Lý luận của trết học Mác Lênin về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, liên hệ với thực trạng phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay| Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Ô A U A ĐA A
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LÝ LUẬN CỦA TRẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP, LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn TS. NGUYỄN THỊ TRI LÝ
Sinh viên thực hiện
1. LÊ HIỆP PHƯỚC 22142381
2. NGUYỄN VÕ GIA THỊNH 22142410
3. NGUYỄN THANH LÂM 22142340
4. NGUYỄN ĐĂNG QUANG 22142382
5. ĐẶNG TUẤN THỦY 2212414 Mã lớp học Thành phố Hồ Chí Minh, năm Ô A U A ĐA A
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LÝ LUẬN CỦA TRẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP, LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn TS. NGUYỄN THỊ TRI LÝ
Sinh viên thực hiện LÊ HIỆP PHƯỚC 22142381
NGUYỄN VÕ GIA THỊNH 22142410 NGUYỄN THANH LÂM 22142340 NGUYỄN ĐĂNG QUANG 22142382 ĐẶNG TUẤN THỦY 22 Mã lớp học Thành phố Hồ Chí Minh, năm
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN:
Điểm: …………………………….. MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ hiên cứu
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài 1.4. Bố cục đề tài
PHẦN 2: PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP 2.1. Lý luận về giai cấp
2.1.1. Định nghĩa về giai cấp
2.1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
2.1.3. Kết cấu xã hội giai cấp
2.2. Lý luận chung về đấu tranh giai cấp
2.2.1. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
2.2.2. Vài trò của đấu tranh giai cấp
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận 2.3.1. Ý nghĩa lý luận 2.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
PHẦN 3: PHẦN KIẾN THỨC LIÊN HỆ
LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Quá trình phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam
3.1.1. Sự ra đời của giai cấp công nhân ở Việt Nam
3.1.2. Vai trò của giai cấp công nhân ở Việt Nam
3.2. Thực trạng của quá trình phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện
3.2.1. Giai cấp công nhân có sự phát triển về số lượng và chất lượng
3.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển của giai cấp
Những giải pháp cơ bản nhằm phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay
3.3.1 Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong quá
trình phát triển đất nước
3.3.2. Đầu tư phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng
3.3.3. Nhà nước có cơ chế chính sách đặc thù cho chiến lược phát triển giai cấp
3.3.4 Cần hội nhập quốc tế về giai cấp công nhân nhằm nâng cao chất lượng
PHẦN 4: PHẦN KẾT LUẬN Y i ư u đê a
4.2 Ý nghĩa đối với bản thân
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phần 1 PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và
tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị
chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức. Không có sự bình đẳng giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp
những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và
phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép
họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối
lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những
giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp
bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển
của xã hội có sự phân chia giai cấp
Đây là lý do mà nhóm chúng em chọn đề tài: “ G â a đâ â
hệ với thực trạng phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay” làm bài viết tiểu luận cuối kỳ của mình
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là: đề tài nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa – Lênin về
giai cấp và đấu tranh giai cấp, từ đó liên hệ với thực tiễn phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau: Trình bày khái
quát về giai cấp, đấu tranh giai cấp; nêu thực trạng phát triển giai cấp công nhân ở Việt
Nam hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài 1
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm hiểu, phân tích và tổng hợp. Căn cứ vào
quan điểm của triết học Mác Lenin về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp để hiểu rõ hơn.
1.4. Bố cục đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được
chia thành 2 phần, 6 tiết.
Phần 1: Phần kiến thức cơ bản
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Phần 2: Phần kiến thức liên hệ
LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2 Phần 2
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC VỀ GIAI CẤP
VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP luận về giai cấp
2.1.1. Định nghĩa về giai cấp
, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất
phân công lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng.
2.1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
Nguồn gốc sâu xa: Là sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng
lên, xuất hiện “của dư”, tạo khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này
chiếm đoạt lao động của người khác.
Nguồn gốc trực tiếp: Do xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt
là những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
2.1.3. Kết cấu xã hội giai cấp
Kết cấu xã hội – giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp,
tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định
Trong kết cấu xã hội giai cấp bao gồm: Giai cấp cơ bản, giai cấp không cơ bản và
các tầng lớp, nhóm xã hội nhất định.
Giai cấp cơ bản: Là những giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị, là sản
phẩm của phương thức sản xuất thống trị nhất định.
Giai cấp không cơ bản: Là những giai cấp gắn với phương thức sản xuất tàn dư,
hoặc mầm mống trong xã hội.
Các tầng lớp, nhóm xã hội nhất định (tầng lớp trí thức, nhân sĩ, tu hành...): Có vai
trò trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, phục vụ cho các giai cấp khác nhau, phần
lớn là phục vụ cho giai cấp thống trị. 3
Đặc điểm của kết cấu xã hội giai cấp: Kết cấu xã hội giai cấp luôn có sự vận
động, biến đổi không ngừng, diễn ra không chỉ khi xã hội có sự chuyển biến các
phương thức sản xuất, mà trong cả quá trình phát triển của mỗi phương thức sản xuất.
luận chung về đấu tranh giai cấp
2.2.1. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa giữa các giai cấp
Định nghĩa đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập
đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi
ích căn bản không thể điều hòa được giữa các giai cấp, xuất phát từ tính tất yếu kinh
tế, nguyên nhân là do sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị.
Thực chất của đấu tranh giai cấp: Là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp
bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị.
2.2.2. Vài trò của đấu tranh giai cấp
Là động lực trực tiếp quan trọng của lịch sử
Đấu tranh giai cấp là phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh cao sẽ dẫn đến
cách mạng xã hội. Thông qua cách mạng xã hội mà quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ,
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được xác
lập, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đấu tranh giai cấp có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ lực lượng sản xuất phản động,
cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng.
Đấu tranh giai cấp làm cho tất cả mọi mặt đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn
hóa, tư tưởng...) phát triển nhanh chóng.
Tóm lại: Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
2.3.1. Ý nghĩa l luận 4
hải bám sát điều kiện lịch sử xã hội cụ thể Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử xã hội,
một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Quá trình này không phụ thuộc
vào việc người ta có quan niệm như thế nào về nó. Mà muốn đưa ra những kết luận
khái quát đúng đắn về nó, cần phải nghiên cứu những sự kiện lịch sử cụ thể, phân tích
sự vận động của các sự kiện lịch sử đó một cách tỉ mỉ, chi tiết với một thái độ khách
quan, biện chứng. Những phân tích của C.Mác về các sự kiện lịch sử ở Pháp những năm 1848
1851 và 1871 đã chứng tỏ điều đó.
Việt Nam là nước đã giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và sau khi
có chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục trong điều
kiện mới, với tính chất gay go, phức tạp, có mặt ngày càng gay gắt hơn. Mục tiêu đấu
tranh của giai cấp công nhân cũng thay đổi, từ mục tiêu tất cả để giành chính quyền
chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là phát triển kinh tế nhằm giữ vững thành quả
cách mạng. Do vậy, thực chất cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là phát
triển lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao, đồng thời từng bước xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Bởi theo C.Mác,
nguyên nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất không
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
rong cơ cấu giai cấp xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư sản,
tiểu tư sản, các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội. Với kết cấu giai cấp đó,
tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với tầng
lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác (có mục đích, có điều khiển) theo
con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Trong
điều kiện đó, chính quyền giai cấp vô sản phải tiếp tục sử dụng phương pháp cách
mạng không ngừng, sử dụng chuyên chính vô sản của mình để đập tan mọi âm mưu
của các thế lực thù địch, đồng thời định hướng chính trị cho phù hợp với mục tiêu chủ
nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã chọn. Hay nói cách khác, cần sử dụng tổng
hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh, trong đó có hoà bình và bạo lực, giáo dục
thuyết phục với pháp chế và hành chính. Sử dụng hình thức đấu tranh nào tuỳ thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt, điều kiện mới hiện nay, không được cường 5
điệu cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt rè, không dám đổi mới; đồng thời, không
được coi nhẹ, xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác.( Nguồn:
2.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần nhằm tạo điều kiện để mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội có thể phát
huy hết tiềm năng của mình, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Trong bối cảnh đó, có quan điểm cho rằng, không nên đặt vấn đề đấu
tranh giai cấp vì nó sẽ dẫn đến phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng. Đây là một quan
điểm không đúng, vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế tức là còn sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, có nghĩa là còn tồn tại các giai cấp trong xã hội, do vậy không thể loại
bỏ đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp cũng là một tất yếu khách quan trong mọi xã
hội có giai cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng: xã hội Việt Nam hiện nay không còn sự
khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp, không còn đấu tranh giai cấp.
