng vẻ, Thàng có nghĩa là đường đi, Động có nghĩa là rừng. Từ đó
các thuật ngữ Mường Bi là mường bậc anh chị, nay là huyện Tân Lạc; Mường
Vang là mường vắng vẻ, nay thuộc huyện Lạc Sơn; Mường Thàng là mường có
đường đi, thuộc huyện Kỳ Sơn; còn Mường Động là Mường có rừng rậm, nay là huyện Kim Bôi.
Địa bàn sinh sống chủ yếu của người Mường.
1. 4: Lịch Sử Hình Thành Và Phát triển
Tuy vấn đề nguồn gốc người Việt - Mường hiện nay còn đang tiếp tục
nghiên cứu, song hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, họ là những cư dân
bản địa. Ý kiến được nhiều người tán đồng cho tổ tiên người Việt - Mường là lOMoAR cPSD| 60857655
người Lạc - Việt, một chủ nhân của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng hay nói rộng hơn
là nền văn minh Sông Hồng. Do đó, có cơ sở để cho rằng, vào thời các Vua Hùng
(hoặc trong thời đại đồng thau) và cả giai đoạn tiếp theo, Việt - Mường còn là một
khối thống nhất. Vào các thời kỳ sau, do những nguyên nhân và điều kiện lịch sử
nhất định, sự phân hóa đã này sinh, khối cộng đồng Lạc - Việt đã dần phân ly
thành hai. Quá trình phân hóa đó diễn ra một cách lâu dài, chậm chạp, không đồng
đều và chủ yếu là trong thời Bắc thuộc. Từ sau thế kỷ X, XI, Việt và Mường đã
bắt đầu trở thành hai tộc người, nhưng vẫn có sự giao lưu về kinh tế và văn hóa.
Và sự phân tách thành hai dân tộc riêng biệt giữa người Kinh và người
Mường được cho là kết thúc vào giai đoạn kháng chiến chống quân Nguyên Mông
thời nhà Trần. Các chính sách tiêu thổ kháng chiến của triều đình vô tình đã khiến
cho các cộng đồng Mường dần tụ cư thành một số cộng đồng vững chắc, biệt lập
hoàn toàn trên nhiều khía cạnh văn hóa – xã hội tại các tỉnh có tính chất sơn địa
hiểm trở Hòa Bình, Sơn La, Phú Thọ…
1.5: Môi Trường Sinh Sống
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi
đất thoải gần sông suối... Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của
mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn,
kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm,
để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác. lOMoAR cPSD| 60857655
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi,
nơi đất thoải gần sông suối...
2) VĂN HOÁ MƯU SINH 2.1 : Nông Nghiệp
2.1.1: Nghề nông trồng lúa nước
Người Mường sinh sống bằng nghề làm ruộng, cây trồng chính là cây lúa.
Đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ. Do sinh sống ở trên núi, để làm lúa nước,
đồng bào phải khai thác các triền đất dốc, các sườn đồi thành ruộng bậc thang.
Người Mường làm ruộng bậc thang với với kỹ thuật cao, gồm các khâu: cầy, bừa,
gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, bón phân cho cây lúa. Đồng bào không chỉ tận dụng các
dòng chảy của sông suối, để đưa nước vào ruộng mà còn làm cọn nước để đưa
nước lên cao, khai mương máng cho dòng chảy vào ruộng cao hơn mực nước
sông, suối, mà dòng chảy tự nhiên không thể chảy vào được. Tuy nhiên, có nơi do
loại đất, đồng bào chỉ dùng trâu giẫm cho nát cỏ, nhuyễn đất, rồi cấy luôn. Sau
cấy độ một tháng, đồng bào làm cỏ cho cây lúa một lần. Công cụ làm đất phổ biến
là chiếc cày chìa vôi, chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc bằng tre. Lúa chín
dùng hái gặt lúa bó thành cụm gùi về nhà phơi khô rồi để trên gác, khi cần dùng,
lấy từng cụm bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. lOMoAR cPSD| 60857655
Người Mường có hai vụ mùa chính như người kinh là vụ đông xuân (từ tháng
giêng đến tháng 5) và vụ hè thu (từ tháng 5 đến tháng 8), nhưng sau đồng bào đã
tận dụng thời gian giữa hai vụ xuân của đất ruộng để trồng thêm vụ màu. Cùng
với sự cần cù và sáng tạo trong lao động và ứng dụng khoa học, kĩ thuật, đưa giống
mới vào đồng ruộng, ở nhiều nơi đã chuyển từ hai vụ sang ba vụ trong một năm.
