Luận chứng cơ sở lí luận, phương pháp luận, thực tiễn ở nước ta trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế phải tồn tại nhiều thành phần | Tiểu luận cuối kì môn Triết học Mác – Lênin
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đặc biệt, trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay, việc nền kinh tế phải tổn tại nhiều thành phần là một tất yếu. Đây là điều hiển nhiên giúp đáp ứng các nhiệm vụ trên. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA CƠ KHÍ CHẾ TẠO MÁY
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ ĐỀ TÀI
LUẬN CHỨNG CƠ SỞ LÍ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN, THỰC TIỄN Ở
NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
THÌ NỀN KINH TẾ PHẢI TỒN TẠI NHIỀU THÀNH PHẦN
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 3
GIÁO VIÊN PHỤ TRÁCH: THẠC SĨ TRẦN TUẤN PHÁT
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09, tháng 12, năm 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
*************************************
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI :
LUẬN CHỨNG CƠ SỞ LÍ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN, THỰC TIỄN Ở
NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
THÌ NỀN KINH TẾ PHẢI TỒN TẠI NHIỀU THÀNH PHẦN
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN : 1 Đào Hồng Anh 23146171
2 Đinh Hoàng Thiên Ân 23146177 3 Lê Thiện An 23146169
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÀY 9 THÁNG 12 NĂM 2023. LỜI GIỚI THIỆU :
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, đặc biệt, trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nước ta hiện nay, việc nền kinh tế phải tổn tại nhiều thành phần là một tất yếu.
Đây là điều hiển nhiên giúp đáp ứng các nhiệm vụ trên. NỘI DUNG PHẦN MỘT
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN HƯỚNG TIẾP CẬN 1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT.
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LÀ GÌ ? CHỦ NGHĨA DUY VẬT LÀ:
THỨ NHẤT THỪA NHẬN TỒN TẠI LÀ CÁI CÓ TRƯỚC, Ý THỨC LÀ CÁI CÓ SAU.
THỨ HAI LÀ CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN THỨC ĐƯỢC THẾ GIỚI VÀ
CẢI TẠO ĐƯỢC THẾ GIỚI. TRONG TÁC PHẨM CÁC MÁC, TUYỂN TẬP, TẬP
MỘT TRANG 329 TIẾNG VIỆT ĂNG GHEN VIẾT :
(( VẤN ĐỀ QUAN HỆ GIỮA TƯ DUY VÀ TỒN TẠI, GIỮA TINH THẦN VÀ TỰ
NHIÊN, LÀ VẤN ĐỀ TỐI CAO CỦA TOÀN BỘ NỀN TRIẾT HỌC…CÁC NHÀ
TRIẾT HỌC CHIA RA THÀNH HAI PHE LỚN, TÙY THEO CÁCH HỌ GIẢI ĐÁP
VẤN ĐỀ ẤY. NHỮNG NGƯỜI QUẢ QUYẾT RẰNG TINH THẦN CÓ TRƯỚC
TỰ NHIÊN…HỢP THÀNH PHE DUY TÂM. NHỮNG NGƯỜI CHO RẰNG TỰ
NHIÊN LÀ NGUỒN GỐC CƠ BẢN THÌ THUỘC VỀ CÁC MÔN PHÁI KHÁC
NHAU CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT ))
CHỦ NGHĨA DUY VẬT THỪA NHẬN MỘT CÁCH TỔNG QUÁT RẰNG CÁI
TỒN TẠI HIỆN THỰC ( VẬT CHẤT LÀ ĐỘC LẬP VỚI Ý THỨC, CẢM GIÁC,
KINH NGHIỆM…Ý THỨC…CHỈ LÀ PHẢN ÁNH CỦA TỒN TẠI. MÀ PHẦN
LỚN CÁC TRƯỜNG HỢP THÌ LÀ PHẢN ÁNH GẦN ĐÚNG. (LÊ NIN TẬP 13 TRANG 266-267).
VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở ĐÂY LÀ CÁC KHÁI NIỆM NHƯ TỒN TẠI, THỰC TẠI VÀ HIỆN TẠI LÀ KHÁC NHAU.
KHÁI NIỆM TỒN TẠI LÀ CHỈ ((VẬT CHẤT)) VỚI TÍNH CHẤT ((VẬT CHẤT))
LÀ TÍNH KHÁI QUÁT TOÀN THỂ VẬT CHẤT ĐƯỢC LÊ NIN CHỈ RA LÀ MỘT
PHẠM VI TRIẾT HỌC. VẬT CHẤT KHÔNG DO AI TẠO RA VÀ CŨNG KHÔNG
MẤT ĐI NÓ TỒN TẠI VĨNH VIỄN (( ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN CHUYỂN HÓA
NĂNG LƯỢNG)) ĐÃ CHỨNG MINH ĐIỀU ĐÓ.
