



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60857655
VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
Người Mường – phong tục tập quán I. KHÁI QUÁT CHUNG 1. Tên dân tộc
Trước đây, người Mường tự gọi mình là Mol, Mual, Mọi, Mọi bí, Ạo tá (Ạu tá). Có người
cho rằng, Mol có nghĩa là người. Ạo tá có thể là tên liên quan đến một tầng lớp người chuyên giúp việc cho Lang Đạo.
Thuật nữ Mường hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng, Mường vốn là
ngôn ngữ Thái, để chỉ một đơn vị cư trú, một đơn vị xã hội cổ truyền, một vùng đất. Mường gắn
với tên dân tộc là để chỉ người sinh sống ở đơn vị cư trú, đơn vị xã hội, vùng đất đó. Sau này, dần
dần Mường trở thành tên gọi chính thức của một dân tộc. 2. Dân số
Theo số liệu ‘Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 Dân tộc thiểu số năm 2019’, dân tộc
Mường có tổng dân số là 1.452.095 người, chiếm 1,5093% dân số cả nước tập trung đông nhất ở
tỉnh Hòa Bình chiếm 37,81% và các tỉnh lân cận là Thanh Hóa 25,92%, Phú Thọ 15,04%, Sơn La
5,83%, Hà Nội 4,29%. Các vùng còn lại chiếm 11,11%. 3. Phân bố
Theo nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học, người Mường là một trong những cư dân bản địa ở
Việt Nam. Vùng cư trú ban đầu của họ được xác định là Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng,
Mường Động. Các vùng này được xác định thuộc tỉnh Hòa Bình hiện nay, với những tên mới được
gắn liền với các huyện: Tân Lạc (Mường Bi), Lạc Sơn (Mường Vang), Kỳ Sơn (Mường Thàng),
Kim Bôi (Mường Động). Theo ngôn ngữ dân tộc Thái thì Bi có nghĩa là bậc anh chị, Vang có nghĩa
là vắng vẻ, Thàng là đường đi, Động là rừng.
4. Lịch sử hình thành và phát triển
Căn cứ vào các tài liệu khoa học khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: người Việt và
người Mường có chung nguồn gốc. Bởi về ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Mường có một gốc chung,
các mặt ngữ pháp, ngữ âm và từ vựng cơ bản có quan hệ khá gần gũi. Về nhân chủng, hai nhóm
Mường – Việt có chung những đặc điểm trong nhóm Nam Á thuộc tiểu chủng Mongoloid phương
Nam. Trong phong tục tập quán, người Mường và người Việt cũng có nhiều nét giống nhau. Ngoài
ra, về các mặt tôn giáo, tín ngưỡng, văn học dân gian, người ta cũng thấy nhiều nét tương đồng giữa hai dân tộc này.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng người Việt – Mường là những cư dân bản địa, tổ
tiên của họ là người Lạc – Việt, một chủ nhân của văn hóa Đông Sơn hay nói rộng hơn là nền văn
minh Sông Hồng. Vì thế có cơ sở để cho rằng, vào thời các vua Hùng (hoặc trong thời đại đồng
thau) và cả giai đoạn tiếp theo, Việt – Mường là một khối thống nhất.
Vào các thời kì sau, do điều kiện lịch sử và các nguyên nhân khác đã làm nảy sinh sự phân
hóa, khối cộng đồng Lạc – Việt đã dần phân ly thành hai. Quá trình ấy diễn ra lâu dài, chậm chạp, lOMoAR cPSD| 60857655
không đồng đều và chủ yếu trong thời Bắc thuộc. Đến sau thế kỷ X – XI, Việt và Mường đã trở
thành hai tộc người riêng biệt, các cộng đồng Mường dần tụ cư thành một số cộng đồng vững chắc,
biệt lập hoàn toàn trên nhiều khía cạnh văn hóa – xã hội tại các tỉnh có tính chất sơn địa hiểm trở
Hòa Bình, Sơn La, Phú Thọ…
II. VĂN HÓA MƯU SINH
1. Săn bắn, hái lượm
Trong cuộc sống hàng ngày hoạt động săn bắt của người Mường được diễn ra thường xuyên,
nhưng được diễn ra nhiều nhất là vào các mùa nông nhàn. Săn bắt không chỉ mang lại nguồn thức
ăn đáng kể mà còn có tác dụng bảo vệ mùa màng.
Từ lâu săn bắt đã trở thành thú vui của đàn ông trong làng, bởi vậy nên hầu gia đình nào cũng
có các vũ khí săn bắt như nỏ và các công cụ săn bắt khác như các loại bẫy Gia đình nào khá giả thì
có cả Súng. Đàn ông người Mường rất giàu kinh nghiệm làm Nỏ, với các loại mũi tên bằng tre,
nứa, bương, luồng( hóp) để bắn chim và các loại thú nhỏ như chuột, sóc…Còn mũi tên tẩm thuốc
độc thì dùng để bắt thú lớn. Loại súng săn phổ biến của người Mường là súng Hỏa mai, súng
kíp...nhưng súng kíp được ưa dùng hơn. Trước đây, nhiều vùng có những buổi đi săn tập thể. Cùng
với việc săn bắn, đồng bào còn dùng các loại bẫy dùng để đánh cầy, cáo, chim, chuột,…phổ biến là loại bẫy sập.
Đánh cá là nghề phụ, ở vùng thấp, xung quanh làng xóm, phần lớn đều có ao, đầm, sông, suối
nên dễ kiếm cá hơn. Hầu như nam giới người nào cũng biết đánh cá, biết đan chài, lưới và gia đình
nào cũng có đồ đánh cá các công cụ đánh cá khá đa dạng, ngoài những thứ như chài, lưới, vó có
nhiều loại khác như đơm, đó, đăng… Ngoài ra còn bắt tôm tép, cua ốc ở khe suối, ở ruộng hoặc
bắt một số loại côn trùng.
Hái lượm là nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày như lấy các loại rau rừng, măng, một số hoa
quả. Lúc đói kém người ta vào rừng lấy các loại củ: củ mài, môn, nâu, vớn hay bột báng để ăn thay
cơm. Đồng bào còn thu nhặt các loại lâm sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, các
loại hạt có dầu, quế, mật ong, ...Những nơi thuận tiện giao thông, đồng bào còn khai thác gỗ, bương,
tre, nứa, mây song, … đó cũng giúp cho người dân Mường có thu nhập đáng kể. Còn những nơi
đường xá không thuận lợi họ sẽ dùng lâm sản để làm vật dụng cho gia đình. 2. Nông nghiệp
2.1. Trồng trọt
a) Trồng lúa nước
Người Mường ở nước ta cư trú trên một vùng đồi núi khá rộng, trong các thung lũng chân
núi, có địa lý môi sinh thuận lợi cho trồng trọt. Họ là những cư dân làm lúa nước và nương rẫy.
Cây lương thực chủ yếu là lúa, ngô, sắn...; cây công nghiệp như :cây luồng, trẩu, sở , đay...Do sinh
sống ở trên núi, để làm lúa nước, đồng bào phải khai thác các triền đất dốc, các sườn đồi thành
ruộng bậc thang. Người Mường làm ruộng bậc thang với với kỹ thuật cao, gồm các khâu: cầy, bừa,
gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, bón phân cho cây lúa. Họ tận dụng các dòng chảy của sông suối, để đưa lOMoAR cPSD| 60857655
nước vào ruộng mà còn làm "cọn" nước để đưa nước lên cao. Tuy nhiên có nơi đất chỉ cần dùng
trâu dẫm cho nát cỏ , nhuyễn đất là có thể cấy được luôn. Từ xa xưa người Mường sử dụng công
cụ lao động thô sơ với chiếc cày "chìa vôi", hay "bừa đơn" không có khả năng cày sâu thường được
làm bằng gỗ hoặc tre. Cũng giống như người Kinh người Mường có hai vụ mùa chính là vụ đông
xuân (từ tháng giêng đến tháng 5) và vụ hè thu (từ tháng 5 đến tháng 8), nhưng sau này đồng bào
nơi đây đã tận dụng thời gian giữa hai vụ xuân của đất ruộng để trồng thêm vụ màu. Cho đến nay,
cùng với sự phát triển của khoa học , kĩ thuật đã đưa nhiều loại giống mới vào ruộng, chuyển vùng
nơi đây từ 2 mùa vụ sang 3 mùa vụ.
b) Nương rẫy
Người Mường còn đốt nương làm rẫy với hình thức lao động lạc hậu kiểu chọc lỗ tra hạt. Họ
có kinh nghiệm trong việc chọn đất làm rẫy. Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc dày,
trồng mùn màu mỡ hay những mảng đất đen đen đồi núi. Khi chọn đất, người Mường sẽ chặt một
cây gỗ hoặc cây nứa vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được sâu thì chứng tỏ tầng mùn dày. Một
kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì, nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng như pha mỡ là
đất tốt. Sau khi chọn được đất tốt thì người Mường tiến hành khoanh vùng giới hạn tránh để người
khác lấy mất đất. Người Mường đốt rừng để lấy mùn và tiện lợi cho việc dọn nương. Họ vót nhọn
đoạn cây to cắm xuống đất để tra hạt sau đó dùng cành nứa nhỏ để lấp đất trên bề mặt. Từ xa xưa
đã có quan niệm truyền thống “vạn vật hữu linh” của người Mường. Họ cho rằng rừng núi cây cối,
dòng sông, suối ... đều có linh hồn do thần linh hoặc ma quỷ cai quản nên họ rất có ý thức hạn chế
hoả hoạn. Với những cây cổ thụ lớn được coi là linh thiêng, là nơi cư ngụ của thần rừng nên họ rất
coi trọng vùng đất này tránh làm nương ở đây cho dù đất có tơi xốp đến đâu.
Ruộng là nơi trồng lúa nước thì nương rẫy là nơi trồng ngô, khoai, sắn..không chỉ là nguồn
thức ăn cung cấp cho chăn nuôi mà còn là nguồn lương thực cho người đồng bào Mường dự trữ đề phòng mất mùa.