Người Mường cũng có nhiều bộ lịch như: “lịch Đá rò (lịch Rùa), lịch cơm mới,
lịch Khao roi (hay còn gọi là lịch Sao roi), lịch Con rác (lịch Con nước). Mỗi bộ
lịch căn cứ vào hiện tượng tự nhiên mà hình thành cách tính. Lịch Khao roi dựa
vào sự dịch chuyển của sao Roi (sao Tua Rua/sao Khuê) trong tháng. Lịch Đá rò
căn cứ vào mùa và thời tiết. Lịch Con rác dựa vào con nước lên, xuống theo các
tháng trong năm. Lịch của người Mường, đặc biệt là Lịch Sao Roi của được ghi
trên thẻ tre là một di sản quý trong kho tàng di sản văn hóa của đất nước.”
Lịch Đoi truyền thống của người Mường còn lưu dấu vết rõ ràng vào âm
lịch Việt Nam. Có lẽ vì vậy mà trong tục ngữ của người Mường có câu: Ngày lui
tháng tới để chỉ sự chênh lệch này trong cách tính thời gian. Một chạp, Giêng hai
được hiểu tháng Một theo Âm lịch là tháng 11 của người Mường; tháng Giêng
trong Âm lịch là tháng 12. Năm mới của người Mường bắt đầu từ tháng 11 là thời
điểm kết thúc vụ Mùa, được gọi là Tết lúa mới. lOMoAR cPSD| 60857655
Lịch đoi có ý nghĩa rất quan trọng đối với văn hóa Mường, thể hiện tài chiêm tinh
của người Mường cổ thông qua việc quan sát trăng sao để dự báo thời tiết. Và đến
nay người Mường vẫn tin tưởng vào những chỉ dẫn của lịch đoi mà họ coi đó là
bảo bối của dân tộc Mường.Trong các vùng đất có người dân tộc Mường sinh
sống, bộ lịch Mường vẫn được sử dụng như một nhu cầu thiết yếu trong cuộc
sống. Tuy nhiên, chỉ còn một số ít người trong cộng đồng còn thông thạo cách tính
lịch này, chủ yếu họ là các thầy Mo, thầy Trượng. Hiện vẫn chưa có một công
trình khoa học nào được công bố để lưu giữ và truyền bá vốn tri thức này. Bộ lịch
thẻ tre của người Mường có thể sẽ còn được lưu giữ ở đâu đó trong các bảo tàng
hay bộ sưu tập tư nhân nhưng cách tính lịch của người Mường thì đang đứng trước
nguy cơ thất truyền, rơi vào quên lãng.
Lịch đoi của người Mường.
Như lịch 10 tháng (lịch cơm mới)mà trong sử thi Đẻ đất đẻ nước nói, thời
xa xưa ấy con người chưa biết phân biệt đêm ngày, chỉ nghe tiếng ve kêu để biết
tối sáng mà thôi, bởi vậy họ phải đặt năm, đặt tháng và ngày: lOMoAR cPSD| 60857655
Một năm là bảy tháng ấm
Một năm là mười tháng
Một tháng là hai mươi ngày
Lúc này họ chỉ đặt lịch theo thời gian mùa vụ, làm ăn theo mười tháng, một tháng
20 ngày, để đoán biết thời tiết mà ta gọi là lịch Cơm mới. Đặc biệt người xưa đoán
định thời tiết, mùa vụ bằng việc quan sát đêm 30 tết (tháng Chạp). Nếu năm đó
sáng trên, năm đó được mùa bông; lúa, sáng mặt đất năm đó được mùa khoai, sắn,
sáng lưng chừng được mùa ngô. Còn trời tối đen như mực cả trên, giữa, dưới thì
năm đó mất mùa. Ngược lại trời sáng cả năm đó được mùa. Họ cũng theo dõi đêm
đó các con vật trong nhà, con gì thức trước để biết tốt xấu. Nếu chó sủa, năm đó
lắm trộm cắp ở cả đồng lẫn ở nhà; con mèo đêm đó kêu nghêu ngao thì năm đó
nhiều thú dữ; trâu bò dậy trước thì năm đó được mùa, làm ăn tấn tới; lợn thức
trước thì năm đó ghẻ lở. Họ ăn tết theo lịch 10 tháng một năm mà ngày nay ta còn
thấy lễ ăn mừng cơm mới là dấu ấn... 2.1.2 : Nương rẫy
Người Mường còn đốt nương làm rẫy với hình thức lao động lạc hậu kiểu
chọc lỗ tra hạt. Người Mường có kinh nghiệm quý trong việc chọn đất làm rẫy.
Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc dày, trồng mùn màu mỡ hay những
mảng đất đen đen đồi núi. Khi chọn đất, người Mường sẽ chặt một cây gỗ hoặc
cây nứa vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được sâu thì chứng tỏ tầng mùn dày.
Một kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì, nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo,
bóng như pha mỡ là đất tốt. Sau khi chọn được đất tốt thì người Mường tiến hành
khoanh vùng giới hạn tránh để người khác lấy mất đất. Người Mường đốt rừng để
lấy mùn và tiện lợi cho việc dọn nương. Người Mường ở Thanh Sơn không cày
cuốc mà bằng cách lấy một đoạn cây to bằng cổ tay vót nhọn một đầu dùng để tra
hạt. Gieo giống xong, họ chặt ngọn nứa, cành cây nhỏ để quét lớp mùn bề mặt đất lOMoAR cPSD| 60857655
lấp các hố lại. Sau đó là các công việc khác như làm cỏ, trông nom không cho
chim thú phá hoại. Trong quá trình làm nương, người Mường Thanh Sơn tương
đặc biệt có ý thức hạn chế hỏa hoạn cháy rừng tràn lan. Điều này bắt đầu từ quan
niệm truyền thống “vạn vật hữu linh” của người Mường. Họ cho rằng rừng núi
cây cối, dòng sông, suối ... đều có linh hồn do thần linh hoặc ma quỷ cai quản.
Cho nên họ tránh làm nương rẫy trên các vạt rừng, cây cổ thụ coi là linh thiêng -
nơi ngự trị của thần rừng, thần cây, mặc cho đất đai có tơi xốp đến đâu.
Nếu ruộng chuyên dùng trồng lúa nước thì nương lại chuyên trông ngô,
khoai, sắn. Các loại cây trông này được đồng bào sử dụng làm thức ăn chăn nuôi
lợn, gà, vịt là chính, nhưng cũng có thể được sử dụng như nguồn lương thực dự
phòng khi mùa màng thất bát, cây lúa nước bị thất thu khi hạn hán.
Ngoài cây lương thực, đồng bào Mường ở tỉnh Thanh Hóa còn trồng một
số cây khác có giá trị kinh tế như: cây luồng, cây trẩu, cây sở, cây dâu, cây bông
nuôi tằm, cây lấy cánh kiến. Một số nơi còn trồng rau xanh, trồng cây ăn quả,
nhưng chưa nhiều, chưa thành tập quán phổ biến trong các gia đình. 2.2: Chăn Nuôi
Đồng bào mường chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò theo phương thức: ban
ngày thả trâu, bò vào rừng tự kiếm cỏ ăn, chiều tối lùa trâu, bò về chuồng. Trâu,
bò được nuôi làm sức kéo: cày ruộng nương, kéo xe, kéo gỗ... nhưng đồng thời
,trâu, bò cho nguồn phân chuồng để bón cho ruộng, nương và các loại cây trồng
khác. Nuôi trâu, bò còn có mục đích sử dụng vào việc ăn thịt trong các dịp cưới
xin, ma chay, lễ, tết, và bán cho đồng bào miền xuôi. Chăn nuôi trâu, bò được thực
hiện trong từng gia đình. Mỗi gia đình thường nuôi dăm bảy con đại gia súc. Tiểu
gia súc cũng được nuôi nhiều trong các gia đình đồng bào Mường. Đó là lợn, chó,
mèo. Chó, mèo dùng để giữ nhà, còn lợn chủ yếu để ăn thịt và làm vật hiến cho
các nghi lễ cúng bái cưới xin tang ma và cũng để bán. lOMoAR cPSD| 60857655
Gia cầm được nuôi phổ biến là gà vịt. Cách nuôi cũng chủ yếu là chăn thả
ra vườn, ra đồi núi để tự kiếm ăn ban ngày, chiều tối gọi về cho ăn một bữa rồi
chúng tự vào chuồng ngủ đêm.
Trong môi trường vùng núi, một số gia đình nuôi ong lấy mật và sáp. Mật
ong dùng để ăn và bán hoặc làm vật trao đổi hàng .
Ở một số nơi người dân nuôi tằm lấy tơ dệt lụa.
