Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý và hoạt động tự học của sinh viên hiện nay | Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học Mác – Lênin

Tự học có vai trò quan trọng đối với con đường học vấn của mỗi cá nhân. Tuy trong giáo dục nhà trường có sự hướng dẫn của người thầy, nhưng việc tự học vẫn là yếu tố quyết định và còn là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
🞠◊🞠◊🞠
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG
BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ VÀ HOẠT
ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_22CLC
GVHD: TS. Đặng Thị Minh Tuấn
NHÓM THỰC HIỆN: Nhóm 17
👹👹👹👹👹
HỌC KỲ: – NĂM HỌC: I 2023
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12 NĂM 2023
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1. Phùng Anh Tuấn - 23151201
2. Phạm Minh Tuấn - 23151200
3. Nguyễn Lê Thanh Trọng - 23151192
4. Trần Văn Vinh - 23151205
5. Trần Lê Minh Trí - 23151190
ĐIỂM:
NHẬN XÉT CỦA GV:
GV ký tên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự học có vai trò quan trọng đối với con đường học vấn của mỗi cá nhân.
Tuy trong giáo dục nhà trường có sự hướng dẫn của người thầy, nhưng việc tự
học vẫn là yếu tố quyết định và còn là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “học tập là một việc suốt đời,” “trong
cách học, phải lấy tự học làm cốt,” tự học có vai trò đặc biệt quan trọng, là một
trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ con người. Nếu thiếu sự nỗ lực tự
học thì kết quả học tập của người học không thể cao, cho dù điều kiện ngoại
cảnh thuận lợi đến mấy như có thầy giỏi, tài liệu hay, môi trường học tập tốt...
Và với Bác, nguyên lý và phương thức học được tóm gọn trong mấy câu sau:
“Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học dân.” Trong thư gửi Hội
thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo tổ chức tại Hà Nội ngày
6/1/1998, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười phát biểu: “Tự học, tự đào tạo là con
đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều kiện kinh tế – xã hội
nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt
Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi
tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biển được quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục. Qui mô của giáo dục được mở rộng khi có phong
trào toàn dân tự học.” Điều đó lại khẳng định thêm vai trò của việc tự học.
Và phần lớn sinh viên Việt Nam đều nhận thức được tầm quan trọng của
việc tự học. Tuy nhiên, nhận thức này còn mang tính hình thức, chưa thực sự sâu
sắc. Nhiều sinh viên chỉ coi tự học là một phương tiện để đối phó với bài vở, thi
cử, chưa coi tự học là một quá trình tích lũy, nâng cao kiến thức, kỹ năng và
phát triển bản thân. Họ thường thụ động, trông chờ vào giảng viên, ngại tìm tòi,
khám phá tri thức. Bên cạnh đó, một số sinh viên còn có thái độ học tập tiêu cực,
như gian lận, quay cóp, bỏ học.
Việc hiểu và nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tự học của
sinh viên Việt Nam sẽ góp phần củng cấp cơ sở lý thuyết cho việc phát triển
nhận thức và là phương pháp hữu ích để sinh viên tự hoàn thiện và phát triển.
Và đó cũng là lý do mà nhóm em đã thống nhất chọn đề tài : “Lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý và hoạt
động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này tìm hiểu tầm quan trọng của hoạt động
tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý.
- Phân tích tình hình tự học của sinh viên Việt Nam; đưa ra khái niệm tự
học; lợi ích khó khăn; phân tích tầm quan trọng của vấn đề hoạt động tự học của
sinh viên hiện nay trong giai đoạn xã hội phát triển đề xuất một số giải pháp
tự học hiệu quả.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật, kết hợp với một số phương pháp cụ
thể như: nghiên cứu định tính – định lượng, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn
dịch.
4. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 2 chương chính:
Chương 1: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý.
Chương
2:
Hoạt
động
tự
học
của
sinh
viên
Việt
Nam
hiện
nay.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ CON
ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ
1.1. Khái lược nhận thức
1.1.1. Khái niệm về nhận thức
Nhận thức theo chủ nghĩa duy vật biện chứng một quá trình phản ánh
tích cực, tự giác, sáng tạo thế giới quan vào bộ óc con người, trên cơ sở thực tiễn
nhằm tạo ra tri thức về thế giới quan. Đây là quá trình diễn ra khá phức tạp, bao
gồm nhiều giai đoạn song đâyquá trình biện chứng đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất của sư nhận thức
Thế giới vật chất tồn tại khách quan là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng
của nhận thức. Triết học Mác – Lênin thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới và cho rằng thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Không phải ý
thức cảu con người sản sinh ra thế giới mà thế giới vật chất tồn tại độc lập với
con người, đó là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng của nhận thức. Triết học Mác
– Lênin khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người.
Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể và chủ thể. Thế giới vật chất tồn tại khách quan
độc lập đối với ý thức của con người tuy nhiên không có cái gì là không thể
nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được.
VD: Trong xã hội nguyên thủy, ban đầu con người chỉ biết săn bắt, hai
lượm, về sau con người bắt đầu nhận thức về vấn đề ăn chín uống sôi, tạo ra lửa,
chế tạo công cụ lao động.
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ
đến đầy đủ hơn. Đây là một quá trình, không phải nhận thức một lần là xong, mà
có phát triển, bổ sung và hoàn thiện.
VD: Sinh viên năm nhất khi mới biết đến môn Triết từ các anh chị khóa
trên hoặc nghe từ người khác chỉ biết đến chứ chưa biến môn Triết là gì. Sau
một thười gian học sinh viên đã dần hình dung ra môn Triết như thế nào, gồm
những gì. Đó là quá trình nhận thức có sự phát triển và vận động, từ biết ít đến
biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chủ thể nhận thức chính là con
người. Coi thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý.
VD: Trong thời chiến tranh con người chỉ tập trung suy nghĩ về cách bảo
vệ và duy trì dân tộc. Tuy nhiên sau khi cách mạng thành công, con người nhận
thức được rằng bảo vệ dân tộc đòi hỏi phải phát triển mọi mặt của xã hội gồm
kinh tế, chính trị, đời sống,…
1.1.3. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
Nguyên tắc thừa nhận sự khách quan tồn tại bên ngoài độc lập ý thức
con người. Đâynguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định các sự tồn tại khách
quan, độc lập ý thức, với cảm giác của con người loài người nói chung, mặc
dù người ta chưa biết đến chúng.
Công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung hình ảnh của thế giới
quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cái cảm giác của chúng ta đều sự
phản ánh, đều là hình ảnh chủ thể của hiện thực khác quan.
Thực tiễn tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai cảu cảm
giác, ý thức nói chung. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn tiêu
chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung, là
tiêu chuẩn kiêm tra chân lý.
1.2. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
1.2.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền
với thực tiễn. giai đoạn này, nhận thức của con người phản ánh trực tiếp
khách thể thông qua các giác quan và được diễn ra theo ba hình thức: cảm giác,
tri giác và biểu tượng.
Cảm giác hình thức đầu tiên đơn giản nhất của quá trình nhận thức
giai đoạn cảm tính, được nãy sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên các
giác quan của con người những thông tin trực tiếp, đơn giản về một thuộc tính
riêng lẻ cảu sự vật. Thế giới quan nguồn gốc, nội dung khách quan của cảm
giác, do đó nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác vai trò
đem lại tài liệu đàu tiên cho quá trình nhận thức, từ những cảm giác, nhận thức
cả tính chuyển sang hình thức cao hơn là tri giác.
VD: Nhìn vào quả táo tác động đến thị giác: màu xanh, hình cầu.
Tri giác là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều
các giác quan của con người. Do đó có thể nói tri giác là tổng hợp của nhiều cảm
giác. vậy, tri giác cho ta hình ảnh của sự vật toàn vẹn hơn cảm giác. Nhưng
tri giác vẫn hìnhh ảnh trực tiếp, cảm tính về sự vật. Từ tri giác, nhận thức
chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng.
VD: Qua sự tiếp xúc của các giác quan, ta sẽ tri giác về quả táo một
cách toàn diện: Thị giác: hình cầu, màu xanh; Vị giác: có vị chát/ngọt; Xúc giác:
vỏ trơn,..
Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính.
Khác với cảm giác, tri giác biểu tượng là hình ảnh sự vật được tái hiện trong óc,
khi sự vật không trực tiếp tác động vào giác quan của con người. Nhưng biểu
tượng giống tri giác chỗ, hình ảnh cảm tính về sự vật, mặc tương đối
hoàn chỉnh. Biểu tượng như là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên
nhận thức lý tính.
VD: Tri giác của quả táo đã được lên lại trong bộ não của con người, nên
dù không trực tiếp tiếp xúc với quả táo nữa, ta vẫn hình dung tái hiện lại các
đặc điểm của quả táo.
Đặc điểm giai đoạn nhận thức cảm tính bao gồm khả năng phản ánh trực
tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức. Nhận thức cảm tính chỉ
phản ánh được cái bề ngoài, có cả cái tự nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất
không bản chất.
1.2.2. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là thông qua duy trừu tượng, con người phản ánh sự
vật một cách gián tiếp, khát quát đầy đủ hơn.
Khái niệmhình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát,
gián tiếp một hoặc một số thuộc tính chung tính bản chất nào đó của một
nhóm sự vật, hiện tượng được biểu thị bằng một từ hay một cụm từ. Khái niệm
kết quả của sự tổng hợp, khát quát biện chứng những tài liệu thu nhập được
trong hoạt động thực tiễn.
VD: Số tự nhiên A chia hết cho số tự nhiên B thì số tự nhiên A được coi
là bội của số tựu nhiên B còn B là ước của A.
Phán đoán là một hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái
niệm lại để khẳng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật.
VD: “Dân tộc Việt Nam một dân tộc kiên cường” phán đoán bởi
đây sự liên kết giữa hai khái niệm “dân tộc Việt Nam” “kiên cường” để
khẳng định tính cách mạnh mẽ và kiên định của con người Việt Nam.
Suy (suy luận) cũng một hình thức duy trừu tượng, trong đó các
phán đoán đã liên kết với nhau theo quy tắc: phán đoán cuối cùng (kết luận)
được suy ra từ nhiều phán đoán đã biết làm tiền đề. Có hai loại suy lý chính: quy
nạp và diễn dịch.
+Suy lý quy nạp là loại hình thức suy luận trong đó từ tiền đề là những tri
thức về riêng từng đối tượng người ta khai quát thành tri thức chung cho cả lớp
đối tượng, tức là tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến.
VD: Đồng, sắt đều dẫn điện. Mọi kim loại đều dẫn điện.
+Suy Lý diễn dịch là loại hình thức suy luận trong đó từ tiền đề là tri thức
chung về cả lớp đối tượng người ta rút ra kết luận tri thức về riêng từng đối
tượng hay bộ phận đối tượng, tức từ duy vận động từ cái chung đến cái ít
chung hơn, đến cái đơn nhất.
VD: Mọi kim loại đều dẫn điện. Sắt: kim loại
sắt dẫn điện.
Đặc điểm của nhận thức tính bao gồm khả năng phản ánh, khái quát,
trừu tượng, gián tiếp sự vật, hiện tượng trong tính tất yếu, chỉnh thể toàn diện.
Nó có khả năng phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự
vật, nên sâu sắc hơn nhận thức cảm tính. được coi nhận thức tính
phải được gắn liền với thực tiễn và được kiểm tra bởi thực tiễn.
1.2.3. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức tính với
thực tiễn
Nhận thức cảm tính và lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại
thống nhất với nhau, liên hệ bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức của
con người.
Nhận thức cảm tính thông qua khả năng cung cấp thông tin, hình ảnh chân
thực và trực quan về bề ngoài của các sự vật hiện tượng, đóng vai trò quan trọng
và là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nhận thức tính. Bằng cách kết
hợp khả năng đánh giá truyền tải các trạng thái cảm xúc trải nghiệm cảm
giác, nhận thức cảm tính mang đến một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về thế
giới xung quanh, hiểu rõ hơn tính chất, đặc điểm và tương tác của môi trường và
các yếu tố tồn tại trong nó. Bằng cách tương tác hàu hòa giữa nhận thức cảm
tính và nhặn thức lý tính, có thể xây dựng một quan điểm đa chiều, cung cấp cái
nhìn toàn diện phong phú về thế giới, đồng thời khai thác tối đa khả năng
nhận thức.
Nhận thức lý tính đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các cơ sở lý
luận phương pháp nhận thức để cho nhận thức cảm tính hiểu quả đầy đủ
hơn. Bằng cách sử dụng các công cụquy trình lý tính, nhận thức lý tính giúp
phân tích, tổ chức xử thông tin từ nhận thức cảm tính một cách nhanh
chóng hệ thống hơn. Nhờ vào nhận thứctính, mới khả năng hiểu rõ về
nguồn gốc, lí do, hậu quả của những trạng thái cảm xúc.
Tránh việc tuyệt đối hóa hoặc quá đánh giá vai trò của nhận thức cảm tính
điều cần thiết để tránh rơi vào chủ nghĩa duy cảm, khi chỉ dựa vào cảm xúc
bỏ qua khịa cạnh tính. Tuy nhiên, cũng không nên phủ nhận hoặc lạm
dụng nhận thức cảm tính, vì điều này có thể dẫn đến chủ nghĩa duy lý cực đoan,
khi chỉ tập chung vào những khái cạnh bỏ qua cảm xúc trải nghiệm
nhân. vậy, cần duy trì sự cân bằng tương đối giữa nhận thức cả tính
nhận thức lý tính để có một quan điểm toàn diện và cởi mở đối với thế giới xung
quanh.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã cung cấp những thông tin cần thiết cho người đọc để củng
cố những kiến thức cơ bản về nhận thức, từ khái niệm, nguồn gốc, bản chất, các
giai đoạn, mối quan hệ giữa hai giai đoạn của nhận thức. Những kiến thức này là
nền tảng để tiếp tục nghiên cứu các vấn đề khác của lý luận nhận thức.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1. Khái quát chung về việc tự học
2.1.1. Khái niệm tự học
Học hay còn gọi học tập, học hành, học hỏi quá trình đạt được sự
hiểu biết, kiến thức, hành vi, kỹ năng, giá trị, thái độ và sở thích mới. Quá trình
học tập diễn ra mọi nơi, mọi chỗ với mọi người như Lê-nin đã từng nói:
“Học, học nữa, học mãi”. Học việc góp nhặt thu nhận kiến thức từ người
khác truyền lại, rèn luyện thành kỹ năng, nhận thức. Các hình thức thu nhận kiến
thức: Họctrên lớp, học ở trường, học thầy, học bạn,… trong đó tự học là hình
thức học tập quan trọng đối với con người.
Tự học việc chủ động tự mình tìm tòi nghiên cứu, thu nhặt các kiến
thức tự luyện tập để có kỹ năng.
Tự học thể hình thành từ việc tự bản thân nghiên cứu tìm hiểu
không nhờ vả hay trông chờ vào bất cứ ai. Hoặc tự học còn có thể được hiểu
chúng ta dựa vào kiến thức được thầy giáo hoặc người đi trước cung cấp để
dựa vào đó hình thành những bài học cho riêng mình.
2.1.2. Khái quát về thời gian và không gian tự học
Thời gian không gian tự học hai khái niệm quan trọng trong việc
phát triển và nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Đây là những yếu tố quyết
định đến sự tiến bộ và thành công trong quá trình học.
2.1.2.1. Thời gian tự học
Thời gian tự học khoảng thời gian sinh viên dành riêng để nghiên cứu
và rèn luyện các kỹ năng học tập ngoài giờ học chính thức.
Thời gian tự học phụ thuộc vào sự tổ chức quản thời gian của sinh
viên. Việc tạo ra và duy trì một lịch trình học tập hiệu quả thể giúp sinh viên
tận dụng tối đa thời gian tự học.
Thời gian tự học cũng bao gồm việc chuẩn bị cho các bài giảng, đọc thêm
tài liệu, làm bài tập, ôn tập chuẩn bị cho các kỳ thi. giúp sinh viên nắm
bắt và tiếp thu kiến thức một cách sâu sắc hơn và phát triển các kỹ năng tự học.
2.1.2.2. Không gian tự học
Không gian tự học môi trường sinh viên tự tạo ra để tập trung vào
việc học tập và nghiên cứu.
Một không gian tự học tốt cần đảm bảo yếu tố yên tĩnh, tách biệt thoải
mái. thể một phòng học riêng, thư viện, không gian làm việc yên tĩnh
trong nhà hoặc bất kỳ nơi nào sinh viên cảm thấy thoải mái và tập trung.
Không gian tự học cũng thể bao gồm sử dụng các công nghệ hỗ trợ
như máy tính, thiết bị di động, ứng dụng học tập trực tuyến để tăng cường
quá trình học tập
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo việc tự học
2.1.3.1. Bảo đảm tính tự giáo dục
Trong thực tế, quá trình giáo dục luôn chứa đựng quá trình giáo dưỡng, do
vậy mà trong công tác tự học của sinh viên, ngoài việc tự củng cố những tri thức
cũ, lĩnh hội tri thức mới, mở rộng hiểu biết, người học từngớc tự hoàn thiện
nhân cách của mình sao cho ngày càng gần với phẩm chất cao quý của những
thầy cô giáo.
2.1.3.2. Bảo đảm tính khoa học trong quá trình tự học
Bản thân quá trình tự học cũng một quá trình “lao động khoa học” hết sức khó khăn, do
vậy, phải đòi hỏi có tính khoa học. Việc bảo đảm tính khoa học trong công tác tự học sẽ đảm bảo được
tính tự giáo dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả học tập như mong muốn.
2.1.3.3. Đảm bảo “học đi đôi với hành”
Đây là một cặp phạm trù có quan hệ biện chứng với nhau. Tự học không chỉ củng cố, mở rộng
kiến thức thông thường mà quan trọng hơn là đưa những kiến thức ấy vào cuộc sống, “cọ sát” với thực
tế để thu lượm được những kinh nghiệm thực tiễn sống động, bổ ích, từ đó giúp cho người học có thể
vận dụng đúng, linh hoạt, sáng tạo những điều họ đã tự tiếp thu, lĩnh hội được.
2.1.3.4. Nâng cao đến mức tự giác, tích cực trong quá trình tự học
Nguyên tắc này sẽ trực tiếp quyết định đến kết quả học tập của người học. Kế hoạch tự học
được thực hiện thường xuyên hay không là do yếu tố tự giác tích cực quyết định.
2.1.3.5. Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng, kỹ xảo
Quá trình tự học không chỉ đơn thuần là quá trình tự hình thành tri thức mà nó còn là quá trình
hoạt động thực tiễn, nâng cao, củng cố kĩ năng, kĩ xảo.
2.2. Tầm quan trọng của nhận thức về việc tự học
Từ xưa đến nay các bậc anh tài đã cho thấy việc tự học có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
tri thức của con người.
Tự học giúp con người có thể hiểu biết, lĩnh hội tri thức một cách chủ động, toàn diện, hứng
thú với các vấn đề trong sách vở, trong cuộc sống. Con người được tự làm chủ, quyết định vấn đề mà
bản thân thích và nghiên cứu chúng.
Tự học giúp con người ghi nhớ một cách lâu hơn do có sự chuẩn bị tìm tòi các kiến thức ấy.
Tự học còn giúp việc vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn vào cuộc sống để làm
những việc có ích và thiết thực.
Không những thế tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không lại, không
phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản
thân. Một người tự học hỏi không ngừng vươn lên sáng kiến với một chủ thể chỉ thụ động,
không có ý kiến chắc chắn sẽ khác nhau.
Không chỉ vậy tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước
mơ thành hiện thực. Người có tinh thần tự học luôn chủ động, tự tin trong cuộc sống.
Hiện nay đối với các nước phát triển và các trường đại học lớn của Việt Nam thì hình thức tự
học được đề cao. Tự học hình thức học hiện đại. Kiến thức dựa trên sự chủ động nghiên cứu của
sinh viên người học chứ không phụ thuộc vào thầy cô. Nói như vậy không có nghĩa việc tự học thay
thế cách học truyền thống mà con người cần tự học có hướng dẫn; bổ sung kết hợp để đạt được kết quả
tuyệt vời. Đặc biệt trong thời đại 4.0 ngày nay càng chứng minh là hiệu quả, tiện lợi nhanh chóng,
nhờ vào sự phát triển của internet.
2.3. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay
Khác biệt lớn nhất dễ nhận thấy nhất giữa học đại học học phổ thông tự học. Thời
gian học tập trên lớp ở đại học rất ít, phần lớn thời gian là tự học, 1 tiết học trên lớp tương đương với 3
tiết tự học. Chính vì thời gian học trên lớp ít nên nhiều sinh viên cảm thấy thoải máisuy nghĩ như
cấp 3 chỉ cần học trên lớp là đủ dẫn đến tình trạng là quên đi việc phải tự học. Nhiều sinh viên chưa
chủ động được thời gian, cũng như chưa sắp xếp hợp lí thời gian cho việc tự học, chưa xác định được
mục đích của việc tự học là gì. Sinh viên chưa ý thức chủ động tìm hiểu thêm kiến thức mới, đa số là
dựao giảng viên, trên lớp giảng viên dạy đến đâu thì sinh viên học đến đó. Sinh viên chưa thấy
được tầm quan trọng của việc tự học thêm, chưa liên hệ được kiến thức tự học kiến thức trong
chương trình học. Do vậy sinh viên chưa vận dụng được những kiến thức tự học xem việc tự
học là dư thừa, không cần thiết phải có.
Bên cạnh đó vẫn còn nhiều sinh viên có tinh thần tự học cao, rất ý thức trong vấn đề tự học, tự
nghiên cứu, tìm tòi thêm kiến thức mới, biết vận dụng kiến thức tự học để áp dụng vào quá trình học
tập. Tự học, tự nghiên cứu có thể đạt được nhiều thành tựu lớn. Bằng chứng cho thấy là có nhiều công
trình nghiên cứu khoa học của sinh viên đoạt giải cao.
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tự học của sinh viên
2.4.1. Các yếu tố chủ quan
Tự ý thức: được cho là sự hiểu biết, cảm nhận của sinh viên về việc tự học
như xác định được mục tiêu, vai trò của việc tự học đối với bản thân. Từ đó sinh
viên có thể đáp ứng được mục tiêu của mình. ( Ngô Thế Lâm, 2020)
Thái độ tự học: được thể hiện thông qua các vấn đề như nhu cầu, động cơ,
ý chí khắc phục khó khăn, thích thú đối với việc tự học thông qua cách nhìn,
nghĩ và hành động của sinh viên. (Ngô Thế Lâm, 2020 )
Phương pháp tự học: theo nghiên cứu của Bùi Ngọc Quang ( 2013 ),
phương pháp tự học chính là cách thức mà sinh viên lên kế hoạch, đặt mục tiêu,
thực hiện việc học tập một cách hợp lý để đạt được kết quả tốt nhất.
Các kỹ năng mềm: là các kỹ năng tự học như kỹ năng xây dựng kế hoạch,
tìm kiếm thông tin, xử thông tin, trau dồi chia sẻ, tự đánh giá ngoài ra
các kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo. Những kỹ năng được dùng để hỗ trợ cho việc tự
học trở nên dễ dàng, hợp lý, có tính khoa học.
Trình độ ngoại ngữ: việc tự học muốn đạt hiệu quả được trước hết
tài liệu liên quan. Nếu ta có trình độ ngoại ngữ tốt để đọc và hiểu những tài liệu,
giáo trình, tri thức của nước ngoài không chỉ thế ta thể trao đổi với các sinh
viên quốc tế để tiếp thu kiến thức của bạn bè quốc tế là cơ hội và lợi thế của sinh
viên (Chương trình đào tạo ngành TMĐT 8/2020)
Sự chủ quan của sinh viên: còn rất nhiều sinh viên còn học theo kiểu
"nước tới chân mới nhảy", chỉ bắt đầu ôn bài vài ngày trước khi thi. Thời gian
đề các bạn học cũng không kéo dài, chỉ từ 2-3 tiếng mỗi ngày. Những kiến thức
như vậy thường rất lỏng lẻo sẽ sớm bị quên lãng. Khiến cho việc học những
môn học khác liên quan tới những kiến thức nền gặp ảnh hưởng.
2.4.2. Các yếu tố khách quan
Môi trường học tập: Có thể môi trường sống của sinh viên chưa phù hợp
do khu nhà quá ồn, không có mạng hoặc không có phương tiện tìm kiếm tài liệu
các bạn cũng không khả năng tìm kiếm một môi trường sinh hoạt khác
khiến cho việc tự học của sinh viên gặp khó khăn.
Yếu tố về giáo viên: Việc tự học quan trọng với sinh viên nhưng quá
trình giảng dạy hướng dẫn của giảng viên những ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng tự học của sinh viên. Các nghiên cứu cho rằng: chất lượng tự học phụ
thuộc vào trình độ tổ chức và điều khiển hoạt động học của thầy.
Chương trình đào tạo : định hướng quá trình học tập, rèn luyện phát
triển nghề nghiệp cho sinh viên. Chương trình đào tạo tốt chương trình giúp
cho sinh viên biết mình học cái gi, học như thế nào, những điều khó khăn
thuận lợi trong khi học. Từ những điều khó hiểu sinh viên sẽ tự biết tìm tòi,
nghiên cứu giải thích vấn đề của bản thân tạo nên những kỹ năng cần thiết
trong cuộc sống ( Phạm Văn Tuấn, 2015)
2.5. Một số phương pháp tự học hiệu quả
Tự học ý nghĩa quan trọng nên bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng
cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê, ham học, ham hiểu biết,
giàu khát vọng kiên trì trên con đường chinh phục tri thức. rất nhiều
phương pháp tự học hiệu quả khác nhau, tuy nhiên cần lựa chọn phương pháp
sao cho hiệu quả và phù hợp với bản thân.
Xác định mục tiêu rõ ràng, khi mục tiêu tức có định hướng tới thì việc
tự học sẽ trở nên dễ dàng phù hợp với bản thân mình hơn. Việc tự học giúp
bản thân học hỏi được nhiều kiến thức bổ ích là vì bản thân mình chứ không
vì ai khác.
Khám phá ra điểm mạnh sở thích của bản thân để thể lựa chọn học
sao cho hiệu quả nhất và phù hợp nhất.
Có kế hoạch cụ thể, nhất quán thực hiện theo, việc thực hiện tự học không
phải ngày một ngày hai giống như việc mài đá thành dao cần sự kiên trì
nhẫn nại theo đến cùng để tạo thành thói quen. Từ đó mới giúp việc tự học có ý
nghĩa. Cần tạo lập cho bản thân thói quen với việc tự học, tạo lập thời gian,
không gian để chúng ta có thể tiếp thu kết học quả việc tự học một cách tốt nhất.
Hiểu rõ hơn về tự học, sẽ giúp bạn đi xa hơn trên con đường tự học.
Luôn đầu tư và đổi mới trong phương pháp học, cùng một cách học nhưng
có rất nhiều cách thức cũng như phương pháp học khác nhau, tìm cho mình một
hướng đi phù hợp khiến bản thân hứng thú nhất. Bên cạnh đó khi nghe
giảng, đọc sách hay làm bài tập thì luôn cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo
nhằm rút ra những điều cần thiết, hữu ích cho bản thân.
Việc tự học ngoài tự bản thân mày tìm hiểu cũng thể nhờ sự chỉ
bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo, bạn bè hoặc những người am hiểu về vấn đề để
giúp đỡ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 đã cung cấp cho người đọc những kiến thức bản về hoạt
động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay. Những kiến thức này ý nghĩa
quan trọng trong việc giúp sinh viên nâng cao hiệu quả học tập,
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, sinh viên cần:
-Nâng cao ý thức, thái độ tự học, xác định mục tiêu ràng, khám phá
điểm mạnh và sở thích, lập kế hoạch học tập cụ thể, tìm kiếm và sử dụng tài liệu
học tập hiệu quả, áp dụng các phương pháp học tập sáng tạo.
-Nhà trường gia đình cần tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tự học,
bao gồm cả về thời gian và không gian học tập.
-Tự học là một quá trình lâu dài và cần có sự kiên trì, nỗ lực của bản thân
sinh viên. Sinh viên cần xác định rõ tầm quan trọng của tự học và kế hoạch,
phương pháp tự học phù hợp để đạt được kết quả học tập tốt nhất.
PHẦN KẾT LUẬN
Theo luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý là một quá trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ duy trừu tượng đến thực tiễn. Đây quy luật chung của quá trình con
người nhận thức về hiện thực khách quan, phản ánh sự phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ bên ngoài đến bên trong của sự vật, hiện
tượng. Với sinh viên Việt Nam hiện nay, hoạt động tự họcmột hình thức thực
tiễn quan trọng, giúp nâng cao trình độ nhận thức kỹ năng thực hành. Tuy
nhiên, để hoạt động tự học hiệu quả, sinh viên cần tuân theo con đường biện
chứng của sự nhận thức, tức không chỉ dừng lại việc thu nhận những kiến
thức cảm tính, trực quan, cần phải vận dụng duy trừu tượng, luận, phê
phán, sáng tạo để đạt được những tri thức tính, toàn diện, sâu sắc về sự vật,
hiện tượng. Đồng thời, sinh viên cũng cần áp dụng những tri thức đó vào thực
tiễn, kiểm tra và hoàn thiện chúng qua thực tiễn, đóng góp vào sự phát triển của
hội. Như vậy,thể kết luận rằng, luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con
đường biện chứng của sự nhận thức chân một nguyên khoa học, giá
trị thực tiễn cao, đặc biệt đối với hoạt động thọc của sinh viên Việt Nam hiện
nay. Sinh viên cần nắm vững và vận dụng nguyên lý này để nâng cao chất lượng
học tập và rèn luyện, góp phần xây dựng đất nước
| 1/21

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT 🞠◊🞠◊🞠
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG
BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ VÀ HOẠT
ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_22CLC
GVHD: TS. Đặng Thị Minh Tuấn
NHÓM THỰC HIỆN: Nhóm 17 👹👹👹👹👹
HỌC KỲ: I – NĂM HỌC: 2023
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12 NĂM 2023
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài: 1. Phùng Anh Tuấn - 23151201 2. Phạm Minh Tuấn - 23151200
3. Nguyễn Lê Thanh Trọng - 23151192 4. Trần Văn Vinh - 23151205 5. Trần Lê Minh Trí - 23151190 ĐIỂM: NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự học có vai trò quan trọng đối với con đường học vấn của mỗi cá nhân.