Ngoài cây lương thực, đồng bào Mường ở tỉnh Thanh Hóa còn trồng một số cây khác có giá
trị kinh tế như: cây luồng, cây trẩu, cây sở, cây dâu, cây bông nuôi tằm, cây lấy cánh kiến. Một số
nơi còn trồng rau xanh, trồng cây ăn quả, nhưng chưa nhiều, chưa thành tập quán phổ biến trong
các gia đình. Y học truyền thống phương Đông sử dụng một số loại cây này làm thảo dược chữa
một số bệnh liên quan tới xương khớp. Vì vậy mà nơi đây còn được coi là " khắc tinh của bệnh xương khớp". c) Chăn nuôi
Bên cạnh việc trồng trọt, người Mường còn gắn bó với chăn nuôi . Các loại vật nuôi phổ biến
như lợn, gà , trâu , bò... với mục đích lấy sức kéo, thịt phục vụ cho đời sống sinh hoạt, cày cấy
mang giá trị kinh tế cao...Chăn nuôi trâu, bò được thực hiện trong từng gia đình. Mỗi gia đình
thường nuôi dăm bảy con đại gia súc. Gia cầm được nuôi phổ biến là gà, vịt. Cách nuôi cũng chủ
yếu là chăn thả ra vườn, ra đồi núi để tự kiếm ăn ban ngày, chiều tối gọi về cho ăn một bữa rồi
chúng tự vào chuồng ngủ đêm. Bên cạnh đó đối với môi trường vùng núi phải kể đến là nuôi ong
lấy mật và sáp. Mật ong dùng để ăn và trao đổi hàng hoá. Ở một số nơi người dân nuôi tằm lấy tơ dệt lụa. lOMoAR cPSD| 60857655 2.2. Thủ công
Những nghề thủ công thường gặp là dệt: vải, mặt chăn, cạp váy hoa; nhuộm vải, đan lát, nuôi
tằm ươm tơ. Nghề thủ công gia đình được lưu truyền từ xa xưa của người Mường chính là nghề
đan lát. Trước đây người dân đan lát thủ công chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình
nhưng những năm trở lại đây nghề đan lát phát triển và trở thành hàng hoá bầy bán rộng rãi ở các
chợ phiên các khu du lịch và được du khách ưa chuộng. Những sản phẩm đan như mâm cơm ,rổ
,rá, nong, nia, mẹt, sang xẩy gạo, gùi là những vật dụng không thể thiếu trong gia đình đã gắn bó
với người phụ nữ từ thời xa xưa.Họ dùng dây gai, dây đay để đan chìa, lưới đánh cá cũng như các loại vật dụng khác.
Kéo sợi, dệt vải là công việc của phụ nữ, nhà nào cũng có khung cửi dệt vải sợi to, khổ hẹp.
Váy áo của phụ nữ thường may bằng vải tự dệt lấy. Trước khi cắt may, vải thường được nhuộm
chàm, nhuộm đen hoặc nhuộm nâu. Những cạp váy đẹp, dệt bằng tơ nhuộm màu, trên mặt vải có
nhiều hoa văn hình rồng, hình phượng, hình các loại thú như hươu, rùa, chim và các loại hoa văn
hình học. Dệt cạp váy đen hầu như chỉ thấy ở người Mường.
Người Mường cũng như các dân tộc khác, tự làm lấy nhà để ở. Kĩ thuật làm nhà của người
Mường đã đạt đỉnh cao của kĩ thuật đục, bào, ghép mộng. Một số nghề thủ công quan trọng như
nghề gốm, đúc kim loại, rèn hầu như không có đều phải thông qua trao đổi mua bán.
3. Trao đổi mua bán
Người Mường chủ yếu là nền kinh tế tự túc, tự cấp nhưng xung vẫn có những hoạt động mua
bán trao đổi hàng hoá, điều này đã đẫn đến sự hình thành chợ nông thôn. Họ không chỉ bán gia súc,
gia cầm mà còn bán các loại thảo dược, lâm sản, các mặt hàng nhu yếu phẩm...
Ngoài ra, nhờ có vị trí thuận lợi là nằm xem kẽ giữa vùng của người Thái và người Kinh vốn
là những dân tộc phát triển thủ công nghiệp rất mạnh, đồng bào có thể tận dụng những sản phẩm
của mình để đổi lấy những mặt hàng thủ công mà đồng bào không biết làm như: Kim khí, gốm sứ…
III. VĂN HÓA VẬT THỂ
1. Nhà ở công trình kiến trúc
Nhà ở truyền thống của người Mường là nhà sàn – nhà gác. Thường được xây dựng bằng các
nguyên liệu tự nhiên như: gỗ, tre, nứa, mái lợp bằng rơm rạ, lá cọ hoặc lá gió, cỏ gianh ... Đây là
những nguyên liệu sẵn có tại địa phương nơi đồng bào sinh sống. Đồng bào vào rừng chặt cây về
làm nhà chứ không phải đi mua. Người mường rất cẩn thận trong việc chọn hướng nhà để đem lại
tài lộc mây mắn cho gia đình. Mặt nhà bao giờ cũng không được ngược hướng với đồi núi, luôn
dựa lưng vào thế đất cao như sườn đồi, sườn núi để đón nhận tiết trời trong lành và tiện cho sinh hoạt.
Trong tín ngưỡng, người Mường coi con rùa là vật linh thiêng biểu tượng cho sự sống lâu
trường cửu. Việc xây dựng nhà sàn của người Mường, là kết quả của quá trình đã đúc rút kinh
nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng của họ là “Tẻ tấc tẻ đác” (đẻ đất đẻ nước). lOMoAR cPSD| 60857655
Trông bản mo đồ sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: khi người
mường sinh ra chưa có nhà cửa nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải đối mặt với
nhiều thiên tai hiểm họa. Một hôm, ông Đá Cần ( còn gọi là lang Cun Cần ) bắt được một con rùa
đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha thiết và hứa nếu được thả thì
rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở, làm kho để lúa, để thịt. lần thứ nhất dựng nhà, nhà đổ. Ông
Đá Cần dọa làm thịt rùa. Rùa lại dặn là phải lấy gỗ tốt mà làm cột kèo... Từ đó người Mường biết
làm nhà để ở. Do vậy nhà của người Mường mô phỏng theo hình dáng của con rùa với bôn chân là
bốn cột nhà ,mai rùa là bốn mái nhà.
Kĩ thuật làm nhà có thể chia thành hai trình độ, kĩ thuật sùng cột ngoãm chôn xuống đất và
kĩ thuât dùng cột kê đục lắp ghép mộng. Những gia đình giàu có thường làm nhà với kĩ thuật hơn
là dùng cột kê, lắp ghép mộng; còn đại đa số thường làm nhà ngoãm chôn xuống đất. nhà có bốn
mái hai mái chính, hai mái nhỏ ở đầu hồi. Nhà của người Mường thường mở của đi lại ở hai đầu
hồi nhà,cầu thang lên nhà được đặt ở dưới mái nhà cho nên thang không bị mưa nắng. Nhà người
Mường thường bố trí hai cầu thang, còn gọi là “Màn”. Cầu thang không dựng thẳng vào cửa chính,
mà dựng vào mép một cái sảnh gỗ và đặt vuông góc với chiều đòn nóc nhà. Cầu thang chính ở đầu
hồi bên phải nhà dành cho chủ nhà và khách khứa; cầu thang phụ đầu hồi bên trái chỉ dùng cho phụ
nữ và sinh hoạt gia đình. Theo quan niệm của người Mường, tổng số bậc thang nhất thiết phải là
số lẻ để của cải ngày càng giàu có, gia đình luôn được êm ấm đoàn tụ, con cháu thành đạt. Mái nhà
người Mường thường thấp so với sàn người ở. Trước đây mái nhà của người Mường thường lợp
bằng rơm rạ, cỏ gianh hay lá cọ nên nhà thường ấm vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè. Nhưng
hiện nay hầu hết được thay bằng gạch ngói hoặc xi măng. Trong nhà người Mường có bàn thờ tổ
tiên và có cột ma cho con ma đi lại. Trong nhà được chia làm hai phần theo chiều ngang: phần thứ
nhất dành cho sinh hoạt của nam giới và có bàn thờ tổ tiên, phần này gọi là bên ngoài. Phần thứ hai
là bên trong dành cho bếp và sinh hoạt của nữ giới. Nhà còn được chia theo chiều dọc: bên trên và
bên dưới. Sự phân chia này có tính ước lẹ không liên quan gì đến độ cao thấp. Cái quan niệm này
chỉ thể hiện khi sắp xếp chỗ ngồi trong nhà: người cao tuổi, người có thế hẹ cao hơn hoặc có danh
vọng, đáng tôn kính...bao giờ cũng được mời ngồi bên trên. Từ mặt sàn người ở có một số cửa sổ
các cửa sổ này được mở từ sát mặt sàn. Cửa sổ hay còn gọi là cửa “vóong”,chỗ ngồi gần “vóong”
thường dành cho người cao tuổi. Mỗi gian thường có từ một đên hai cửa sổ làm bằng gỗ ở phía
trước ngôi nhà đều được chia thành các gian, nhà càng nhiều gian chứng tỏ gia đình càng khá giả.
Gian tiếp dón khách thường được treo những đồ vật linh thiêng trong nhà như: cồng chiêng, các
lại trống, các mũi tên, cung nỏ , sừng trâu, sừng bò. Nhà người Mường được chia làm ba mặt bằng,
tầng trên cùng chứa lương thực và đồ dùng sinh hoạt, sàn tầng hai là nơi sinh hoạt chính , nghỉ ngơi
và tiếp khách.Trước đây dưới sàn nhà là nơi để cối giã gạo, các công cụ sản xuất như cày, bừa,
cuốc xẻng, các đồ đan có nơi làm cả chuồng nhốt gia xúc như chuồng trâu , chuồng bò, chuồng lợn
, làm chuồng nhốt gia cầm như ngan, vịt, gà, ngỗng. Hiện nay với đời sống phát triển và văn minh
hơn nên hầu hết các gia đình đã chuyển gia xúc, gia cầm ra xa nơi ở hơn để đảm bảo vệ sinh. Bếp
của người Mường được làm rất công phu. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng có
đường viền xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Bếp thường đặt trên trục nhà
nơi nóc dọi xuống. Nhà người Mường thường có hai bếp chuyên dụng; một bếp dùng để nấu nướng
thức ăn, và phụ nữ trẻ em trong gia đình ngồi sưởi; còn một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để
cho đàn ông sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách.Mỗi ngôi nhà hầu lOMoAR cPSD| 60857655
như đều được rào bằng tre, nứa hoặc bằng cây xương rồng để hạn chế trộm cắp và đề phòng thú dữ.
Về kết cấu của nhà sàn truyền thống thường có hai đỉnh kèo, bốn cột cái, tám cột con. Giữa
hai đầu cột có hai xà ngang nói với nhau, có đòn tay nối với các vỉ kèo với nhau, trên các đòn tay
có các hàng dui nối từ nóc nhà đến tận mái hiên. Trên dui có các hàng mè nằm vuông góc với dui.
Trên cùng gác trên đầu các vỉ kèo, nóc nhà là đòn nóc. Điều thú vị nhất trong tổng thể cấu trúc nhà
sàn của người Mường là những kết cấu hoàn chỉnh, không chỉ tạo dựng lên một ngôi nhà sàn đặc
trưng mà còn ở mỗi bộ phận cấu thành nó đều mang một ý nghĩa tâm linh,sâu sắc gắn kết giữa con
người với đời sống tự nhiên, dù trải qua hàng nghìn năm vẫn không thay đổi. 2. Trang phục
2.1. Trang phục của phụ nữ Mường
Trang phục của phụ nữ Mường bao gồm: khăn đội đầu (mu), áo cánh(ạo pắn), áo dài (ạo
chụng),khăn thắt áo (đẹt ạo), yếm (yệm/áo báng), váy (kloốc), thắt lưng (tênh).
a, Khăn (mu) là một mảnh vải trắng hình chữ nhật, không có hình vẽ hay thêu thùa, rộng
35cm, dài 150-160cm. Khăn có tác dụng giữ cho nếp tóc được gọn gàng, che nắng… Khi đội trên
đầu họ thường dùng hai góc thắt lại phía sau gáy. Chiếc khăn trắng gắn với truyền thuyết về mối
tình giữa một chàng trai nghèo, tên Khỏe ở Mường Dậm, với một cô gái nhà Lang xinh đẹp tên là
Út Dô. Đôi trai tài gái sắc này không đến được với nhau do có sự khác biệt về thân thế và gia đình
ngăn cản. Để bảo vệ dân làng, chàng Khỏe đã tạm biệt người yêu và chiến đấu với hai con hổ, sau
nhiều ngày, Khỏe đã ôm hai con hổ lao xuống vực sâu ở núi Zang. Từ đó người Mường tránh được
tai họa thú dữ, còn Út Dô thì không khỏi đau buồn vì mất người yêu, ngày ngày nàng ra bờ suối –
nơi chia tay Khỏe để đợi chàng và dùng mảnh vải trắng chưa kịp nhuộm mà Khỏe tặng, xẻ ra từ
vạt áo để lau nước mắt. Mỗi lần khỏa mảnh vải xuống suối thì lại thấy hình ảnh của chàng hiện về,
mảnh vải ướt nàng lại vắt lên đầu. Một đêm trăng sáng, vì quá nhớ người yêu nên Út Dô đã tự tử,
thân hóa cây Clang nở hoa trắng dọc hai bờ suối. Từ đó phụ nữ Mường đều đội khăn trắng trên đầu
để tưởng nhớ về mối tình của hai người. Chiếc khăn là biểu tượng cho sự thủy chung, trong trắng
cùng ước mơ về hạnh phúc lứa đôi.
b, Áo cánh (ạo pắn) là áo có xẻ giữa nhưng không có cúc cài, không có khuy, ống tay dài,
không chiết eo,có bốn thân, hai thân sau ghép liền nhau, giữa lưng có sống áo, hai thân trước có
nẹp kéo liền từ cổ xuống mép dưới gấu áo, áo có cổ tròn, viền đứng cao 2,5-3cm, khi mặc chỉ khoác
bên ngoài yếm, chờm ra ngoài cạp váy một chút. Áo có màu trắng, hồng. Đây là chiếc áo cánh
ngắn nhất trong số các loại áo của phụ nữ các tộc người ở Việt Nam.
c, Áo dài (ạo chụng) thường dùng để mặc chùm bên ngoài trong các dịp lễ tết, hội hè. Đây
là loại áo được may theo kiểu chiết eo, mở phía trước, không có khuy cài, mép dưới hai vạt trước
và vạt sau lượn hình e líp, dài gần tới gối. Cổ áo được thiết kế như nẹp vải rộng khoảng 5cm, quấn
quanh cỏ và chồng lên nhau ở phía trước.
d, Khăn thắt áo (đẹt ạo) làm bằng đũi (tơ tằm sợi thô) hoặc sồi màu vàng, dài khoảng một
sải tay, thắt ở trên hông, phía bên ngoài áo dài để cố định hai nẹp áo phía trước lại.
e, Yếm là một mảnh vải có cổ khoét tròn vòng cung với hai đầu dây buộc ở sau gáy và hai lOMoAR cPSD| 60857655
dây buộc ngang lưng, hình vuông, màu trắng, gần giống yếm của người Kinh nhưng ngắn hơn.
f, Váy là mảnh vải đen bó thân người hoặc mặc từ nách xuống gần mắt cá chân, gồm:
• Thân váy: chỉ có một màu đen hoặc nâu.
• Cạp váy: làm bằng vải mộc hay lụa tơ tằm, đây là nơi duy nhất được trang trí hoa văn
trong bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Mường, bao gồm ba phần: dang trên,
dang cao, dang dưới. Trong đó, dang dưới là phần quan trọng nhất của cạp váy, được
dệt các mô típ hoa văn hình động vật, với nhiều màu sắc: như rùa, rồng, phượng,
chim lạc, cá, rắn,… có nhiều nét tương tự như hoa văn trên mặt trống đồng Đông
Sơn, còn dang trên và dang cao được trang trí những hình học đơn giản.
g, Thắt lưng được may bằng vải lụa, dài chừng hơn sải tay, thắt đúng giữa eo, bên ngoài
váy. Thắt lưng Mường có nhiều màu: trắng, xanh, vàng, xanh lá mạ, tím…
Trong bộ trang phục của phụ nữ Mường còn có đồ trang sức như khuyên tai, vòng cổ, vòng
tay,xà tích… Hoa tai, có thể là vàng hay bạc, nhưng vòng cổ và vòng tay làm bằng bạc, chúng còn
được coi là “bùa hộ mệnh” để bảo vệ sức khỏe. Xà tích (hay còn gọi là dây xuân thu) được cài vào
thắt lưng và buông lơi một bên xuống hông. Đối với những người lớn tuổi, xà tích đeo kèm cối gĩa
trầu, chìa khóa, hộp kim làm bằng bạc có 9 cái dây đeo vào dây xà tích.
Tương ứng với hai nhóm địa phương Mường Hòa Bình và Mường Thanh Hóa thì trang phục
nữ của hai nhóm này cũng có sự khác biệt:
Mường (Thanh Hóa): có áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực.
a, Áo khóm có chiều dài qua ngực, áo chui đầu, cổ tròn được viền màu ôm khít chân cổ, có
xẻ một chút hai bên vai để dễ chui đầu. Chỗ xẻ hai bên được cài bằng hai nút bạc hoặc dùng dây
buộc (đôi khi cũng xẻ một bên). Áo có một màu (xanh, vàng, trắng…) b, Cạp váy (Trôôc vuôn) nối
giữa cạp váy và áo, chiếm trên 30% chiều dài thân váy, là bộ
phận đẹp nhất có giá trị trang trí cho toàn bộ chiếc váy. Phần này ngang lưng ôm trọn eo của người
phụ nữ. Cạp váy có 3 bộ phận: đang, buôn (vuôn), lai, mỗi bộ phận được dệt thành một tấm riêng,
hoa văn, kích thước khác nhau. Cạp váy là chi tiết cực kì quan trọng bởi đây đại diện cho sự sáng
tạo của người Mường bằng những họa tiết hoa văn cực kì tinh xảo, không lệ thuộc vào mẫu có sẵn.
Hoa văn trên cạp váy chủ yếu là long, phượng, nổi bật và phổ biến là có sự ảnh hưởng văn hóa trên
mặt trống đồng Đông Sơn.
c, Thân váy được dệt bằng sợi tơ tằm, nhuộm màu đen, dài đến gót chân người phụ nữ. Điểm
nhấn của thân váy là gấu váy. Gấu váy sẽ được lót màu đỏ đối với thiếu nữ, màu nâu đối với các bà, các mẹ.
d, Thắt lưng (khăn tênh) có chiều dài khoảng 1,5 – 2m, rộng 30 – 40cm, làm bằng vải tơ
tằm hoặc len nhuộm màu xanh, giúp cạp váy không bị rơi khỏi cơ thể và tăng thêm vẻ đẹp của bộ váy. lOMoAR cPSD| 60857655
Trang phục của người phụ nữ Mường Hòa Bình: Bên trong mặc áo yếm, bên ngoài khoác áo
tứ thân không cài khuy để khoe được phần cạp váy dệt, nhằm thể hiện sự khéo léo của phụ nữ mường
Bộ tang phục (đồ tem) của phụ nữ Mường bao gồm: mũ mấn (như chiếc phễu úp), áo cánh
ngắn (ạo pắn) màu trắng, váy không cạp, thắt lưng trắng bằng vải mộc. tất cả được may theo kiểu
lộn trái, sổ gấu. Tang phục của các nàng dâu trong đám tang bố mẹ chồng thường là váy đen mới,
bên trong là áo cánh, yếm, ngoài vận thêm áo gấm màu đỏ, có đính nhiều hạt cườm (tem quạt ma),
cài khuy nách phải. Nếu bố mẹ đẻ còn sống thì nàng dâu mặc tang phục như trên, còn trong trường
hợp đã qua đời thì mặc đồ tem.
2.2. Trang phục của nam giới Mường
Áo cánh ngắn, cổ tròn, có nẹp viền quanh rộng chừng 2cm. Thân áo may dài chùm mông,
mở tà từ eo lưng xuống gấu áo. Áo có ba túi vải may bên ngoài, một túi may bên ngực trái và hai
túi bên hông. Áo chùng có màu thâm và trắng, may dài đến hơn đầu gối hoặc dài hơn, cài khuy
lệch về bên phải, cổ áo cao hơn áo ngắn.
Quần được may bằng vải thô màu trắng, cạp bằng dây rút, nhuộm nâu hoặc chàm, ống rộng,
cạp to. Khi mặc quần, người ta sẽ bắt chéo hai mép cạp dắt vào bên trong và dùng khăn thắt lại.
Khăn có màu nâu xám, đen, tím than...
Tang phục của nam giới Mường bao gồm: quần, áo chùng, khăn quấn đầu may bằng vải mộc
màu trắng, may kiểu lộn sống và sổ gấu. Con trai cả của người quá cố khi chịu tang phải đeo thêm
vỏ dao. Những người khác chỉ phải mặc một vài bộ phận, như em trai, con rể, cháu trai chỉ phải
mặc quần và chít khăn tang. Những người họ hàng thân thích tới dự cũng được phát khăn tang để
đội. Xưa kia, bố mẹ chết, con trai, con gái phải cắt tóc, nay chỉ cắt một tí mang tính tượng trưng,
sau một trăm ngày mới được sửa tóc và nhuộm màu trang phục.
2.3. Trang phục của thầy mo
Khi làm lễ, thầy mo khoác chiếc áo dài năm thân cài khuy bên nách phải, màu xanh đen, thắt
đai lưng màu hồng, đội mũ vải nhọn đầu. Ngoài ra, thầy mo còn sử dụng các vật dụng khác như túi
đựng (túi thôông), dao lễ (hoặc kiếm), chuông… Đó là những vật thiêng liêng, dùng làm vật hộ
thân, là công cụ trấn trị ma quỷ.
Quan trọng nhất là túi Khót, người có túi này sẽ được tất cả người Mường tôn kính như một
nét đẹp văn hóa tâm linh cần gìn giữ. Túi Khót được làm bằng vải, dùng để đựng những vật linh
thiêng như cục đá thiêng, nanh lợn rừng, nanh hổ, búa trời làm bằng đồng, làm vật hộ thân. Vì vậy,
túi Khót còn được gọi là “túi phép” và đây là một vật bất ly thân và ít khi người khác được tiếp
cận. Ngoài ra, túi Khót của thầy mo Mường còn có Đoòng, tượng trưng cho uy lực của Thiên Lôi,
đồ bằng đá, có thể là công cụ hoặc trang sức của người tiền sử được chế tác bằng đá, hoặc các hòn
đá quý tự nhiên trong thiên nhiên. Túi Khót của thầy mo còn có những chiếc rìu, có thể có đến 16
chiếc rìu đá, trong đó có 13 chiếc rìu có vai, 3 chiếc không có vai, cái nhỏ nhất chỉ bằng ba đầu
ngón tay, cái to nhất bằng bàn tay người. Quả dọi của người xưa, đá mài, dùi đá đập vỏ cây… cũng
được đựng trong túi Khót… Một nguyên tắc đối với các thầy mo là các đồ vật trên phải được nhặt
ngoài thiên nhiên mới được dùng trong túi Khót. lOMoAR cPSD| 60857655
Về nguồn gốc các đồ vật trong túi Khót, không phải thứ nào cũng là đồ thầy Mo tự mình nhặt
được, chủ yếu là do người dân đi vào rừng, đi làm đồng, vô tình cày, cuốc, xới đất lên nhặt được
các Đoòng, các Kẹo Lẹt. Do tin rằng đây là những vật thiêng, nếu để trong nhà dễ gây ra đau ốm,
nên họ thường mang cho các thầy Mo, vì cho rằng các vị này có pháp thuật, có thể trấn, yểm sai
khiến được chúng. Đây là nguồn chủ yếu bổ sung các đồ kể trên trong túi Khót của các thầy Mo.
Khi một ông thầy Mo nào đó đã già, hoặc vì một lý do nào đó không thể tiếp tục làm nghề
Mo nữa thì phải thực hiện nghi lễ bàn giao việc thờ cúng tổ Mo “truyền nghề” cho con cháu trong
nhà hoặc truyền nghề cho một người khác. Trong đó, nếu truyền nghề cho người bên ngoài thì bắt
buộc phải kèm theo bàn giao cả việc thờ cúng tổ Mo; bàn giao dụng cụ hành lễ, sách cúng và cả
túi Khót, âm binh, ấn chiện… Nếu trong trường hợp không bàn giao được cho ai kế nghiệp thì thầy
Mo phải làm lễ hóa giải âm binh, hóa giải đồ Khót để con cháu không bị các âm binh, âm hồn quấy quả. 3. Ẩm thực
Ẩm thực là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mường. Ẩm
thực không chỉ là niềm tự hào của người dân; mà còn giúp gắn kết mọi người từ khắp mọi miền
đất nước lại với nhau để tạo nên nét tinh hoa và nét độc đáo của ẩm thực Việt Nam. Trước kia, gạo
nếp là món chính trong bữa ăn hằng ngày của người Mường nhưng hiện nay gạo tẻ đã dần thay thế
trở thành nguồn lương thực chính, gạo nếp chỉ dùng trong các dịp lễ tết, tiếp khách. Ẩm thực dân
tộc Mường độc đáo từ nguyên liệu đến cách chế biến. Để làm nên những món ăn Mường đậm chất
dân tộc, họ thường sử dụng những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên như măng tre, rau rừng, lá
ngũ sắc, gà ri, vịt cỏ và gạo nếp.
Người Mường rất thích ăn thức ăn có vị chua: củ kiệu, quả cà muối chua với cá, rau cải muối
dưa, quả đu đủ muối dưa tép, rau sắn muối dưa cá, lá lồm nấu thịt trâu, thịt bò, lá bểu, lá chau khao
nấu cá đồng, muối thịt trâu, tiết bò ăn vào mùa nào cũng thích hợp. Đặc biệt, trong góc bếp của
mỗi gia đình Mường không thể thiếu những hũ măng chua. Nguồn thức ăn quanh năm sẵn có nơi
núi rừng. Măng chua có thể xào nấu với cá, thịt gà, vịt, nước măng chua kho thịt trâu, kho cá, chấm
rau sống hay ngâm ớt tươi.
Vị đắng cũng là vị mà người Mường rất yêu thích. Măng đắng; lá, hoa, quả đu đủ không chỉ
là món ăn thường ngày mà còn là món để thờ phụng trong nhiều nghi lễ dân gian. Ngoài ra còn có
rau đốm, lá kịa, vừa là thức ăn vừa là thuốc đau bụng. Đặc biệt, ruột và dạ dày con Don vừa là vị
thuốc chữa dạ dày vừa là món ăn quý hiếm.
Gắn với vị cay, người Mường có món Ớt nổi tiếng. Ớt được băm lẫn với lòng cá; hay đầu,
tiết luộc, ruột cắt nhỏ của con gà, vịt. Băm nhỏ cho tất cả lên màu nâu sẫm, cắt nhỏ vài loại rau
thơm trộn vào là được món ớt. Vị ớt cay của người Mường thường dùng để chế biến thành những
món ăn riêng chứ không làm gia vị xào nấu như một số dân tộc khác.
Một số món ăn đặc trưng như : Canh lóong, chả cuốn lá bưởi, mâm cỗ lá, thịt trâu lá lồm…
Món canh Loóng sử dụng nguyên liệu thân cây chuối, có thể kết hợp cùng thịt gà, vịt, xương heo
hay thậm chí chỉ cần nấu với bát nước luộc thịt cũng ngon. Đồng bào Mường vùng Tây Bắc nấu
canh loóng ăn hằng ngày như một món ăn rất bình dị, đơn sơ nhưng đậm đà dư vị. Canh loóng còn
được đồng bào xem là một vị thuốc tốt cho sức khỏe con người. Từ bản thân các nguyên liệu như lOMoAR cPSD| 60857655
cây chuối, lá lốt, tía tô, hạt dổi, canh loóng giúp cơ thể được giải độc, tốt cho đại tràng, tiêu hóa,
giải cảm, chống viêm nhiễm, giúp cầm máu...
Những dịp cưới hỏi, tết, người Mường cũng nấu canh loóng và trong mâm cơm dâng cúng
thần linh, tổ tiên không thể thiếu món canh loóng như một sự tri ân của con cháu với ông bà, tổ tiên.
Chả cuốn lá bưởi là món ăn không quá cầu kỳ nhưng chứa đựng nhiều kinh nghiệm, quan
niệm về ẩm thực của người Mường. Người Mường thường chọn lá ở cây bưởi ta, bưởi rừng; Lá
bưởi được chọn hái không quá non hay quá già, bề mặt lá xanh bóng, dẻo dai. Theo kinh nghiệm,
lá non quá sẽ đắng, lá già quá khi cuốn thịt dễ bị rách, họ cho rằng lá bưởi dùng chế biến món này
ngon nhất vào mùa xuân. Lúc đó, cây bưởi sẽ trổ hoa, kết lộc non, lá bưởi xanh thơm, có cả hương
vị của nắng, gió và những cơn mưa…Lá bưởi cuốn vào thịt được cố định bởi tăm tre nhọn xiên
ngang qua. Sau khi bỏ đầy thanh tre sẽ nướng lên . Với sự ngọt, đắng, cay của món chả cuốn lá
bưởi, người Mường cho rằng, món ăn còn là vị thuốc quý cho cơ thể giúp tiêu hóa tốt, huyết áp ổn định...
Mâm “cỗ lá” được xem là một trong những nét đặc trưng văn hóa ẩm thực của người Mường
ở Hòa Bình vào các dịp lễ, Tết. Mâm “cỗ lá” chứa đựng cả ân tình của người Mường trong tương
quan với đất, trời, rừng, núi, là nét tinh tế trong đời sống ẩm thực xứ Mường. Cỗ lá là món ăn được
bày trên lá chuối . Theo quan niệm của người Mường thì phần ngọn và mép lá tượng trưng cho
Mường Sáng - của người sống, phần gốc lá và mang lá tượng trưng cho Mường Tối - Mường ma,
của người chết. Chính vì thế, khi dùng lá chuối bày cỗ, người Mường cũng có quy tắc phân biệt:
Người vào, ma ra - tức là khi dọn cỗ cho người sống, phần ngọn lá hướng vào trong, còn khi bày
cỗ cúng ma thì làm ngược lại. Trong mâm tết “cỗ lá” cũng không thể thiếu được món cuốn gồm
trứng và giò lợn thái lát mỏng, cùng rau thơm, hành lá. Đây là món mang đặc trưng ẩm thực Mường nhất trong cỗ lá.
Ngoài các món thịt là món măng luộc và các loại rau sống. “Cỗ lá” cũng không thể thiếu xôi.
Xôi trắng tượng trưng cho tinh hoa của đất và rừng xứ Mường. Xôi nếp gạo nương được đồ chín
tới, gói vuông vức trong tàu lá chuối đã hơ lửa cho mềm, xôi vừa thơm vừa dẻo. Thưởng thức ”cỗ
lá”, không chỉ để cảm nhận hương vị đặc biệt của các món ăn mà hơn hết đó là tình cảm mộc mạc,
chân thành của người Mường đãi khách. " Thịt trâu nấu lá lồm" là một món ăn truyền thống của
người Mường ở Hòa Bình cũng như phổ biến ở vùng núi phía Bắc. Người Mường coi lá lồm là sự
bổ khuyết cực kỳ hoàn hảo cho thịt trâu vốn có mùi ngai ngái. Nếu được nấu bằng nồi đất, món ăn
sẽ càng đúng điệu hơn. Lá lồm thường được vò nát hoặc giã nhỏ, cho vào nồi hầm sau khi thịt trâu
mềm nhừ. Chất chua trong lá lồm giúp thớ thịt trâu vốn dai, thô trở nên mềm mại.
Người dân tộc Mường (Hòa Bình) thường lấy hạt dổi làm gia vị để chấm ăn cùng thịt lợn
nướng, thịt luộc hoặc làm gia vị tẩm ướp. Đây cũng được coi là gia vị đặc trưng của đồng bào
Mường. Nếu hạt tiêu người ta thường rang trên bếp nóng thì khi chế biến, hạt dổi sẽ được nướng
trên than lửa cho thơm, sau đó đem giã nhỏ như hạt tiêu.
Ngoài những món ăn kể trên trong văn hoá ẩm thực dân gian của người Mường còn có các
loại rượu trắng, rượu cần. Rượu cần người Mường gọi là Rạo Đoỏng, có nguồn gốc xa xưa, dùng
trong các cuộc vui mừng thắng chiến trận. Rượu phải đóng nén vào hũ, chĩnh; khi lấy ra uống cũng
phải đóng lại. Do quá trình phát triển xã hội, Rạo Đỏong phát triển cách dùng rộng ra trong các lOMoAR cPSD| 60857655
sinh hoạt vui nhà mới, vui đám cưới, vui mừng tiếp khách hay các nghi lễ tín ngưỡng; lồng với
sinh hoạt rượu cần là sinh hoạt giao tiếp và thi ca sôi động, vừa mang tính chất trữ tình, vừa mang
tính trào lộng, nhằm ca ngợi thành quả tốt đẹp mối tình tốt lành, trong sáng…
Rạo Đoỏng không chỉ lễ hội ở đình chùa làng mới cúng lễ người có công mà tất cả cuộc sinh
hoạt uống rượu cần trước khi uống đều khấn ông bà tổ tiên, thành hoàng làng. Đối với các đình
chùa lớn, ngoài tổ tiên, thành hoàng còn mời các thần tối cao như Quốc Mẫu Hoàng Bà, thánh Tản,
các vua cùng các vị thần tôn ở đó.
Rượu Cần do những người phụ nữ Mường tự làm và thường là người phụ nữ có tuổi. Làm
rượu Cần là một quy trình chế biến rất công phu, muốn có 1 vò rượu cần ngon thì trước hết cần
phải có men tốt. Men để làm rượu của người Mường được làm từ các loại cây cỏ trong rừng, nó có hương vị riêng.
Ban đầu nấu cơm lên sau đó bóp men để làm rượu Cần vào, trộn với trấu rồi đem vào trong
bình đựng rượu Cần. Trấu là bắt buộc phải có để khi uống rượu mới cắm cần vào được. Nếu mà
không có trấu thì men sẽ lắng xuống và không thể hút rượu được. Do đó trấu tạo ra độ xốp để nước
lọt vào thì mới hút lên được.
Trong văn hóa của người Mường tục uống rượu trở thành một nét văn hóa riêng - văn hóa
rượu Cần. Thưởng thức rượu cần là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Rượu Cần được dùng trong
các ngày lễ lớn của gia đình, làng bản như ma chay, cưới xin hay mừng nhà mới.
4. Phương tiện vận chuyển
Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây
đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét
vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.
Đồng bào Mường vận chuyển vật dụng bằng cách dùng sức người để gùi, gánh; dùng sức
trâu để kéo gỗ, trâu, bò, ngựa kéo xe. Những làng người Mường ở gần sông thì dùng thuyền, bè
làm phương tiện vận chuyển. 5. Nhạc cụ
Nhạc cụ dân tộc Mường có rất nhiều loại như: Đuống, chiêng, trống gỗ, cò ke, sáo ôi,… trong
đó, đuống được coi là biểu tượng của văn hóa dân tộc Mường. Đuống thực chất là chiếc cối dùng
để giã gạo, đựng nước nhuộm chàm của đồng bào Mường, được làm từ thân cây gỗ trò chỉ, sâng;
đuống có hình chiếc thuyền độc mộc, rỗng lòng, rộng từ 0,5m, dài từ 2m trở lên; những chiếc chày
giã hình trụ tròn dài khoảng 1,5m, giữa thân thon để vừa tay cầm. Đâm đuống hay chàm đuống
được biểu diễn trong các dịp tết cổ truyền, hội mùa, cưới xin hay mừng nhà mới. Đội hình đâm
đuống được chia làm hai thành phần là cái và con. Cái do một người có nhiều kinh nghiệm đảm
nhiệm, đứng đầu đuống, con là những người còn lại trong đội hình. Khi diễn tấu, đâm đuống sẽ có
ba động tác cơ bản là: Giã, đập và đánh. Giã là đâm thẳng đầu chày vào thành đuống; đập là dùng
cạnh đầu chày gõ mạnh vào thành đuống; đánh là gõ hai cạnh đầu chày vào nhau.
Tiếp đến là cò ke – một nhạc cụ họ dây có cung kéo, nó có cần đàn làm bằng 1 đoạn tay tre
uốn thẳng, cắm xuyên qua 1 đoạn tre rỗng suốt 2 đầu. Đầu trên của cần đàn có lỗ để cắm trục chỉnh
dây. Phía trước của đoạn ống được bịt bằng 1 mảnh mo măng tre hoặc 1 tấm da ếch, da trăn hay da lOMoAR cPSD| 60857655
rắn giúp ống trở thành bộ phận tăng âm. Cò ke có 2 dây đàn bằng xơ dứa hoặc tơ tằm se, vuốt lá
khoai. Người ta chỉnh 2 dây cách nhau 1 quãng 4 hoặc 5. Âm thanh của cò ke không chuẩn vì dây
mắc khá cao so với cần đàn, ngoài ra nó không có bộ phận chỉnh độ cao dây buông như ở đàn nhị của người Việt.
Sáo ôi hay còn gọi là kháo ôi hay ống ôi là 1 loại sáo dọc có 4 lỗ, 2 lỗ có khoảng cách thưa,
2 lỗ cách nhau dày hơn được tạo bởi từ 1 ống nứa tép. Sáo ôi được làm bằng nứa, khi chọn cần
chọn 1 cành nứa sành, mọc ở đằng Đông và ngọn của nó cũng hướng về đằng Đông, không được
cụt ở phần ngọn. Thân cây có đường kính 1,5 cm hơi ngả màu vàng óng, chiều dài của ống từ đốt
này đến đốt kia là khoảng 68-70 cm. Đặc trưng của sáo ôi là 4 lỗ nhưng lại có 5 hàng âm là: đồ,
mi, pha, son, si. Cũng có người gọi nó là 5 cao độ: nốt hò, nốt sự, nốt sang, nốt xê, nốt cống. Lỗ
chính giữa được khoan phía dưới ống (dùng ngón cái để bấm), 3 lỗ còn lại nằm phía trên ống, 1 lỗ
để thông hơi ở phía trên đốt. Khi thổi, dùng lá chuối bịt kín lỗ dùi phía đầu thổi để cho hơi không
thoát ra ngoài, mà thông thẳng từ ống trên xuyên qua đốt xuống ống dưới, phát ra âm thanh. Khi
thổi người ta dùng 4 ngón tay để bấm và điều chỉnh các lỗ theo độ vang cao thấp của cây sáo. Tùy
từng hoàn cảnh thì người chơi sáo ôi thổi nhanh hay chậm, sáo ôi được sử dụng nhiều nhất khi thủ
thỉ tâm tình, giãi bày nỗi niềm với người yêu.
Còn một loại nhạc cụ nữa mà chắc hẳn rất nhiều người biết đó chính là cồng chiêng. Cồng
chiêng là một loại nhạc cụ đặc sắc, gắn bó với người Mường từ khi lọt lòng đến khi qua đời. Chiêng
được đánh trong các dịp lễ tết, trong đám cưới, đám ma. Chiêng được dùng cho các phường sắc
bùa đi chúc tụng các gia đình vào đầu năm mới hoặc dùng cho các đoàn đi săn. Cồng chiêng là
những báu vật tượng trưng cho sự giàu có, sang trọng của mỗi gia đình người Mường. Cồng chiêng
có giá trị rất lớn cả về tinh thần lẫn vật chất. Trước đây, người Mường dùng trâu to bò lớn để đổi
được chiếc cồng, chiếc chiêng. Xưa kia, người ta cũng tiến hành đúc chiêng, thợ đúc có cả thợ
Mường lẫn thợ Kinh từ xuôi lên, và xuất hiện sự trao đổi buôn bán cồng chiêng giữa vùng này và vùng khác.
Theo loại hình và chất liệu, người Mường chia chiêng thành hai loại chiêng hơ và chiêng nay.
Chiêng hơ là chiêng cổ xưa, cái núm chiêng sáng hồng và bóng lên. Mặt chiêng thường nổi mụn
nhỏ li ti, sờ vào thấy ráp ráp. Cũng có nơi gọi là chiêng chô cóc. Chiêng hơ thường được thấy nhiều
ở cỡ từ loại chiêng mốt tới chiêng sáu. Còn chiêng nay thì đồng đỏ như chiêng thau, có những nốt
tựa như búa ghè. Xét về toàn diện thì chiêng nay kém giá trị hơn chiêng hơ rất nhiều. Xét về âm
thanh thì độ vang của chiêng nay không được vang lắm và âm cũng không được đẹp bằng chiêng
hơ”. Một bộ chiêng đầy đủ là 12 chiếc, nhưng nếu không đầy đủ vẫn có thể là một bộ, song ít nhất
bộ ấy phải có 4 - 5 chiếc trở lên. Bộ chiêng đầy đủ 12 chiếc được chia làm 3 nhóm, gồm:
• 4 chiêng dàm - có vùng còn gọi là chiêng khầm, là loại có kích thước lớn, âm thoát
ra thuộc âm khu trầm trong dàn.
• 4 chiêng bồng – còn được gọi là chiêng đục bồng hoặc chiêng bòong beng, chiêng
bôông bêêng, gồm những chiếc có kích thước vừa phải, trung bình, âm phát ra thuộc âm khu giữa trong dàn.
• 4 chiêng tlé – còn được gọi là chiêng chót, chiêng bóng, chiêng poóng, chiêng đón,
chiêng lắp, chiêng lóng, là những chiếc có kích thước nhỏ nhất, phát ra những thuộc
âm khu cao nhất trong dàn. lOMoAR cPSD| 60857655
Chiêng, cồng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống của người Mường, theo
suốt cuộc đời họ từ khi sinh ra đến lúc trở về cõi vĩnh hằng, có mặt ở cả những cuộc vui lẫn
khi có chuyện buồn để chia sẻ cùng họ. Vì vậy nghệ thuật cồng chiêng là loại hình âm nhạc
quan trọng nhất của người Mường.
Ngoài dàn cồng chiêng nổi tiếng, người Mường còn có loại nhạc cụ phổ biến khác như trống,
sáo, cò ke, kèn gỗ, ống ôi, bỉ đôi, boòng beng, trống đồng, trống gỗ, đàn máng ( đàn bầu), đàn tam,
đàn tớ ính ( đàn môi), kiểng, chiếm chọc…Tất cả các nhạc cụ này được sử dụng vào các nghi lễ,
các cuộc vui trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất của người Mường ( như đi săn). Cùng với các
làn điệu dân ca, các loại nhạc cụ của người mường đã tạo nên một nền âm nhạc dân gian phong
phú và đặc sắc của họ. Những bài dân ca được trình bày có kèm theo các điệu nhạc để làm tăng
thêm cái hay, cái đẹp cho bài hát, cũng có loại dân ca không dùng âm nhạc thì lại được thể hiện
bằng làn điệu, bằng nhịp và giọng hát của người trình bày và bằng nội dung trữ tình, lãng mạn của
lời hát tạo nên một đời sống âm nhạc phong phú của người Mường trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
IV. VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1. Ngôn ngữ và chữ viết
Tiếng nói dân tộc Mường thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Việt – Mường. Tiếng
Mường là tiếng mẹ đẻ của dân tộc Mường. Cho đến nay, tuyệt đại đa số các ý kiến đều thống nhất
cho rằng, người Mường và người Kinh có chung nguồn gốc với giả thuyết có người Việt – Mường cổ trước đó.
Xét về mặt ngữ hệ, tiếng Mường và tiếng Việt có một nguồn gốc là thuộc nhóm Việt – Mường.
Nhóm này, ngoài tiếng Việt, tiếng Mường còn có tiếng Thổ, tiếng Chứt và các tiếng khác như tiếng
Cuối, tiếng Pojoojoong, tiếng Arem, tiếng Mã Liềng
Xét từ góc độ loại hình học, tiếng Mường có cùng loại hình với tiếng Việt, thuộc loại hình
ngôn ngữ đơn lập với những đặc điểm: từ không biến đổi hình thái; quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa
ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ, trật tự từ và ngữ điệu; từ có tính phân tiết, các từ đơn
tiết làm thành hạt nhân cơ bản của từ vựng; ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh giới các hình vị
Xét từ góc độ chức năng, tiếng Mường là ngôn ngữ dùng để giao tiếp trong nội bộ dân tộc
Mường, bên cạnh tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia.
Hiện tại, người Mường chưa có chứ viết riêng của dân tộc mình.
2. Tín ngưỡng – tôn giáo 2.1 Tôn giáo
Trước Cách mạng Tháng tám, một số người vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng của lang đạo nên
đã dựa vào thế lực của cha cố. Tuy theo Công giáo, song lòng tin của họ chưa sâu sắc lắm, vẫn mời
thầy mo về cúng ma, vẫn thờ cúng tổ tiên. Sau Cách mạng, ảnh hưởng của Công giáo nhạt dần.
Vùng Mường trước kia cũng có chùa thờ Phật ( còn gọi là thờ bụt) nhưng không có sư sãi, không
cầu kinh niệm Phật, việc cúng bái đều do ông từ đảm nhiệm. Có nơi cũng gọi là chùa, song lại thờ lOMoAR cPSD| 60857655
bà chúa rừng. Trong các gia đình người Mường đều có thờ cúng tổ tiên, họ tin rằng người chết sang
thế giới bên kia vẫn có một cuộc sống tương tự ở trần gian.
2.2 Tín ngưỡng
Đồng bào Mường tin vào đa thần giáo, coi vạn vật hữu linh, mọi vật đều có hồn, linh hồn,
thần linh. Các thần linh là những siêu nhân có khả năng tác đông tốt hoặc xấu đến con người. Các
làng xóm phần lớn có đình thờ thành hoàng. Thành hoàng làng thường được coi là người có công
khai phá ruộng nương, lập làng lập xóm. Nhiều vùng thành hoàng lại là tổ tiên nhà lang
Nhiều nơi đồng bào thờ Tản Viên, nhất là những vùng gần núi Ba Vì. Từng vùng có cách gọi
khác nhau: Bua Tản, Thánh Đản, Bua Ông,…Có nơi, Tản Viên được thờ trong gia đình. Sự tích
Tản Viên ở nhiều vùng tuy có khác nhau về chi tiết nhưng đại thể cũng gần giống sự tích Tản Viên
Sơn thánh của người Việt.
Bên cạnh một nhân vật Lịch sử là thành hoàng làng, Người Mường thờ thần núi như các xã
ở huyện Lạc Sơn thờ thần ở Khụ Rộng lưng núi Ngheo của Đình Khói, đình Cổi thờ thần núi Cổi
thuộc xã Bình chân. Huyện Lạc Thủy thờ thần núi Lụ núi Lạo ở xã Phú Thành, xã Phú Lão. Đó là
những nhân vật thiêng liêng đã giúp dân hoặc đánh giặc hay diệt trừ ma quỷ.
Thờ thần Ruộng, ở hầu hết khắp các huyện đều có các nhà miếu nho nhỏ ở cạnh thửa ruộng
hay nương đẻ thờ các ông đánh guốc , bà nhổ cây de, nhằm sự che chở khỏi chim nuông, sâu chuột
, vượn khỉ phá hoại,họ chỉ cúng lúc cấy và khi gặt thì trả công bằng đặt nắm lúa tốt lên cho ông bà thờ.
Thờ Thần Đất Nước, Loại thần này coi như vị cứu tinh của mọi người, thần sinh ra con người,
cứu khổ cứu nạn cho mọi người, là vị anh linh của đát nước. Vì thế, hầu hết các đình, đền đều có
thờ dù không đặt bát hương, long ngai, khi lễ, hội đèu phải rước hay thỉnh mời về.
Theo quan niệm dân gian, mỗi vùng có một thổ công trông coi. Thổ công được thờ ở miếu (
đó chỉ là những lều tranh không lớn) của làng xóm. Từng gia đình cũng có thờ thổ công trong một miếu nhỏ ngoài vườn. Tục kiêng kị:
Toàn dân không ăn thịt rùa, vì là ân nhân người Mường. Rùa dạy cách làm nhà, báo cho biết
có nạn Đại Hồng Thuỷ, báo cho biết vua trời giả chết để thử thiên hạ. Nhiều dòng họ kiêng kỵ,
không được ăn, không được giết hại một số thú vật hoặc một số cây nhất định, chẳng hạn họ Quách
ở Lạc sơn kiêng thịt chó, họ Đinh ở Cao Phong, Kỳ Sơn kiêng thịt khỉ, có họ kiêng con gà nước,
con kỳ đà,…Sự kiếng kỵ đó thường được gắn liền với một truyền thuyết để giải thích. Nhiều người
khi thấy vật kiêng kỵ bị giết hại phải mang chôn và than khóc như một người thân thuộc. Đây có
thể là những tàn dư của tô tem giáo.
Cũng như một số tộc người thiểu số khác ở Việt Nam, người Mường cho rằng muôn vật trên
thế gian này đều có linh hồn ( vạn vật hữu linh). Chính vì có quan niệm tín ngưỡng như trên mà họ
cầu cúng tất cả các loại thần thánh, ma quỷ, một khi cảm thấy cần thiết. Họ cho rằng con người
chết đi cũng biến thành ma, và ma tổ tiên có thể phù hộ con cháu. Vì thế thờ cúng tổ tiên có tầm
quan trọng số một trong đời sống tâm linh của họ. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên dòng bố ( bố mẹ,
ông bà nội, các cụ nội, các kỵ nội), người Mường còn thờ cúng cả tổ tiên bên vợ ( pố mộng, mộng lOMoAR cPSD| 60857655
hạm,…). Ban thờ đặt ở voóng tôông nhà. So với người Kinh, bàn thờ tổ tiên của họ rất đơn giản,
chỉ bao gồm bát nhang và một hai chiếc chén đựng nước đặt trên ban thờ đan bằng tre hoặc bằng gỗ.
Đối với người Mường, ngày giỗ là ngày chôn cất chứ không phải ngày người dân qua đời.
Tuy thế việc cúng bái tổ tiên của họ chỉ diễn ra vào các ngày tết cổ truyền, các dịp gia đình tiến
hành các nghi lễ thuộc chu kỳ vòng đời cho các thành viên, hoặc khi dựng nhà mới. Lễ vật cúng tổ
tiên của người Mường thông thường chỉ là cơm nếp đồ, cá nướng, canh và thịt luộc 3. Lễ hội
3.1 Lễ hội Pồn Pôông ( mừng hoa, chơi hoa)
Pồôn Pôông là lễ hội có từ rất xa xưa, có người cho rằng nó bắt nguồn từ sử thi “Đẻ đất, đẻ
nước”. Cây hoa trong pôồn pôông được gắn liền với truyện bi tình sử của nàng Ờm với chàng Bồng
Hương. Hai người yêu nhau tha thiết như đôi chim păng poóp, nhưng bố mẹ nàng Ờm cậy giàu
sang phú quý chia cắt tình duyên hai người.
Lễ hội được tổ chức hằng năm vào các ngày Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Ba và Rằm tháng
Bảy, hay mùa gặt gọi là lễ hội mùa mừng cơm mới. Trong tiếng Mường, “Pồôn” có nghĩa là chơi,
vờn, nhảy múa; “Pôông” có nghĩa là bông, bông hoa; “Pồôn Pôông” có nghĩa là nhảy múa bên hoa.
Tổ chức lễ hội này, người Mường mong muốn cho mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, nhà nhà
hạnh phúc. Lễ hội vừa mang tính nghi lễ cầu phúc, cầu an vừa mang tính chất giao duyên nam nữ.
Lễ hội Pồôn Pôông gồm có hai phần, phần lễ và phần hội (diễn trò). Ậu máy có vai trò như
một người thầy cúng, dùng văn vần kể lại giai thoại sinh ra trời đất, thông báo với thần linh năm
nay mùa màng bội thu, dân làng mở hội để tỏ lòng biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, người
người hạnh phúc và mời thần tổ, vua cha về vui chơi...
Sau phần lễ của Ậu máy là phần hội. Tất cả các trò diễn đều xoay quanh cây Bông, mô phỏng
lại các phong tục, tập quán của người Mường, phản ánh đời sống tâm linh văn hóa của người Mường.
Các nhân vật tham gia lễ hội mặc trang phục dân tộc Mường, trên vai vắt một dải khăn để
điệu nhảy thêm uyển chuyển. Họ múa mô phỏng lại các động tác trong quá trình lao động, sản xuất
vui chơi hằng ngày như chia đất, chia nước, dựng nhà, đuổi thú dữ, trồng trọt, làm cơm mời
Mường..., sau đó mọi người tiếp tục nhảy múa quanh cây Bông, họ cất lên những khúc hát giao
duyên, lời ca hẹn ước.
Trò diễn Pồôn Pôông đã được Bộ VHTT&DL công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia vào năm 2017
3.2 Lễ hội khai hạ
Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường hay còn gọi là lễ hội Khuống mùa là lễ hội truyền thống đã
có từ rất lâu đời và là lễ hội dân gian lớn nhất của người Mường, đặc biệt ở bốn vùng Mường lớn
của tỉnh là Bi, Vang, Thàng, Động. Lễ hội Khai hạ của người Mường Hoà Bình đã được Bộ
VHTT&DL công bố quyết định là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. lOMoAR cPSD| 60857655
Ngày mùng 7 tháng Giêng tức là ngày khai hạ. Đây cũng là ngày cuối cùng của tết. Các gia
đình có tổ chức tết lại cũng sắp mâm cúng mời tổ tiên và thành hoàng. Vào ngày này hầu như khắp
làng Mường đâu đâu cũng thấy tổ chức các lễ hội thưởng mùa Mường Bi và lễ khai hạ đầu năm
mới. Lễ hội Khai hạ Mường Bi, hay còn gọi là Lễ hội xuống đồng, Lễ mở cửa rừng của người với
ý nghĩa năm mới cầu mùa màng thịnh vượng, may mắn. Đây là dịp để người Mường nghỉ ngơi, vui
chơi và bày tỏ những ước vọng của mình về một cuộc sống tốt đẹp, bình yên.
Ngay từ sáng sớm, dân bản đã chuẩn bị 3 mâm lễ cúng đưa từ nhà trưởng bản ra miếu nơi
thờ đức mẹ Hoàng Bà - người có công truyền dạy cho dân Mường biết cày bừa, cấy hái lúa, trồng
dâu, chăn tằm, dệt vải, khai mương mở nước, dẫn thủy nhập điền, chăn nuôi gia súc gia cầm...
Miếu còn là nơi cúng cộng đồng gồm: Đức vị vua Cả, 3 vị vua Non, vua Quân Thái Hậu, vua 2
thành hoàng Quan Lang bản thổ.
Lễ hội Khai hạ được tổ chức với nhiều nghi trình, nghi thức độc đáo tạo nên nét riêng có.
Đây là lễ hội có quy mô lớn trong vùng, với nhiều thành phần tham gia ở cả phần lễ và phần hội.
Vì vậy công tác chuẩn bị cho lễ hội Khai hạ đều có sự phân công, cắt cử mọi việc rất cụ thể, chi
tiết tới từng bộ phận, từng thành viên tham gia để khi thực hiện công việc được thuận lợi, suôn sẻ.
Được chia làm hai phần gồm phần lễ và phần hội; trong đó phần lễ là hoạt động thờ cúng
Thành Hoàng với các nghi trình, nghi thức ở mỗi vùng Mường có sự khác nhau. Xưa kia thì ở cả
4 Mường lớn và một số huyện khác đều có nghi thức rước kiệu hoặc cúng tại mó nước và xin rước
nước; cúng tại ruộng xin rước mạ hoặc cúng tại ruộng để xin làm lễ cày, bừa đầu tiên… nhưng
ngày nay do nhiều nguyên nhân nên phần rước kiệu chỉ còn ở lễ hội ở Mường Bi và Mường Thàng;
cúng tại ruộng để xin làm lễ cày, bừa đầu tiên chỉ còn diễn ra tại huyện Tân Lạc và huyện Lạc Sơn.
Tại cánh đồng đẹp nhất làng, lễ thức xuống đồng được tiến hành. Lễ thức xuống đồng cày để mở
đầu cho một năm mới làm ăn thịnh vượng. Lễ thức xuống đồng xong, dân làng rước Thánh về miếu
thờ. Phần hội là các hoạt động vui chơi, thi các trò chơi dân gian, biểu diễn các hình thức nghệ
thuật dân gian. Được tổ chức ngay sau khi kết thúc phần lễ chức với các trò chơi dân gian như: Hội
đánh Chiêng, hội ném còn, thi bắn nỏ, giã gạo, đánh cù, đánh mảng, kéo co, thi hát đối, hát sắc bùa
hay còn gọi là "séc púa", thi các mâm cơm, trình diễn trang phục, thi người đẹp xứ Mường và phần
thi đấu các môn thể thao…
Đây là lễ hội đầu năm mới có quy mô rộng khắp trong xứ Mường Hòa Bình. Sau ngày này
tiệc ăn tết đã hết mọi người bắt đầu ra đồng cày cấy vụ lúa đầu trong năm. Ngày nay đời sống kinh
tế của người Mường đã thay đổi nhưng nếp sống, tập tục ngày tết vẫn giữ nguyên cùng với những
hoạt động thăm hỏi chúc tết gia đình, láng giềng, chính quyền địa phương còn tổ chức vui chơi
cộng đồng cho bà con vào dịp xuân sang. Người dân Mường đang đón 1 năm mới với hy vọng
được mùa, sung túc cho cả năm.
3.3 Tết của người Mường
Tết năm mới của người Mường là phong tục đẹp chứa đựng nhiều biểu tượng tín ngưỡng văn
hóa từ ngàn xưa truyền lại, mang đậm tiếng nhân văn cao cả. Hiện nay người Mường vẫn giữ lại
được những tín ngưỡng văn hóa cổ truyền với nhiều nét đẹp đặc trưng.
Đối với người Mường tết nguyên đám cũng là cái tết quan trọng nhất, to nhất trong năm. bắt
đầu từ ngày 27 đến ngày 28 tháng chạp, mỗi gia đình người Mường đều dọn dẹp nhà cửa thật sạch lOMoAR cPSD| 60857655
sẽ tổ chức làm những mâm cơm thịnh soạn để dâng tổ tiên và thần thánh, bữa đó người ta gọi là
làm tết bữa đó các con cháu trong nhà bắt đầu làm cỗ dâng tổ tiên bằng thịt gà, thịt lợn, xôi, rượu
và các loại đồ lễ khác. Cỗ tết của người dân tộc Mường sẽ gắn liền với tập tục sinh hoạt của gia
đình họ và có nét riêng đó là mâm cỗ lá dâng lên tổ tiên trong ngày tết. Để làm mâm cỗ lá trong
ngày tết người Mường sẽ chuẩn bị một con lợn mường, giống lợn bản địa được người dân nuôi
trong năm dành vào dịp tết sẽ thịt lợn làm cỗ dâng lên tổ tiên và là thực phẩm không thể thiếu trong
mỗi gia đình người Mường chuẩn bị cho dịp tết.
Lợn sau khi được làm lông sạch đem thui bằng rơm để da lợn có màu vàng óng. Người
Mường cho rằng việc thui lợn bằng rơm là mong ước một năm mới được mùa, kết hợp giữa trồng
trọt và chăn nuôi. Thịt lợn và xôi đồ là hai món chính trong mâm cỗ lá Tết của người Mường.
Trong lúc những người con cháu chuẩn bị mâm cỗ lá các vị cao niên trong dòng họ sẽ dành
thời gian chuẩn bị mâm ngũ quả.
Trong văn hóa của người Mường mâm ngũ quả có vai trò rất quan trọng bởi mâm ngũ quả
biểu trưng cho sự hài hòa của thiên nhiên với con người trong thời điểm chuyển giao giữa năm cũ
và năm mới sự hài hòa này phải đảm bảo để tạo linh khí cho gia đình và cũng là điềm báo hiệu gia
đình đã sẵn sàng chào đón tết. Chính vì vậy mâm ngũ quả không được đặt chung với bàn thờ gia
tiên mà đc đặt nơi cột cái - cột linh thiêng và quan trọng nhất trong ngôi nhà sàn của người Mường.
Người Mường quan niệm mâm ngũ quả kết nối thần linh với những người đang sống trong
ngôi nhà. Bởi vậy mâm ngũ quả thường được bày biện bởi những người cao niên trong gia đinh.
Có thể thấy qua bài trí mâm ngũ quả những giá trị tâm linh cũng như nhân văn của người Mường
được biểu đạt mạnh mẽ. Người Mường tôn trọng những giá trị thiên nhiên gắn liền với truyền thống
văn hóa lâu đời nơi con người sống hài hòa với thiên nhiên trong nền văn minh lúa nước. Biểu đạt
cho tính văn hóa ấy còn là nếp sống được phác họa thông qua quá trình chế biến món xôi đồ, bánh
chưng, bánh ống của người Mường trong dịp đón tết. Đồ xôi không chỉ là món ăn mang tính bản
sắc văn hóa mà nó còn là tiêu chuẩn của người phụ nữ Mường. Xôi sau khi đồ mà đạt được sự
thơm, mềm, dẻo trong mâm cỗ lá sẽ là biểu trưng cho lòng thành kính dâng lên tổ tiên của người
phụ nữ trong gia đình. Ngoài ra, những món bánh như bánh chưng, bánh ống, bánh uôi không chỉ
là món ngon trong dịp tết cổ truyền mà còn được gói ghém cả tấm lòng để người Mường biến
những món ăn đơn giản này trở thành những món quà tết. Khi mà mọi thứ đã được chuẩn bị tương
đối đầy đủ cũng là lúc người Mường tỏ lòng thành kính thông qua mâm cỗ dâng lên tổ tiên, ông bà
giữ đạo làm con, uống nước nhớ nguồn.
Các phường bùa bắt đầu đi Hát Sắc Bùa thực chất là đi tới các gia đình để chúc tết. Cách
chúc tết này rất độc đáo mà chỉ có ở dân tộc Mường mới có. Phường bùa thực chất là đội hình diễn
tấu chiêng có từ 6-12 người, trong đó có một người đứng đầu gọi là trưởng phường đoàn đi đến
đâu tấu chiêng sắc bùa đến đấy. Khi vào nhà ai đều cất bài hát chúc tết gia đình. (Hát Sắc Bùa đã có ở trên)
4. Văn học dân gian
Người Mường có một nền văn học dân gian khá phong phú. Văn học dân gian của người
Mường chủ yếu là văn học truyền miệng, bởi trước đây đồng bào chưa có chữ viết và cũng như
nhiều dân tộc khác ở nước ta, người Mường chọn cách thể hiện và lưu giữ những tác phẩm văn học lOMoAR cPSD| 60857655
của mình dưới dạng văn vần – thơ. Thơ đòi hỏi tu từ chính xác và do đó nội dung cốt truyện trong
thơ được ổn định, người dân dễ nhập tâm, dễ thuộc.
Các truyện thơ nổi tiếng của người Mường như: Ut lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai mối, Nàng
Ờm chàng Bồng hương, Con côi,… Những truyện thơ này bám theo chủ đề tình yêu nam nữ, phản
ánh mối tình thủy chung son sắt, nhưng lại gặp hiều trắc trở và chính những trắc trở đó làm nổi lên
tình yêu chân thành, trong sáng của con người.
Ca dao tục ngữ Mường phản ánh cuộc đấu tranh của người dân lao động với bọn thống trị,
mặt khác ca ngợi lao động, tình yêu. Truyền thuyết Mường khá phong phú, nhiều ít đều có phần
phản ánh những sự kiện xã hội và lịch sử qua các thời kì. Nhân vật chính trong các truyện cổ tích
thường là những người mồ côi nghèo khổ, …
Truyền thuyết Mường khá phong phú, nhiều ít đều có phần phản ánh những sự kiện xã hội
và lịch sử qua các thời kì. Nhân vật chính trong các truyện cổ tích thường là những người mồ côi nghèo khổ, …
Một thể loại văn học dân gian khác của người Mường rất được các nhà nghiên cứu quan tâm
là thơ ca nghi lễ. Bởi trong thể loại thơ ca này chứa đựng thế giới quan và nhân sinh quan của người
Mường. Đó là những bài Mo, bài khấn do ông Mo đọc và hát trong nghi lễ cúng tang ma, khi cúng
ma, cầu vía. Một tác phẩm văn học nghi lễ nổi tiếng ủa người Mường là “Mo sử thi dân tộc Mường”
– đây là một tài liệu văn học dân gian có giá trị khoa học và nghệ thuật lớn. Trong kho tàng văn
học dân gian Mường không thể không kể tới tác phẩm “Đẻ đất đẻ nước” là một tài liệu văn học
dân gian có giá trị gạt bỏ những yếu tố hoang tưởng và những cái do tầng lớp thống trị đưa vào
nhằm đề cao uy thế của mình, nó không những có giá trị về mặt văn học mà còn có giá trị về nhiều mặt khác nữa.