Do địa bàn cư trú bán trung du và miền núi nên ao hồ nơi người người
Mường ở ít xuất hiện. Họ chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, tôm tự nhiên ở sông, suối
và các chi lưu của nó. Công cụ đánh bắt chủ yếu là lưới, đó, đăng, chũm.
Công cụ đánh bắt cá chủ yếu của người Mường.
2.3: Thủ Công
chủ yếu để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày
Tuy chưa tách khỏi nông nghiệp, nhưng sản phẩm thủ công nghiệp ngoài
phần còn có một phần dùng làm vật trao đổi. Những nghề thủ công thường gặp lOMoAR cPSD| 60857655
là dệt: vải, mặt chăn, cạp váy hoa; nhuộm vải, đan lát, nuôi tằm ươm tơ. Kéo sợi,
dệt vải là công việc của phụ nữ, nhà nào cũng có khung cửi dệt vải sợi to, khổ hẹp.
Số vải dệt được, chủ yếu dùng trong gia đình, váy áo của phụ nữ thường may bằng
vải tự dệt lấy. Trước khi cắt may, vải thường được nhuộm chàm, nhuộm đen hoặc
nhuộm nâu. Cạp váy hoa dệt khá công phu, mất nhiều thì giờ và đòi hỏi phải có
một kĩ thuật nhất định. Những cạp váy đẹp, dệt bằng tơ nhuộm màu, trên mặt vải
có nhiều hoa văn hình rồng, hình phượng, hình các loại thú như hươu, rùa, chim
và các loại hoa văn hình học. Họa tiết càng phức tạp, dệt càng khó, dệt cạp váy
hoa hầu như chỉ thấy ở người Mường. Nghề dệt thổ cẩm của người Mường rất độc
đáo, với kĩ thuật dệt chiếc thắt lưng.
Vùng người Mường sinh sống sẵn các sản vật: tre, luồng, song, mây. Đàn lOMoAR cPSD| 60857655
ông Mường sử dụng các sản vật đó để
đan những đồ gia dụng như thúng,
mủng, dần, sàng, nong nia ; đan các
công cụ dùng đánh bắt cá như : đơm,
đó, giỏ ; dùng dây gai, dây đay để đan chìa, lưới đánh cá.
Một số sản phẩm đan lát của người Mường lOMoAR cPSD| 60857655
Người Mường cũng như các dân tộc khác, tự làm lấy nhà để ở. Kĩ thuật làm
nhà của người Mường đã đạt đỉnh cao của kĩ thuật đục, bào, ghép mộng. Tuy nhiên
ở nhiều nơi kĩ thuật dựng nhà vẫn chưa
vượt qua kĩ thuật thô sơ ban đầu, tức là
dùng ngoãm để đặt xà ngang, quá
giang, cột nhà chôn thẳng xuống đất.
Song, một số nghề thủ công quan
trọng như nghề gốm, đúc kim loại, rèn
hầu như không có. Những sản phẩm bằng gốm bằng kim khí đều phải mua hoặc trao đổi.
2.4: Săn Bắn Và Hái Lượm
Săn bắn là một hoạt động thường gặp trong đời sống của người Mường,
nhưng không phải là nguồn sống quan trọng. Săn bắn còn kết hợp với sản xuất để
chống thú rừng, bảo vệ mùa màng. Nó không những là một nguồn lợi, nguồn cung
cấp thức ăn mà còn là một thú vui. Trong làng xóm, chưa có những người chuyên
sống về săn bắn, nhưng người đàn ông nào cũng biết đi săn và gia đình nào cũng
có nỏ và súng. Người Mường có nhiều kinh nghiệm làm nỏ và tên thuốc độc. Với
tên thuốc độc, người ta có thể bắn chết những thú lớn trong rừng. Súng có 2 loại
chủ yếu là súng kíp và hỏa mai, n
hưng súng kíp được ưa dùng hơn. Trước đây,
nhiều vùng có những buổi đi săn tập thể. Cùng với việc săn bắn, đồng bào còn
dùng các loại bẫy dùng để đánh
cầy, cáo, chim, chuột,… Có nhiều loại bẫy bẫy sập lOMoAR cPSD| 60857655
khác nhau, nhưng phố biến là loại .