Tuy trong giáo dục nhà trường có sự hướng dẫn của người thầy, nhưng việc tự
học vẫn là yếu tố quyết định và còn là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “học tập là một việc suốt đời,” “trong
cách học, phải lấy tự học làm cốt,” tự học có vai trò đặc biệt quan trọng, là một
trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ con người. Nếu thiếu sự nỗ lực tự
học thì kết quả học tập của người học không thể cao, cho dù điều kiện ngoại
cảnh thuận lợi đến mấy như có thầy giỏi, tài liệu hay, môi trường học tập tốt...
Và với Bác, nguyên lý và phương thức học được tóm gọn trong mấy câu sau:
“Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học dân.” Trong thư gửi Hội
thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo tổ chức tại Hà Nội ngày
6/1/1998, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười phát biểu: “Tự học, tự đào tạo là con
đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều kiện kinh tế – xã hội
nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt
Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi
tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biển được quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục. Qui mô của giáo dục được mở rộng khi có phong
trào toàn dân tự học.” Điều đó lại khẳng định thêm vai trò của việc tự học.
Và phần lớn sinh viên Việt Nam đều nhận thức được tầm quan trọng của
việc tự học. Tuy nhiên, nhận thức này còn mang tính hình thức, chưa thực sự sâu
sắc. Nhiều sinh viên chỉ coi tự học là một phương tiện để đối phó với bài vở, thi
cử, chưa coi tự học là một quá trình tích lũy, nâng cao kiến thức, kỹ năng và
phát triển bản thân. Họ thường thụ động, trông chờ vào giảng viên, ngại tìm tòi,
khám phá tri thức. Bên cạnh đó, một số sinh viên còn có thái độ học tập tiêu cực,
như gian lận, quay cóp, bỏ học.
Việc hiểu và nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tự học của
sinh viên Việt Nam sẽ góp phần củng cấp cơ sở lý thuyết cho việc phát triển
nhận thức và là phương pháp hữu ích để sinh viên tự hoàn thiện và phát triển.
Và đó cũng là lý do mà nhóm em đã thống nhất chọn đề tài : “Lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý và hoạt
động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu tầm quan trọng của hoạt động
tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý.
- Phân tích tình hình tự học của sinh viên Việt Nam; đưa ra khái niệm tự
học; lợi ích khó khăn; phân tích tầm quan trọng của vấn đề hoạt động tự học của
sinh viên hiện nay trong giai đoạn xã hội phát triển và đề xuất một số giải pháp tự học hiệu quả.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật, kết hợp với một số phương pháp cụ
thể như: nghiên cứu định tính – định lượng, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch.
4. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 2 chương chính:
Chương 1: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý.
Chương 2: Hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CON
ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ

1.1. Khái lược nhận thức
1.1.1. Khái niệm về nhận thức
Nhận thức theo chủ nghĩa duy vật biện chứng là một quá trình phản ánh
tích cực, tự giác, sáng tạo thế giới quan vào bộ óc con người, trên cơ sở thực tiễn
nhằm tạo ra tri thức về thế giới quan. Đây là quá trình diễn ra khá phức tạp, bao
gồm nhiều giai đoạn song đây là quá trình biện chứng đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất của sư nhận thức
Thế giới vật chất tồn tại khách quan là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng
của nhận thức. Triết học Mác – Lênin thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới và cho rằng thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Không phải ý
thức cảu con người sản sinh ra thế giới mà thế giới vật chất tồn tại độc lập với
con người, đó là nguồn gốc duy nhất và cuối cùng của nhận thức. Triết học Mác
– Lênin khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người.
Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể và chủ thể. Thế giới vật chất tồn tại khách quan
độc lập đối với ý thức của con người tuy nhiên không có cái gì là không thể
nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được.
VD: Trong xã hội nguyên thủy, ban đầu con người chỉ biết săn bắt, hai
lượm, về sau con người bắt đầu nhận thức về vấn đề ăn chín uống sôi, tạo ra lửa,
chế tạo công cụ lao động.
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ
đến đầy đủ hơn. Đây là một quá trình, không phải nhận thức một lần là xong, mà
có phát triển, bổ sung và hoàn thiện.
VD: Sinh viên năm nhất khi mới biết đến môn Triết từ các anh chị khóa
trên hoặc nghe từ người khác chỉ biết đến chứ chưa biến môn Triết là gì. Sau
một thười gian học sinh viên đã dần hình dung ra môn Triết như thế nào, gồm
những gì. Đó là quá trình nhận thức có sự phát triển và vận động, từ biết ít đến
biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chủ thể nhận thức chính là con
người. Coi thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
VD: Trong thời chiến tranh con người chỉ tập trung suy nghĩ về cách bảo
vệ và duy trì dân tộc. Tuy nhiên sau khi cách mạng thành công, con người nhận
thức được rằng bảo vệ dân tộc đòi hỏi phải phát triển mọi mặt của xã hội gồm
kinh tế, chính trị, đời sống,…
1.1.3. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
Nguyên tắc thừa nhận sự khách quan tồn tại bên ngoài và độc lập ý thức
con người. Đây là nguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định các sự tồn tại khách
quan, độc lập ý thức, với cảm giác của con người và loài người nói chung, mặc
dù người ta chưa biết đến chúng.
Công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh của thế giới
quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cái cảm giác của chúng ta đều là sự
phản ánh, đều là hình ảnh chủ thể của hiện thực khác quan.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai cảu cảm
giác, ý thức nói chung. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu
chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung, là
tiêu chuẩn kiêm tra chân lý.
1.2. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
1.2.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền
với thực tiễn. Ở giai đoạn này, nhận thức của con người phản ánh trực tiếp
khách thể thông qua các giác quan và được diễn ra theo ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của quá trình nhận thức ở
giai đoạn cảm tính, được nãy sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên các
giác quan của con người những thông tin trực tiếp, đơn giản về một thuộc tính
riêng lẻ cảu sự vật. Thế giới quan là nguồn gốc, nội dung khách quan của cảm
giác, do đó là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác có vai trò
đem lại tài liệu đàu tiên cho quá trình nhận thức, từ những cảm giác, nhận thức
cả tính chuyển sang hình thức cao hơn là tri giác.
VD: Nhìn vào quả táo tác động đến thị giác: màu xanh, hình cầu.
Tri giác là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều
các giác quan của con người. Do đó có thể nói tri giác là tổng hợp của nhiều cảm
giác. Vì vậy, tri giác cho ta hình ảnh của sự vật toàn vẹn hơn cảm giác. Nhưng
tri giác vẫn là hìnhh ảnh trực tiếp, cảm tính về sự vật. Từ tri giác, nhận thức
chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng.