KHÁI NIỆM THỰC TẠI HAY HIỆN TẠI LÀ CHỈ TẤT CẢ CÁC SỰ HỮU HÌNH
ĐANG VẬN ĐỘNG BIẾN ĐỔI KHÔNG NGỪNG LÀ CÁI THỂ HIỆN, BIỂU HIỆN
CỦA VẬT CHẤT. NHƯNG SỰ VẬT HỮU HÌNH ĐÓ KHÔNG TỒN TẠI MÀ
CHÚNG BIẾN ĐỔI KHÔNG NGỪNG VÌ ĐỨNG YÊN CHỈ LÀ TƯƠNG ĐỐI THỂ
HIỆN SỰ CÂN BẰNG CHỈ THOÁNG QUA TẤT CẢ NHỮNG CÁI THỰC TẠI
HIỆN TẠI VẬN ĐỘNG BIẾN ĐỔI KHÔNG NGỪNG ((VẬN ĐỘNG LÀ PHƯƠNG
THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT )) PH.ĂNG GHEN ĐÃ ĐƯA RA NĂM LOẠI
VẬN ĐỘNG TỪ THẤP ĐẾN CAO ĐÓ LÀ :
THỨ NHẤT : VẬN ĐỘNG CƠ HỌC
THỨ HAI VẬN ĐỘNG : VẬN ĐỘNG VẬT LÝ
THỨ BA : VẬN ĐỘNG HÓA HỌC
THỨ TƯ : VẬN ĐỘNG SINH HỌC
THỨ NĂM : VẬN ĐỘNG XÃ HỘI TỨC LÀ VẬN ĐỘNG TƯ DUY
TRONG QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA CÁC THỰC THỂ HIỆN THỰC MÀ TA
QUAN SÁT ĐƯỢC BAO GIỜ CŨNG VẬN ĐỘNG TRONG KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NHẤT ĐỊNH.
KHÔNG GIAN BA CHIỀU ĐÓ LÀ : DÀI – RỘNG – CAO VÀ CHIỀU THỜI GIAN
CỦA KHÔNG GIAN CÒN THỜI GIAN CHỈ MỘT CHIỀU.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRỰC TIẾP CỦA ĐỀ TÀI ((……….)) LÀ LÝ LUẬN
VỀ HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI.
VÌ HƯỚNG TIẾP CẬN VỀ HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI MÀ
CÁC MÁC PHÁT HIỆN HƯỚNG XÁC ĐỊNH CON NGƯỜI LÀ CHỦ THỂ XÃ
HỘI LÀ SỰ SINH TỒN CỦA CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI. ĐIỂM
XUẤT PHÁT LÀ SỰ SỐNG ….
THẾ GIƯỚI VẬT CHẤT PHÂN CHIA HAI LOẠI ĐÓ LÀ LOẠI HỮU CƠ VÀ LOẠI VÔ CƠ.
LOẠI HỮU CƠ LÀ LOẠI NÓI VỀ SỰ SỐNG NÓI VỀ TẾ BÀO, NÓI VỀ TRAO
ĐỔI CHẤT, NÓI VỀ ĐẤU TRANH SINH TỒN, NÓI VỀ TIẾN HÓA. ĐẶC BIỆT
LÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TẾ BÀO CẢM GIÁC MÀ ĐỈNH NHẤT LÀ CON
NGƯỜI GỒM SÁU GIÁC QUAN TỪ ĐÓ VÀ DO ĐÓ CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG TƯ DUY SÁNG TẠO.
SAU ĐÂY TOÀN BỘ TƯ TƯỞNG VỀ HỌC THUYẾT KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA MAC:
Nhiều quan điểm khác nhau phủ định học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của c.mác.
Điểm chung của những quan điểm này là phủ định tính khách quan của quy luật xã
hội. Các lập luận về mặt lý luận khoa học bắt đầu từ việc phủ định tính khách quan
của quy luật xã hội và khẳng định tính đúng đắn của học thuyết của c.mác.
Mặt lý luận khoa học chứng minh rằng cả quy luật tự nhiên và xã hội đều tồn tại
khách quan và có thể nhận thức bởi con người. Quy luật xã hội và tự nhiên chia sẻ cơ
sở chung trong tính thống nhất vật chất của thế giới. Các quan điểm phủ định cũng
nhấn mạnh vai trò của sự phát triển của trí tuệ, khoa học và công nghệ trong việc thúc
đẩy phát triển xã hội.
Về mặt thực tiễn, các luận điểm xuyên tạc học thuyết của c.mác tập trung vào "Quy
luật chung" Và "Con đường chung," Phủ nhận sự thay thế các hình thái kinh tế - xã
hội từ thấp đến cao. Thực tế lịch sử chứng minh rằng sự phát triển của loài người diễn
ra theo quá trình thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, không theo một "Con đường chung" duy nhất.
Về mặt lịch sử, sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra khách quan,
nhưng có liên quan đến điều kiện lịch sử và đặc trưng kinh tế - xã hội của từng quốc
gia. Học thuyết của c.mác vẫn phản ánh đúng quy luật phát triển, và việt nam có thể
áp dụng nó vào quá trình phát triển hiện đại của mình.
Tổng cộng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của c.mác vẫn giữ giá trị khoa học và
có thể áp dụng vào thực tế phát triển xã hội của việt nam.
SAU ĐÂY LÀ BIỂU ĐỒ TỔNG QUÁT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA CÁC MÁC MÀ GIẢNG VIÊN THẠC SĨ TRẦN TUẤN PHÁT PHÁT HỌA SAU ĐÂY : II.
PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.
1. KHÁI NIỆM BIỆN CHỨNG.
Dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển
theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. NHƯ VẬY TẤT CẢ MỌI SỰ VẬT HIỆN TƯỢNG TRONG XÃ HỘI HAY
TỰ NHIÊN CŨNG NHƯ TƯ DUY ĐỀU DIỄN RA NHƯ SAU :
VẬN ĐỘNG -> LIÊN HỆ -> TƯƠNG TÁC -> CHUYỂN HÓA -> BIẾN ĐỔI THEO CHIỀU XOAY TRÒN ÓC
1. KHÁI NIỆM VẬN ĐỘNG:
Là một phạm trù của triết học marx-lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại
của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của
tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp.
2. KHÁI NIỆM LIÊN HỆ - QUAN HỆ:
Là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của
một hiện tượng trong thế giới. 3. KHÁI NIỆM TƯƠNG TÁC:
Khái niệm tương tác liên quan đến mối quan hệ và tương tác giữa các yếu tố, cá
thể, hay hệ thống. Được hiểu như sự ảnh hưởng lẫn nhau, tương tác có thể xảy
ra giữa con người và môi trường, giữa các cá thể trong xã hội, hay giữa các yếu
tố trong một hệ thống phức tạp. 4. KHÁI NIỆM CHUYỂN HÓA:
Là quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá
trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
5. KHÁI NIỆM PHÁT TRIỂN: - Quan điểm siêu hình:
Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng
Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất,
không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới. - Quan điểm biện chứng:
Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co phức tạp thậm chí
có những bước thụt lùi.
ĐỂ XÁC NHẬN SỰ VẬT HAY SỰ KIỆN ĐANG DIỄN RA THỰC TẠI
KHÁCH QUAN TA PHẢI DỰA VÀO CÁC CÂY PHẠM TRÙ NHƯ : CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG:
Cái riêng tức phạm trù chỉ về một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
Cái chung tức phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết
cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC:
Nội dung tức phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG:
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật
Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
ĐỂ XÁC ĐỊNH SỰ VẬT HAY SỰ KIỆN THỰC TẠI NÓ ĐANG DIỄN RA TA
PHẢI VẬN DỤNG CÁC CẶP PHẠM TRÙ NHƯ :
NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ:
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra, qua đó phản ánh mối
quan hệ hình thành của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN:
Tất nhiên tức phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu
vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra.
Ngẫu nhiên một phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật
chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều
hoàn cảnh bên ngoài quyết định và có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể
xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác
KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC:
Khả năng là "Cái hiện chưa có" Nhưng bản thân khả năng có tồn tại, đó là một sự
tồn tại đặc biệt tức là cái sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, song bản
thân khả năng thì tồn tại. Hiện thực thì không đồng nghĩa với khái niệm hiện thực khách quan..
Hiện thực khách quan là khái niệm chỉ các sự vật, vật chất tồn tại độc lập với ý
thức của con người, còn hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện tượng vật chất
đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một
cách chủ quan trong ý thức của con người
BA CẶP PHẠM TRÙ NÀY PHẢI GẮN VỚI SỰ KIỆN MÀ PHÁN ĐOÁN VÀ
XEM XÉT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH. PHÁT TRIỂN VÀ BIẾN ĐỔI CỦA SỰ
VẬT HAY SỰ KIỆN TRONG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ TƯ DUY, TỪ ĐÓ ĐƯA RA QUY LUẬT :
MÂU THUẪN VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP ĐỂ TÌM NGUỒN
GỐC CỦA SỰ VẬT HAY SỰ KIỆN XÁC ĐỊNH QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI CỦA NÓ
TRÊN QUY LUẬT LƯỢNG VÀ CHẤT, MỐI QUAN HỆ GIỮA LƯỢNG CÀ
CHẤT TỪ ĐÓ XÁC ĐỊNH TỐC ĐỘ HAY NHỊP BIẾN ĐỔI CỦA SỰ VẬT HAY HIỆN TƯỢNG.
QUY LUẬT LƯỢNG VÀ CHẤT CHO TA NHẬN THỨC TIẾN TRÌNH PHÁT
TRIỂN VÀ BIẾN ĐỔI TỪ ĐÓ XÁC ĐỊNH ĐƯỢC KHI NÀO BIẾN ĐỔI CHÍNH
LÀ LƯỢNG CHẤT ĐẠT TỚI ĐIỂM NÚT.
SỰ BIẾN ĐỔI SỰ VẬT MỚI DIỄN RA NHANH CHẬM CÒN TÙY THUỘC VÀO
BƯỚC NHẢY NHẤT LÀ VỀ XÃ HỘI NÓ PHẢI THÔNG QUA NHẬN THỨC
CỦA CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI DO ĐÓ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VĂN HÓA
GIÁO DỤC LÀ ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY NGUỒN NHÂN LỰC C0N NGƯỜI.
KHI SỰ VẬT MỚI, HAY SỰ KIỆN MỚI RA ĐỜI ĐỀU CÓ SỰ KẾ THỪA MẶT
TÍCH CỰC CỦA SỰ VẬT CŨ, CÁI CŨ LÀ TIỀN ĐỀ CHO CÁI MỚI DO ĐÓ VẬN
DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH MÀ GIẢI QUYẾT SỰ VẬT.
VÌ QUÁ KHỨ TẠO HIỆN TẠI VÀ CHÍNH HIỆN TẠI LÀ CƠ SỞ NỀN TẢNG
CHO ĐỊNG HƯỚNG TƯƠNG LAI DO ĐÓ RÚT RA Ý NGHĨA :
1. GIÁO DỤC LỊCH SỬ LÀ CỰC KÌ QUAN TRỌNG:
Việc giáo dục lịch sử đóng vai trò quan trọng vì nó không chỉ giúp chúng ta
hiểu rõ về quá khứ mà còn hình thành nhận thức về bản chất con người, giá trị
văn hoá và sự phát triển của xã hội. Qua việc nghiên cứu lịch sử, chúng ta có
thể học từ những kinh nghiệm trước đây, tránh lặp lại những sai lầm và xây
dựng cơ sở cho sự hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quang.
2. GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA:
Giáo dục truyền thống văn hóa trong triết học mang lại ý nghĩa lớn bởi nó giúp
duy trì và truyền đạt những giá trị, niềm tin, và bản sắc văn hóa từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Qua việc này, con người không chỉ kết nối với quá khứ mà
còn xây dựng tư duy và nhận thức đặc biệt, tạo nên một nền văn minh đa dạng
và phong phú. Giáo dục văn hóa là cầu nối giữa quá khứ và tương lai, hỗ trợ
xây dựng một xã hội có ý thức văn hóa sâu sắc.
3. GIÁO DỤC BAO GIỜ CŨNG GẮN VỚI QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI:
Trong triết học, giáo dục mang ý nghĩa quan trọng vì nó liên kết quá khứ, hiện
tại và tương lai. Giáo dục giúp chúng ta hiểu rõ về quá khứ, học từ những kinh
nghiệm trước đây để áp dụng vào hiện tại và xây dựng nền tảng cho tương lai.
Nó không chỉ là quá trình truyền đạt kiến thức mà còn là công cụ định hình ý
thức, giáo dục gắn kết con người với lịch sử, định hình hành vi hiện tại và
chuẩn bị cho những thách thức và cơ hội trong tương lai. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trải qua giai đoạn chuyển đổi sang một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
trong đó sự sở hữu được công nhận là của toàn bộ xã hội và không còn phân biệt giai
cấp. Mục tiêu chung của Việt Nam là để con người có thể tự do phát triển theo nhu
cầu của mình, điều này cũng là mục tiêu chung của nhân loại. Để đạt được điều này,
việc phát triển lực lượng sản xuất là điều cần thiết.
Việt Nam đã bắt đầu từ một quốc gia nghèo, kém phát triển trong lĩnh vực kinh tế.
Các hệ lụy của chính sách kế hoạch hóa tập trung và bao cấp vẫn còn tồn tại và gây
khó khăn cho quá trình hội nhập. Vì vậy, phát triển kinh tế đã trở thành ưu tiên hàng
đầu của Đảng và nhân dân. Để đạt được điều này, chúng ta cần phát triển nền kinh tế
quốc dân, đa dạng hóa các thành phần và thúc đẩy hoạt động theo cơ chế thị trường
với sự quản lý của Nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là giải pháp cơ bản để
chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn ở Việt Nam hiện nay.
Việc nghiên cứu quá trình phát triển nền kinh tế đa dạng thành phần ở Việt Nam trong
giai đoạn chuyển đổi sẽ giúp sinh viên, đặc biệt là sinh viên ngành kinh tế, hiểu rõ hơn
về quá trình sản xuất xã hội. Đồng thời, chúng ta cũng nhận ra tầm quan trọng của
việc phát triển nền kinh tế đa dạng thành phần ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi,
vừa phù hợp với sự phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với tình hình phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
1/ Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Quan điểm của Hồ Chí Minh là sự đoàn kết với các nhà kinh điển và nhấn mạnh
việc rút ngắn thời gian quá độ cho Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã hiểu được tính chất chung và đặc biệt của lịch sử từng nước trong
giai đoạn quá độ. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, mỗi dân tộc sẽ phát triển theo con
đường khác nhau. Có những nước có thể trực tiếp tiến tới xây dựng chế độ xã hội
mới, trong khi những nước khác phải trải qua giai đoạn chế độ dân chủ trước khi
tiến tới chế độ xã hội mới.
Hồ Chí Minh đã xây dựng quan niệm quá độ gián tiếp dựa trên thực tế của Việt
Nam. Ông chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn trong quá trình quá độ lên chế độ
xã hội mới ở Việt Nam. Điều quan trọng là Việt Nam không trải qua giai đoạn
phát triển kinh tế bán công nghiệp trước khi tiến tới chế độ xã hội mới. Điều này
là một vấn đề mới và cần phải nhận thức và tìm ra giải pháp phù hợp cho Việt
Nam. Mâu thuẫn cơ bản trong quá trình quá độ là sự đối đầu giữa yêu cầu tiến tới
xây dựng một chế độ xã hội mới với nền công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật
tiên tiến và tình trạng lạc hậu phải đối mặt với những thế lực cản trở và phá hoại mục tiêu của chúng ta.
Hồ Chí Minh đã điều chỉnh quan niệm ban đầu về thời gian quá độ dựa trên kinh
nghiệm của Liên Xô và Trung Quốc. Ông dự đoán rằng sẽ có hai hoặc ba kế hoạch
dài hạn, nhưng sau đó ông nhận thức được rằng xây dựng chế độ xã hội mới là
một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và kéo dài trong thời gian dài.
Về nhiệm vụ lịch sử của giai đoạn quá độ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng chúng ta
cần phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chế độ xã hội mới, đồng thời
cải tiến những kỹ thuật cũ và xây dựng những kỹ thuật mới. Ông nhấn mạnh rằng
việc xây dựng là quan trọng và kéo dài trong thời gian dài. Hồ Chí Minh cũng chỉ
ra nhiệm vụ cụ thể về mặt chính trị, kỹ thuật, văn hóa và xã hội.
Về mặt kinh tế, chúng ta cần phải tạo ra những yếu tố và lực lượng đã được đạt
được trong giai đoạn tư bản, nhưng đồng thời không đi theo con đường chủ nghĩa
tư bản. Chúng ta cần sử dụng các hình thức và phương tiện của chủ nghĩa tư bản
để xây dựng chế độ xã hội mới. Kẻ thù muốn đánh bại chúng ta bằng cách tấn
công kinh tế, vì vậy chúng ta phải phát triển kinh tế.
Trong triết lý, văn hóa và xã hội, Bác Hồ đã nhấn mạnh rằng chúng ta cần khắc
phục những điểm yếu về kiến thức, chính trị, kinh tế và văn hóa để tránh những
hành vi tiêu cực và sự suy thoái của các cán bộ và đảng viên, tạo ra những điểm
yếu dễ bị lợi dụng bởi các thế lực chống nước. Bác cũng nhấn mạnh rằng để xây
dựng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải bắt đầu từ việc tự cải tổ bản thân, vì không
có tư tưởng chủ nghĩa xã hội thì không thể làm được công việc của chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo thành công cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta cần duy trì và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước,
khai thác tính tích cực và tính chủ động của các tổ chức chính trị-xã hội, và xây
dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài năng để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm
hai mục tiêu chính. Thứ nhất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, tạo ra các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng cho sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội. Thứ hai là cải tổ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, kết hợp
cải tổ và xây dựng, trong đó việc xây dựng được coi là trọng tâm và nội dung quan
trọng nhất, là mục tiêu chính lâu dài.
Tư tưởng của Bác Hồ về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam bao gồm những vấn đề cốt lõi và cơ bản nhất, dựa trên việc áp
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lê Nin. Đó là những quan điểm về
bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; tính tất yếu khách quan của
giai đoạn quá độ; đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và
biện pháp để thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng
này đã trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và chỉ dẫn cho việc duy trì và giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, đồng thời mở ra nhiều vấn đề về xác
định hình thức, biện pháp và bước đi để tiến lên chủ nghĩa xã hội với những đặc
điểm riêng của dân tộc và xu thế của thời đại hiện nay.
Trong lĩnh vực kinh tế, để đạt được thành công trong việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội tại Việt Nam, chúng ta cần duy trì và tăng cường vai trò quản lý của nhà nước,
khai thác tích cực và sáng tạo của các tổ chức chính trị và xã hội. Đồng thời, cần
phát triển một đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn chuyển tiếp, chúng ta đã học hỏi từ kinh nghiệm của Liên Xô và
Trung Quốc, nhưng sau đó đã điều chỉnh lại quan niệm. Chúng ta nhận thấy rằng
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và
kéo dài. Nó bao gồm việc loại bỏ hoàn toàn chế độ tư bản chủ nghĩa và tạo ra sự
thay đổi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực xã hội. Đây là một công việc rất khó
khăn và phức tạp, và chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian với nhiều giai đoạn và hình
thức tổ chức kinh tế và xã hội có tính chất quá độ. Trong cuộc sống xã hội, sự đan
xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là điều không thể tránh khỏi.
Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cần được
kết hợp với xây dựng các quan hệ sản xuất mới theo hướng xã hội chủ nghĩa trên
ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
*Hình thức sở hữu
Trong thời kỳ này, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, đa dạng thành
phần kinh tế, giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, dẫn đến sự mâu thuẫn và đấu
tranh giữa các giai cấp. Tuy nhiên, cơ cấu, nội dung và vị trí của các giai cấp trong
xã hội đã có nhiều thay đổi đáng kể do sự biến đổi lớn về kinh tế và xã hội.
Chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là kết quả của sự tiến bộ kinh tế và xã
hội, khi các lực lượng sản xuất hiện đại được tổ chức và trở thành hình thức chủ
yếu trong xây dựng xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh. Việc thiết lập chế độ này là một
quá trình dài và phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Để đạt được điều này,
chúng ta cần dựa trên thực tiễn và thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công
cộng và quan hệ sản xuất mới một cách vững chắc. Tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá
hiệu quả của việc xây dựng quan hệ sản xuất theo hướng xã hội chủ nghĩa là thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện cuộc sống của nhân dân và thực hiện công bằng xã hội.
Đối với người làm nghề thủ công và lao động cá nhân, Nhà nước sẽ bảo vệ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất, hướng dẫn và hỗ trợ họ cải tiến phương pháp làm việc và hợp tác.
Đối với những nhà tư sản công thương, chúng ta sẽ không loại bỏ quyền sở hữu
của họ, mà sẽ hướng dẫn họ hoạt động theo lợi ích của quốc gia và nhân dân,
khuyến khích và cải tạo họ theo chủ nghĩa xã hội thông qua hình thức tư bản nhà
nước. Nhà nước cần khuyến khích, hướng dẫn và hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác
xã, vì đây là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, thực hiện công bằng
xã hội, chống lại áp bức và bất công. Chúng ta cũng phải đấu tranh để ngăn chặn
và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái để duy trì trật tự và
kỷ cương xã hội; đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các
thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng một nước Việt Nam giàu
mạnh, phồn vinh và nhân dân hạnh phúc.
*Quan hệ phân phối và quản lý kinh tế
Việc quản lý kinh tế phải dựa trên việc hạch toán chính xác, đem lại hiệu quả cao
và sử dụng tốt các công cụ để phát triển sản xuất. Người đứng đầu phải tuân thủ
nguyên tắc phân phối theo lao động: làm bao nhiêu được bấy nhiêu. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề cập đến việc áp dụng hình thức khoán trong sản xuất. Khoán là
một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khuyến khích người lao động luôn tiến bộ và
đóng góp vào sự phát triển của nhà máy. Khoán mang lại lợi ích cho cả cộng đồng và cá nhân....
Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, chúng ta cần phải khắc phục những điểm yếu về
kiến thức, sự bấp bênh trong chính trị, tình trạng kinh tế đang trì trệ và sự lạc hậu
trong văn hóa. Tất cả những vấn đề này sẽ gây ra những hậu quả xấu, ảnh hưởng
đến sự phát triển của các cán bộ Đảng viên... Điều này cũng là một cơ hội cho chủ
nghĩa tư bản có thể lợi dụng. Bác Hồ đã nhấn mạnh rằng, để cải tổ xã hội, chúng
ta cần phải cải tổ bản thân mình trước. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
thì không thể thực hiện được công việc của một xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần
tập trung vào việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam tiếp nối, những người có
lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý chí độc lập, tự cường và tinh thần phấn
đấu để đưa đất nước và dân tộc phát triển mạnh mẽ. Chúng ta cần có những người
có đức, có tài, đủ sức mạnh để thực hiện sứ mệnh lịch sử xây dựng một Việt Nam
giàu có, mạnh mẽ, dân chủ, công bằng và văn minh.
2/ Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ:
- Thành phần kinh tế là một vùng đất kinh tế, có các quan hệ kinh tế dựa
trên một hình thức sở hữu cụ thể về tài nguyên sản xuất. Các thành phần kinh tế
không tồn tại độc lập, mà luôn liên kết chặt chẽ với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau
để tạo nên một cơ cấu kinh tế thống nhất, bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
- Trong giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần là tổng thể của các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh.
a/ Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ:
- Khi phân biệt giữa hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa theo tư bản
chủ nghĩa, ta có thể kết luận rằng khi giai cấp vô sản chiếm được quyền lực, họ
cần phải có những cách tiếp cận khác nhau đối với hai loại sở hữu của hai hình
thức sản xuất hàng hóa này:
+ Đối với tư hữu tư bản chủ nghĩa: Cần quốc hữu hóa. Tuy nhiên, quá trình
này có thể diễn ra qua nhiều hình thức và giai đoạn khác nhau: có thể thông qua
việc tịch thu hoặc mua lại, và phải được thực hiện từng bước một hoặc thông qua
việc Nhà nước liên kết với các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa để hình thành kinh
tế tư bản quốc doanh. Vì vậy, trong một thời gian dài, vẫn còn tồn tại các thành
phần kinh tế tư bản tư nhân.
+ Đối với các nhà sản xuất hàng hóa nhỏ, việc hợp tác là cần thiết để phát
triển. Tuy nhiên, việc này cần tuân theo quy luật và nguyên tắc, và sẽ mất thời
gian để thực hiện. Vì vậy, trong giai đoạn chuyển đổi, việc giữ lại các thành phần
cá thể như nông dân, thợ thủ công và tiểu thương là không thể tránh khỏi.
- Các thành phần kinh tế tư nhân đã có từ lịch sử: Trong giai đoạn chuyển
đổi, việc phát triển các thành phần này là cần thiết để đảm bảo hoạt động sản xuất
và cuộc sống không bị gián đoạn. Điều này có lợi cho người lao động và đóng vai
trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển hệ thống kinh tế mới.
- Để duy trì quyền lực và tiến tới xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản cần xây
dựng một hệ thống kinh tế mới, đặc biệt là kinh tế quốc doanh, để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội trong giai đoạn chuyển đổi:
+ Việc xác định bản chất của các thành phần kinh tế dựa trên quan hệ sở
hữu và tính chất của lao động. Mỗi thành phần kinh tế có nhiều cách sản xuất hàng
hóa khác nhau, tạo nên một hệ thống kinh tế đa dạng. Điều này được gọi là nền
kinh tế đa thành phần, không phải là kinh tế xã hội chủ nghĩa.
+ Nền kinh tế đa thành phần là sự kết hợp giữa các cách sản xuất hàng hóa
khác nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
b/ Giải quyết vấn đề:
b,1/ Cơ cấu thành phần kinh tế quá độ ở Việt Nam tại Đại hội Đảng 9 có 6
thành phần kinh tế:
- Kinh tế Nhà nước là một phần quan trọng của nền kinh tế, được xây dựng
dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tài nguyên sản xuất. Nó bao gồm các doanh
nghiệp Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài
sản thuộc sở hữu Nhà nước có thể tham gia vào chu trình kinh tế. Kinh tế Nhà
nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Nó là lực lượng vật chất
chủ yếu và công cụ để Nhà nước điều tiết và định hướng kinh tế tổng thể theo chủ nghĩa xã hội.
- Nó được Nhà nước quản lý và hỗ trợ phát triển.
- Kinh tế của chúng ta đang ngày càng mở rộng và phát triển, hướng tới trở
thành lực lượng thống trị trong nền kinh tế. Để đạt được điều này, chúng ta cần
tăng cường, sắp xếp và cải thiện cơ cấu của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời
phát triển thêm các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% hoặc có cổ phần chi phối
trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn quan trọng. Việc sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nước là giải pháp để giải quyết vấn đề sở hữu, theo những hướng sau:
+ Đầu tiên, chúng ta cần đầu tư vào các đơn vị kinh tế quan trọng của nền
kinh tế, bao gồm cả trang thiết bị kỹ thuật, vốn và trình độ quản lý.
+ Thứ hai, chúng ta cần thực hiện chính sách cổ phần hóa và đa dạng hóa sở
hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn.
+ Thứ ba, chúng ta có thể chuyển giao, bán hoặc cho thuê các doanh nghiệp
vừa và nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ.
+ Thứ tư, chúng ta có thể sáp nhập hoặc giải thể các doanh nghiệp không
hiệu quả và không thực hiện các biện pháp trên (hiện có khoảng 250 doanh nghiệp
quốc doanh trung ương và 2041 doanh nghiệp quốc doanh địa phương).
- Về mặt quản lý, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa quyền sở hữu và
quyền kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Kinh tế tập thể là một phần quan trọng của nền kinh tế, bao gồm các
doanh nghiệp được thành lập bởi người lao động tự nguyện đóng góp vốn và cùng
hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc tập trung bình đẳng và có lợi cho tất cả thành viên.
- Thành viên của kinh tế tập thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức, từ người có
ít vốn đến người có nhiều vốn, cùng đóng góp vốn và sức lao động dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và quản lý dân chủ.
- Kinh tế tập thể tập trung vào lợi ích kinh tế của các thành viên và tổ chức,
đồng thời cũng quan tâm đến lợi ích xã hội của cộng đồng.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, việc phát triển kinh tế tập thể
phải đảm bảo quyền tự chủ của các hộ kinh tế, trang trại và hỗ trợ mạnh mẽ cho
việc phát triển kinh tế của họ, đồng thời liên kết với quá trình công nghiệp hóa -
hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
- Hiện nay, chúng ta đang khuyến khích và phát triển các cơ sở và tổ hợp
kinh tế công nông nghiệp để tạo ra sản phẩm lớn hơn trong kinh doanh của kinh tế tập thể.
- Kinh tế cá thể và tiểu chủ:
+ Kinh tế cá thể là một phần của nền kinh tế dựa trên sở hữu nhỏ về
tài nguyên sản xuất và khả năng lao động của cá nhân và gia đình.
+ Kinh tế cá thể và tiểu chủ là một phần quan trọng của nền kinh tế
Việt Nam, dựa trên sở hữu nhỏ về tài nguyên sản xuất và sử dụng lao động
thuê. Tuy nhiên, thu nhập chủ yếu vẫn phụ thuộc vào sức lao động và vốn
của từng cá nhân và gia đình.