Vũ khí săn bắn của người Mường
Đánh cá cũng là một nghề phụ trong gia đình, tương đối phát triển ở những
khu vực vên các con sông và suối lớn. Ở vùng thấp, xung quanh làng xóm, phần
lớn đều có ao, đầm, sông, suối nên dễ kiếm cá hơn. Hầu như nam giới người nào
cũng biết đánh cá, biết đan chài, lưới và gia đình nào cũng có đồ đánh cá các công
cụ đánh cá khá đa dạng, ngoài những thứ như chài, lưới, vó có nhiều loại khác
như đơm, đó, đăng,… Vào những ngày cuối năm, để chuẩn bị cho thức ăn ngày
tết, người ta hay đi đánh cá. Dịp này cá kiếm được tương đối nhiều. Một số nơi
còn lấy một số loại lá hoặc rễ cây đem giã ra rồi thả xuống nước. Đánh cá kiểu
này tuy kiếm được nhiều, nhưng cá chết hàng loạt, ảnh hưởng không tốt đến nguồn lOMoAR cPSD| 60857655
cá sau này. Ngoài ra còn bắt tkôm tép, cua ốc ở khe suối, ở ruộng hoặc bắt một số loại côn trùng.
Lễ hội đánh cá của người Mường Hòa Bình
(Lỗ Sơn, Tân Lạc, Hòa Bình)
Hái lượm là nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày như lấy các loại rau rừng,
măng, một số hoa quả. Lúc đói kém người ta vào rừng lấy các loại củ: củ mài,
môn, nâu, vớn hay bột báng để ăn thay cơm. Đồng bào còn thu nhặt các loại lâm
sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, các loại hạt có dầu, quế, mật
ong, ... Những thứ đó một phần để dùng, nhưng chủ yếu để bán hoặc làm vật trao
đổi. Những nơi thuận tiện giao thông, đồng bào còn khai thác gỗ, bương, tre, nứa,
mây song, … Đó cũng là một nguồn thu nhập đáng kể. Còn những vùng giao
thông khó khăn, không có phương tiện chuyên trở, người ta chỉ lấy lâm sản để làm
nhà cửa và làm các dụng cụ gia đình.
2.5: Trao Đổi Và Mua Bán
Tuy nền kinh tế tự túc, tự cấp là chính, nhưng bước đầu có một số hoạt động
mua bán ở trong vùng người Mường. Đó là sự hình thành các chợ nông thôn.
Trong các chợ này, đồng bào Mường bán các loại hàng nông sản như: trâu, bò,
lợn, gà, vịt, ngô, khoai, sắn, thổ cẩm; bán các lâm sản như măng khô, mật ong,
nấm hương, mộc nhĩ, quế; mua các loại hàng nhu yếu phẩm như muối, dầu thắp, lOMoAR cPSD| 60857655
kim khâu, sách vở, giấy bút mực cho trẻ em đi học; mua các loại công cụ sản xuất
như: lưỡi cuốc, lưỡi cày, thuổng, xẻng, dao, búa…
Ngoài ra, nhờ có vị trí thuận lợi là nằm xem kẽ giữa vùng của người Thái
và người Kinh vốn là những dân tộc phát triển thủ công nghiệp rất mạnh, đồng
bào có thể tận dụng những sản phẩm của mình để đổi lấy những mặt hàng thủ
công mà đồng bào không biết làm như: Kim khí, gốm sứ… lOMoAR cPSD| 60857655
3) VĂN HOÁ VẬT THỂ
3.1: Kiến Trúc Và Nhà ở
Người Mường rất thận trọng trong việc chọn hướng nhà để đem lại tài lộc
may mắn cho gia đình mình. Nhưng mặt nhà bao giờ cũng không được ngược với
hướng của đồi núi. Nhà sàn luôn dựa lưng vào thế đất cao như sườn đồi sườn núi
để đón nhận tiết trời trong lành và tiện cho sinh hoạt. Trong tín ngưỡng, người
Mường coi con rùa là vật linh thiêng biểu tượng cho sự sống lâu, trường cửu. Do
vậy nhà của người Mường mô phỏng theo hình dáng của con rùa với bốn chân là
bốn cái cột nhà, mai rùa là bốn mái nhà.
Việc dựng nhà sàn của người Mường là kết quả của một quá trình dài đúc
rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng họ là "Te tấc te đác"
(đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn
người Mường. Mo rằng: Khi người Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống
trong các hang núi, hốc cây, họ phải đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một
hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun Cần) bắt được một con rùa đen trong rừng
đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha chết và hứa nếu được thả thì
rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở, làm kho để lúa, để thịt:
Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui Nhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
Muốn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèo