Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sự vận dụng của Đảng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện nay | Bài tập lớn môn Quản lý học
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sự vận dụng của Đảng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện nay | Tiểu luận môn Quản lý học được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài : “Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và
sự vận dụng của Đảng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện nay”
Họ và tên: Phạm Thị Phương Nhung
Mã sinh viên: 11218594 Lớp học phần: 04 Hà Nội, tháng 9 năm 2022 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45474828 Trang
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................3
Lý do chọn đề tài........................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................5
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN...............................................................................................................
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN............................5
2. NỘI DUNG SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN......................................8
3. NHỮNG ĐIỀU KIỆN QUY ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN.........................................................................................11
CHƯƠNG II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN...................................................................15
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY
1.CÁC NỘI DUNG ĐẢNG ĐÃ VẬN DỤNG..........................................................15
2.THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC...................................................................................17
3.HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI....................................................................................24
4.GIẢI PHÁP, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN
TRONG THỜI GIAN TỚI CỦA ĐẢNG..................................................................26
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................30 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên
phong của cách mạng Việt Nam, luôn giữ vai trò, vị trí trung tâm, quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng,phát triển đất nước. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta đã xác định vai
trò và sứ mệnh lịch sử củagiai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nòng
cốt trong khối liên minh công - nông. Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp 2 lOMoAR cPSD| 45474828
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), Đảng ta xác định sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp
công nhân là: giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đầu thế kỷ XX, giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời, ngày càng lớn mạnh và không ngừng trưởng thành,
có vai trò quyết định trong tiến trình cách mạng nước ta. Giai cấp công nhân Việt Nam
- thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam - bước lên vũ đài
chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.Từ khi giành được chính quyền
đến nay, giai cấp công nhân nước ta đã có những biến đổi rất to lớn, từ người làm thuê
cho tư bản, đế quốc trở thành người làm chủ đất nước. Giai cấp công nhân phát triển
mạnh mẽ về số lượng, cơ cấu, trình độ, tay nghề, bản lĩnh chính trị,… thể hiện và
khẳng định vị thế của người chủ đất nước, đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới,
xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trước hiện thực đó,
nền tảng lý luận và cơ sở của chủ nghĩa Mác- Lênin của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay cần được nhận thức một cách triệt để đối với công dân Việt Nam, đặc biệt là
thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên Việt Nam – họ là những thế hệ phát triển, tiếp
nối con đường xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tương lai
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em chọn thực hiện đề tài: “Lý
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về giai cấp công nhân và sự vận dụng của Đảng trong
xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện nay”, nhằm tìm hiểu những lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân đồng thời thấy được sự vận dụng
của Đảng và những phương hướng phát triển giai cấp công nhân trong thời gian tới của Đảng.
Qua đề tài này, em muốn cảm ơn thầy Nguyễn Văn Thuân – người đã giúp em
có thêm những kiến thức về môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung cũng như 3 lOMoAR cPSD| 45474828
những hiểu biết về giai cấp công nhân nói riêng. Trong quá trình làm bài, mặc dù đã
cố gắng hết khả năng nhưng do trình độ còn hạn chế nên vẫn không tránh khỏi những
sai sót nhất định. Vì vậy, em rất mong được những ý kiến, đóng góp của thầy để giúp
cho bài làm của em được đầy đủ, hoàn thiện hơn và bản thân em cũng có thể củng cố
thêm vốn hiểu biết của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn! PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Khái niệm và đặc điểm giai cấp công nhân
a, Khái niệm giai cấp công nhân
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát
triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định. C. Mác và
Ph. Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân như
giai cấp vô sản; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công
nhân đại công nghiệp,... Đó là những cụm từ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân –
con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản
xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Ngoài ra, các ông còn dùng các
thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành sản xuất
khác nhau, trong những giai đoạn phát triển khác nhau của công nghiệp: công nhân
khoáng sản, công nhân công trường thủ công, công nhân công xưởng, công nhân nông nghiệp...
Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song giai cấp công nhân được
các nhà kinh tế cổ điển xác định theo hai phương diện cơ bản: 4 lOMoAR cPSD| 45474828
Về phương diện kinh tế - xã hội
Là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân
là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Họ lao động bằng phương
thức công nghiệp ngày càng hiện đại với những đặc điểm nổi bật: sản xuất bằng máy
móc, lao động có tính chất xã hội hóa, năng suất lao động cao và tạo ra những tiền đề
của cải vật chất xã hội mới.
Mô tả quá trình phát triển của giai cấp công nhân, C. Mác và Ph. Ăngghen đã
ghi rõ: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng
công cụ của mình còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc”.
Theo C.Mác và Ph. Ăgghen, công nhân công nghiệp công xưởng là bộ phận tiêu biểu
cho giai cấp công nhân hiện đại
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, các ông nhấn mạnh: “các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn
giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” và “công nhân cũng
là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy...Công nhân Anh là đứa
con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”.
Về phương diện chính trị - xã hội
Từ lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân còn là sản phẩm
xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có “điều kiện tồn tại dựa
trên chế độ làm thuê”. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, “giai cấp vô sản là
giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân,
nên buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống”
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, đó là giai cấp của những người lao động không
có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công nhân là 5 lOMoAR cPSD| 45474828
những người lao động tự do, với nghĩa là tự do bán sức lao động của mình để kiếm
sống. Chính điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với
giai cấp tư sản. “Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa
một, một hàng hóa, tức là một món đồ đem bán như bất cứ món hàng nào khác, vì thế,
họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn với quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn cơ bản
này thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc của giá trị thặng dư và sự giàu có
của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư.
Mâu thuẫn đó cho thấy, tính chất đối kháng không thể điều hòa giữa giai cấp
công nhân ( giai cấp vô sản ) và giai cấp tư sản trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Từ phân tích trên, theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp
hiện đại. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền
với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất,
buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư, vì
vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp
có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. 6 lOMoAR cPSD| 45474828
b, Đặc điểm của giai cấp công nhân
Nghiên cứu giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) từ phương diện kinh tế - xã
hội và chính trị - xã hội trong chủ nghĩa tư bản, Mác và Ăngghen đã không những đưa
lại quan niệm khoa học về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm
quan trọng của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới.
Có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân bao gồm:
o Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức
công nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất
lao động cao, quá trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
o Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ
thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là
đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên
tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại
o Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn
luyện cho giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức,
kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Đó
là một giai cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp công nhân có vai
trò lãnh đạo cách mạng.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà giai cấp
công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu
trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 7 lOMoAR cPSD| 45474828
Nói về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác đã viết: “Thực hiện sự
nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên ba nội dung cơ bản sau: a) Nội dung kinh tế
Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, giai cấp công nhân
cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhất dựa trên chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát
triển của lịch sử xã hội.Vai trò chủ thể của giai cấp công nhân, trước hết là chủ thể
của quá trình sản xuất vật chất để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Bằng cách đó, giai cấp công
nhân tạo tiền đề vật chất -kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Mặt khác, tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi một quan hệ
sản xuất mới, phù hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội là
nền tảng, tiêu biểu cho lợi ích của toàn xã hội. Giai cấp công nhân đại biểu cho lợi ích
chung của xã hội. Chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất không có lợi ích
riêng với nghĩa là tư hữu. Nó phấn đấu cho lợi ích chung của toàn xã hội. Nó chỉ tìm
thấy lợi ích chân chính của mình khi thực hiện được lợi ích chung của cả xã hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua quá trình công
nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất
lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp
với nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên thực tế, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức phát
triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, để thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình về nội dung kinh tế, giai cấp công nhân phải đóng vai trò nòng cốt trong quá
trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong 8 lOMoAR cPSD| 45474828
quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất
mới, xã hội chủ nghĩa ra đời. Công nghiệp hóa là một tất yếu có tính quy luật để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình, giai cấp công nhân phải là lực lượng đi đầu thực hiện công nghiệp hóa, cũng
như hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, yêu cầu mới đặt ra đòi hỏi
phải gắn liền công nghiệp hóa với hiện đại hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
b) Nội dung chính trị - xã hội
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản,
xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành quyền lực về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp
công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân,
quyền dân chủ và làm chủ xã hội của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình
làm chủ như một công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội
mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản
lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân
lao động, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
c) Nội dung văn hóa, tư tưởng
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân trong tiến trình cách
mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần
phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động; công bằng; dân chủ; bình đẳng và tự
do.Hệ giá trị mới này là sự phủ định các giá trị tư sản mang bản chất tư sản và phục 9 lOMoAR cPSD| 45474828
vụ cho giai cấp tư sản; những tàn dư các giá trị đã lỗi thời, lạc hậu của các xã hội quá
khứ,. Hệ giá trị mới thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa sẽ từng
bước phát triển và hoàn thiện.
Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm
cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư
tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và củng cố
ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh để
khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư còn sót lại của các hệ tư tưởng cũ. Phát triển
văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội
chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
3. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a, Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Khẳng định tính tất yếu khách quan sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã nêu rõ: “...Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái
nền tảng trên đó giai cấp tư sản dã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá
sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra người đào huyệt
chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là
tất yếu như nhau” Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm: 10 lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện
đại. Vì thế, giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực
lượng sản xuất hiện đại. Nền sản xuất hiện đại với xu thế xã hội hóa cao đã tạo ra
“tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” (C.Mác) cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân là
lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình,
chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp công nhân trở thành đại
biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ
chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư
cách là một chế độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có được những
phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức và kỷ luật, tự
giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Những
phẩm chất ấy của giai cấp công nhân được hình thành từ chính những điều kiện khách
quan, được quy định từ địa vị kinh tế và địa vị chính trị - xã hội của nó trong nền sản
xuất hiện đại và trong xã hội hiện đại mà giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
một cách khách quan, ngoài ý muốn của nó.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi giai cấp công
nhân, vì nó là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho
phương thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác
lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ 11 lOMoAR cPSD| 45474828
nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế đi lên của tiến
trình phát triển lịch sử. Đây là đặc tính quan trọng, quyết định bản chất cách mạng
của giai cấp công nhân. Hoàn toàn không phải vì nghèo khổ mà giai cấp công nhân là
một giai cấp cách mạng. Tình trạng nghèo khổ của giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa
tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản tạo ra
đối với công nhân. Đó là trạng thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ để giải phóng giai cấp
công nhân và giải phóng xã hội.
b, Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan để
giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đó là:
- Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng. Thông
qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng với quy
mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp, của
kỹ thuật và công nghệ. Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về
chất lượng giai cấp công nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình. Chất lượng giai cấp công nhân phải thể hiện ở trình
độ trưởng thành về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận
thức được vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp công
nhân phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng giai cấp
công nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4 (4.0) đang tác động sâu sắc vào sản xuất, vào quản lý và đời sống xã hội nói chung,
đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, phương thức lao động của công nhân, lao
động bằng trí óc, bằng năng lực trí tuệ, bằng sức sáng tạo sẽ ngày càng tăng lên, lao
động giản dơn, cơ bắp trong truyền thống sẽ giảm dần bởi sự hỗ trợ của máy móc, của 12 lOMoAR cPSD| 45474828
công nghệ hiện đại, trong đó có vai trò của công nghệ thông tin. Trình độ học vấn, tay
nghề, bậc thợ của công nhân, văn hóa sản xuất, văn hóa lao động đáp ứng yêu cầu của
kinh tế tri thức là những thước đo quan trọng về sự phát triển chất lượng của giai cấp
công nhân hiện đại. Chỉ với sự phát triển như vậy về số lượng và chất lượng, đặc biệt
về chất lượng thì giai cấp công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
- Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhânthực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai
cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự
trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa xã hội khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân Giai
cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng nhất của Đảng,
làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đội tiên phong, bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai
cấp công nhân, của dân tộc và xã hội. Sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở bản
chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, với
quần chúng lao động đông đảo trong xã hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng lãnh
đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.
Ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan nêu trên chủ nghĩa Mác – Lênin
còn chỉ rõ, để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi
tới thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điều kiện quan trọng không thể
thiếu để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
CHƯƠNG II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN: 13 lOMoAR cPSD| 45474828
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIAI CẤP
CÔNG NHÂN HIỆN NAY.
Giai cấp công nhân đang hoạt động trong tất cả các ngành nghề, các thành phần
kinh tế , là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
là hạt nhân của liên minh công nông và khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay, giai cấp
công nhân Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, song hàng năm đã tạo ra đến gần 70%
giá trị tổng sản phẩm trong nước. Như vậy, những đóng góp của giai cấp công nhân
đã khẳng định vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo.
Giai cấp công nhân nước ta hơn nữa lại đang có sự phát triển nhanh cả về số
lượng và chất lượng, song trước nhiều khó khăn, điều kiện sinh hoạt tinh thần của giai
cấp công nhân rất thiếu thốn. Công nhân lao động không có thời gian, điều kiện sinh
hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có một
bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến
tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của giai cấp công nhân, giảm lòng
tin và sự gắn bó của Đảng và Công đoàn. Đã xảy ra hiện tượng tranh chấp lao động
và đình công trong thời gian qua, cho thấy sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu
pháp luật của công nhân lao động
Trong chương II sẽ chỉ rõ sự vận dụng của Đảng trong xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân từ đó cho thấy được những thành tựu cũng như những hạn chế và
phương hướng phát triển giai cấp công nhân trong thời gian tới của Đảng.
1. Các nội dung Đảng đã vận dụng
Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng,
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội.
Sự quan tâm của Đảng đối với giai cấp công nhân đã được khẳng định ngay trong 14 lOMoAR cPSD| 45474828
văn kiện của Đảng qua các kì Đại hội nhất là từ sau Đại hội Đổi mới toàn diện đất nước đến nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có những bước tiến mới trong
nhận thức, lý luận về giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc
tế. “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng
cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giải quyết việc
làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách
và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối với công nhân; chính sách
ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công
đoàn,nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính
đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm
việc ở các khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp Đảng
viên từ những công nhân ưu tú”
Để giai cấp công nhân Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình, văn
kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số
lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng
và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” 15 lOMoAR cPSD| 45474828
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Quan tâm giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng;
nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp tác
phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu
nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công
nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của công nhân.”
Kế thừa những quan điểm trên, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa ra chủ
trương: “ Phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng, nâng cao bản lĩnh, trình độ,
kĩ năng nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đối mới tổ chức
và hoạt động của công đoàn phù hợp bối cảnh, điều kiện mới”. Như vậy, chủ trương
phát triển giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong Dự thảo các văn kiện Đại
hội XIII của Đảng vẫn “phát triển GCCN cả về số lượng và chất chất lượng; nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp”, nhưng đã bổ
sung điểm mới rất quan trọng là phát triển GCCN “nhằm thích ứng với cuộc CMCN
lần thứ tư, đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp bối cảnh, điều kiện mới”.
2. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
⁕Những thành tựu đạt được:
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
Kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai
đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt
4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/ năm; các
giao đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình
quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid- 16 lOMoAR cPSD| 45474828
19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
nhất khu vực thế giới.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên
tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển.
Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành
đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ
USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-
19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng số vốn FDI đạt
28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để
làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế,
khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành
các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn kết với chế biến công nghiệp,...Nhìn
chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn nhất trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng
nông sản như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì
ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối
cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu
tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm
2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD – cao
nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu
ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất
khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
a, Phát triển gắn kết hài hòa với sự phát triển văn hóa – xã hội
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn
kết hài hòa với sự phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã 17 lOMoAR cPSD| 45474828
hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn
bộ trong việc giải quyết việc làm đã dầnn chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế,
chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ
chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu – nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người
làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của
Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm
từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010; 7% năm 2015 và còn dưới
3% năm 2020( theo chuẩn nghèo đa chiều)
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất
lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn lực. Nhiều chỉ số giáo dục phổ
thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi
vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh
đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở top đầu của khối ASEAN.
Vị thế của các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp
hạng Châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc
so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top
1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của
nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó,
người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trang
thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh
của nhân dân...Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ
chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang
tầm thế giới như: ghép chi,tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy 18 lOMoAR cPSD| 45474828
hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắc-xin phòng bệnh,
mới đây nhất là vắc-xin phòng Covid-19...
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm thực hiện. Đến nay,diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở
rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt
là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội
đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ
năm 2003-2018, ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền
lợi cho trên 1.748 triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình quân
mỗi năm có trên 109 triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống
nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và
toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân
dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
b, Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối
tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện
thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia
công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song
phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham
gia có độ phủ rộng hầu hết các Châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm 19 lOMoAR cPSD| 45474828
gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh
tếthương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc
Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực hiện các FTA sẽ mang lại những
cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong
các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương(APEC), các tổ chức
của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò
ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng, Bên cạnh đó, Việt Nam
đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc như: Hội đồng
Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ
2013-2017, Hội đồng kinh tế- xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016- 2018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA. Trong
bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên
tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy
tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 20