VD: Qua sự tiếp xúc của các giác quan, ta sẽ có tri giác về quả táo một
cách toàn diện: Thị giác: hình cầu, màu xanh; Vị giác: có vị chát/ngọt; Xúc giác: vỏ trơn,..
Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính.
Khác với cảm giác, tri giác biểu tượng là hình ảnh sự vật được tái hiện trong óc,
khi sự vật không trực tiếp tác động vào giác quan của con người. Nhưng biểu
tượng giống tri giác ở chỗ, là hình ảnh cảm tính về sự vật, mặc dù tương đối
hoàn chỉnh. Biểu tượng như là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
VD: Tri giác của quả táo đã được lên lại trong bộ não của con người, nên
dù không trực tiếp tiếp xúc với quả táo nữa, ta vẫn hình dung và tái hiện lại các
đặc điểm của quả táo.
Đặc điểm giai đoạn nhận thức cảm tính bao gồm khả năng phản ánh trực
tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức. Nhận thức cảm tính chỉ
phản ánh được cái bề ngoài, có cả cái tự nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất.
1.2.2. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là thông qua tư duy trừu tượng, con người phản ánh sự
vật một cách gián tiếp, khát quát đầy đủ hơn.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát,
gián tiếp một hoặc một số thuộc tính chung có tính bản chất nào đó của một
nhóm sự vật, hiện tượng được biểu thị bằng một từ hay một cụm từ. Khái niệm
là kết quả của sự tổng hợp, khát quát biện chứng những tài liệu thu nhập được
trong hoạt động thực tiễn.
VD: Số tự nhiên A chia hết cho số tự nhiên B thì số tự nhiên A được coi
là bội của số tựu nhiên B còn B là ước của A.
Phán đoán là một hình thức tư duy trừu tượng, bằng cách liên kết các khái
niệm lại để khẳng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật.
VD: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc kiên cường” là phán đoán bởi ở
đây có sự liên kết giữa hai khái niệm “dân tộc Việt Nam” và “kiên cường” để
khẳng định tính cách mạnh mẽ và kiên định của con người Việt Nam.
Suy lý (suy luận) cũng là một hình thức tư duy trừu tượng, trong đó các
phán đoán đã liên kết với nhau theo quy tắc: phán đoán cuối cùng (kết luận)
được suy ra từ nhiều phán đoán đã biết làm tiền đề. Có hai loại suy lý chính: quy nạp và diễn dịch.
+Suy lý quy nạp là loại hình thức suy luận trong đó từ tiền đề là những tri
thức về riêng từng đối tượng người ta khai quát thành tri thức chung cho cả lớp
đối tượng, tức là tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến.
VD: Đồng, sắt đều dẫn điện. Mọi kim loại đều dẫn điện.
+Suy Lý diễn dịch là loại hình thức suy luận trong đó từ tiền đề là tri thức
chung về cả lớp đối tượng người ta rút ra kết luận là tri thức về riêng từng đối
tượng hay bộ phận đối tượng, tức là từ tư duy vận động từ cái chung đến cái ít
chung hơn, đến cái đơn nhất.
VD: Mọi kim loại đều dẫn điện. Sắt: kim loại sắt dẫn điện.
Đặc điểm của nhận thức lý tính bao gồm khả năng phản ánh, khái quát,
trừu tượng, gián tiếp sự vật, hiện tượng trong tính tất yếu, chỉnh thể toàn diện.
Nó có khả năng phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự
vật, nên sâu sắc hơn nhận thức cảm tính. Và được coi là nhận thức lý tính nó
phải được gắn liền với thực tiễn và được kiểm tra bởi thực tiễn.
1.2.3. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại
thống nhất với nhau, liên hệ và bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức của con người.
Nhận thức cảm tính thông qua khả năng cung cấp thông tin, hình ảnh chân
thực và trực quan về bề ngoài của các sự vật hiện tượng, đóng vai trò quan trọng
và là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nhận thức lý tính. Bằng cách kết
hợp khả năng đánh giá và truyền tải các trạng thái cảm xúc và trải nghiệm cảm
giác, nhận thức cảm tính mang đến một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về thế
giới xung quanh, hiểu rõ hơn tính chất, đặc điểm và tương tác của môi trường và
các yếu tố tồn tại trong nó. Bằng cách tương tác hàu hòa giữa nhận thức cảm
tính và nhặn thức lý tính, có thể xây dựng một quan điểm đa chiều, cung cấp cái
nhìn toàn diện và phong phú về thế giới, đồng thời khai thác tối đa khả năng nhận thức.
Nhận thức lý tính đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các cơ sở lý
luận và phương pháp nhận thức để cho nhận thức cảm tính hiểu quả và đầy đủ
hơn. Bằng cách sử dụng các công cụ và quy trình lý tính, nhận thức lý tính giúp
phân tích, tổ chức và xử lý thông tin từ nhận thức cảm tính một cách nhanh
chóng và hệ thống hơn. Nhờ vào nhận thức lý tính, mới có khả năng hiểu rõ về
nguồn gốc, lí do, hậu quả của những trạng thái cảm xúc.
Tránh việc tuyệt đối hóa hoặc quá đánh giá vai trò của nhận thức cảm tính
là điều cần thiết để tránh rơi vào chủ nghĩa duy cảm, khi chỉ dựa vào cảm xúc
mà bỏ qua khịa cạnh lý tính. Tuy nhiên, cũng không nên phủ nhận hoặc lạm
dụng nhận thức cảm tính, vì điều này có thể dẫn đến chủ nghĩa duy lý cực đoan,
khi chỉ tập chung vào những khái cạnh mà bỏ qua cảm xúc và trải nghiệm cá
nhân. Vì vậy, cần duy trì sự cân bằng và tương đối giữa nhận thức cả tính và
nhận thức lý tính để có một quan điểm toàn diện và cởi mở đối với thế giới xung quanh. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã cung cấp những thông tin cần thiết cho người đọc để củng
cố những kiến thức cơ bản về nhận thức, từ khái niệm, nguồn gốc, bản chất, các
giai đoạn, mối quan hệ giữa hai giai đoạn của nhận thức. Những kiến thức này là
nền tảng để tiếp tục nghiên cứu các vấn đề khác của lý luận nhận thức.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát chung về việc tự học
2.1.1. Khái niệm tự học
Học hay còn gọi là học tập, học hành, học hỏi là quá trình đạt được sự
hiểu biết, kiến thức, hành vi, kỹ năng, giá trị, thái độ và sở thích mới. Quá trình
học tập diễn ra ở mọi nơi, mọi chỗ và với mọi người như Lê-nin đã từng nói:
“Học, học nữa, học mãi”. Học là việc góp nhặt và thu nhận kiến thức từ người
khác truyền lại, rèn luyện thành kỹ năng, nhận thức. Các hình thức thu nhận kiến
thức: Học ở trên lớp, học ở trường, học thầy, học bạn,… trong đó tự học là hình
thức học tập quan trọng đối với con người.
Tự học là việc chủ động tự mình tìm tòi nghiên cứu, thu nhặt các kiến
thức tự luyện tập để có kỹ năng.
Tự học có thể hình thành từ việc tự bản thân nghiên cứu tìm hiểu mà
không nhờ vả hay trông chờ vào bất cứ ai. Hoặc tự học còn có thể được hiểu là
chúng ta dựa vào kiến thức được thầy cô giáo hoặc người đi trước cung cấp để
dựa vào đó hình thành những bài học cho riêng mình.
2.1.2. Khái quát về thời gian và không gian tự học
Thời gian và không gian tự học là hai khái niệm quan trọng trong việc
phát triển và nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Đây là những yếu tố quyết
định đến sự tiến bộ và thành công trong quá trình học.
2.1.2.1. Thời gian tự học
Thời gian tự học là khoảng thời gian sinh viên dành riêng để nghiên cứu
và rèn luyện các kỹ năng học tập ngoài giờ học chính thức.
Thời gian tự học phụ thuộc vào sự tổ chức và quản lý thời gian của sinh
viên. Việc tạo ra và duy trì một lịch trình học tập hiệu quả có thể giúp sinh viên
tận dụng tối đa thời gian tự học.
Thời gian tự học cũng bao gồm việc chuẩn bị cho các bài giảng, đọc thêm
tài liệu, làm bài tập, ôn tập và chuẩn bị cho các kỳ thi. Nó giúp sinh viên nắm
bắt và tiếp thu kiến thức một cách sâu sắc hơn và phát triển các kỹ năng tự học.
2.1.2.2. Không gian tự học
Không gian tự học là môi trường mà sinh viên tự tạo ra để tập trung vào
việc học tập và nghiên cứu.
Một không gian tự học tốt cần đảm bảo yếu tố yên tĩnh, tách biệt và thoải
mái. Nó có thể là một phòng học riêng, thư viện, không gian làm việc yên tĩnh
trong nhà hoặc bất kỳ nơi nào sinh viên cảm thấy thoải mái và tập trung.
Không gian tự học cũng có thể bao gồm sử dụng các công nghệ hỗ trợ
như máy tính, thiết bị di động, và ứng dụng học tập trực tuyến để tăng cường quá trình học tập
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo việc tự học
2.1.3.1. Bảo đảm tính tự giáo dục
Trong thực tế, quá trình giáo dục luôn chứa đựng quá trình giáo dưỡng, do
vậy mà trong công tác tự học của sinh viên, ngoài việc tự củng cố những tri thức
cũ, lĩnh hội tri thức mới, mở rộng hiểu biết, người học từng bước tự hoàn thiện
nhân cách của mình sao cho ngày càng gần với phẩm chất cao quý của những thầy cô giáo.
2.1.3.2. Bảo đảm tính khoa học trong quá trình tự học
Bản thân quá trình tự học cũng là một quá trình “lao động khoa học” hết sức khó khăn, do
vậy, phải đòi hỏi có tính khoa học. Việc bảo đảm tính khoa học trong công tác tự học sẽ đảm bảo được
tính tự giáo dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả học tập như mong muốn.
2.1.3.3. Đảm bảo “học đi đôi với hành”
Đây là một cặp phạm trù có quan hệ biện chứng với nhau. Tự học không chỉ củng cố, mở rộng
kiến thức thông thường mà quan trọng hơn là đưa những kiến thức ấy vào cuộc sống, “cọ sát” với thực
tế để thu lượm được những kinh nghiệm thực tiễn sống động, bổ ích, từ đó giúp cho người học có thể
vận dụng đúng, linh hoạt, sáng tạo những điều họ đã tự tiếp thu, lĩnh hội được.
2.1.3.4. Nâng cao đến mức tự giác, tích cực trong quá trình tự học
Nguyên tắc này sẽ trực tiếp quyết định đến kết quả học tập của người học. Kế hoạch tự học có
được thực hiện thường xuyên hay không là do yếu tố tự giác tích cực quyết định.
2.1.3.5. Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng, kỹ xảo
Quá trình tự học không chỉ đơn thuần là quá trình tự hình thành tri thức mà nó còn là quá trình
hoạt động thực tiễn, nâng cao, củng cố kĩ năng, kĩ xảo.
2.2. Tầm quan trọng của nhận thức về việc tự học
Từ xưa đến nay các bậc anh tài đã cho thấy việc tự học có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tri thức của con người.
Tự học giúp con người có thể hiểu biết, lĩnh hội tri thức một cách chủ động, toàn diện, hứng
thú với các vấn đề trong sách vở, trong cuộc sống. Con người được tự làm chủ, quyết định vấn đề mà
bản thân thích và nghiên cứu chúng.
Tự học giúp con người ghi nhớ một cách lâu hơn do có sự chuẩn bị tìm tòi các kiến thức ấy.
Tự học còn giúp việc vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn vào cuộc sống để làm
những việc có ích và thiết thực.
Không những thế tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không
phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản
thân. Một người tự học hỏi không ngừng vươn lên và có sáng kiến với một chủ thể chỉ thụ động,
không có ý kiến chắc chắn sẽ khác nhau.
Không chỉ vậy tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước
mơ thành hiện thực. Người có tinh thần tự học luôn chủ động, tự tin trong cuộc sống.
Hiện nay đối với các nước phát triển và các trường đại học lớn của Việt Nam thì hình thức tự
học được đề cao. Tự học là hình thức học hiện đại. Kiến thức dựa trên sự chủ động nghiên cứu của
sinh viên người học chứ không phụ thuộc vào thầy cô. Nói như vậy không có nghĩa việc tự học thay
thế cách học truyền thống mà con người cần tự học có hướng dẫn; bổ sung kết hợp để đạt được kết quả
tuyệt vời. Đặc biệt trong thời đại 4.0 ngày nay càng chứng minh là hiệu quả, tiện lợi và nhanh chóng,
nhờ vào sự phát triển của internet.
2.3. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay
Khác biệt lớn nhất và dễ nhận thấy nhất giữa học đại học và học phổ thông là tự học. Thời
gian học tập trên lớp ở đại học rất ít, phần lớn thời gian là tự học, 1 tiết học trên lớp tương đương với 3
tiết tự học. Chính vì thời gian học trên lớp ít nên nhiều sinh viên cảm thấy thoải mái và suy nghĩ như
cấp 3 chỉ cần học trên lớp là đủ dẫn đến tình trạng là quên đi việc phải tự học. Nhiều sinh viên chưa
chủ động được thời gian, cũng như chưa sắp xếp hợp lí thời gian cho việc tự học, chưa xác định được
mục đích của việc tự học là gì. Sinh viên chưa ý thức chủ động tìm hiểu thêm kiến thức mới, đa số là
dựa vào giảng viên, trên lớp giảng viên dạy đến đâu thì sinh viên học đến đó. Sinh viên chưa thấy
được tầm quan trọng của việc tự học thêm, chưa liên hệ được kiến thức tự học và kiến thức trong
chương trình học. Do vậy mà sinh viên chưa vận dụng được những kiến thức tự học và xem việc tự
học là dư thừa, không cần thiết phải có.
Bên cạnh đó vẫn còn nhiều sinh viên có tinh thần tự học cao, rất ý thức trong vấn đề tự học, tự
nghiên cứu, tìm tòi thêm kiến thức mới, biết vận dụng kiến thức tự học để áp dụng vào quá trình học
tập. Tự học, tự nghiên cứu có thể đạt được nhiều thành tựu lớn. Bằng chứng cho thấy là có nhiều công
trình nghiên cứu khoa học của sinh viên đoạt giải cao.