+ Kinh tế cá thể và tiểu chủ đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh
vực ở cả nông thôn và thành thị, cho phép các cá nhân và gia đình sử dụng
hiệu quả vốn và kỹ năng của mình để phát triển sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, chúng ta cần khuyến khích việc mở rộng hoạt động kinh doanh cho
kinh tế cá thể và tiểu chủ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thấy rằng kinh tế cá thể và tiểu chủ có những
hạn chế như tính manh mún, tự phát và thiếu kĩ thuật, không thể loại bỏ được dù
có nỗ lực đến đâu. Vì vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện và hỗ trợ để họ phát triển,
khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện để phát triển và mở rộng
hoạt động kinh doanh. Vì thành phần kinh tế này đóng vai trò quan trọng trong
việc cung cấp tài nguyên cho sản xuất và tiêu dùng.
Kinh tế tư bản tư nhân là một phần quan trọng của nền kinh tế, trong đó sản xuất
và kinh doanh dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tài liệu sản xuất và sức lao động
làm thuê. Trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay, thành phần kinh tế này đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất và là một phần quan trọng
của quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Thành phần này bao gồm các đơn vị kinh tế chủ yếu là của tư nhân (trong và ngoài
nước) đầu tư và hoạt động dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần
theo quy định của pháp luật. Nhà nước khuyến khích và kiểm soát, tạo điều kiện
và môi trường cho các đơn vị kinh tế tư bản tư nhân phát triển các ngành, lĩnh vực
có lợi cho quốc gia và dân sinh, và hướng dẫn theo con đường kinh tế tư bản Nhà nước.
Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần quan trọng và có tính tự phát
cao trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế và sản xuất hàng
giả thường xuyên xảy ra, do đó cần tăng cường quản lý để kiểm soát tình trạng
này. Trong văn kiện của Đại hội Đảng lần 9, chúng ta được khuyến khích phát
triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất và kinh doanh,
miễn là không vi phạm pháp luật. Chúng ta cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh thông qua chính sách và pháp lý, để kinh tế tư bản tư nhân có thể
phát triển theo hướng được ưu tiên của Nhà nước, bao gồm cả việc đầu tư ra nước
ngoài. Chúng ta cũng cần khuyến khích việc chuyển đổi sang hình thức doanh
nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người lao động, liên doanh và liên kết với các
doanh nghiệp tập thể và Nhà nước, đồng thời xây dựng mối quan hệ tốt giữa chủ
doanh nghiệp và người lao động.
Kinh tế tư bản Nhà nước là một thành phần quan trọng trong nền kinh tế, bao gồm
các hình thức liên doanh và liên kết giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân
trong và ngoài nước, mang lại lợi ích cho cả hai bên đầu tư và kinh doanh.
Ngoài các thành phần kinh tế cơ bản, còn có những hình thức tổ chức liên kết kinh
tế khác không thuộc vào bất kỳ thành phần kinh tế nào, ví dụ như hình thức kinh
tế hỗn hợp với nhiều loại sở hữu, công ty xí nghiệp cổ phần, liên doanh và liên kết
giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự chuyển hóa của các thành phần kinh
tế diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một phần quan trọng trong nền kinh tế của
chúng ta. Trong 10 năm qua (1991-2000), các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã phát triển rất nhanh, với tốc độ tăng trưởng bình quân là 22% mỗi năm.
Trong 5 năm gần đây (1996-2000), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt khoảng
10 tỉ USD, chiếm 23% tổng số vốn đầu tư của cả xã hội. Các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất trong ngành công nghiệp, trên
22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% vào GDP chung của đất nước.
Đảng và Nhà nước của chúng ta đã khẳng định tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế với sự đầu tư từ các nước ngoài. Chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ
tầng và xuất khẩu, kinh tế xã hội của chúng ta cũng được liên kết với việc thu hút
công nghệ hiện đại và tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới. Đồng thời, chúng ta cũng
đã cải thiện môi trường kinh tế và pháp lí để thu hút vốn đầu tư từ các nước ngoài.
(Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 9, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 99).
b,2/ Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần ở nước ta: Chào bạn,
Hiện nay, chúng ta đã thấy sự đa dạng và phong phú của lực lượng sản xuất ở
nước ta, bao gồm cả các thành phần kinh tế hiện đại, thô sơ, nửa cơ khí và cơ khí.
Vì vậy, việc thiết lập quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất cũng cần được đa dạng
hóa. Tại Việt Nam, quan hệ sở hữu có nhiều hình thức và quy mô khác nhau luôn
là cơ sở để phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau.
Hiện nay, trong nền kinh tế của chúng ta, có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu
Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Từ ba hình thức này, đã hình thành
nền kinh tế hàng hóa đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp phong phú.
Nước ta có một lực lượng lao động rất lớn (khoảng 40 triệu người) với đầy đủ
năng lực và thông minh. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa có việc làm, gây