Nhưng, cũng sẽ là sai lầm nếu phân chia các giai cấp trong xã hội Việt Nam hiện nay
thành hai lực lượng đối kháng về mặt lợi ích. Việc nhận thức đúng đắn tính chất, nội
dung của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta xử lý một cách
khoa học mối quan hệ xã hội
ấp, đưa sự nghiệp đổi mới tới thắng lợi.
Nguyên nhân sâu xa ra đời giai cấp cũng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất
và yêu cầu khách quan đầu tiên để xã hội không còn tồn tại giai cấp, xóa bỏ giai cấp
cũng là do lực lượng sản xuất phát triển tới trình độ rất cao. Trong khi Việt Nam hiện
nay đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp, tuy đã qua vài thập
kỷ xây dựng, phát triển kinh tế nhưng trình độ lực lượng sản xuất vẫn còn thấp kém và
phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là phát
triển lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao. Bên cạnh đó, cần lựa chọn hình thức quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ đa dạng, phức tạp của Việt Nam hiện nay.
Muốn đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, muốn đảm bảo
thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, thì giai cấp công nhân
Việt Nam phải xây dựng, củng cố và phát huy được khối liên minh giữa giai cấp công
nông dân và tầng lớp trí thức. Phải củng cố và tăng cường được sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, giai cấp công nhân 6
phải nắm vững công cụ chuyên chính của mình, tức là phải xây dựng nhà nuớc xã hội
chủ nghĩa vững mạnh, trở thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân.( Nguồn: 7 Phần 3
PHẦN KIẾN THỨC LIÊN HỆ
ÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam
3.1.1. Sự ra đời của giai cấp công nhân ở Việt Nam
Vào cuối thế kỷ thứ 19, sau khi cơ bản hoàn thành quá trình xâm lược nước ta thực
dân Pháp tiến hành thực hiện kế hoạch khai thác thuộc địa ở Việt Nam, dưới tác động
của những cuộc khai thác thuộc địa giai cấp công nhân ở nước ta đã ra đời. Trước hết,
thực dân Pháp tập trung vào phát triển ngành khai thác mỏ, hàng ngàn nông dân bị bần
cùng hóa may mắn được trở thành “thợ” mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than,
thiếc... Tuy chưa phải công nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp
nhưng đây là mầm mống để phát triển hình thành giai cấp công nhân Việt Nam. Đẩy
nhanh quá trình khai thác thuộc địa, nhiều khu công nghiệp được xây dựng tập trung ở
Hà nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh – Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số
công nhân tăng nhanh. Số lượng công nhân năm 1906 gần 5 vạn người trong đó có
1.800 thợ chuyên môn. Nhiều xí nghiệp tập trung đông công nhân như: Xi măng Hải
phòng có 1.500 người, 4 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800
người, các nhà máy xay xát ở Sài Gòn có tới 3.000 người, riêng trên các tuyến đường
sắt Vân Nam – Hải Phòng đã thu hút tới 6 vạn người, ngành mỏ (năm 1914) có tới
4.000 thợ, đó là chưa kể số “thợ theo mùa”. Tổng công nhân Việt Nam tính đến trước
chiến tranh thế giới lần thứ I có khoảng 10 vạn người.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ II (1919 1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa
để bù đắp những tổn thất trong chiến tranh. Sự phát triển của một số ngành công
nghiệp khai khoáng, dệt, giao thông vận tải... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh,
công nhân mỏ và công nhân đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người. Ở các t
phố, nhiều nhà máy đã có trên 1.000 công nhân như nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định. 8
Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư bản
Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ; 8,6 vạn công
công thương nghiệp. Đó là chưa kể đến những người lao động làm việc ở xí nghiệp thủ
công lớn, nhỏ, thợ may, thợ giặt, bồi bếp.