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tự học của sinh viên
2.4.1. Các yếu tố chủ quan
Tự ý thức: được cho là sự hiểu biết, cảm nhận của sinh viên về việc tự học
như xác định được mục tiêu, vai trò của việc tự học đối với bản thân. Từ đó sinh
viên có thể đáp ứng được mục tiêu của mình. ( Ngô Thế Lâm, 2020)
Thái độ tự học: được thể hiện thông qua các vấn đề như nhu cầu, động cơ,
ý chí khắc phục khó khăn, thích thú đối với việc tự học thông qua cách nhìn,
nghĩ và hành động của sinh viên. (Ngô Thế Lâm, 2020 )
Phương pháp tự học: theo nghiên cứu của Bùi Ngọc Quang ( 2013 ),
phương pháp tự học chính là cách thức mà sinh viên lên kế hoạch, đặt mục tiêu,
thực hiện việc học tập một cách hợp lý để đạt được kết quả tốt nhất.
Các kỹ năng mềm: là các kỹ năng tự học như kỹ năng xây dựng kế hoạch,
tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin, trau dồi và chia sẻ, tự đánh giá ngoài ra có
các kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo. Những kỹ năng được dùng để hỗ trợ cho việc tự
học trở nên dễ dàng, hợp lý, có tính khoa học.
Trình độ ngoại ngữ: việc tự học muốn đạt hiệu quả được trước hết là có
tài liệu liên quan. Nếu ta có trình độ ngoại ngữ tốt để đọc và hiểu những tài liệu,
giáo trình, tri thức của nước ngoài không chỉ thế ta có thể trao đổi với các sinh
viên quốc tế để tiếp thu kiến thức của bạn bè quốc tế là cơ hội và lợi thế của sinh
viên (Chương trình đào tạo ngành TMĐT 8/2020)
Sự chủ quan của sinh viên: còn rất nhiều sinh viên còn học theo kiểu
"nước tới chân mới nhảy", chỉ bắt đầu ôn bài vài ngày trước khi thi. Thời gian
đề các bạn học cũng không kéo dài, chỉ từ 2-3 tiếng mỗi ngày. Những kiến thức
như vậy thường rất lỏng lẻo và sẽ sớm bị quên lãng. Khiến cho việc học những
môn học khác liên quan tới những kiến thức nền gặp ảnh hưởng.
2.4.2. Các yếu tố khách quan
Môi trường học tập: Có thể môi trường sống của sinh viên chưa phù hợp
do khu nhà quá ồn, không có mạng hoặc không có phương tiện tìm kiếm tài liệu
và các bạn cũng không có khả năng tìm kiếm một môi trường sinh hoạt khác
khiến cho việc tự học của sinh viên gặp khó khăn.
Yếu tố về giáo viên: Việc tự học là quan trọng với sinh viên nhưng quá
trình giảng dạy và hướng dẫn của giảng viên có những ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng tự học của sinh viên. Các nghiên cứu cho rằng: chất lượng tự học phụ
thuộc vào trình độ tổ chức và điều khiển hoạt động học của thầy.
Chương trình đào tạo : định hướng quá trình học tập, rèn luyện và phát
triển nghề nghiệp cho sinh viên. Chương trình đào tạo tốt là chương trình giúp
cho sinh viên biết mình học cái gi, học như thế nào, những điều khó khăn và
thuận lợi trong khi học. Từ những điều khó hiểu sinh viên sẽ tự biết tìm tòi,
nghiên cứu và giải thích vấn đề của bản thân tạo nên những kỹ năng cần thiết
trong cuộc sống ( Phạm Văn Tuấn, 2015)
2.5. Một số phương pháp tự học hiệu quả
Tự học có ý nghĩa quan trọng nên bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng
cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê, ham học, ham hiểu biết,
giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức. Có rất nhiều
phương pháp tự học hiệu quả khác nhau, tuy nhiên cần lựa chọn phương pháp
sao cho hiệu quả và phù hợp với bản thân.
Xác định mục tiêu rõ ràng, khi có mục tiêu tức có định hướng tới thì việc
tự học sẽ trở nên dễ dàng và phù hợp với bản thân mình hơn. Việc tự học giúp
bản thân học hỏi được nhiều kiến thức bổ ích và là vì bản thân mình chứ không vì ai khác.
Khám phá ra điểm mạnh và sở thích của bản thân để có thể lựa chọn học
sao cho hiệu quả nhất và phù hợp nhất.
Có kế hoạch cụ thể, nhất quán thực hiện theo, việc thực hiện tự học không
phải ngày một ngày hai mà giống như việc mài đá thành dao cần có sự kiên trì
nhẫn nại theo đến cùng để tạo thành thói quen. Từ đó mới giúp việc tự học có ý
nghĩa. Cần tạo lập cho bản thân thói quen với việc tự học, tạo lập thời gian,
không gian để chúng ta có thể tiếp thu kết học quả việc tự học một cách tốt nhất.
Hiểu rõ hơn về tự học, sẽ giúp bạn đi xa hơn trên con đường tự học.
Luôn đầu tư và đổi mới trong phương pháp học, cùng một cách học nhưng
có rất nhiều cách thức cũng như phương pháp học khác nhau, tìm cho mình một
hướng đi phù hợp và khiến bản thân hứng thú nhất. Bên cạnh đó khi nghe
giảng, đọc sách hay làm bài tập thì luôn cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo
nhằm rút ra những điều cần thiết, hữu ích cho bản thân.
Việc tự học ngoài tự bản thân mày mò tìm hiểu cũng có thể nhờ sự chỉ
bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo, bạn bè hoặc những người am hiểu về vấn đề để giúp đỡ. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 đã cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về hoạt
động tự học của sinh viên Việt Nam hiện nay. Những kiến thức này có ý nghĩa
quan trọng trong việc giúp sinh viên nâng cao hiệu quả học tập,
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, sinh viên cần:
-Nâng cao ý thức, thái độ tự học, xác định mục tiêu rõ ràng, khám phá
điểm mạnh và sở thích, lập kế hoạch học tập cụ thể, tìm kiếm và sử dụng tài liệu
học tập hiệu quả, áp dụng các phương pháp học tập sáng tạo.
-Nhà trường và gia đình cần tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tự học,
bao gồm cả về thời gian và không gian học tập.
-Tự học là một quá trình lâu dài và cần có sự kiên trì, nỗ lực của bản thân
sinh viên. Sinh viên cần xác định rõ tầm quan trọng của tự học và có kế hoạch,
phương pháp tự học phù hợp để đạt được kết quả học tập tốt nhất. PHẦN KẾT LUẬN
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý là một quá trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đây là quy luật chung của quá trình con
người nhận thức về hiện thực khách quan, phản ánh sự phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ bên ngoài đến bên trong của sự vật, hiện
tượng. Với sinh viên Việt Nam hiện nay, hoạt động tự học là một hình thức thực
tiễn quan trọng, giúp nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng thực hành. Tuy
nhiên, để hoạt động tự học có hiệu quả, sinh viên cần tuân theo con đường biện
chứng của sự nhận thức, tức là không chỉ dừng lại ở việc thu nhận những kiến
thức cảm tính, trực quan, mà cần phải vận dụng tư duy trừu tượng, lý luận, phê
phán, sáng tạo để đạt được những tri thức lý tính, toàn diện, sâu sắc về sự vật,
hiện tượng. Đồng thời, sinh viên cũng cần áp dụng những tri thức đó vào thực
tiễn, kiểm tra và hoàn thiện chúng qua thực tiễn, đóng góp vào sự phát triển của
xã hội. Như vậy, có thể kết luận rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý là một nguyên lý khoa học, có giá
trị thực tiễn cao, đặc biệt đối với hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam hiện
nay. Sinh viên cần nắm vững và vận dụng nguyên lý này để nâng cao chất lượng
học tập và rèn luyện, góp phần xây dựng đất nước