Có thể nói, sử thi Đẻ đất đẻ nước là môt công trình văn hóa, trong đó có cả văn học dâṇ gian,
văn hóa dân gian, cả triết học, sử học, dân tôc học. Trong sử thi Đẻ đất đẻ nước có thể nhậ ṇ thấy
những đăc trưng, sắc thái riêng của nghệ thuậ t dân gian. Cách cảm, cách nghĩ của ngườị miền núi
xưa đã tạo nên cách nói năng mang dấu ấn riêng biêt. Người Mường dùng lối đối lời,̣ đối câu tạo
nên những hình ảnh trùng điêp, chồng chất tầng tầng lớp lớp, phù hợp với cấu trúc có ̣ tính hoành tráng của sử thi.
5. Âm nhạc dân gian
Mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng riêng về văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ, chữ viết,
dân ca,… Với người Mường cũng vậy, cùng với chiêng Mường thì các làn điệu dân ca có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Mường.
Dân ca là một thể loại đặc sắc nhất của dòng chảy văn hóa dân tộc Mường, là kho tàng dân
ca truyền thống của người Việt cổ bởi sự phong phú về giai điệu, hàm xúc về nội dung biểu đạt và
đa dạng về địa điểm, thời gian, không gian. Người Mường dùng làn điệu dân ca để lưu giữ lại
những phong tục tập quán, thói quen trong cuộc sống hàng ngày để bày tỏ những cung bậc cảm
xúc trong cuộc sống. Dân ca của người Mường tuy giản dị nhưng trong đó có sức sống mãnh liệt.
Người Mường hát dân ca khi lao động sản xuất ngoài nương rẫy; hát ru và răn dạy con cái và người
thân trong nhà; trong lễ hội truyền thống; khi gặp bạn bè,… Người Mường sử dụng các làn điệu lOMoAR cPSD| 60857655
dân ca tùy thuộc vào bối cảnh cụ thể để có nội dung phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đó. Trong
đó, nổi bật là các làn điệu dân ca: hát Xắc bùa, Rằng thường, Bộ mẹng, Ví đúm.
Hát xéc bùa ( có nơi còn gọi là xắc bùa hay khóa rác) là một hình thức hát dân ca ra đời từ
rất xa xưa mà chứng tích được nhắc đến trong sử thi “Đẻ đất, đẻ nước”. Xắc bùa có nghĩa là xách
cồng chiêng đi hát của các phường bùa. Người ta tổ chức thành từng tốp từ năm, bảy đến hai chục
người ( gọi là phường bùa), mỗi người xách một chiếc cồng ( do có nhiều loại cồng, to nhỏ khác
nhau nên đây có thể coi như một dàn nhạc cồng). Cứ hát xong một bài, phường bùa lại đánh một
đoạn nhạc cồng theo những giai điệu nhất định. Phường bùa đi hết nhà này sang nhà khác, vừa hát
vừa đánh cồng. Nhà chủ thường mời họ ăn uống hoặc tặng gạo, tiền. Hát xắc bùa là một loại hình
dân ca được sử dụng trong các dịp lễ, tết, hội hè hay cưới xin. ý nghĩa của hình thức này là chúc
cho một năm mới vui vẻ, cầu cho một năm mới mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.
Hát rằng thường hay thường rang là hình thức hát dân ca trong các dịp vui mừng mùa, mừng
đám cưới hay mừng nhà mới... Đây là lối hát dân dã, lối kể những chuyện ca ngợi cuộc sống lao
động, phong tập tục quán, tín ngưỡng tốt đẹp của người lao động, thể hiện mong muốn về cuộc
sống sung túc, đầy đủ. Loại hát này có thể hát cá nhân hay tập thể hoặc đối đáp nam nữ nhưng chủ
yếu là hát đối đáp nam nữ. Bên nam và bên nữ hát thành chặng dài, có mở đầu, có kết thúc và hình
thức hát dân ca này đã có từ rất lâu đời.
Bộ mẹng (nói chuyện) là loại dân ca tự bộc bạch tâm tình trong các dịp lễ, hội của đồng bào
Mường hát bộ mẹng không chỉ để ca ngợi cuộc sống yên bình, no đủ và yên ấm mà bộ mẹng nhiều
khi còn là những khúc tâm tình, những lúc giao duyên nam nữ. Trong những câu hát thường thiên
về tình yêu trai gái, là những câu hát thăm dò ý tứ. Bên những bếp lửa hay dưới những ánh trăng
đêm rằm, các chàng trai, cô gái trao duyên qua từng câu hát, những tâm tình được gửi trọn qua lời
những lời hát thật giản dị và trong sáng.
Hát ví, đúm ( có nơi gọi là hát bí) cũng là loại dân ca tương đối phổ biến. Nó được thể hiện
dưới hình thức đối đáp và được hát nhiều trong khi đi chợ, lúc gặp nhau dọc đường hoặc trong lao
động sản xuất. Nội dung chủ yếu là thể hiện tình yêu, cũng có những bài phản ánh những vấn đề xã hội khác. V. VĂN HÓA XÃ HỘI
1. Cơ Cấu Tổ Chức Làng, Bản, Buôn
Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, xã hội người được đặc trưng bằng chế độ lang đạo
(có thể gọi là chế độ nhà Lang), tính chất và quan hệ của nó khá phức tạp và tùy theo từng khu vực
mà có những nét khác nhau.
Đơn vị cơ sở của xã hội là xóm (hoặc chòm, ở nhiều vùng còn gọi là quel hay quên), hoặc
gọi là làng (ví dụ như ở Thanh Hóa) và các mường. Mỗi xóm có một địa vực, có phạm vi ruộng
đất, nương rẫy, núi rừng hoặc có thể có những hệ thống thủy lợi riêng do dân ở đó xây dựng. Quan
hệ trong làng xóm chủ yếu là quan hệ khu vực và láng giềng, chứ không phải quan hệ huyết thống.
Khoảng trên dưới một chục xóm hợp lại thành một mường nhưng cũng có mường trên 20
xóm như ở Mường Bi, Mường Vang thuộc tỉnh Hòa Bình (cũ). Thực ra ranh giới của mường không
hoàn toàn cố định. Mường có thể phát triển do những người đứng đầu có thể lực lấn chiếm hoặc lOMoAR cPSD| 60857655
dung cách này hay cách khác mở rộng thêm đất đai. Ngược lại nó cũng có thể bị thu hẹp khi người
cầm đầu thế yếu, không giữ được đất đai toàn vẹn. Đứng đầu một mường thường gọi là “lang cun”
(ở Thanh Hóa gọi là “đạo mường”, ở Vĩnh Phú gọi là “ngài” hay “thổ tù”), nắm quyền chi phối
trong mường. Giữa các mường vẫn mang tính chất độc lập nhất định, chưa thấy hiện tượng một
“lang cun” có quyền hành bao trùm lên nhiều mường. Nhưng từng thời kì, do nguyên nhân nào đó,
có những lang cun trở nên mạnh, có thế lực thì những lang ở các mường lân cận phải kính nể.
Trước cách mạng Tháng Tám, nhìn chung trong xã hội Mường đã hình thành hai giai cấp,
giai cấp bóc lột (là lang đạo) và giai cấp bị bóc lột (là những người dân lao động trong xóm, trong
mường, hằng năm phải đi làm không công, biếu xén, phục dịch…). Tuy nhiên sự phân hóa này còn
chưa sâu sắc. Trước đây, giữa các vùng, xã hội phát triển không hoàn toàn giống nhau, có vùng còn
tồn tại chế độ lang đạo, có vùng chế độ đó đã tan rã, tổ chức xã hội đã tương tự như miền xuôi.
Song ngay cả vùng còn chế độ lang đạo, bộ máy tổ chức và trên nhiều mặt vẫn có những nét khác biệt nhất định.
Lang đạo theo chế độ thế tập, lang cun là con trưởng cửa chi rưởng, trên danh nghĩa đứng
đầu mường, nhưng chủ yếu cai quản “xóm chiềng”. Đây thường là xóm lớn nhất, ruộng đất nhiều.
con thứ hoặc con trưởng ở ngành thứ cai quản các xóm nhỏ gọi là lang xóm hay đạo. Nhìn chung
các thổ lang giữ địa vị thống trị, nắm quyền quản lí, phân phối ruộng đất trong mường, trong xóm.
Giữa lang và dân có sự cách biệt nghiêm ngặt.
Những lang cun cai quản nhiều đất đai, nhiều dân có nhiều của cải đồng thời lại năm những
chức vụ trong bộ máy chính quyền thực dân phong kiến là những kẻ có thế lực.
Thổ lang có một số người giúp việc (gọi là ậu) để điều hành các công việc trong mường,
trong xóm, có nhiều chức ậu khác nhau, giữa các khu vực có sự khác nhau về số lượng và tên gọi
các ậu. song nhìn chung họ có những nhiệm vụ giống nhau như: lo thu thóc, thu hiện vật, lo việc
cúng bái, cưới xin, ma chay… và nhiều công việc khác. Họ được hưởng phần ruộng công của
mường, ít nhiều tùy theo chức vụ của mình. Ậu không phải là chức vụ cha truyền con nối, họ đều
xuất thên từ tầng lớp bình dân, do lang cất nhắc hoặc loại bỏ.
Dân là tầng lớp bị trị, bộ phận đông đảo nhất là nông dân, họ được nhận một phần ruộng để
sinh sống nhưng có nghĩa vụ là phải đóng góp, tạp dịch, phu phen, biếu xén,…cho nhà Lang. Ngoài
ra cũng có bộ phận không nhận ruộng và cũng không có ruộng tư phải sống nhờ nương rẫy, đời
sống kinh tế gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, làm việc cho nhà Lang có một số ít người thân phận thấp kém: đa phần là người bị
phạt vạ, không lo được tiền chuộc, người không trả được nợ hoặc quá nghèo túng phải đi ở, phục dịch.
Về vấn đề phân chia ruộng đất trong làng, trước cách mạng Tháng Tám ruộng đất của người
Mường chia làm nhiều loại: ruộng lang, ruộng ậu, ruộng dân và ruộng tư.
Ruộng lang chiếm diện tích đáng kể, là những ruộng gần như có điều kiện canh tác tốt nhất,
nhưng chủ yếu không phải do nhà lang trực tiếp kinh doanh. Nhân dân lao động trong làng, xóm
dưới quyền cai quản của nhà lang phải đến làm không công dưới các hình thức làm xâu, làm nõ.