Như vậy cùng với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn tới sự ra
đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Và, đó
cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới – giai cấp công nhân Việt
Nam với những đặc điểm sau:
iai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ nông dân, do bị bần cùng hóa
quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp nên có sẵn mối quan hệ tự nhiên
với nông dân và nhân dân lao động. Đây là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân
xây dựng và thiết lập khối liên minh công nông và là nòng cốt của khối đại đoàn kết
tộc, nhằm chống lại kẻ thù chung là thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai
để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội...
iai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên được thừa hưởng truyền thống đấu
tranh anh dũng và bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Là giai cấp bị bóc lột nặng
nề cùng với nỗi nhục mất nước, nên có điều kiện và cơ sở để liên minh với nhân dân
và các giai cấp, các tầng lớp khác trong xã hội (trước hết là nông dân) để chống lại ách
áp bức của giai cấp tư sản và thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc. Như vậy
lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng cũng như
nghị lực và tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt Nam được nhân lên gấp bội.
iai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam, trong khi thế
giới giai cấp công nhân ra đời sau giai cấp tư sản.
iai cấp công nhân Việt Nam phải chịu 3 tầng áp bức bóc lột là địa chủ, phong
kiến, tay sai, của giai cấp tư sản mại bản và của chủ nghĩa đế quốc. Với ba tầng áp bức
nặng nề này đã làm cho đời sống công nhân Việt Nam vô cùng cực khổ, so với giai
cấp công nhân thế giới, bởi giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển họ chỉ phải
chịu một tầng áp bức của giai cấp tư sản mà thôi. Chính đặc điểm này đã làm sâu sắc
hơn tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam thúc đẩy họ luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh. 9
rong giai cấp công nhân Việt Nam không có bộ phận công nhân quý tộc, họ thuần
nhất chỉ là người lao động trong các ngành công nghiệp của thực dân pháp. Đây là
điều kiện thuận lợi để xây dựng tinh thần đoàn kết của giai cấp công nhân và đoàn kết dân tộc...
iai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị trong điều kiện tình hình
thế giới cũng như phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III) đã cổ vũ và giúp đỡ về nhiều mặt, để giai cấp công nhân Việt Nam vươn lên đảm
nhận lấy sứ mệnh lịch sử của mình lãnh đạo cách mạng...
Tất cả những đặc điểm và hoàn cảnh đó đã hội tụ lại đầy đủ, đưa giai cấp công
nhân Việt Nam lên địa vị lịch sử và là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Chính trong lúc này Chủ nghĩa Mác – Lênin và các tài liệu tuyên truyền của
Nguyễn Ái Quốc gửi về được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như
“người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn
những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên
cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày
càng trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự phát triển mạnh mẽ các phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân trong cả nước, đòi hỏi phải
có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt được thành lập.
Từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam số lượng các cuộc bãi
công ngày một tăng, có tổ chức lãnh đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công thì
đến năm 1929 đã có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30 cuộc với số lượng người tham gia
lên đến ngót 32.000 người. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong
trào yêu nước từ năm 1925 đến năm 1929 là một điều kiện quyết định sự ra đời các tổ
chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng Sản
Việt Nam vào đầu năm 1930. (Nguồn:
3.1.2. Vai trò của giai cấp công nhân ở Việt Nam 10
Trong thời kỳ mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, tham
gia vào toàn cầu hóa, Cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò của giai cấp công nhân Việt
Nam tiếp tục được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
iai cấp công nhân nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng duy trì và phát triển
hoạt động sản xuất, tạo ra khối lượng lớn sản phẩm công nghiệp, đóng góp chủ yếu
vào ngân sách Nhà nước, góp phần quan trọng tạo nên thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử trong 35 năm đổi mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới, các ngành kinh tế nước ta, nhất là lĩnh vực công nghiệp
gặp nhiều khó khăn. Giai cấp công nhân kiên trì khắc phục khó khăn, duy trì và phát
triển hoạt động sản xuất, dần thích ứng với cơ chế quản lý mới, nâng cao năng suất lao
động, tạo ra khối lượng sản phẩm công nghiệp, đóng góp chủ yếu vào ngân sách Nhà
nước. Công nhân là lực lượng lao động trực tiếp thúc đẩy “Sản xuất công nghiệp từng
bước phục hồi, giá trị gia tăng ngành công nghiệp, xây dựng tăng bình quân
6,9%/năm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng…
Giá trị ngành công nghiệp, xây dựng năm 2011 tăng 6,68%, năm 2012: 5,75%, năm
2013: 5,43%, năm 2014: 7,14%, năm 2015: 9,29%”. Giá trị ngành công nghiệp hàng
năm tăng cao, trong đó có công sức, trí tuệ của giai cấp công nhân, đóng góp chủ yếu
vào giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP), góp phần quan trọng vào thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
iai cấp công nhân nước ta đã và đang phát huy hiệu quả vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, giai cấp công nhân nước ta là một
trong những giai cấp, tầng lớp xã hội gặp nhiều khó khăn, thách thức chưa từng có của
bước chuyển đổi mạnh mẽ, toàn diện từ xây dựng, phát triển nền kinh tế đất nước nói
chung, phát triển kinh tế công nghiệp nói riêng theo mô hình hành chính, tập trung bao
cấp sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là
nhiệm vụ nặng nề, mới mẻ, trong khi đó, phong cách, lề lối làm việc của công nhân
còn chịu tác động của cơ chế hành chính, tập trung bao cấp. Song, phát huy truyền
thống cách mạng, kiên cường, bất khuất và tiên phong, giai cấp công nhân vẫn luôn
giữ vững và thể hiện là giai cấp lãnh đạo cách mạng nước ta trong điều kiện mới. Điều
này được Đảng ta khẳng định tại Hội nghị Trung ương iai cấp công nhân 11
nước ta “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam”.
iai cấp công nhân nước ta đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến.
Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi mới
đi vào chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tiến trình
lịch sử, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam, góp
phần làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của dân tộc. Đặc biệt, sau 35 năm đổi
mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng, đang có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
iai cấp công nhân nước ta luôn tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong công cuộc đổi mới, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân có vai trò đặc biệt quan trọng. Giai cấp
công nhân trực tiếp làm việc trong các công xưởng, nhà máy, doanh nghiệp, trong các
lĩnh vực của ngành kinh tế công nghiệp, trực tiếp tiếp nhận công nghệ tiên tiến đưa
vào sản xuất, cải tiến công cụ, quy trình, quản lý... Đó là những người chủ trong ngành
công nghiệp, người đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Đảng đã khẳng định: giai cấp công nhân nước ta là
“lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
ấp công nhân nước ta “là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Trong thực tế, quan hệ giữa công nhân với nông dân và trí thức đã hình thành nên
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Sự
phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức đã,
đang và sẽ thúc đẩy sự hợp tác, liên minh, liên kết của công nhân với trí thức và nông
dân; từ đó hình thành, phát triển các nhóm xã hội giáp ranh, đan xen giữa công nhân
và trí thức, giữa công nhân và nông dân. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, liên minh, liên kết giữa các giai tầng xã 12
hội. Thông qua đó, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu, số lượng, chất lượng lao động, để
tạo nên nguồn nhân lực có chất lượng cao cho quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, trong thời kỳ mới, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH
trong điều kiện mới. Liên minh ấy chỉ có thể phát huy và khẳng định vai trò khi được
xây dựng, củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức theo đường lối, quan
điểm của Đảng, lập trường của giai cấp công nhân.
iai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị xã hội rộng lớn, trực tiếp của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tham gia hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng.
Trong công cuộc xây dựng CNXH theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN
hiện nay, giai cấp công nhân nước ta có đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam,
được Đảng lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động. Bởi vậy, giai cấp công nhân rất
thuận lợi khi tham gia vào công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, với xu hướng ngày
càng tăng về số lượng và chất lượng, giai cấp công nhân là nguồn lực dồi dào cung cấp
cho Đảng ngày càng nhiều đảng viên là công nhân, góp phần khẳng định bản chất giai
cấp công nhân của Đảng. Thông qua tăng số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ đảng
nhân, Đảng sẽ được bổ sung lực lượng đảng viên có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có trình độ và tác phong, kỷ luật lao động hiện đại, nhiều đảng viên là
công nhân trí thức… Từ đó, góp phần quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng thông qua hoạt động trực tiếp của những đảng viên là công nhân ở mọi doanh
nghiệp, lĩnh vực, địa bàn của ngành công nghiệp, góp phần nâng cao bản chất giai cấp
công nhân của Đảng trong điều kiện hiện nay.
Thực trạng của quá trình phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Giai cấp công nhân có sự phát triển về số lượng và chất lượng
Trong những năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những bước phát triển
tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng
thời chất lượng đội ngũ được nâng lên, đã xuất hiện bộ phận công nhân trí thức. Cùng
với các giai cấp, giai tầng xã hội khác trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp
đã có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn
trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta chiếm tỷ 13
lệ không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 13%) nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất
ác phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát
triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp
nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm giai cấp công nhân đóng góp khoảng
50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà nước.
Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế. Giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng, đặc biệt là sau 35 năm đổi mới, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề,
các thành phần kinh tế, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước.
Ðể xứng đáng là lực lượng đi đầu, giai cấp công nhân phải vươn lên về mọi mặt.
Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, ngang tầm với sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá, chủ động vững bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm
vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, là trách nhiệm của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị cũng như mỗi người công nhân.
3.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển của giai cấp c
Hiện nay, công nhân nước ta năng động trong công việc, nhanh chóng tiếp thu
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về giá
trị của bản thân thông qua lao động. Vị thế giữa công nhân lao động trong doanh
iệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước không còn cách biệt nhiều. Tâm lý
lấy lợi ích làm động lực là nét mới đang dần trở thành phổ biến trong công nhân. Sự
quan tâm hàng đầu của công nhân là việc làm, thu nhập tương xứng với lao động.
Mong muốn có được sức khoẻ, đất nước ổn định và phát triển,
ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được bảo đảm, dân chủ, công bằng xã hội được thực hiện, doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh thuận lợi, có đủ việc làm. Mong muốn được học tập, nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng. 14
Thực tế cho thấy giai cấp công nhân Việt Nam đang có những biến đổi căn bản về
chất. Tuy nhiên, so với những yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế thì giai cấp cô
Việt Nam còn không ít hạn chế, bất cập:
Giai cấp công nhân không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời
đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn thấp
so với yêu cầu phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao
động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân. Rõ nét nhất là tình trạng thiếu nghiêm
trọng chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi, công nhân có trình độ tay nghề cao.
Đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi trường làm
việc độc hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng... đã dẫn đến các
cuộc đình công. Các cuộc đình công tự phát ngày càng gia tăng với tính chất gay gắt,
phức tạp. Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2011, cả nước xảy ra 981
cuộc đình công, tăng hơn 2,3 lần so với năm 2010, tập trung chủ yếu ở vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Nguyên nhân chủ yếu là do người sử dụng lao động không thực
hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật như không trả lương đúng bảng lương đã
đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, không đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân…
thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân còn yếu.
Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỉ lệ đảng viên,
đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp.
ai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp ứng
được sự phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của giai cấp công nhân.
phát triển đảng trong công nhân chậm. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng
tổ chức Đảng. Hoạt động của Đoàn Thanh niên, tổ chức công đoàn còn mang tính
hình thức. Nhiều tổ chức công đoàn chưa thực sự đứng về phía người lao động, bởi
cán bộ công đoàn do doanh nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự
lãnh đạo quản lý trực tiếp của chủ doanh nghiệp.
3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện 15